Bài tập ôn tập triết học - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen

Bài tập ôn tập triết học - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả

TRIẾT HỌC
1. Chủ tích HCM cho rằng: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác Lê nin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quán. Lý luận
mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông.” Hãy:
- Phân tch vai trò c a th c tễễn đốối v i nh n th c?
- V n d ng đ gi i quyễốt vâốn đễề c a b n thân sinh viễn.
2. “ Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị.
Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực
lượng tinh thần thống trị xã hội. Hãy:
- Phân tích quy luật quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT?
- Liên hệ với CSHT và KTTT ở Việt Nam hiện nay?
1. Mối quan hệ hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
Là 2 trong các mặt cơ bản cấu thành 1 hình thái kinh tế - xã hội, CSHT và KTTT thống nhất
tác động qua lại với nhau, trong đó, CSHT quyết định đối với KTTT; song KTTT cũng tác
động tích cực trở lại CSHT. Thực chất mối quan hệ giữa CSHT và KTTTmối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị.
* Cơ sở hạ tầng
- CSHT 1 phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ toàn bộ các quan hệ sản xuất
hợp lại thành kết cấu kinh tế của xã hội ở một giai đoạn nhất định.
- CSHT bao gồm:
+ Các QHSX thống trị (luôn giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác).
+ Các QHSX tàn dư của xã hội trước còn lại.
+ Các QHSX mầm móng của xã hội tương lai.
* Kiến trúc thượng tầng
- KTTT là sự phản ánh CSHT, được hình thành trên CSHT.
- KTTT bao gồm:
+ Các quan điểm về chính trị, pháp quyền, tôn giáo, đạo đức…;
+ Các thiết chế, tổ chức Ctrị - XH tương ứng với những quan điểm đó như N.Nước, đảng phái,
giáo hội, đoàn thể,…
Ví dụ: Tổ chức đưa ra tư tưởng nhằm bảo vệ nông dân là hội nông dân.
Tổ chức đưa ra tư tưởng nhằm bảo vệ thanh niên là đoàn thanh niên.
- Trong KTTT, có 1 thiết chế cự kỳ quan trọng tạo thành hệ thống chính trị của XH. Ví dụ: Việt
Nam có Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc.
* CSHT quyết định KTTT (CSHT nào thì KTTT nấy):
- Trật tự kinh tế, xét đến cùng, quy định trật tự chính trị. (Kinh tế nào chính trị nấy).
Mâu thuẫn trong kinh tế gây ra mâu thuẫn trong chính trị: đổi mới kinh tế buộc phải đổi mới
chính trị, xung đột trong kinh tế kéo theo xung đột trong chính trị.
Ví dụ: Kinh tế Thái Lan đang đau khổ bởi 2 xu hướng:
+ Hướng nông thôn: nông nghiệp: phe áo đỏ nhẳm bảo vệ lợi ích cho nông nhân.
+ Hướng thành thị: công nghiệp: phe áo vàng tiêu biểu lợi ích cho tầng lớp trí thức ở thành thị.
- Trong XH có giai cấp, giai cấp nào thống trị trong kinh tế thì giai cấp đó thống trị trong chính
trị.
- Tất cả các yếu tố của KTTT đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào CSHT và do CSHT quy
định.
- Khi CSHT thay đổi hay mất đi thì sớm hay muộn KTTT cũng phải thay đổi hay mất đi để cho
một KTTT mới ra đời, tuy nhiên đây là một quá trình khó khăn, lâu dài và phức tạp.
* Sự tác động của KTTT đến CSHT:
- Do KTTT và mỗi yếu tố của nó có tính độc lập tương đối và vai trò khác nhau nên sự tác động
của chúng đến CSHT theo những cách, xu hướng khác nhau.
- Chức năng chính của KTTT là xây dựng, củng cố, bảo vệ CSHT đã sinh ra nó, chống lại mọi
nguy cơ làm suy yếu hay phá hoại chế độ kinh tế hiện hành. Ví dụ CNTB, nhà nước tư bản, pháp
luật tư bản ra sức bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, còn nhà nước ta thì bảo vệ chế
độ sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa.
- KTTT tác động mạnh mẽ đến kinh tế -hội nhưng nó không thể làm thay đổi xu hướng phát
triển khách quan của đời sống kinh tế - hội. Nhà nước, pháp luật thể tác động mạnh đến
kinh tế nhưng không thể làm thay đổi xu hướng phát triển khách quan của kinh tế. CSHT
nguyên nhân, KTTT là kết quả, kết quả có thể tác động mạnh đến nguyên nhân nhưng không bao
giờ sinh ra nguyên nhân của chính mình. Sự tác động của nó chủ yếu diễn ra theo 2 hướng:
+ Nếu phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT thúc đẩy sự tăng trưởng, bảo đảm
sự phát triển bền vững cho CSHT.
+ Nếu không phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT kìm hãm sự phát triển kinh
tế và gây bất ổn cho đời sống xã hội.
KTTT những yếu tố tác động mạnh lên CSHT như: Nhà nước, pháp luật. NN, PL là yếu tố
KTTT tác động trực tiếp mạnh mẽ đến CSHT. vậy khi CSHT thay đổi thì NN, PL thay đổi
ngay. Còn tôn giáo, đạo đức,… tác động gián tiếp lên CSHT nên khi CSHT thay đổi thì nó không
nhất thiết phải thay đổi ngay mà cuối cùng nó mới thay đổi. NN tác động mạnh nhất đến CSHT
vì NN là chế độ chính trị của Xh, có những công cụ như: nhà tù, trại giam, viện kiểm sát, tòa án,
công an, mật vụ,… Còn tôn giáo, đạo đức,… muốn tác động đến CSHT đều phải thông qua NN
và làm theo pháp luật.
