-
Thông tin
-
Quiz
Bài tập Pháp luật đại cương | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Phân tích nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trình bày phương hướng xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước Việt Nam. Chỉ ra mối liên hệ giữa pháp luật với nhà nước, đạo đức, chính trị, kinh tế và liên hệ vào điều kiện Việt Nam hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Pháp luật đại cương (HV) 26 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.7 K tài liệu
Bài tập Pháp luật đại cương | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Phân tích nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trình bày phương hướng xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước Việt Nam. Chỉ ra mối liên hệ giữa pháp luật với nhà nước, đạo đức, chính trị, kinh tế và liên hệ vào điều kiện Việt Nam hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (HV) 26 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.7 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
Câu 1: Phân tích nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
Bộ máy nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam a) Khái niệm
- Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước là những nguyên
lý, những tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, khách quan và khoa học, phù hợp với bản
chất của Nhà nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước
và toàn thể bộ máy nhà nước.
- Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước được
quy định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác
b) Các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
* Nguyên tắc bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân:
- Đây là nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước. - Cơ sở pháp lý
+ Khoản 2 Ðiều 2 Hiến pháp 2013
+ Ðiều 6, Hiến pháp nǎm 2013
+ Khoản 2, Ðiều 8 Hiến pháp 2013 - Nội dung nguyên tắc:
+ Nhân dân ở đây là khái niệm bao trùm toàn thể công dân mà không thuộc
về một người hay một tầng lớp nào, trong khái niệm đó thì mọi người bình đẳng
với nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt nào (bình đẳng giữa nam và nữ, giữa các
dân tộc cùng sinh sống trên cùng một lãnh thổ,..). Trong khái niệm nhân dân, liên
minh giai cấp công dân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là bộ phận đông
đảo nhất và có ý thức tiên tiến trong xã hội nhất, họ được xác định là nền tảng để
thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân. Vì quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân nên bộ máy nhà nước ta cũng phải xuất phát từ nhân dân.
+ Nhân dân trực tiếp tham gia vào công việc quản lý Nhà nước; tham gia
thảo luận Hiến pháp và luật; trực tiếp bầu ra các đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân, giám sát hoạt động của các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, bãi
nhiệm các đại biểu này khi họ không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân
dân; bỏ phiếu trưng cầu ý dân về những vấn đề quan trọng thuộc nhiệm vụ quyền
hạn của Nhà nước. Mối quan hệ giữa đại biểu và người dân là mối quan hệ giữa
người đại diện và người chù. Người dân bầu ra người đại diện để thay mặt mình
đưa ra các quyết định thực hiện quyền lực nhà nước. Từ các cơ quan đại diện nhân
dân hình thành nên cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, bộ máy nhà nước vận
hành theo cách này được gọi là chính quyền đại diện
+ Khi quyền lực nhà nước là của Nhân dân thì bộ máy nhà nước cũng là của
Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ vì nhân dân.
=> Để thực hiện nguyên tắc này trong đời sống xã hội, nhà nước ta cần có những
biện pháp để nâng cao nhận thức của nhân dân về văn hóa, chính trị, pháp luật,
đồng thời nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, cung cấp thông tin đầy đủ để dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra các hoạt động của nhà nước
* Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước :
Nguyên tắc này xuất phát từ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
đối với nhà nước và xã hội. Đường lối chính sách của Đảng luôn giữ vai trò
chỉ đạo đối với nội dung, phương hướng xây dựng pháp luật của Nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng giữ vai trò quyết định phương hướng tổ chức và hoạt
động của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với nhà nước là điều kiện quyết định để giữ vững bản chất của nhà nước,
bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là nguyên tắc hiến định.
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở các mặt chủ yếu:
Đảng đề ra đường lối chính trị, những chủ trương, phương hướng lớn,
quyết định những vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước.
Đảng lãnh đạo quá trình xây dựng pháp luật, nhất là những đạo luật
quan trọng nhằm thông qua nhà nước thể chế hóa các chủ trương,
chính sách của Đảng thành pháp luật, thường xuyên theo dõi, kiểm
tra, hướng dẫn các cơ quan nhà nước hoạt động theo đúng đường lối
của Đảng và đào tạo cán bộ tăng cường cho bộ máy nhà nước.
Đảng thông qua Nhà nước đào tạo và tuyển chọn những người có đức,
tài, có năng lực vào các cơ quan Nhà nước, có đủ năng lực chuyên
môn và trình độ pháp lý làm công tác xây dựng pháp luật. Những
người này được Đảng giao phó và nhân dân tín nhiệm, là cầu nối liền
giữa Đảng và Nhà nước ở các cấp, có khả năng nắm chắc đường lối
chủ trương của Đảng, biết thể chế hoá một cách đúng đắn đường lối
chủ trương đó thành pháp luật của Nhà nước.
Thông qua hệ thống các cơ quan Nhà nước, Đảng kiểm tra giám sát
nắm tình hình và đánh giá các hoạt động xây dựng pháp luật của Nhà
nước, góp ý kiến cho Nhà nước sửa chữa những lệch lạc thiếu sót
trong công tác này. Thông qua công tác này Đảng còn kiểm tra, kiểm
nghiệm được sự đúng đắn của các chính sách của Đảng trong hoạt
động của nhà nước để có sự điều chỉnh cho phù hợp.
=> Để thực hiện tốt vai trò lãnh đạo đối với nhà nước, các đảng viên phải thể hiện
vai trò tiên phong, gương mẫu, đặc biệt, thông qua các tổ chức Đảng và đảng viên
làm việc trong bộ máy nhà nước. Đảng phải thường xuyên củng cố, đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên.
* Nguyên tắc tập trung dân chủ : a. Khái niệm:
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quan trọng trong việc quản
lý và điều hành tổ chức, một cộng đồng hoặc một quốc gia. Nó đề cao quyền
lực và quyết định thuộc về nhân dân, và tập trung vào sự tham gia của công
dân trong quyết định các vấn đề quan trọng liên quan đến cuộc sống và tương lai của họ.
b. Nguyên tắc tập trung dân chủ bao gồm các yếu tố sau:
1. Tự quyết: Nguyên tắc này khẳng định quyền tự quyết của cá nhân và cộng
đồng. Công dân có quyền tham gia vào quyết định và quản lý các vấn đề
quan trọng bằng cách tham gia vào quá trình lập pháp, bầu cử, tham gia các
tổ chức công dân và thể hiện ý kiến của mình.
2. Tự do: Nguyên tắc này đảm bảo quyền tự do của công dân trong việc diễn
đạt ý kiến, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do tôn giáo. Công dân có
quyền tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội và văn hóa mà không bị
hạn chế trái pháp luật.
3. Công bằng: Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng rằng mọi công dân được
đối xử công bằng và bình đẳng trước pháp luật. Không có sự phân biệt giới
tính, tôn giáo, sắc tộc, giai cấp hay bất kỳ yếu tố nào khác.
4. Trách nhiệm: Nguyên tắc này khuyến khích công dân đảm nhận trách nhiệm
cá nhân và xã hội. Công dân có trách nhiệm tham gia vào các hoạt động
công cộng, tuân thủ pháp luật và đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng.
5. Đại đoàn kết: Nguyên tắc này khuyến khích sự đoàn kết và hợp tác giữa các
thành viên trong cộng đồng. Sự đoàn kết là cơ sở để xây dựng một xã hội
dân chủ, nơi mọi người cùng nhau làm việc vì lợi ích chung và phát triển bền vững.
Có thể nói, nguyên tắc tập trung dân chủ là cốt lõi của một xã hội dân chủ,
nơi quyền lực và quyết định thuộc về nhân dân. Nó đảm bảo sự tham gia, tự
do và công bằng cho tất cả công dân, tạo điều kiện cho sự phát triển và tiến bộ của cộng đồng.
* Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc : a. Khái niệm:
Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc là nguyên tắc quan trọng
trong việc xây dựng và duy trì một xã hội đa văn hóa và đa dân tộc. Nó nhấn
mạnh sự công bằng và tôn trọng đối với tất cả các dân tộc, không phân biệt
đối xử dựa trên nguồn gốc, ngôn ngữ, tôn giáo, văn hóa hay bất kỳ yếu tố nào khác.
b. Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc
Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc đảm bảo rằng tất cả
mọi người, bất kể dân tộc của họ đều có quyền được đối xử công bằng
và bình đẳng giữa pháp luật. Không có sự phân biệt đối xử, kỳ thị dựa
trên dân tộc, và mọi người đều có quyền được bảo vệ và tham gia vào
các quyết định cũng như hoạt động của xã hội.
Nguyên tắc đoàn kết giữa các dân tộc khuyến khích sự hợp tác và
tương tác tích cực giữa các dân tộc khác nhau. Nó khuyến khích sự
hiểu biết, tôn trọng và hỗ trợ lẫn nhau giữa các dân tộc. Đoàn kết giữa
các dân tộc là cơ sở để xây dựng một xã hội đa văn hóa và đa dân tộc
mà mọi người có thể sống và phát triển cùng nhau.
Các nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc là cốt lõi của
việc xây dựng một xã hội công bằng, hòa bình và phát triển. Chúng
đảm bảo rằng mọi người có quyền được tôn trọng và tham gia vào xã
hội, không bị kỳ thị hay phân biệt đối xử dựa trên dân tộc, và tạo điều
kiện cho sự đoàn kết và hòa bình giữa các dân tộc.
* Nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa : a. Khái niệm:
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của cuộc sống chính
trị xã hội, tổ chức xã hội, và mọi công dân phải tôn trọng và thực hiện
pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
Nguyên tắc pháp chế được quy định ở Điều 8 Hiến pháp năm 2013:
“Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật,
quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật...”.
b. Những nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc thứ nhất: là nguyên tắc đảm bảo tính tối cao của Hiến
pháp, luật Hiến pháp và các đạo luật là các văn bản có hiệu lực pháp
lý cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật. Xây dựng và thông qua
theo một quy trình đặc biệt bởi Quốc hội – cơ quan quyền lực cao
nhất, đồng thời cũng là cơ quan đại diện cho toàn thể nhân dân
Nguyên tắc thứ hai: Là nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất của pháp
chế trên quy mô toàn quốc. Tính thống nhất là một thuộc tính cơ bản
của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Cơ sở của tính thống nhất này chính là
sự thống nhất nội tại cao của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa mà
cơ sở sâu xa của nó là sự thống nhất lợi ích của đông đảo nhân dân lao
động trong quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc thứ ba: Là nguyên tắc bắt buộc chung đối với mọi chủ thể
không có ngoại lệ. Xây dựng và hoàn thiện pháp chế xã hội chủ nghĩa
đòi hỏi mọi chủ thể trong xã hội đều bình đẳng trước pháp luật. Thực
hiện nguyên tắc này không chỉ đòi hỏi người dân làm đúng pháp luật
mà quan trọng hơn là sự đòi hỏi cơ quan, công chức nhà nước gương
mẫu thực hiện pháp luật
Nguyên tắc trong hoạt động ban hành văn bản pháp luật:
+ Các văn bản pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước
phải được ban hành đúng thẩm quyền
+ Có nội dung hợp pháp và thống nhất
+ Phải ban hành đúng tên gọi và hình thức được pháp luật quy định
+ Phải ban hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
Nguyên tắc trong hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật:
+ Triệt để tôn trọng các văn bản pháp luật về thẩm quyền và nội dung ban hành
+ Hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp
luật trong quản lý hành chính nhà nước, công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo phải được thực hiện một cách nghiêm ngặt,
theo đúng các quy định của pháp luật nhằm ngăn chặn, phát
hiện kịp thời các việc làm vi phạm pháp luật đảm bảo cho pháp
luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
+ Phải xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật các hành vi
vi phạm pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước. Các cơ
quan có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật như: Cơ quan có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, cơ quan làm công tác
xét xử... có trách nhiệm phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi
phạm pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước
=> Để thực hiện chủ trương củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Điều
đó đòi hỏi nhà nước phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng và hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, tổ chức tốt công tác thực hiện pháp luật, đồng thời phải tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.