2. Đảng ta đã đang vận dụng mối quan hệ biện chứng này vào quá trình xây dựng CHXH
nước ta hiện nay.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, cần quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT. Nghĩa là quán triệt mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta để xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và xây dựng, hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ Xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Trong 25 năm đổi mới kể từ năm 1986, Đảng ta đã bắt đầu từ đổi mới kinh tế, lấy đổi mới kinh
tế làm trọng tâm, nhằm giải phóng các nguồn lực của đất nước. Trong đổi mới kinh tế, bắt đầu
trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới quan điểm, đường lối phát triển kinh tế. Khi đổi mới
kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn, các quan hệ kinh tế đã sự thay đổi bản, cần
thiết phải tiến hành đồng thời đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị để thúc đẩy đổi mới toàn
diện. Như vậy, kinh tế phát triển là cơ sở đảm bảo vững chắc cho ổn định chính trị xã hội, ngược
lại sự ổn định CTXHlà điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Điều này khẳng định Đảng ta từng
bước vận dụng đúng đắn giải quyết sáng tạo quan hệ giữa đổi mới kinh tế đổi mới chính
trị. Và những kết quả của 25 năm đổi mới cũng minh chứng cho điều đó.
- Đại hội VI (12-1986) khẳng định và nhấn mạnh đường lối, chủ trương của Đảng giải phóng
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa, áp dụng cơ chế thị trường và đẩy mạnh dân chủ
hóa toàn diện các lĩnh vực đời sống xã hội.
- Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành TW Đảng khoá VI, tháng 3-1989, đã đề ra chủ trương xây
dựng và thực hiện một chiến lược kinh tế đối ngoại theo quan điểm mở cửa, nhằm đưa nền kinh
tế nước ta hội nhập khu vực và thế giới.
- Những năm đầu đổi mới, Đảng đã bố trí lại cấu sản xuất cấu đầu tư, hướng vào thực
hiện ba chương trình mục tiêu về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu.
Cùng với việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu nói trên, chế độ nhà nước độc quyền
ngoại thương được thay bằng chế độ nhà nước quản thống nhất mọi hoạt động kinh tế đối
ngoại bằng pháp luật chính sách. Các thành phần kinh tế đều được tham gia các hoạt động
kinh tế đối ngoại. Luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực và nhiều lần được tu chỉnh đã thu hút đầu
tư nước ngoài ngày càng tăng. Nhờ vậy, kinh tế đối ngoại phát triển với tốc độ nhanh.
- Đại hội VII (1991) Đảng định hình hệ quan điểm, nguyên tắc của đổi mới, nhấn mạnh hướng
ưu tiên là đổi mới kinh tế, nhấn mạnh nguyên tắc, phương châm, bước đi của đổi mới chính trị là
thận trọng, từng bước, có kết quả, thúc đẩy kinh tế.
- Đại hội IX (2001) Đảng ta đã bổ sung mục tiêu dân chủ trong hệ mục tiêu của đổi mới, thực
hiện nền kinh tế thị trường với kết cấu các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ kinh tế
nhân, chú trọng thực hiện chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo, giải quyết các xung đột,
nhất sự kiện Tây Nguyên (2001-2004), các tình huống về vấn đề dân tộc, tôn giáo, về công
nhân đình công, bãi công…
- Đảng và NN ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận động theo chế thị trường sự quản của NN theo định hướng
XHCN, đó nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Như vậy, trong đổi mới KT, nước ta đã chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao
cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN; chuyển từ kinh tế đơn thành phần, đơn loại hình
sở hữu sang kinh tế đa thành phần, đa loại hình sở hữu; chuyển từ công nghiệp hóa, trong đó ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng, sang công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, gắn với thị trường,
gắn với khoa học công nghệ hiện đại hướng tới kinh tế tri thức; chuyển nền kinh tế chưa thật
sự mở cửa sang nền kinh tế hội nhập quốc tế ngày càng rộng sâu. Còn đổi mới về Chính trị,
thành tựu bao trùm nhất Đảng ta đã tự đổi mới từ quan điểm, duy đến đổi mới đường lối,
chủ trương, chính sách, từ đổi mới công tác tổ chức đến công tác cán bộ, từ đổi mới nội dung
lãnh đạo đến phương thức lãnh đạo, từ đổi mới kiểm tra đến mở rộng dân chủ trong Đảng, từ
việc tự đổi mới trong Đảng đến việc lãnh đạo đổi mới cả hệ thống Chính trị.
3. Lê Nin cho rằng: “ Cuộc sống và sự phát triển trong giới tự nhiên bao gồm cả sự tiến hoá
chậm rãi cả những bước nhảy vọt nhanh chóng, những sự đức đoạn trong liên tục”.
Hãy:
- Phân tích quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
ngược lại để làm rõ luận điểm trên?
- Vận dụng vào trong quá trình học tập và hoạt động thực tiễn của bản thân.
Chất là phạm trù TH dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, đặc trưng cho sự vật nó,
giúp phân biệt nó với các sự vật khác.
– Lượng là phạm trù TH dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị vê mặt qui mô, tốc
độ của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính (chất) của nó.
Độ phạm trù TH dùng để chỉ giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm cho chất
thay đổi căn bản, chất cũ chưa mất đi và chất mới chưa xuất hiện.