Câu 2: Trình bày phương hướng xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước Việt Nam.
Hoàn cảnh: Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
thiết lập sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Sau hơn nửa thế kỷ, bộ máy nhà
nước ta đã được củng cố, phát triển, hoàn thành nhiệm vụ của mình trong sự
nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và xây
dựng chế độ xã hội mới.
Hạn chế: Trong tổ chức và hoạt động, bộ máy nhà nước còn bộc lộ nhiều
khuyết điểm và yếu kém như:
Bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, kém hiệu lực,cơ chế quản lý tập trung quan
liêu, bao cấp làm cho bộ máy nặng nề nhiều tầng nấc.
Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan và tiêu chuẩn cán bộ chưa được xác định rõ ràng.
Bố trí cán bộ, công chức, viên chức chưa tương xứng với nhiệm vụ
Chế độ trách nhiệm không rõ ràng, phong cách làm việc nặng về hình thức, giấy
tờ, quyết định thì chậm, thiếu cơ sở khoa học, nhiều khi không dứt khoát, nhiều
quyết định không được thực hiện triệt để,...
Theo các Văn Kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Nghị quyết Trung ương, việc xây
dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước ta phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản như sau:
Thứ nhất, tiếp tục phát huy cao độ ban chất dân chủ, tạo điều kiện cho nhân dân
thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân
chủ trực tiếp, tham gia tích cực vào việc xây dựng và bảo vệ Nhà nước. Kiểm tra,
giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
Thứ hai, kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, tinh giản, gọn nhẹ,
hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức
nhà nước trước nhân dân.
Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Phương hướng: Bộ máy nhà nước cần được cải cách theo những phương hướng như sau:
Thứ nhất, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội và chính quyền địa phương
để làm đúng chức năng theo luật định. Quốc hội phải có cơ cấu tổ chức hợp lý và
đội ngũ đại biểu Quốc hội có đủ tiêu chuẩn là người đại diện cho ý chí, nguyện
vọng của các tầng lớp nhân dân.
Thứ hai, cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng một hệ thống cơ quan
quản lý thống nhất, thống nhất, thông suốt, có hiệu lực và hiệu quả, đủ năng lực
thực thi các nhiệm vụ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại. Tiến hành sắp xếp tổ chức phân định rõ chức năng,
thẩm quyền giữa các cấp, thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý ngành và quản lý
lãnh thổ. Tăng cường công tác tổ chức và hoạt động thanh tra; kiện toàn tổ chức
chính quyền địa phương, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ
phẩm chất và năng lực hoàn thành công việc trong tổ chức bộ máy nhà nước. Đảng
ta đã khẳng định: “Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, từng bước hiện đại hóa”.
Thứ ba, tăng cường hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật, đổi mới tổ chức
và hoạt động của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân, bảo đảm
các điều kiện và phương tiện cần thiết để các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện
đúng chức năng và quyền hạn của mình.
Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước nhằm giữ vững bản chất của nhà nước, bảo đảm quyền lực của nhân
dân, đưa công cuộc đổi mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước, bảo đảm chất
lượng công tác lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy trách nhiệm, tính chủ động
và hiệu lực cao trong quản lý, điều hành bộ máy nhà nước.
Thứ năm, tiến hành kiên quyết và thường xuyên cuộc đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, xử lý nghiêm minh những người có hành vi vi phạm pháp luật, đồng
thời tăng cường công tác xây dựng pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật và củng cố
kỷ luật trong nội bộ cơ quan nhà nước. Các văn kiện của Đảng đã luôn nhấn mạnh:
Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham
nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp, các ngành,
từ trung ương đến cơ sở.
Ngoài ra theo Tạp chí Cộng sản, để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay cần tập trung vào những nội dung sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và cơ chế thực hiện pháp
luật hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc “thượng tôn” Hiến pháp và pháp luật.