– Điểm nútphạm trù TH dùng để chỉ mốc (giới hạn) mà sự thay đổi về lượng vượt qua nó sẽ
làm chất thay đổi căn bản.
Bước nhảy phạm trù TH dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất do những thay đổi về lượng
trước đó gây ra. Bước nhảy là giai đoạn cơ bản trong tiến trình phát triển của bản thân sự vật, nó
tồn tại khách quan, phổ biến, đa dạng. Bước nhảy thể chia thành: bước nhảy toàn bộ-bước
nhảy cục bộ; bước nhảy đột biến- bước nhảy dần dần; bước nhảy trong tự nhiên-bước nhảy trong
xã hội-bước nhảy trong tư duy.
i Nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
ngược lại
– Mọi sự vật đều được đặc trưng bằng sự thông nhất giữa chất và lượng.
– Sự vật bắt đầu vận động, phát triển bằng sự thay đổi về lượng (một cách liên tục hay tiệm tiến);
nếu lượng chỉ thay đổi trong độ, chưa vượt quá điểm nút thì chất không thay đi căn bản khi
lượng thay đổi vượt qua độ, quá điểm nút thì chất sẽ thay đổi căn bản, bước nhảy nhất định s
xảy ra.
Bước nhảy làm cho chất thay đổi (một cách gián đoạn đột biến); Chất (sự vật) mất đi,
chất (sự vật) mới ra đời. Chất mới gây ra sự thay đổi về lượng (làm thay đổi quy mô tồn tại, tốc
độ, nhịp điệu vận động, phát triển của sự vật).
Sự thay đổi về lượng gây ra sự thay đổi về chất sự thay đổi về chất gây ra sự thay đổi về
lượng phương thức vận động, phát triển của mọi sự vật trong thế giới. Phát triển vừa mang
tính liên tục vừa mang tính gián đoạn.
ị- Y nghĩa phương pháp luận của quy luật này
Chỉ ra cách thức, cơ chế của sự phát triển là đi từ những biên đổi nhỏ nhặt dần dần về lượng dẫn
đến giới hạn độ thì gây ra những biến đổibản về chất thông qua bước nhảy vọt và ngược lại.
Đó chính là cơ sở phương pháp luận chung cho mọi cơ chế phát triển của thế giới với 3 yêu cầu
cơ bản sau đây:
– Bước nhảy là cho chất mới thay thế chất cũ, là tất yếu của sự vận động phát triển. Song sự thay
đổi về chất nó chỉ diễn ra khi lượng đã thay đổi đến điểm nút. Chính vì vậy, trong hoạt động thực
tiễn, muốn tạo ra được bước nhảy thì phải quan tâm đến việc tích lũy về lượng và khi lượng thay
đổi đến điểm nút thì phải thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách quan của sự phát triển. Chính
vậy, cần chống lại tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí cũng như cần chống lại tư tưởng không
dám thực hiện bước nhảy để tạo sự thay đổi về chất.
Vd: năng nhặt chật bị, góp gió thành bảo
Vd: chưa học bò chớ lo học chạy.
Vd: các điều kiện đã đầy đủ nhưng chần chừ không lấy nhau.
Vd: thời cơ như con rồng bay ngang qua cửa sổ: rất nhanh.
– Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào việc liên kết các yếu tố tạo thành sự vật. Do
đó, trong hoạt động của mình, con người cần phải biết tạo ra sự tác động vào phương thức liên
kết các yếu tố tạo ra sự vật.Vd: kim cương than chì đều được tạo ra bởi carbon do phương
thức liên kết các yếu tố khác nhau.Vd: sức mạnh của 1 đội bóng, sức mạnh tập thể nhưng thiếu
liên kết các cầu thủ => thất bại.Vd: trong XH, lợi ích là chất keo không thứ gì phá nổi.
– Quy luật tự nhiên và xã hội đều khách quan như nhau, nhưng khác với quy luật tự nhiên – quy
luật tự động diễn ra, quy luật của hội sự tham gia của con người ý thức. Do đó, để
bước nhảy trong lĩnh vực xã hội được thực hiện thì con người không chỉ trông chờ vào quy luật
khách quan mà phải nỗ lực chủ quan.
Vd: để đất nước phát triển ta phải chấm dứt thời kỳ quá độ. Trước hết tất cả Đảng, dân, đất nước
phải tồn tại trong tất cả các qui luật khách quan, ngoài ra phải phát huy tinh thần năng động chủ
quan, đó là con người => không chung chung mà là Đảng, nhà nước, nhân dân.
Biển lớn tri thức nhân loại thật bao la vô tận. Con người, bên cạnh việc phát triển về thể xác, tinh
thần còn phải luôn tự mình tiếp thu những tri thức của nhân loại, trước hết là để phục vụ cho bản
thân. Tri thức tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú, do vậy con người có thể tiếp
thu nó bằng nhiều cách khác nhau. Quá trình tích lũy tri thức, kinh nghiệm diễn ra ở mỗi người
khác nhau là khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, khả năng, điều kiện… của mỗi người. Quá trình
tích lũy tri thức của con người cũng không nằm ngoài quy luật lượng chất. Bởi vì, dù nhanh hay
chậm thì sớm muộn, sự tích lũy về tri thức cũng sẽ làm con người có được sự thay đổi nhất định,
tức là có sự biến đổi về chất. Quá trình biến đổi này trong bản thân con người diễn ra vô cùng đa
dạng và phong phú, ở ví dụ này chúng tôi chỉ xin giới hạn việc làm rõ quy luật lượng chất thông
qua quá trình học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên.
Là sinh viên, ai cũng phải trải qua quá trình học tậpcác bậc học phổ thông kéo dài trong suốt
12 năm. Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học sinh đều được trang bị những kiến thức
cơ bản của các môn học thuộc hai lĩnh vực cơ bảnkhoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Bên
cạnh đó, mỗi học sinh lại tự trang bị cho mình những năng, những hiểu biết riêng về cuộc
sống, về tự nhiên, xã hội. Quá trình tích lũy về lượng (tri thức) của mỗi học sinh là một quá trình
dài, đòi hỏi nỗ lực không chỉ từ phía gia đình, nhà trường mà còn chính từ sự nỗ lực và khả năng
của bản thân người học. Quy luật lượng chất thể hiện ở chỗ, mỗi học sinh dần tích lũy cho mình
một khối lượng kiến thức nhất định qua từng bài học trên lớp cũng như trong việc giải bài tập
nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các kì, trước hếtcác kì thi học kì và sau đó
là kì thi tốt nghiệp. Việc tích lũy đủ lượng kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua các kì thi
chuyển sang một giai đoạn học mới. Như vậy, thể thấy rằng, trong quá trình học tập, rèn
luyện của học sinh thì quá trình học tập tích lũy kiến thức chính độ, các thi chính điểm
nút, việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của học sinh bước
sang giai đoạn mới, tức là có sự thay đổi về chất.
Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến thức
vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt
về chất lượng học sinh nào cũng muốn vượt qua đó thi đại học. Vượt qua thi tốt
nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại còn là điểm
nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã stích lũy đầy đủ về
lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời phát triển mới của lượng chất, từ học sinh
chuyển thành sinh viên.
Cũng giống như phổ thông, để được tấm bằng đại học thì sinh viên cũng phải tích lũy đủ
các học phần theo quy định. Tuy nhiên, việc tích lũy kiến thức bậc đại học sự khác biệt về
chất so với học phổ thông. sự khác biệt nằm chỗ, sinh viên không chỉ tiếp thu kiến thức một
cách đơn thuần phải tự mình tìm tòi nghiên cứu, dựa trên những năng giảng viên đã
cung cấp. Nói cách khác, bậc đại học, việc học tập của sinh viên khác hẳn về chất so với học
sinh ở phổ thông. Việc tiếp thu tri thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú, từ cơ
bản đến chuyên sâu, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều. Từ sự thay đổi về chất do sự tích
lũy lượng trước đó (ở bậc học phổ thông) tạo nên, chất mới cũng tác động trở lại.Trên nền
tảng mới, trình độ, kết cấu cũng như quy nhận thức của sinh viên cũng thay đổi, tiếp tục
hướng sinh viên lên tầm tri thức cao hơn. Cũng giống như ở bậc học phổ thông, quá trình tích lũy
các học phần của sinh viên chính độ, các thi chính điểm nút việc vượt qua các thi
chính là bước nhảy, trong đó bước nhảy quan trọng nhất chính là kì thi tốt nghiệp.
Vượt quathi tốt nghiệp lại đưa sinh viên chuyển sang một giai đoạn mới, khác về chất so với
giai đoạn trước. Quá trình đó cứ liên tục tiếp diễn, tạo nên sự vận động phát triển không
ngừng ngay trong chính bản thân con người, tạo nên động lực không nhỏ cho sự phát triển của xã
hội. Việc nhận thức quy luật lượng chất trong quá trình học tập của học sinh sinh viên có ý nghĩa
rất to lớn trong thực tiễn, không chỉ với bản thân người học còn rất ý nghĩa với công tác
quản đào tạo. Thực tế tong nhiều năm qua, giáo dục nước ta đã mắc phải nhiều sai lầm
trong tư duy quản lý cũng như trong hoạt động đào tạo thực tiễn.
Việc chạy theo bệnh thành tích chính là thực tế đáng báo động của ngành giáo dục bởi vì mặc
sự tích lũy về lượng của học sinh chưa đủ nhưng lại vẫn được “tạo điều kiện” để thực hiện
“thành công” bước nhảy, tức là không học mà vẫn đỗ, không học nhưng vẫn có bằng. Kết quả
trong nhiều năm liền, giáo dục nước ta đã cho ra những lớp người không “lượng” cũng
chẳng có “chất”. Xuất phát từ việc nhận thức một cách đúng đắn quy luật trên cho phép chúng ta
thực hiện những cải cách quan trọng trong giáo dục. Tiêu biểu việc chống lại căn bệnh thành
tích trong giáo dục vẫn tồn tại hàng thập kỉ qua. Bên cạnh đó là việc thay đổi phương giáo dục ở
bậc phổ thông đào tạo đại học. Việc chuyển từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ cho
phép người học được học vượt tiến độ chính là việc áp dụng đúng đắn quy luật lượng chất trong
tư duy con người.
4. Nêu đặc trưng bản của nhà nước theo quan điểm chủ nghĩa
Mác lê nin. – Phân tích đặc
trưng của nhà nước pháp quyền XHCNVN?
- Làm thế nào để xây dựng nhà nước pháp quyền XHCNVN ngày càng
vững mạnh hơn khi thực trạng tham nhũng nước ta đang diễn ra phổ
biến như hiện nay.