Thứ hai, tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước khoa học, an toàn, hiệu lực,
hiệu quả; hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo hướng thực chất, đạt hiệu quả cao.
Thứ ba, hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các thiết chế nhà nước theo
hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phân công chức năng, nhiệm vụ và
phân cấp, phân quyền rõ ràng giữa các cấp quản lý.
Cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân, kiểm sát viên tuyên truyền, phổ biến pháp luật
cho nhân dân _Nguồn: baovephapluat.vn
Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vừa “hồng”, vừa “chuyên”, đây
là “công việc gốc”; “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm
chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước”(24); “có cơ
chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ
dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám
đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích
chung”(25), từ đó tạo động lực cho đội ngũ cán bộ, công chức thực sự sáng tạo, dám
nghĩ, dám làm vì dân, vì nước, vì sự phồn vinh của dân tộc. Bên cạnh đó, Đảng và
Nhà nước cần chú trọng đến tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền
lương, chế độ, chính sách, đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy
đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển; xây dựng cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời
những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công
vụ, đạo đức nghề nghiệp, không còn uy tín với nhân dân; kiên trì xây dựng văn hóa
liêm chính, tiết kiệm, củng cố đạo đức công vụ, đẩy mạnh cải cách chính sách tiền
lương, nâng cao thu nhập đi đôi với xử lý kịp thời, nghiêm minh những hành vi vi
phạm để tiến tới cán bộ, công chức, viên chức không thể, không muốn và không
dám tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
Thứ năm, đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ” nhằm xác định “đúng vai”, đúng thẩm quyền để
Đảng không bao biện, làm thay, lấn sân Nhà nước và ngược lại Đảng cũng không
khoán trắng, buông lỏng lãnh đạo. Đặc biệt, chú trọng hoàn thiện cơ chế của Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân trong việc kiểm soát quyền lực
nhà nước và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; nghiên cứu thiết lập các thiết chế
mới để kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí hiệu
lực, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội. Bảo đảm các tổ
chức của Đảng và đảng viên gương mẫu, đi đầu trong thực hành dân chủ và tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật; mọi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu
phấn đấu; phân định và thể chế hóa nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước trên từng lĩnh vực và cấp chính quyền, nhất là đối với quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thứ sáu, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực pháp luật, nhất là nhân lực
chất lượng cao, có bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, đủ về số lượng, bảo
đảm về chất lượng, quan tâm xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành về pháp luật,
đội ngũ luật sư giỏi, đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Thứ bảy, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật và về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các đặc trưng
cơ bản, qua đó tạo sự đồng thuận, thống nhất trong nhận thức và hành động của
cấp ủy, chính quyền các cấp, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Câu 3: Chỉ ra mối liên hệ giữa pháp luật với nhà nước, đạo đức, chính trị,
kinh tế và liên hệ vào điều kiện Việt Nam hiện nay
* Mối liên hệ giữa pháp luật với nhà nước:
- Mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật thể hiện ở sự thống nhất giữa nhà
nước và pháp luật; sự khác biệt giữa nhà nước và pháp luật và sự tác động qua lại
giữa nhà nước và pháp luật.
-Sự thống nhất giữa nhà nước và pháp luật: Nhà nước và pháp luật là hai
hiện tượng xã hội luôn gắn liền với nhau, do đó nguyên nhân về sự ra đời của nhà
nước cũng là nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật. Nhà nước và pháp luật là
những hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, đều là sản phẩm của xã hội có giai cấp
và đấu tranh giai cấp. Chúng chỉ ra đời và tồn tại khi trong xã hội có những điều
kiện nhất định, điều kiện đó là có sự tư hữu, xã hội phân chia thành giai cấp và đấu tranh giai cấp.
-Sự khác biệt giữa nhà nước và pháp luật: Nhà nước là tổ chức đặc biệt của
quyền lực công là phương thức – hình thức tồn tại của xã hội có giai cấp thì pháp
luật là hệ thống các quy phạm được nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện để
điều chỉnh hành vi và các quan hệ xã hội của con người. Nhà nước đại diện cho sức
mạnh còn pháp luật đại diện cho ý chí. Nói nhà nước là nói đến yếu tố con người
cùng cơ chế bộ máy, nói pháp luật là nói đến các quy tắc hành vi. Hình thức nhà
nước là cách tổ chức quyền lực và những phương pháp để tổ chức quyền lực nhà
nước. Hình thức nhà nước bao gồm 3 yếu tố: Hình thức chính thể, hình thức cấu
trúc nhà nước, chế độ chính trị. Hình thức của pháp luật là cách thức mà giai cấp
nắm quyền lực nhà nước sử dụng để nâng ý chí của giai cấp mình lên thành pháp
luật. Ba hình thức pháp luật được lịch sử ghi nhận: tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản pháp luật.
-Sự tác động qua lại của Nhà nước và pháp luật: Sự tác động của nhà nước
đến pháp luật thể hiện trước hết là ở việc nhà nước ban hành, thay đổi, hủy bỏ,
hoàn thiện pháp luật , bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm, bảo đảm pháp luật, đưa
pháp luật vào đời sống. Pháp luật là sản phẩm trực tiếp của hoạt động nhà nước.
Pháp luật có vai trò điều chỉnh hoạt động nhà nước và các quan hệ xã hội. Mặt
khác, hoạt động của nhà nước về cơ bản là mang tính pháp lí.
* Mối liên hệ giữa pháp luật với đạo đức:
- Pháp luật và đạo đức có mối quan hệ tác động tương hỗ với nhau nhằm
thực hiện nhiệm vụ điều chỉnh hành vi xử sự của con người và duy trì trật tự xã
hội. Vì vậy giữa pháp luật và đạo đức luôn có một mối quan hệ mật thiết, gắn bó
chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau.
- Tác động của đạo đức tới pháp luật
+Đạo đức là nền tảng tinh thần để thực hiện các quy định của pháp
luật. Các cá nhân trong xã hội thực hiện một hành vi pháp luật hợp pháp
không phải vì họ hiểu các quy định của pháp luật mà có thể do xuất phát từ
các quy tắc của đạo đức. Nhiều quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi các chuẩn mực đạo
đức được nhà nước sử dụng và nâng lên thành quy phạm pháp luật.
+ Đạo đức là cơ sở, môi trường thuận lợi để tiếp thu, cảm nhận và
thực hiện pháp luật. Đạo đức là yếu tố không thể thiếu được trong mỗi con
người. Những quan niệm, quy tắc đạo đức được thừa nhận trong pháp luật
góp phần làm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự giác
hơn. Đối với những quan niệm, quy tắc đạo đức trái với ý chí của nhà nước
sẽ cản trở thực hiện pháp luật trong thực tế.
+ Nhiều quan điểm đạo đức được thể chế hoá trong pháp luật, nhiều
quy tắc đạo đức phù hợp với ý chí của nhà nước được thừa nhận trong
pháp luật qua đó góp phần tạo nên pháp luật.
+ Những quan niệm, quy tắc đạo đức trái với ý chí của nhà nước sẽ
trở thành tiền đề để hình thành nên những quy phạm thay thế chúng,
từ đó cũng góp phần hình thành nên pháp luật.
+ Ý thức đạo đức cá nhân có tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện
pháp luật. Người có ý thức đạo đức cao trong mọi trường hợp đều
nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật, không lợi dụng sơ hở, hạn chế mà lách luật, trốn luật.
- Tác động của pháp luật tới đạo đức
Pháp luật không chỉ là sự ghi nhận các chuẩn mực đạo đức, mà còn là công cụ
phương tiện bảo vệ chuẩn mực đạo đức một cách hữu hiệu bằng các biện pháp, chế
tài cụ thể. Pháp luật có vai trò to lớn trong việc duy trì, bảo vệ và phát triển các quy
tắc đạo đức phù hợp, tiến bộ trong xã hội.