Trong những năm đổi mới vừa qua Đảng ta đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên
tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Từ nhận
thức lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có thể khái quát Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng sau:
đó là Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân,nhân dân; bảoĐặc trưng thứ nhất:
đảm tất các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- : là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân;Nhà nước của dân
| 1/31

Preview text:

TRIẾT HỌC
1. Chủ tích HCM cho rằng: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác Lê nin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quán. Lý luận
mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông.” Hãy: - Phân tch vai trò c a th ủ c tễễn đốối v ự i nh ớ n th ậ c? ứ - V n dậ ng đ ụ gi i quyễốt ể ả vâốn đễề c a ủ b n thân sinh viễn. ả
2. “ Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị.
Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực
lượng tinh thần thống trị xã hội. Hãy:
- Phân tích quy luật quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT?
- Liên hệ với CSHT và KTTT ở Việt Nam hiện nay?

1. Mối quan hệ hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
Là 2 trong các mặt cơ bản cấu thành 1 hình thái kinh tế - xã hội, CSHT và KTTT thống nhất và
tác động qua lại với nhau, trong đó, CSHT quyết định đối với KTTT; song KTTT cũng có tác
động tích cực trở lại CSHT. Thực chất mối quan hệ giữa CSHT và KTTT là mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. * Cơ sở hạ tầng
- CSHT là 1 phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ toàn bộ các quan hệ sản xuất
hợp lại thành kết cấu kinh tế của xã hội ở một giai đoạn nhất định. - CSHT bao gồm:
+ Các QHSX thống trị (luôn giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác).
+ Các QHSX tàn dư của xã hội trước còn lại.
+ Các QHSX mầm móng của xã hội tương lai.
* Kiến trúc thượng tầng
- KTTT là sự phản ánh CSHT, được hình thành trên CSHT. - KTTT bao gồm:
+ Các quan điểm về chính trị, pháp quyền, tôn giáo, đạo đức…;
+ Các thiết chế, tổ chức Ctrị - XH tương ứng với những quan điểm đó như N.Nước, đảng phái, giáo hội, đoàn thể,…
Ví dụ: Tổ chức đưa ra tư tưởng nhằm bảo vệ nông dân là hội nông dân.
Tổ chức đưa ra tư tưởng nhằm bảo vệ thanh niên là đoàn thanh niên.
- Trong KTTT, có 1 thiết chế cự kỳ quan trọng tạo thành hệ thống chính trị của XH. Ví dụ: Việt
Nam có Đảng, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc.
* CSHT quyết định KTTT (CSHT nào thì KTTT nấy):
- Trật tự kinh tế, xét đến cùng, quy định trật tự chính trị. (Kinh tế nào chính trị nấy).
Mâu thuẫn trong kinh tế gây ra mâu thuẫn trong chính trị: đổi mới kinh tế buộc phải đổi mới
chính trị, xung đột trong kinh tế kéo theo xung đột trong chính trị.
Ví dụ: Kinh tế Thái Lan đang đau khổ bởi 2 xu hướng:
+ Hướng nông thôn: nông nghiệp: phe áo đỏ nhẳm bảo vệ lợi ích cho nông nhân.
+ Hướng thành thị: công nghiệp: phe áo vàng tiêu biểu lợi ích cho tầng lớp trí thức ở thành thị.
- Trong XH có giai cấp, giai cấp nào thống trị trong kinh tế thì giai cấp đó thống trị trong chính trị.
- Tất cả các yếu tố của KTTT đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào CSHT và do CSHT quy định.
- Khi CSHT thay đổi hay mất đi thì sớm hay muộn KTTT cũng phải thay đổi hay mất đi để cho
một KTTT mới ra đời, tuy nhiên đây là một quá trình khó khăn, lâu dài và phức tạp.
* Sự tác động của KTTT đến CSHT:
- Do KTTT và mỗi yếu tố của nó có tính độc lập tương đối và vai trò khác nhau nên sự tác động
của chúng đến CSHT theo những cách, xu hướng khác nhau.
- Chức năng chính của KTTT là xây dựng, củng cố, bảo vệ CSHT đã sinh ra nó, chống lại mọi
nguy cơ làm suy yếu hay phá hoại chế độ kinh tế hiện hành. Ví dụ CNTB, nhà nước tư bản, pháp
luật tư bản ra sức bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, còn nhà nước ta thì bảo vệ chế
độ sở hữu xã hội xã hội chủ nghĩa.
- KTTT tác động mạnh mẽ đến kinh tế - xã hội nhưng nó không thể làm thay đổi xu hướng phát
triển khách quan của đời sống kinh tế - xã hội. Nhà nước, pháp luật có thể tác động mạnh đến
kinh tế nhưng không thể làm thay đổi xu hướng phát triển khách quan của kinh tế. Vì CSHT là
nguyên nhân, KTTT là kết quả, kết quả có thể tác động mạnh đến nguyên nhân nhưng không bao
giờ sinh ra nguyên nhân của chính mình. Sự tác động của nó chủ yếu diễn ra theo 2 hướng:
+ Nếu phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT thúc đẩy sự tăng trưởng, bảo đảm
sự phát triển bền vững cho CSHT.
+ Nếu không phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT kìm hãm sự phát triển kinh
tế và gây bất ổn cho đời sống xã hội.
KTTT có những yếu tố tác động mạnh lên CSHT như: Nhà nước, pháp luật. NN, PL là yếu tố
KTTT tác động trực tiếp mạnh mẽ đến CSHT. Vì vậy khi CSHT thay đổi thì NN, PL thay đổi
ngay. Còn tôn giáo, đạo đức,… tác động gián tiếp lên CSHT nên khi CSHT thay đổi thì nó không
nhất thiết phải thay đổi ngay mà cuối cùng nó mới thay đổi. NN tác động mạnh nhất đến CSHT
vì NN là chế độ chính trị của Xh, có những công cụ như: nhà tù, trại giam, viện kiểm sát, tòa án,
công an, mật vụ,… Còn tôn giáo, đạo đức,… muốn tác động đến CSHT đều phải thông qua NN và làm theo pháp luật.