+ Pháp luật khẳng định, bảo vệ và phát huy những nguyên tắc, chuẩn mực của
truyền thống đạo đức.
+ Pháp luật không chỉ ghi nhận đạo đức mà còn là phương tiện đảm bảo cho đạo
đức thực hiện trong cuộc sống thông qua các biện pháp tác động của Nhà nước.
Những quan niệm đạo đức được pháp luật thừa nhận sẽ được đảm bảo thực hiện
bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước. Do đó những quan niệm đạo
đức sẽ có phạm vi tác động đến mọi chủ thể và được bảo đảm bằng các biện pháp quyền lực nhà nước.
+ Pháp luật còn có tác động giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức của dân tộc,
ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức.
+ Pháp luật cũng có thể loại bỏ các chuẩn mực đạo đức đã lỗi thời, cải tạo các
chuẩn mực đạo đức, góp phần tạo nên những chuẩn mực đạo đức mới, phù hợp
hơn với tiến bộ xã hội.
* Mối liên hệ giữa pháp luật với chính trị: Pháp luật và chính trị có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau và được thể hiện rõ rệt ở 3 khía cạnh sau:
- Trong hình thành, tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước: Bộ máy nhà nước là
toàn bộ các hệ thống các cơ quan từ trung ương đến địa phương. Để bộ máy nhà
nước hoạt động một cách có hiệu quả đòi hỏi phải xác định rõ mối quan hệ giữa
chúng đúng với chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền trách nhiệm của mỗi loại cơ
quan. Đồng thời cũng phải xác định rõ mối quan hệ giữa chúng phải có những
phương pháp tổ chức hoạt động phù hợp để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá
trình thiết lập thực hiện quyền lực nhà nước. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực
hiện được trên cơ sở vững chắc của những quy định của pháp luật. Pháp luật còn
quy định rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cơ quan và của các cá
nhân trong bộ máy nhà nước. Ngược lại, bộ máy nhà nước cũng có sự tác động
trực tiếp tới pháp luật. Một bộ máy nhà nước hoàn chỉnh và đại diện cho giai cấp
tiến bộ trong xã hội sẽ đưa ra được hệ thống pháp luật phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế xã hội chung của đất nước. Từ đó, pháp luật trở nên tiến bộ và thể
hiện đúng vị trí, vai trò của mình.
- Trong quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia: Pháp luật luôn là môi trường
ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia với nhau.
Tuy nhiên, sự phát triển của quan hệ ngoại giao cũng đòi hỏi ở pháp luật của các
nước có sự thay đổi sao cho phù hợp với từng thời kì phát triển của mỗi quốc gia.
Ví dụ, ở nước ta thời kì trước đổi mới, Đảng và Nhà nước ta có thực hiê •n chính
sách ngoại giao khép kín. Nước ta chỉ thực hiện quan hê • ngoại giao, kinh tế, chính
trị với các nước có nền chính trị xã hô •i chủ nghĩa. Hê • thống pháp luâ •t của nước ta
ngăn cấm các hoạt đô •ng đầu tư của tư bản nước ngoài vào. Trong thời đại mở cửa
và hội nhập quốc tế như hiê •n nay thì điều đó không còn phù hợp nữa. Đường lối
ngoại giao của nước ta hiện nay đã có sự thay đổi căn bản. Theo đó, chúng ta đã
đă •t quan hê • ngoại giao với hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đăc •
biêt 11/2007 Viê •t Nam đã tham gia và trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Điều này, đòi hỏi pháp luâ •t của chúng ta phải có
những thay đổi để phù hợp với xu thế chung. Đó là sự thay đổi thể hiê •n trong các
Luâ •t Đầu tư, Luâ •t Thương Mại… Đặc biệt, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách
nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài như tạo môi trường đầu tư thông
thoáng, giảm các loại thuế, rút gọn các thủ tục… Những chính sách đó đã được thể hiê •n tâ • p trung trong pháp luâ • t Viê •t Nam hiê • n hành.