2. Đảng ta đã và đang vận dụng mối quan hệ biện chứng này vào quá trình xây dựng CHXH ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, cần quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT. Nghĩa là quán triệt mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta để xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và xây dựng, hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ Xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Trong 25 năm đổi mới kể từ năm 1986, Đảng ta đã bắt đầu từ đổi mới kinh tế, lấy đổi mới kinh
tế làm trọng tâm, nhằm giải phóng các nguồn lực của đất nước. Trong đổi mới kinh tế, bắt đầu
trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới quan điểm, đường lối phát triển kinh tế. Khi đổi mới
kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn, các quan hệ kinh tế đã có sự thay đổi cơ bản, cần
thiết phải tiến hành đồng thời đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị để thúc đẩy đổi mới toàn
diện. Như vậy, kinh tế phát triển là cơ sở đảm bảo vững chắc cho ổn định chính trị xã hội, ngược
lại sự ổn định CTXHlà điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Điều này khẳng định Đảng ta từng
bước vận dụng đúng đắn và giải quyết sáng tạo quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị. Và những kết quả của 25 năm đổi mới cũng minh chứng cho điều đó.
- Đại hội VI (12-1986) khẳng định và nhấn mạnh đường lối, chủ trương của Đảng là giải phóng
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa, áp dụng cơ chế thị trường và đẩy mạnh dân chủ
hóa toàn diện các lĩnh vực đời sống xã hội.
- Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành TW Đảng khoá VI, tháng 3-1989, đã đề ra chủ trương xây
dựng và thực hiện một chiến lược kinh tế đối ngoại theo quan điểm mở cửa, nhằm đưa nền kinh
tế nước ta hội nhập khu vực và thế giới.
- Những năm đầu đổi mới, Đảng đã bố trí lại cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, hướng vào thực
hiện ba chương trình mục tiêu về lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Cùng với việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư nói trên, chế độ nhà nước độc quyền
ngoại thương được thay bằng chế độ nhà nước quản lý thống nhất mọi hoạt động kinh tế đối
ngoại bằng pháp luật và chính sách. Các thành phần kinh tế đều được tham gia các hoạt động
kinh tế đối ngoại. Luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực và nhiều lần được tu chỉnh đã thu hút đầu
tư nước ngoài ngày càng tăng. Nhờ vậy, kinh tế đối ngoại phát triển với tốc độ nhanh.
- Đại hội VII (1991) Đảng định hình hệ quan điểm, nguyên tắc của đổi mới, nhấn mạnh hướng
ưu tiên là đổi mới kinh tế, nhấn mạnh nguyên tắc, phương châm, bước đi của đổi mới chính trị là
thận trọng, từng bước, có kết quả, thúc đẩy kinh tế.
- Đại hội IX (2001) Đảng ta đã bổ sung mục tiêu dân chủ trong hệ mục tiêu của đổi mới, thực
hiện nền kinh tế thị trường với kết cấu các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ kinh tế tư
nhân, chú trọng thực hiện chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo, giải quyết các xung đột,
nhất là sự kiện Tây Nguyên (2001-2004), các tình huống về vấn đề dân tộc, tôn giáo, về công
nhân đình công, bãi công…
- Đảng và NN ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của NN theo định hướng
XHCN, đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Như vậy, trong đổi mới KT, nước ta đã chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao
cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN; chuyển từ kinh tế đơn thành phần, đơn loại hình
sở hữu sang kinh tế đa thành phần, đa loại hình sở hữu; chuyển từ công nghiệp hóa, trong đó ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng, sang công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, gắn với thị trường,
gắn với khoa học công nghệ hiện đại và hướng tới kinh tế tri thức; chuyển nền kinh tế chưa thật
sự mở cửa sang nền kinh tế hội nhập quốc tế ngày càng rộng và sâu. Còn đổi mới về Chính trị,
thành tựu bao trùm nhất là Đảng ta đã tự đổi mới từ quan điểm, tư duy đến đổi mới đường lối,
chủ trương, chính sách, từ đổi mới công tác tổ chức đến công tác cán bộ, từ đổi mới nội dung
lãnh đạo đến phương thức lãnh đạo, từ đổi mới kiểm tra đến mở rộng dân chủ trong Đảng, từ
việc tự đổi mới trong Đảng đến việc lãnh đạo đổi mới cả hệ thống Chính trị.
3. Lê Nin cho rằng: “ Cuộc sống và sự phát triển trong giới tự nhiên bao gồm cả sự tiến hoá
chậm rãi và cả những bước nhảy vọt nhanh chóng, những sự đức đoạn trong liên tục”. Hãy:

- Phân tích quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại để làm rõ luận điểm trên?
- Vận dụng vào trong quá trình học tập và hoạt động thực tiễn của bản thân.
– Chất là phạm trù TH dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, đặc trưng cho sự vật là nó,
giúp phân biệt nó với các sự vật khác.
– Lượng là phạm trù TH dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị vê mặt qui mô, tốc
độ của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính (chất) của nó.
– Độ là phạm trù TH dùng để chỉ giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm cho chất
thay đổi căn bản, chất cũ chưa mất đi và chất mới chưa xuất hiện.