- Trong tư tưởng đường lối chính sách của giai cấp thống trị: Mối liên hệ
giữa chính trị và pháp luật được thể hiện tập trung nhất trong các quan hệ đường
lối chính sách của đảng cầm quyền với pháp luật của nhà nước. Pháp luật sẽ thể
chế hóa các đường lối chính sách của đảng nghĩa là là làm cho các nội dung văn
kiện nghị quyết của đảng được phát triển trở thành ý chí của nhà nước. Những
đường lối chính sách của Đảng có vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo về nô •i dung
và phương hướng phát triển của pháp luâ •t. Sự thay đổi trong đường lối chính sách
của Đảng cũng dẫn đến sự thay đổi trong pháp luâ • t.
* Mối liên hệ giữa pháp luật với kinh tế:
- Pháp luật là yếu tố thượng tầng xã hội, còn kinh tế thuộc về yếu tố của cơ
sở hạ tầng. Do đó mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế là mối liên hệ giữa một
yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng và một yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng, trong mối
quan hệ này pháp luật có tính độc lập tương đối. Trong mối quan hệ giữa pháp luật
và kinh tế có thể thấy pháp luật phụ thuộc vào kinh tế; mặt khác, pháp luật lại có sự
tác động trở lại một cách mạnh mẽ với kinh tế.
– Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế
Các điều kiện kinh tế, quan hệ kinh tế không chỉ là nguyên nhân trực tiếp quyết
định sự ra đời của pháp luật mà còn quyết định toàn bộ nội dung, hình thức, cơ
cấu, sự phát triển của pháp luật.
+ Cơ sở kinh tế như tính chất, nội dung của các quan hệ kinh tế, cơ chế quản lý
kinh tế… sẽ quyết định sự ra đời, nội dung, hình thức và sự phát triễn của pháp luật.
+ Sự thay đổi của nền kinh tế sẽ dẫn đến sự thay đổi pháp luât. Pháp luật luôn phản
ánh trình độ phát triển của kinh tế. Pháp luật không thể cao hơn hoặc thấp hơn
trình độ phát triển của kinh tế.
+ Tính chất nội dung của các quan hệ kinh tế, của cơ chế kinh tế quyết định tính
chất, nội dung của các quan hệ pháp luật, tính chất phương pháp điều chỉnh cua pháp luật.
+ Chế độ kinh tế sẽ quyết định việc tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của các thiết chế pháp lý.
– Sự tác động trở lại một cách mạnh mẽ với kinh tế. Việc tác động của pháp luật
với kinh tế theo những xu hướng tích cực hoặc tiêu cực khác nhau do đó pháp luật
có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triễn của kinh tế.
+ Nếu pháp luật được ban hành phù hợp với các quy luật kinh tế – xã hội thì nó tác
động tích cực đến sự phát triển các quá trình kinh tế, cũng như cơ cấu của nền kinh
tế, ở đây, sự tác động cùng chiều giữa pháp luật và các quá trình kinh tế xã hội.
Pháp luật góp phần vào ổn định trật tự xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển khi pháp
luật phản ánh đúng trình độ kinh tế – xã hội.
+ Nếu pháp luật không phù hợp với các quy luật pháp triển kinh tế – xã hội được
ban hành do ý chí chủ quan của con người thì nó sẽ kìm hãm toàn bộ nền kinh
tế,hoặc một bộ phận của nền kinh tế dẫn đến cản trở, kiềm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội.
* Liên hệ vào điều kiện Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, mối liên hệ giữa pháp luật và các yếu tố trên
thường đang trải qua sự biến động do các thách thức và cơ hội trong quá trình phát
triển kinh tế và xã hội. Sự chuyển đổi từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế
thị trường đòi hỏi sự điều chỉnh và cập nhật của hệ thống pháp luật để đảm bảo
tính linh hoạt và minh bạch. Đồng thời, với sự phát triển của xã hội dân sự và ngày
càng có nhiều nguồn thông tin, nhu cầu về tính công bằng, minh bạch và đảm bảo
quyền lợi cá nhân cũng là những thách thức quan trọng đối với hệ thống pháp luật.