– Điểm nút là phạm trù TH dùng để chỉ mốc (giới hạn) mà sự thay đổi về lượng vượt qua nó sẽ
làm chất thay đổi căn bản.
– Bước nhảy là phạm trù TH dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất do những thay đổi về lượng
trước đó gây ra. Bước nhảy là giai đoạn cơ bản trong tiến trình phát triển của bản thân sự vật, nó
tồn tại khách quan, phổ biến, đa dạng. Bước nhảy có thể chia thành: bước nhảy toàn bộ-bước
nhảy cục bộ; bước nhảy đột biến- bước nhảy dần dần; bước nhảy trong tự nhiên-bước nhảy trong
xã hội-bước nhảy trong tư duy.
i Nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại
– Mọi sự vật đều được đặc trưng bằng sự thông nhất giữa chất và lượng.
– Sự vật bắt đầu vận động, phát triển bằng sự thay đổi về lượng (một cách liên tục hay tiệm tiến);
nếu lượng chỉ thay đổi trong độ, chưa vượt quá điểm nút thì chất không thay đi căn bản khi
lượng thay đổi vượt qua độ, quá điểm nút thì chất sẽ thay đổi căn bản, bước nhảy nhất định sẽ xảy ra.
– Bước nhảy làm cho chất thay đổi (một cách gián đoạn và đột biến); Chất (sự vật) cũ mất đi,
chất (sự vật) mới ra đời. Chất mới gây ra sự thay đổi về lượng (làm thay đổi quy mô tồn tại, tốc
độ, nhịp điệu vận động, phát triển của sự vật).
– Sự thay đổi về lượng gây ra sự thay đổi về chất và sự thay đổi về chất gây ra sự thay đổi về
lượng là phương thức vận động, phát triển của mọi sự vật trong thế giới. Phát triển vừa mang
tính liên tục vừa mang tính gián đoạn.
ị- Y nghĩa phương pháp luận của quy luật này
Chỉ ra cách thức, cơ chế của sự phát triển là đi từ những biên đổi nhỏ nhặt dần dần về lượng dẫn
đến giới hạn độ thì gây ra những biến đổi cơ bản về chất thông qua bước nhảy vọt và ngược lại.
Đó chính là cơ sở phương pháp luận chung cho mọi cơ chế phát triển của thế giới với 3 yêu cầu cơ bản sau đây:
– Bước nhảy là cho chất mới thay thế chất cũ, là tất yếu của sự vận động phát triển. Song sự thay
đổi về chất nó chỉ diễn ra khi lượng đã thay đổi đến điểm nút. Chính vì vậy, trong hoạt động thực
tiễn, muốn tạo ra được bước nhảy thì phải quan tâm đến việc tích lũy về lượng và khi lượng thay
đổi đến điểm nút thì phải thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách quan của sự phát triển. Chính vì
vậy, cần chống lại tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí cũng như cần chống lại tư tưởng không
dám thực hiện bước nhảy để tạo sự thay đổi về chất.
Vd: năng nhặt chật bị, góp gió thành bảo
Vd: chưa học bò chớ lo học chạy.
Vd: các điều kiện đã đầy đủ nhưng chần chừ không lấy nhau.
Vd: thời cơ như con rồng bay ngang qua cửa sổ: rất nhanh.
– Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào việc liên kết các yếu tố tạo thành sự vật. Do
đó, trong hoạt động của mình, con người cần phải biết tạo ra sự tác động vào phương thức liên
kết các yếu tố tạo ra sự vật.Vd: kim cương và than chì đều được tạo ra bởi carbon do phương
thức liên kết các yếu tố khác nhau.Vd: sức mạnh của 1 đội bóng, sức mạnh tập thể nhưng thiếu
liên kết các cầu thủ => thất bại.Vd: trong XH, lợi ích là chất keo không thứ gì phá nổi.
– Quy luật tự nhiên và xã hội đều khách quan như nhau, nhưng khác với quy luật tự nhiên – quy
luật tự động nó diễn ra, quy luật của xã hội có sự tham gia của con người có ý thức. Do đó, để
bước nhảy trong lĩnh vực xã hội được thực hiện thì con người không chỉ trông chờ vào quy luật
khách quan mà phải nỗ lực chủ quan.
Vd: để đất nước phát triển ta phải chấm dứt thời kỳ quá độ. Trước hết tất cả Đảng, dân, đất nước
phải tồn tại trong tất cả các qui luật khách quan, ngoài ra phải phát huy tinh thần năng động chủ
quan, đó là con người => không chung chung mà là Đảng, nhà nước, nhân dân.
Biển lớn tri thức nhân loại thật bao la vô tận. Con người, bên cạnh việc phát triển về thể xác, tinh
thần còn phải luôn tự mình tiếp thu những tri thức của nhân loại, trước hết là để phục vụ cho bản
thân. Tri thức tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú, do vậy con người có thể tiếp
thu nó bằng nhiều cách khác nhau. Quá trình tích lũy tri thức, kinh nghiệm diễn ra ở mỗi người
khác nhau là khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, khả năng, điều kiện… của mỗi người. Quá trình
tích lũy tri thức của con người cũng không nằm ngoài quy luật lượng chất. Bởi vì, dù nhanh hay
chậm thì sớm muộn, sự tích lũy về tri thức cũng sẽ làm con người có được sự thay đổi nhất định,
tức là có sự biến đổi về chất. Quá trình biến đổi này trong bản thân con người diễn ra vô cùng đa
dạng và phong phú, ở ví dụ này chúng tôi chỉ xin giới hạn việc làm rõ quy luật lượng chất thông
qua quá trình học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên.
Là sinh viên, ai cũng phải trải qua quá trình học tập ở các bậc học phổ thông kéo dài trong suốt
12 năm. Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học sinh đều được trang bị những kiến thức
cơ bản của các môn học thuộc hai lĩnh vực cơ bản là khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Bên
cạnh đó, mỗi học sinh lại tự trang bị cho mình những kĩ năng, những hiểu biết riêng về cuộc
sống, về tự nhiên, xã hội. Quá trình tích lũy về lượng (tri thức) của mỗi học sinh là một quá trình
dài, đòi hỏi nỗ lực không chỉ từ phía gia đình, nhà trường mà còn chính từ sự nỗ lực và khả năng
của bản thân người học. Quy luật lượng chất thể hiện ở chỗ, mỗi học sinh dần tích lũy cho mình
một khối lượng kiến thức nhất định qua từng bài học trên lớp cũng như trong việc giải bài tập ở
nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các kì, trước hết là các kì thi học kì và sau đó
là kì thi tốt nghiệp. Việc tích lũy đủ lượng kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua các kì thi
và chuyển sang một giai đoạn học mới. Như vậy, có thể thấy rằng, trong quá trình học tập, rèn
luyện của học sinh thì quá trình học tập tích lũy kiến thức chính là độ, các kì thi chính là điểm
nút, việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của học sinh bước
sang giai đoạn mới, tức là có sự thay đổi về chất.
Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến thức và
vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt
về chất và lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì thi tốt
nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại còn là điểm
nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về
lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.
Cũng giống như ở phổ thông, để có được tấm bằng đại học thì sinh viên cũng phải tích lũy đủ
các học phần theo quy định. Tuy nhiên, việc tích lũy kiến thức ở bậc đại học có sự khác biệt về
chất so với học phổ thông. sự khác biệt nằm ở chỗ, sinh viên không chỉ tiếp thu kiến thức một
cách đơn thuần mà phải tự mình tìm tòi nghiên cứu, dựa trên những kĩ năng mà giảng viên đã
cung cấp. Nói cách khác, ở bậc đại học, việc học tập của sinh viên khác hẳn về chất so với học
sinh ở phổ thông. Việc tiếp thu tri thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú, từ cơ
bản đến chuyên sâu, từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều. Từ sự thay đổi về chất do sự tích
lũy vê lượng trước đó (ở bậc học phổ thông) tạo nên, chất mới cũng tác động trở lại.Trên nền
tảng mới, trình độ, kết cấu cũng như quy mô nhận thức của sinh viên cũng thay đổi, tiếp tục
hướng sinh viên lên tầm tri thức cao hơn. Cũng giống như ở bậc học phổ thông, quá trình tích lũy
các học phần của sinh viên chính là độ, các kì thi chính là điểm nút và việc vượt qua các kì thi
chính là bước nhảy, trong đó bước nhảy quan trọng nhất chính là kì thi tốt nghiệp.
Vượt qua kì thi tốt nghiệp lại đưa sinh viên chuyển sang một giai đoạn mới, khác về chất so với
giai đoạn trước. Quá trình đó cứ liên tục tiếp diễn, tạo nên sự vận động và phát triển không
ngừng ngay trong chính bản thân con người, tạo nên động lực không nhỏ cho sự phát triển của xã
hội. Việc nhận thức quy luật lượng chất trong quá trình học tập của học sinh sinh viên có ý nghĩa
rất to lớn trong thực tiễn, không chỉ với bản thân người học mà còn rất có ý nghĩa với công tác
quản lý và đào tạo. Thực tế tong nhiều năm qua, giáo dục nước ta đã mắc phải nhiều sai lầm
trong tư duy quản lý cũng như trong hoạt động đào tạo thực tiễn.
Việc chạy theo bệnh thành tích chính là thực tế đáng báo động của ngành giáo dục bởi vì mặc dù
sự tích lũy về lượng của học sinh chưa đủ nhưng lại vẫn được “tạo điều kiện” để thực hiện
“thành công” bước nhảy, tức là không học mà vẫn đỗ, không học nhưng vẫn có bằng. Kết quả là
trong nhiều năm liền, giáo dục nước ta đã cho ra lò những lớp người không “lượng” mà cũng
chẳng có “chất”. Xuất phát từ việc nhận thức một cách đúng đắn quy luật trên cho phép chúng ta
thực hiện những cải cách quan trọng trong giáo dục. Tiêu biểu là việc chống lại căn bệnh thành
tích trong giáo dục vẫn tồn tại hàng thập kỉ qua. Bên cạnh đó là việc thay đổi phương giáo dục ở
bậc phổ thông và đào tạo đại học. Việc chuyển từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ và cho
phép người học được học vượt tiến độ chính là việc áp dụng đúng đắn quy luật lượng chất trong tư duy con người.
4. Nêu đặc trưng cơ bản của nhà nước theo quan điểm chủ nghĩa
Mác lê nin. – Phân tích đặc
trưng của nhà nước pháp quyền XHCNVN?
- Làm thế nào để xây dựng nhà nước pháp quyền XHCNVN ngày càng
vững mạnh hơn khi thực trạng tham nhũng nước ta đang diễn ra phổ biến như hiện nay.
Trong những năm đổi mới vừa qua Đảng ta đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên
tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Từ nhận
thức lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có thể khái quát Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng sau:
Đặc trưng thứ nhất: đó
là Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo
đảm tất các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Nhà nước của dân: là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân;