Câu 1: Khái niệm, đặc điểm, chức năng của nghiên cứu khoa học:
- Khái niệm của nghiên cứu khoa học:
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm tìm tòi, khám phá
bản chất và các quy luật vận động của thế giới, ứng dụng vào quá trình xã hội để tạo ra
những sản phẩm vật chất, tinh thần thoải mãn nhu cầu của con người.
Chủ thể của hoạt động nghiên cứu là:
+ Các nhà khoa học có phẩm chất trí tuệ và năng lực hoạt động nhất định.
+ Những người xác định rõ mục đích nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu. Họ
hoạt động vì sự phát triển của giai cấp, dân tộc và nhân loại.
Mục đích của nghiên cứu khoa học là:
+ Tìm tòi, khám phá bản chất, các quy luật vận động của thế giới tự nhiên và xã hội,
nhằm ứng dụng chúng vào sản xuất hay tạo ra những giá trị tinh thần.
+ Thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người.
Sản phẩm của hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn:
+ Tri thức phản ánh bản chất, quy luật của quan hệ xã hội và các quá trình xã hội.
+ Những phương hướng, biện pháp và mô hình xã hội phục vụ trực tiếp cho hoạt động
tổ chức, quản lý xã hội theo định hướng xác định của mỗi quốc gia.
- 5 đặc điểm của nghiên cứu khoa học:
+ Tính mới và sự thừa kế:
Tính mới là biểu hiện quan trọng nhất, là thuộc tính số một của lao động khoa học.
Nghiên cứu khoa học luôn hướng tới những phát hiện mới hoặc sáng tạo những sự vật,
những giải pháp quản lý và công nghệ mới. Biểu hiện tính mới trong nghiên cứu khoa
học là sự không chấp nhận lặp lại về phương pháp, cách tiếp cận hay sản phẩm tạo ra.
Con người dù đã đạt được những thành tựu khoa học vĩ đại thì vẫn không ngừng tìm
kiếm và sáng tạo, liên tục chiếm lĩnh những đỉnh cao mới trong nhận thức và hiệu quả cải
tạo thế giới.
Tính mới không mâu thuẫn mà bao hàm trong nó sự kế thừa những kết quả nghiên cứu
của các nhà khoa học đi trước. Thành quả nghiên cứu khoa học phụ thuộc vào thái độ của
nhà khoa học trước những giá trị khoa học mà nhân loại đã sáng tạo ra.
+ Tính khách quan, tin cậy, trung thực của thông tin:
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học là những tri thức thể hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau như bài báo khoa học, mẫu sản phẩm, mô hình sản xuất thí điểm... song đều đem
đến cho người tiếp nhận những tin tức, thông báo và hiểu biết mới. Sự gắn bó giữa thông
tin- tri thức, tri thức - thông tin ở hoạt động nghiên cứu khoa học làm nên đặc trưng của
hoạt động này. Thông tin là nguyên liệu của hoạt động nghiên cứu. Thông qua quá trình
xử lý thông tin của tư duy để hình thành tri thức mới. Khi đưa vào hệ thống lưu chuyển
xã hội, tri thức ấy lại đóng vai trò là thông tin trong một quá trình nghiên cứu tiếp theo.
Do vậy thông tin cũng là sản phẩm của nghiên cứu khoa học. Đặc thù này đòi hỏi thông
tin trong nghiên cứu khoa học phải đạt yêu cầu về sự khách quan, trung thực, đa chiều và
cập nhật. Đồng thời, quá trình nghiên cứu chỉ có chất lượng khi nhà khoa học có những
phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực tư duy lý luận khoa học.
+ Tính mạnh dạn, mạo hiểm:
Đặc trưng tính mới của hoạt động này đặt ra yêu cầu người nghiên cứu dám đảm nhận
việc những vấn đề nghiên cứu hết sức mới mẻ. Do vậy, dù cân nhắc đến tính hiệu quả, sự
thành công thì những người nghiên cứu phải luôn chấp nhận những rủi ro, khả năng thất
bại trong nghiên cứu. Thất bại trong nghiên cứu có thể do nhiều nguyên nhân với những
mức độ khác nhau. Chẳng hạn như thiếu thông tin và thông tin thiếu tin cậy là cơ sở cho
công trình nghiên cứu; năng lực thực hiện của nhà khoa học; mức độ đầy đủ và trình độ
kỹ thuật của phương tiện nghiên cứu; các tác nhân bất khả kháng trong quá trình nghiên
cứu... Ngay cả những công trình đã tạo ra sản phẩm thử nghiệm thành công vẫn chịu
những rủi ro khi áp dụng trong thực tiễn. Thất bại trong nghiên cứu cũng được xem là kết
quả có ý nghĩa. Sự thất bại ấy cần được tổng kết, lưu giữ như một tài liệu khoa học, trở
thành bài học kinh nghiệm quý giá cho đồng nghiệp đi sau, tránh lãng phí các nguồn lực
nghiên cứu.
+ Tính phi kinh tế:
Mục đích của nghiên cứu khoa học là giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả chinh
phục tự nhiên và tổ chức quản lý, phát triển kinh tế xã hội. Song trong nghiên cứu khoa
học, lợi ích kinh tế trước mắt không được xem là mục đích trực tiếp, động lực duy nhất.
Tính phi kinh tế trong khoa học thể hiện:
+ Lao động nghiên cứu khoa học khó định mức một cách chính xác như trong lĩnh vực
sản xuất vật chất. Trong một số trường hợp, lao động khoa học không thể định mức.
++ Những thiết bị chuyên dụng cho nghiên cứu khoa học hầu như không thể khấu hao
bởi tần suất sử dụng không ổn định. Tốc độ hao mòn vô hình luôn vượt trước xa so với
hao mòn hữu hình. Chẳng hạn một thiết bị thí nghiệm có thể chưa hao mòn hữu hình thì
đã trở nên lỗi thời về kỹ thuật.
++ Hiệu qủa kinh tế của nghiên cứu khoa học hầu như không thể xác định. Ngay cả
những kết quả nghiên cứu về kỹ thuật có giá trị mua bán cao trên thị trường song vẫn có
thể không được áp dụng bởi lý do thuần túy xã hội.
Hơn nữa trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, hiệu quả kinh tế của công trình
nghiên cứu không thể xác định ngay và rõ ràng. Nhiều công trình nghiên cứu sau khi áp
dụng, có thể đem lại sự thay đổi to lớn cho xã hội, song điều đó chỉ có thể nhận thấy qua
thời gian dài hay khi xem xét một cách trừu tượng cả quá trình phát triển.
+ Tính cá nhân và vai trò của tập thể khoa học:
Hoạt động nghiên cứu khoa học là một dạng lao động xã hội. Vai trò của tập thể khoa học
được khẳng định. Song, trong nghiên cứu, những sáng tạo mới, những phát minh, sáng
chế luôn gắn với vai trò đột phá của cá nhân, của các nhà khoa học đầu đàn. Tính cá nhân
thể hiện trong tư duy và chủ kiến độc đáo của nhà nghiên cứu.
Uy tín của nhà khoa học được xem xét thông qua tập hợp các tiêu chí định tính và định
lượng thể hiện phẩm chất, năng lực, sức cống hiến của một nhà khoa học cho nhân loại.
Các tiêu chí đó bao gồm: Số lượng và chất lượng công trình nghiên cứu đã hoàn thành,
được công bố hay áp dụng; số lượng, chất lượng và trình độ học vấn các học viên do nhà
khoa học đào tạo...
Trong hoạt động nghiên cứu, cá nhân không tách rời tập thể khoa học. Tập thể khoa học
là môi trường nâng đỡ cho sự ra đời ý tưởng mới của cá nhân, phản biện, hoàn thiện ý
tưởng ấy, tập trung trí tuệ thực hiện quá trình nghiên cứu. Không phải ngẫu nhiên trên thế
giới, hình thành trung tâm nghiên cứu lớn, từng bước chuyên môn hóa quá trình nghiên
cứu trở thành khuynh hướng cho sự phát triển khoa học.
- Chức năng của nghiên cứu khoa học:
+ Mô tả:
Nhận thức một sự vật hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ mô tả sự vật hiện tượng ấy.
Mô tả sự vật là trình bày bằng ngôn ngữ, hình ảnh về cấu trúc, trạng thái, sự vận động của
sự vật. Trong nghiên cứu khoa học, sự vật được mô tả một cách chân thực như sự tồn tại,
vận động vốn có của nó. Mô tả giúp con người nhận dạng, phân biệt sự vật hiện tượng ấy
với các sự vật hiện tượng khác thông qua những dấu hiệu của nói. Mô tả định lượng
nhằm chỉ rõ những đặc trưng về lượng của sự vật. Mô tả định tính cho phép nhận thức
đặc trưng về chất của sự vật ấy.
+ Giải thích:
Giải thích trong nghiên cứu khoa học là làm rõ căn nguyên dẫn đến sự hình thành, phát
triển và quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật hiện tượng. Trong nghiên cứu
khoa học, giải thích bao gồm làm rõ nguồn gốc, mối quan hệ, sự tương tác giữa các yếu
tố cầu thành sự vật và giữa sự vật hiện tượng ấy với sự vật hiện tượng khác. Mục đích
của giải thích là đưa ra thông tin về thuộc tính bản chất của sự vật nhằm nhận thức cả
những thuộc tính bên trong của sự vật.
+ Tiên đoán, dự báo:
Tiên đoán là nhìn trước quá trình hình thành, sự vận động và biến đổi của sự vật hiện
tượng trong tương lai. Tiên đoán được thực hiện trên cơ sở mô tả và giải thích. Với
phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu, con người có thể tiên đoán với độ chuẩn
xác cao về hiện tượng, quá trình diễn ra trong tự nhiên và xã hội. Những dự báo của khoa
học thiên văn, về những biến cố chính trị - xã hội hay các hiện tượng kinh tế... đã chứng
minh khả năng tiên đoán trong nghiên cứu khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học, mặc dù thừa nhận khá năng tiên đoán của con người về sự
vật, hiện tượng song chúng ta cần chấp nhận sự sai lệch nhất định trong chính khả năng
ấy.
Sự sai lệch này có nhiều nguyên nhân: do nhận thức bạn đầu về sự vật chưa chuẩn xác,
môi trường vận động của sự vật biến động... phương pháp luận biện chứng duy vật không
cho phép người nghiên cứu tự thỏa mãn với những tiên đoán hoặc lạm dụng tiên đoán.
Mọi tiên đoán phải được kiểm chứng trong đời sống hiện thực.
+ Sáng tạo:
Sáng tạo là làm ra một sự vật mới chưa từng tồn tại. Sứ mệnh lớn lao của khoa học là
sáng tạo ra các giải pháp nhằm cải tạo thế giới. Giải pháp ấy có thể là những phương
pháp, phương tiện, cách thức tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của con người;
có thể là những giải pháp kỹ thuật trong sản xuất, nguyên lý công nghệ mới, vật liệu hay
sản phẩm mới.
Câu 2: Vấn đề nghiên cứu và các phương pháp phát hiện vấn đề nghiên cứu:
Vấn đề nghiên cứu:
Khái niệm: Vấn đề nghiên cứu là những mâu thuẫn nhà nghiên cứu phát hiện trong quá
trình quan sát sự kiện.
Quá trình phát triển nhận thức khoa học của nhân loại thể hiện trong bước chuyển liên
tục: Từ đặt vấn đề nghiên cứu đến giải quyết chúng. Nhận thức và giải quyết những mâu
thuẫn tồn tại trong hiện thực là nhiệm vụ của công tác nghiên cứu.
Bản chất của vấn đề nghiên cứu là mâu thuẫn đang đặt ra yêu cầu nhận thức và giải
quyết. Mâu thuẫn được đề cập đến trong vấn đề nghiên cứu thuộc về khách thể, gắn với
khách thể, là cái vốn có của hiện thực khách quan. Song việc phát hiện ra mâu thuẫn lại
thuộc về cảm nhận chủ quan của nhà nghiên cứu. Mâu thuẫn trong lĩnh vực xã hội hết sức
phong phú, tồn tại muôn hình muôn vẻ, có thể được che phủ dưới nhiều hình thức khác
nhau. Bản thân những mâu thuẫn xã hội cũng thường xuyên vận động theo nhiều xu
hướng. Việc nhận diện mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong đời sống xã hội đòi hỏi nhà
nghiên cứu có cảm quan nhạy bén, tư duy khoa học và trách nhiệm xã hội.
Vấn đề nghiên cứu được phát hiện trong quá trình quan sát sự kiện. Người nghiên cứu có
thể thiết lập sự kiện để tiến hành quan sát bằng cách chọn những sự kiện vốn tồn tại trong
xã hội hoặc chủ động tạo ra sự kiện xã hội bằng con đường thực nghiệm.
Sự kiện là cơ sở tất yếu của khoa học. Song sự kiện biểu hiện ra bên ngoại là những quan
hệ mang tính ngẫu nhiên, hiện tượng. Đề nhận thức và giải quyết chúng cần sự tham gia
của tư duy lý luận khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học, quan sát có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Quan sát không chỉ
nhằm phát hiện vấn đề nghiên cứu mà còn giúp nhà khoa học xây dựng giả thuyết, kiểm
chứng giả thuyết trong quá trình triển khai hoạt động nghiên cứu sau này.
Câu hỏi nghiên cứu là hình thức ban đầu của vấn đề nghiên cứu. Câu hỏi nghiên cứu là
biểu hiện của mâu thuẫn giữa nhu cầu nhận thức của chủ thể với vốn tri thức đã có; giữa
mong muốn của nhà nghiên cứu với những gì đang diễn ra trong hiện thực. Câu hỏi
nghiên cứu biểu hiện nhu cầu nhận thức và cải tạo xã hội của bản thân nhà nghiên cứu,
mang tính chủ quan. Vấn đề nghiên cứu chỉ có ý nghĩa khi nó phản ánh nhu cầu của xã
hội, do thực tiễn đặt ra, mang tính khách quan.
Trong khoa học xã hội và nhân văn, vấn đề nghiên cứu biểu hiện là những mâu thuẫn về
nhận thức của giới khoa học trước các hiện tượng xã hội, về việc xác định phương hướng,
cách tổ chức quản lý xã hội so với yêu cầu phát triển của thực tiễn đặt ra. Việc nhận thức
và giải quyết vấn đề nghiên cứu có ý nghĩa thúc đẩy tích cực quá trình phát triển xã hội,
con người.
5 phương pháp phát hiện vấn đề nghiên cứu:
- Phát hiện những " kẻ hở" trong các tài liệu khoa học:
Tài liệu khoa học là sản phẩm nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả nghiên cứu là
những luận giải các vấn đề nghiên cứu cụ thể mà lý luận và thực tiễn đặt ra trong một
điều kiện lịch sử cụ thể. Song thực tiễn vận động và biến đổi không ngừng. Những kiến
giải đó trở nên không phù hợp hoàn toàn với hiện thực. Tri thức mà tài liệu khoa học ấy
chuyển tải không đáp ứng nhu cầu nhận thức và cải tạo thực tiễn. Khi những vấn đề của
thực tiễn không thể giải quyết được trong khuôn khổ các lý thuyết hiện có - vấn đề
nghiên cứu cần được xác định. Nghiên cứu tài liệu là phương thức phát hiện vấn đề
nghiên cứu.
Hơn nữa, vấn đề nghiên cứu còn xuất hiện khi những nội dung chưa được nhận thức và
giải quyết trọn vẹn về mặt khoa học trong các tài liệu khoa học, khi các nhà nghiên cứu
tham gia phản biện các công trình khoa học của đồng nghiệp.
Tất nhiên, để có thể phát hiện vấn đề nghiên cứu trong quá trình nghiên cứu tài liệu đòi
hỏi nhà khoa học phải phát huy tính phân tích, phản biện của tư duy.
- Nhận dạng những bất đồng trong tranh luận khoa học:
Khi tham dự các cuộc tranh luận khoa học, trong hội nghị, hội thảo hay các buổi tọa đàm
khoa học, trước những ý kiến trái chiều cùng bàn về một vấn đề khoa học, người nghiên
cứu có thể nhận dạng vấn đề khoa học cần được giải quyết thấu đáo và sâu sắc hơn.
Tranh luận khoa học là điều kiện, môi trường tốt cho sự nhận diện vấn đề nghiên cứu và
hình thành ý tưởng nghiên cứu.
- Nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động thực tiễn:
Những khó khăn nảy sinh trong hoạt động sản xuất, tổ chức và quản lý xã hội không thể
sử dụng biện pháp thông thường, hay biện pháp thông thường không thể đưa lại kết quả
mong muốn. Thực tế ấy đã đặt ra yêu cầu phải thay đổi nhận thức và hành động. Những
vấn đề khao học được phát hiện từ nhu cầu đổi mới nộp dung, phương pháp làm việc
trong lĩnh vực công tác chuyên môn. Song để có thể phát hiện vấn đề nghiên cứu, nhà
khoa học cần có ý thức trách nhiệm cao, tích cực trong lao động, yêu nghề mới có thể
nhận diện những vấn đề khoa học đang tồn tại trong lĩnh vực hoạt động của mình.
- Sự phản ánh của quần chúng nhân dân:
Mục đích cao nhất của hoạt động nghiên cứu là hướng đến giải quyết các vấn đề thực tiễn
cuộc sống, tạo nên điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của con người và xã hội. Đối
tượng thụ hưởng những thành tựu ấy là quần chúng nhân dân. Những ý kiến đánh giá về
cái đã lạc hậu, sự chưa hợp lý, chưa toàn vẹn thậm chí là sự sai lầm... trong khi áp dụng
các thành tựu nghiên cứu trước đây luôn là gợi ý tốt nhất cho nhà khoa học về vấn đề
nghiên cứu.
Đôi khi vấn đề nghiên cứu xuất hiện khi nhà nghiên cứu lắng nghe ý kiến phàn nàn của
quần chúng nhân dân về những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống mà họ không đủ am hiểu
để lý giải chúng.
- Nghĩa ngược lại những quan niệm thông thường:
Tri thức được hình thành trong quá trình phản ánh thực tiễn. Tri thức có nhiều cấp độ,
trình độ và được xác định vị trí tương đối bền vững trong nhận thức của con người, trở
thành những quan niệm thông thường, phổ biến. Song bên cạnh sự thừa nhận những quan
niệm thông thường, nhà khoa học cần có thái độ hoài nghi khoa học, không tự bằng long
với những tri thức đã có, biết lật đi lật lại vấn đề, đặt ra hướng giải quyết khác biệt, đôi
khi là trái ngược với những kiến giải và phương pháp đã được thừa nhận rộng rãi. Khi ấy,
tình huống mâu thuẫn nảy sinh ấy sẽ là điểm khởi đầu cho một hướng nghiên cứu mới
mẻ.
Vấn đề nghiên cứu thường tồn tại dưới dạng các câu hỏi nghiên cứu. Trong nghiên cứu
khoa học thường xuất hiện hai lớp vấn đề. Một là, vấn đề về bản thân sự vật và quy luật
vận động của nó. Hai là, vấn đề về phương pháp tác động vào sự vật hiện tượng. Giải
quyết vấn đề sẽ mở ra những khả năng mới cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người.
Câu 3: Phương pháp thẩm định vấn đề nghiên cứu, kết qủa thẩm định và phương
án xử lý kết quả thẩm định vấn đề nghiên cứu:
Thầm định vấn đề nghiên cứu là quá trình xem xét nhằm củng cố ý tưởng nghiên cứru,
loại bỏ hướng nghiên cứu không phù hợp để chuẩn bị xây dựng giả thuyết nghiên cứu.
Các phương pháp thẩm định vấn đề nghiên cửu:
- Thay đổi phương thức quan sát.
- Mở rộng phạm vi quan sát.
- Thu thập tài liệu.
- Trao đổi với đồng nghiệp.
Sau khi tiến hành thẩm định vấn đề nghiên cứu, có 3 khả năng được ghi nhận:
- Một là, vấn đề nghiên cứu được khẳng định, ý tưởng nghiên cứu được củng cố.
- Hai là, vấn đề nghiên cứu có thể không tồn tại hoặc đã được giải quyết.
- Ba là, vấn đề nghiên cứu được xác định là "giả - vấn đề":
+ Vấn đề nghiên cứu tồn tại những nguyên nhân của nó nằm ngoài hướng tiếp cận ban
đầu. Xét về nguồn gốc, giả - vấn đề xuất hiện có thể do thế giới quan sai lầm hoặc vấn đề
nảy sinh từ tư duy tư biện, phiến diện của một số học giả. Trong một số trường hợp, giả -
vấn đề còn xuất hiện khi ý tưởng nghiên cứu xuất hiện quá sớm so với điều kiện cho phép
để giải quyết chúng. Chẳng hạn những tiên đoán về vấn đề nghiên cứu có thể xuất hiện
trong tương lai, xa vời so với thời điểm hiện thực đặt vấn đề.
Câu 4: Khái niệm giả thuyết nghiên cứu, các phương pháp suy luận cơ bản để hình
thành giả thuyết nghiên cứu:
1. Khái niệm giả thuyết nghiên cứu:
- Giả thuyết khoa học là một kết luận giả định về bản chất, biện pháp tác động đến một
hiện tượng hay một quá trình xã hội đã được đặt ra trong vấn đề nghiên cứu
- Tiêu chí để xem xét giả thuyết khoa học:
+ Một là, giả thuyết phải được xây dựng trên cơ sở quan sát.
+ Hai là, giả thuyết khoa học không được trái với lý thuyết đã được xác tính đúng đắn về
mặt khoa học
+ Ba là, giả thuyết có thể kiểm chứng bằng lý thuyết hoặc thực nghiệm.
2. Các phương pháp suy luận cơ bản để hình thành giả thuyết nghiên cứu:
- Có ba hình thức suy luận để hình thành giả thuyết là: suy luận quy nạp, suy luận diễn
dịch và loại suy
- Suy luận quy nạp:
+ Là hình thức suy luận trong đó kết luận là tri thức chung được khái quát từ những tri
thức ít chung hơn.
+ Phương pháp xem xét tất cả các lớp đối tượng nghiên cứu rồi rút ra kết luận về thuộc
tính, tính chất chung của chúng là quy nạp hoàn toàn.
+ Kết luận thu được bằng cách chỉ xét một số bộ phận của lớp đối tượng gọi là quy nạp
không hoàn toàn.
- Suy luận diễn dịch:
+ Khi có những khái quát về thuộc tính chung của một loại đối tượng người ta xây dựng
những kết luận (giả định) về các sự vật, hiện trợng mới trong cùng tập hợp
+ Diễn dịch trực tiếp là suy luận diễn dịch mà kết luận được rút ra từ một tiền đề. Có thể
thực hiện diễn dịch trực tiếp bằng phép chuyển hóa, phép đảo ngược hay phép đối lập vị
từ.
Chẳng hạn, từ luận đề: chúng ta không thể nâng cao chất lượng giáo dục nếu không xây
dựng được đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn, có thể xây dựng giả thuyết:
++ Nếu không có đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn thì không thể nâng cao chất lượng
giáo dục.
++ Muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì phải xây dựng đội ngũ giảng viên đủ tiêu
chuẩn.
+ Nếu có đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn thì ( mới có thể) nâng cao chất lượng giáo
dục.
+ Diễn dịch gián tiếp là suy luận diễn dịch mà kết luận được rút ra từ nhiều tiền đề. Trong
đó tam luận là trường hợp được sử dụng khá phô biến trong suy luận.
Chẳng hạn: Toàn cầu hóa là xu thế chung của sự phát triển, tác động một cách mạnh mẽ,
sâu rộng tới các lĩnh vực đời sống của mọi quốc gia trên thế giới. VN xây dựng và phát
triển kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa. (Do vậy) Việt Nam không thể tránh khỏi những
tác động của toàn cầu hóa.
- Suy luận loại suy:
+ Loại suy là suy luận, mà nhờ nó từ sự giống (hoặc khác) nhau của các đối tượng ở một
số các đặc điểm suy ra sự giống (hoặc khác) nhau của chúng ở những đặc điểm khác. Sự
khác biệt chủ yếu của nó với diễn dịch và quy nạp là ở chỗ, tri thức kết luân có cùng cấp
độ với tri thức tiền đề.
+ Đồng thời suy luân tương tự cũng gắn liền với diễn dịch và quy nạp. Một mặt, nó dựa
trên những tri thức được khai thác bằng con đường diễn dịch và quy nạp. Mặt khác, nó
cung cấp cho chúng chất liệu để rút ra những kết luân mới.
Câu 5: Yêu cầu cơ bản của quá trình kiểm chứng giã thuyết nghiên cứu:
1. Khái niệm giả thuyết nghiên cứu:
- Giá thuyết khoa học là một kết luận giả định về bản chất, biện pháp tác động đến một
hiện tượng hay một quá trình xã hội đã được đặt ra trong vấn đề nghiên cứu
- Tiêu chí để xem xét giả thuyết khoa học:
+ Một là, giả thuyết phải được xây dựng trên cơ sở quan sát
+ Hai là, giả thuyết khoa học không được trái với lý thuyết đã được xác tính đúng đắn về
mặt khoa học
+ Ba là, giả thuyết có thể kiểm chứng bằng lý thuyết hoặc thực nghiệm.
2. Yêu cầu cơ bản của quá trình kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu:
- Một giả thuyết đưa ra cần phải được kiểm chứng dựa trên những căn cứ khoa học. Kết
quả kiểm chứng là khẳng định hay phủ định giả thuyết. Quá trình này gồm 3 bộ phận hợp
thành
*Luận đề:
- Là những phán đoán do nhà nghiên cứu đưa ra và tính chân xác của nó cần được chứng
minh hoặc bác bỏ.
- Yêu cầu luận đề phải được trình bày rõ ràng, xác định và đơn nghĩa
* Luận cứ:
- Là những căn cứ, những bằng chứng được đưa ra để chứng minh hoặc bác bỏ luận đề.
Tính chân xác của luận cứ đã được công nhận và được sử dụng làm tiền đề để chứng
minh giả thuyết do nhà nghiên cứu đặt ra. Luận cứ có 2 loại:
+ Luận cứ lý thuyết: Là cơ sở lý thuyết khoa học, các luận điểm khoa học, các định luật,
định lý, quy luật mà tính đúng đắn của nó đã được các nhà khoa học xác nhận
+ Luận cứ thực tiễn: Là căn cứ thu được từ quan sát hoăc thực nghiệm khoa học, bao gồm
số liệu, dữ kiện,...
- Yêu cầu luận cứ sử dụng để kiểm chứng giả thuyết phải chính xác, có liên hệ với luận
đề và đảm bảo đủ cơ sở để rút ra kết luận cho luận đề.
-* Luận chứng:
- Là cách thức tổ chức, nối kết các luận cứ và liên hệ giữa các luận cứ và các luận đề
nhằm khẳng định hoặc phủ định luận đề ấy,
- Yêu cầu luận chứng bao gồm một chuỗi các phép suy luận khác nhau được liên kết lại
với nhau theo một trật tự xác định. Luận chứng phải thực hiện theo đúng các quy tắc suy
luận.
Câu 6: Các phương pháp kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu:
1. Khái niệm giá thuyết nghiên cứu:
- Giả thuyết khoa học là một kết luận giả định về bản chất, biện pháp tác động đến một
hiện tượng hay một quá trình xã hội đã được đặt ra trong vấn đề nghiên cứu
- Tiêu chí để xem xét giả thuyết khoa học:
+ Một là, giả thuyết phải được xây dựng trên cơ sở quan sát
+ Hai là, giả thuyết khoa học không được trái với lý thuyết đã được xác tính đúng đắn về
mặt khoa học
+ Ba là, giả thuyết có thể kiểm chứng bằng lý thuyết hoặc thực nghiệm.
2. Các phương pháp kiểm chứng giá thuyết:
a. Chứng minh giả thuyết:
Chứng minh là hình thức suy luận trong đó người nghiên cứu dựa vào những luận cứ đề
khẳng định tính chân xác của luận đề.
Chứng minh giả thuyết được thực hiện bằng hai cách: chứng minh trực tiếp và chứng
minh gián tiếp.
Chứng minh trực tiếp là phép chứng minh dựa vào những luận cứ chân thực và bằng các
quy tắc quy luật để khẳng định tính chân xác của một giả thuyết.
Chứng minh gián tiếp là phép chứng minh trong đó tính chân xác của luận đề được khẳng
định khi nhà nghiên cứu đã chứng minh tính phi chân xác của phản luận đề. Nghĩa là từ
việc khẳng định phản luận đề là giả dối, nhà nghiên cứu rút ra luận đề là chân thực.
Chứng minh gián tiếp được chia thành hai loại: chứng mịnh phản chứng và chứng minh
phân liệt.
Chứng minh phản chứng là phép chứng minh trong đó tính chân xác của giả thuyết được
chứng minh bằng tính phi chân xác của phản luận đề, tức là một giả thuyết đặt ngược lại
với giá thuyết ban đầu.
Chứng minh phân liệt là phép chứng minh gián tiếp dựa trên cơ sở loại bỏò một số luận
cứt này để khẳng định những luận cứ khác. Do vậy, chứng minh phân liệt còn được gọi là
chứng minh bằng phương pháp loại trừ. Phương pháp này rất có ý nghĩa và nhiều sức
thuyết phục trong khoa học xã hội.
b. Bác bỏ giả thuyết:
Bác bỏ là một hình thức chứng minh nhằm chỉ rõ tính phi chân xác, sai lầm của một giả
thuyết. Bác bỏ giả thuyết được thực hiện khi phủ định cả ba hoặc một trong ba thành
phần cấu thành của quá trình kiểm chứng.
Một là, bác bỏ luận đề. Một luận đề ( tức một giả thuyết) bị bác bỏ khi người nghiên cứu
chứng minh được rằng luận đề không hội tụ đủ các điều kiện của một giả thuyết, không
thỏa mãn các tiêu chí của một giả thuyết.
Hai là, bác bỏ luận cứ. Nhà nghiên cứu chứng minh rằng luận cứ được sử dụng để chứng
minh luận đề là sai, thiếu luận cứ để rút ra kết luận.
Ba là, bác bỏ luận chứng, vạch rõ tính phi logic, sự vi phạm nguyên tắc trong chứng
minh.
Câu 7: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học và các cấp độ phương pháp luận
nghiên cứu khoa học:
a. Khái niệm:
Thuật ngữ phương pháp luận bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với nghĩa là lý luận về phương
pháp. Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về phương pháp luận. Chẳng hạn:
- Phương pháp luận được hiểu như là cơ sở lý luận, cương lĩnh lý luận của hoạt động
nhận thức khoa học. Nó điều chinh hoạt động của con người đảm bảo cho tính có mục
đích của hoạt động đó và định hướng cho nó.
- Phương pháp luận là sự tổng hợp, là hệ thống, là "tổ hợp" các phương pháp nghiên cứu
đã được sử dụng trong bộ môn khoa học này hay bộ môn khoa học khác.
- Đồng nhất phương pháp luận với triết học, coi triết học là lý luận vạn năng về phương
pháp.
- Trong nhiều công trình nghiên cứu, phương pháp luận lại được xem như cách tiếp nhận
nghiên cứu và xem nó là điểm tựa, cơ sở xuất phát cho sự nghiên cứu, xác định và lựa
chọn hướng nghiên cứu.
Các ý kiến khác nhau về phương pháp luận không phủ nhận phương pháp luận là phạm
trù thuộc về nhận thức, tư duy, có ý nghĩa quan trọng trong mọi hoạt động của con người.
Phương pháp luận có quan hệ mật thiết với thế giới quan, với lý luận. Trong đó, phương
pháp luận và thế giới quan đều thể hiện những quan niệm, nguyên tắc chung cho hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người. Thế giới quan là quan niệm của con người về
thế giới. Trong đó, chỉ những quan niệm mang tính hệ chuẩn ( có tính nguyên tắc, có tính
dẫn đường, định hướng....) của thế giới quan mới trở thành nội dung của phương pháp
luận.
Phương pháp luận và lý luận là hai phạm trù cùng trình độ, phản ánh bản chất, tính quy
luật của thế giới khách quan. Song không thể đồng nhất lý luận và phương pháp luận bởi
chỉ những nội dung lý luận mang tính chuẩn mực ( chung nhất, cơ bản nhất, có tính định
hướng,...) mới trở thành nội dung của phương pháp luận - cái chi phối hoạt động nhận
thức và thực tiễn của con người.
Từ những cách tiếp nhận khác nhau, có thể thấy phương pháp luận nghiên cứu khoa học
là lý luận về phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới. Phương pháp luận nghiên cứu là
hệ thống quan điểm có tính nguyên tắc mà nhà nghiên cứu coi là cơ sở, điểm xuất phát
cho việc lựa chọn, sử dụng các phương pháp nghiên cứu cũng như dự kiến phạm vi, mức
độ sử dụng phương pháp ấy để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Bất kì một nghiên cứu nào cũng thực hiện trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu nhất
định.
Phương pháp luận là kim chi nam hướng dẫn nhà nghiên cứu trên con đường tìm tỏi
nghiên cứu. Nắm vững phương pháp luận là điều kiện thiết yếu để thành công trong
nghiên cứu khoa học.
b. Các cấp độ phương pháp luận nghiên cứu khoa học:
- Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận triết học - những quan điểm, nguyên
tắc chung nhất, xuất phát điểm cho việc lưa chọn và sử dụng các phương pháp bộ môn và
phương pháp luận chung, chi phối cả phương pháp nhận thức và phương pháp hoạt động
thực tiễn.
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học lĩnh vực xã hội và nhân văn ở nước ta, phương
pháp luận chung nhất là phương pháp biện chứng mác-xít. Triết học Mác Lenin bao gồm
những quan điểm có tính nguyên tắc cà về thế giới quan và phương pháp luận cho hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người. Có thể kể đến những nguyên tắc căn bản như
nguyên tắc khách quan, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể...
+ Phương pháp luận chung là những quan điểm, nguyên tắc xác định các phương pháp
nhằm giải quyết các vấn đề của nhóm các ngành khoa học có những điểm chung nhất
định nào đó. Chẳng hạn, đối với việc nghiên cứu khoa học, nhóm ngành khoa học xã hội
và nhân văn thì quan điểm giai cấp, tiếp cận lợi ích,... là những nguyên tắc không thể xa
rời.
- Phương pháp luận riêng hay phương pháp luận bộ môn là những luận điểm, lý thuyết cơ
bản và góc tiếp cận đặc thù của mỗi ngành khoa học, mỗi đề tài khoa học cụ thể. Chẳng
hạn, phương pháp luận sử học, phương pháp luận văn học... là phương pháp luận mà mỗi
đề tài cụ thể luôn có. Nó là những nguyên tắc tương ứng, phù hợp với đối tượng mà
người nghiên cứu xác định.
Các cấp độ phương pháp luận độc lập tương đối, hợp thành hệ thống khoa học về phương
pháp chỉ đạo việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp cụ thể sao cho khoa học, hiệu
quả.
Phương pháp luận chung đóng vai trò là nguyên tắc, căn cứ để người nghiên cứu lựa
chọn, sử
dụng các phương pháp nghiên cứu nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể của ngành khoa
học đó.
Câu 8: Quy trình thực hiện và yêu cầu của phương pháp nghiên cứu tài liệu:
a. Tài liệu khoa học:
- Tài liệu là vật thể cung cấp những chi dẫn thông tin. Tài liệu gồm hai đặc trưng cơ bản.
+ Đặc trưng về mặt vật chất thể hiện ở chất liệu và tín hiệu sử dụng.
+ Đặc trưng tri thức thể hiện ở nội dung của tài liệu, mức độ xử lý và phồ biến của tài
liệu.
Tùy theo mức độ xử lý nội dung, người ta phân biệt các loại tài liệu như tài liệu sơ cấp,
tài liệu thứ cấp,...
- Tài liệu khoa học là những văn bản hoặc vật thể chứa dựng những thông tin khoa học
giúp nhà nghiên cứu tìm hiểu một vấn đề khoa học nào đó. Tài liệu khoa học không chi là
phương tiện công bố kết quả nghiên cứu mà còn là cơ sở khẳng định quyền tác giả của
nhà nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp thu thập thông tin khoa học trên cơ sở
nghiên cứu các tài liệu đã có, thông qua các thao tác tư duy để rút ra kết luận khoa học.
Mục đích của nghiên cứu tài liệu là nhằm nhận dạng sơ bộ quy luật chung của đối tượng
nghiên cứu. Những quy luật này đã được trình bày trong tài liệu của những nhà nghiên
cứu trước. Nhà nghiên cứu thu thập, tổng hợp chúng theo một trình tự logic nhất định để
làm tái hiện những quy luật đó.
- Bản chất của phương pháp nghiên cứu tài liệu là nghiên cứu các tài liệu đã tích lũy
trong quá khứ, đúc kết, tìm kiếm thông tin về quy luật diễn ra trong quá khứ có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu.
- Đối với đề tài nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, phương pháp nghiên cứu tài liệu
được sử dụng phổ biến và có vị trí vai trò quan trọng trong việc tạo dựng cơ sở lý luận
cho một đề tài nghiên cứu.
- Đặc trưng của nhóm phương pháp này là người nghiên cứu không có bất kỳ một sự
quan sát trực tiếp nào lên đối tượng nghiên cứu. Song phương pháp này lại đòi hỏi nhà
nghiên cứu phải có lý thuyết "nền" làm căn cứ xuất phát như thế giới quan, quan điểm,
lập trường tư tưởng để có thái độ tiếp nhận và cách thức xử lý thông tin phù hợp.
b. Các phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Nghiên cứu tài liệu bao gồm tập hợp các phương pháp: phân loại tài liệu, phân tích tài
liệu, đọc, ghi chép và tóm tắt tài liệu khoa học.
- Phương pháp thu thập và phân loại tài liệu:
+ Thu thập tài liệu là bước đầu tiên, cần thiết và quan trọng cho bất kỳ hoạt động nghiên
cứu khoa học nào. Việc thu thập tài liệu giúp nhà nghiên cứu tránh được sự trùng lặp với
các nghiên cứu đã hoàn thành; Người nghiên cứu có thêm kiến thức sâu, rộng về lĩnh vực
nghiên cứu đang theo đuổi, làm rõ hơn đề tài nghiên cứu đã lựa chọn.
Căn cứu vào vấn đề nghiên cứu và xuất phát từ giả thuyết khoa học, nhà nghiên cứu tiến
hành xác định nguồn tài liệu, tìm kiếm và lựa chọn những tài liệu cần thiết nhằm làm
sáng rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn để chứng minh cho giả thuyết khoa học của
mình.
Về nguyên tắc, tất cả những tài liệu chứa đựng các thông tin liên quan đến nhiệm vụ
nghiên cứu của đề tài đều phải được thu thập. Song hiện nay, sự phát triển khoa học cùng
với cuộc cách mạng khoa học công nghệ, cách mạng thông tin diễn ra trên toàn cầu có tác
động mạnh mẽ tới quy luật tồn tại và phát triển tài liệu khoa học. Người ta dự đoán cứ
sau 10 năm số tài liệu khoa học lại tăng gấp đôi và tiếp tục gia tăng theo hàm số mũ.
Bên cạnh đó, quy luật về sự tập trung và tản mạnh thông tin cũng tác động đên sự tồn tại
của tài liệu khoa học. Quy luật này hình thành do quá trình phân lập và tích hợp khoa
học.
Quá trình phân lập các khoa học dẫn đến việc hình thành các tài liệu chuyên môn hẹp.
Quá trình tích hợp khoa học lại dẫn đến việc hình thành các tài liệu khoa học liên ngành.
Tính hữu ích của một tài liệu khoa học được xác định bằng giá trị nội dung, tính thời sự
cũng như khả năng tương thích của nó đối với vấn đề nghiên cứu mà nhà khoa học quan
tâm.
Đối với một vấn đề nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, tính hữu ích của thông tin
và giá trị của tài liệu trùng khớp khi nó tương đường với mục tiêu và nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể. Điều này phân biệt với việc xem xét giá trị và tính hữu ích của thông tin khoa
học công nghệ và kỹ thuật. Thông thường, tài liệu khoa học xã hội có tuổi thọ giá trị dài
hơn. Chẳng hạn, tài liệu có tuổi thọ hàng thế kỷ hoặc xa hơn như tài liệu lịch sử, tài liệu
triết học,... Thậm chí, giá trị của tài liệu đó còn được đo bằng tuổi thọ của nó.
+ Phân loại tài liệu:
Phân loại tài liệu được tiến hành sau khi thu thập tài liệu để chuẩn bị cho quá trình đọc,
khai thác nội dung.
Phân loại tài liệu là phương pháp sắp xếp tài liệu khoa học thành hệ thống logic chặt chẽ
theo từng mặt, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề khoa học có cùng dấu hiệu theo mục
đích sử dụng của nhà nghiên cứu.
Các hình thức phân loại phổ biến hiện nay là phân loại theo tên tác giả, phân loại theo
thời gian công bố, hình thức công bố. Ngoài ra còn nhiều cách phân loại khác, tùy theo
mục đích nghiên cứu của đề tài mà nhà nghiên cứu phân loại cho phù hợp.
- Phân tích và tổng hợp tài liệu:
+ Phân tích tài liệu:
Phân tích tài liệu là phương pháp nghiên cứu tài liệu về một chủ đề bằng cách tách chúng
thành từng bộ phận, từng mặt, từng vấn đề để hiểu chúng một cách sâu sắc, tìm thông tin
phục vụ vấn đề nghiên cứu.
Phân tích tài liệu nhằm xác định độ tin cậy, tính khách quan, tính cập nhật của tài liệu,
giới hạn và phạm vi của vấn đề mà tài liệu đề cập đến. Mục đích của việc phân tích tài
liệu là thông qua phân tích hình thức và nội dung tài liệu, nhà nghiên cứu xác định tính
hữu ích của tài liệu và phạm vi có thể kế thừa nội dung tài liệu đó đối với đề tài họ triển
khai. Thông qua việc phân tích hình thức tài liệu, xác định nguồn tài liệu, tác giả, nơi
công bố, hình thức công bố tài liệu. Trên cơ sở phân tích tài liệu, nhà nghiên cứu xác định
mức độ phải xử lý tài liệu theo mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
Sau khi phân tích các dấu hiệu hình thức, người nghiên cứu tiến hành phân tích số tiêu
chí cơ bản về nội dung tài liệu. Theo cách này, người nghiên cứu lập một phiếu phân tích
tài liệu đối với mỗi tài liệu hay nhóm tài liệu cụ thể. Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ
nghiên cứu và khung lý thuyết của đề tài để thiết kế nội dung của mỗi phiếu phân tích tài
liệu. Phiếu phân tích tài liệu xây dựng theo các tiêu chí: Chú đề chính của tài liệu, nội
dung cơ bản, mục đích, phạm vi nghiên cứu cũng như mức độ sử dụng của thông tin
trong tài liệu.
+ Tổng hợp tài liệu:
Tổng hợp tài liệu là phương pháp liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin từ tài liệu từ
các tài liệu thu thập được nhằm tạo ra một cách hiểu đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên
cứu.
Tổng hợp tài liệu được thực hiện trên nhiều tài liệu phong phú về đối tượng. Tổng hợp tài
liệu được thực hiện trên cơ sở kết quả phân tích tài liệu, cho phép nhà nghiên cứu có
những thông tin toàn diện và khái quát về vấn đề nghiên cứu dựa trên những tài liệu đã
có.
Tổng hợp tài liệu nhằm mục đích xác định tính tương thích của tài liệu so với mục tiêu
nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, lựa chọn tư liệu cần và đủ, sắp xếp chúng theo tiến trình thời
gian hay quan hệ nhân quả.
Phân tích và tổng hợp tài liệu là hai phương pháp có chiều hướng đối lập nhau song thống
nhất biện chứng và bổ trợ cho nhau, giúp nhà nghiên cứu nắm bắt được thông tin xung
quanh vấn đề nghiên cứu một cách sâu sắc và khái quát.
- Phương pháp đọc và ghi chép tài liệu:
Đọc và ghi chép tài liệu là một công đoạn trong phương pháp nghiên cứu tài liệu khoa
học. Cách thức đọc và ghi chép tài liệu nói lên nhà nghiên cứu sẽ sử dụng, tiếp thu, ghi
nhớ thông tin tài liệu đó như thế nào.
+ Đọc tài liệu:
Phương pháp đọc tài liệu gắn với hành vi tư duy. Yêu cầu đạt được khi đọc tài liệu là ghi
nhớ được tên tài liệu, nguồn, tác giả tài liệu, nội dung cơ bản, những dữ kiện được đề cập
đến trong tài liệu, khả năng sử dụng chúng trong giải quyết vấn đề khoa học của nhà
nghiên cứu.
Đối với từng tài liệu, căn cứu vào mục tiêu nghiên cứu của từng đề tài cụ thể có thể có
nhiều cách đọc khác nhau.
Đọc thông thường đối với tài liệu không cần thiết phải quá ghi nhớ và chú ý nhiều.
Đọc nhanh: Đọc tài liệu phổ biến thông tin khoa học với tốc độ nhanh, đồng thời đặt ra
yêu cầu ghi nhớ những thông tin căn bản trong tài liệu.
Đọc trượt là kiểu đọc chọn lọc, khi đọc mắt lướt theo toàn bộ nội dung tài liệu nhưng chỉ
chú ý đến những đoạn cần thiết.
Đọc quét cũng là một kiểu đọc chọn lọc. Khi đọc mắt không lướt trên toàn bộ nội dung
tài liệu mà chỉ lướt theo những phần có thể có thông tin ẩn. Chẳng hạn khi nhà nghiên
cứu tìm những số liệu, dữ kiện cần thiết trong các sách tra cứu.
Đọc sâu đối với những tài liệu chuyên môn phức tạp, yêu cầu nhà nghiên cứu phải suy
nghĩ và phân tích ngay trong quá trình đọc. Để có thể thu được những thông tin hiệu quả,
nhà nghiên cứu còn cần biết điều chinh tốc đô đọc, phương pháp đọc một cách phù hợp.
Thông thường, trình tự đọc một tài liệu là: đọc tổng quát tài liệu nhằm xác định những
phần, những trang phải đọc kỹ; Đọc kỹ những phần đã đánh dấu và tiến hành ghi chép.
+ Ghi chép tài liệu:
Sau khi đọc lướt toàn bộ tài liệu, nhà khoa học tiến hành đọc kỹ và ghi chép những nội
dung tài liệu có ý nghĩa với nhà khoa học và liên quan đến vấn đề nghiên cứu của mình.
Đối với các tài liệu khoa học, có thể tiến hành ghi chép nội dung tài liệu theo những quy
tắc ghi nhớ. Những ghi chép ban đầu này chính là vật liệu thông tin đầu tiên làm tiền đề
cho các nhà khoa học tiến hành xử lý thông tin trong quá trình nghiên cứu tài liệu. Đó là
thực hiện tóm tắt tài liệu khoa học.
- Phương pháp thực hiện tóm tắt khoa học:
Tóm tắt khoa học thường được thực hiện sau khi nhà nghiên cứu tiến hành đọc và ghi
chép tài liệu. Bản tóm tắt thực hiện trên cơ sở các kết qầu thu được của việc đọc và ghi
chép tài liệu.
Mục đích của việc thực hiện tóm tắt khoa học đối với tài liệu là nhằm loại bỏ những
thông tin không cần thiết trong những tài liệu đã thu thập được, cô đọng và làm bật lên
nội dung của tài liuệ mà thích ứng và cần thiết với vấn đề nghiên cứu. Đây cũng là công
việc xử lý thông tin cần thiết, tích lũy tri thức cho nhà nghiên cứu.
Tùy theo nội dung vấn đề nghiên cứu, tùy theo nội dung thông tin trong từng tài liệu khoa
học mà nhà nghiên cứu có thể tiến hành tóm tắt tài liệu theo từng mức độ khác nhau về
độ dài, mức độ chi tiết, có đánh giá, phê phán hay không, tóm tắt toàn bộ tài liệu hay từng
phần tài liệu.
Tóm tắt lược thuật là văn bản do nhà nghiên cứu thực hiện nhằm ghi chép lại một cách cô
đọng, trung thực thông tin về kết quả nghiên cứu của một hay một nhóm tài liệu đã được
phân loại có liên quan trực tiếp đến mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu cần thực hiện của một
đề tài khoa học.
Bản lược thuật là văn bản đúc kết một cách cô đọng nội dung của tài liệu. Trong đó phải
nêu bật được nội dung chủ đề của tài liệu, thời gian, bối cảnh, địa điểm của sự việc, sự
kiện, các phương pháp được tác giả tài liệu sử dụng, những kết luận và triển vọng của vấn
đề tác giả tài liệu nêu lên.
Bản lược thuật đạt trình đọ khách quan, khoa học, làm căn cứ tin cậy của đề tài khi được
thực hiện theo những tiêu chuẩn sau: vấn đề mà tài liệu nêu lên phải được lược thuật đầy
đủ theo trình tự thời gian, đảm bảo tính lịch sử, tính logic, tránh lược thuật các vấn đề
bằng cách tách rời, cô lập vấn đề đó khỏi bối cảnh tồn tại của nó. Bản lược thuật tài liệu
cần ngắn gọn, súc tích về nội dung, đâm bảo tính chính xác của các thuật ngữ mà tài liệu
trình bày.
Tóm tắt tổng thuật là bản trình bày tổng hợp về một hay một số vấn đề luên quan đến
mục tiêu, nhiệm vụ của một đề tài nghiên cứu dựa trên nhiều tài liệu cùng đề cập đến các
vấn đề đó.
Bản tóm tắt tổng thuật cũng cần đạt được những yêu cầu của bản tóm tắt lược thuật.
Đồng thời có sự liên hệ, so sánh, bình luận, phê phán một cách sơ bộ các thông tin đó.
Nhà nghiên cứu có thể đưa ra dự kiến về mục đích, mức độ và phạm vi tham khảo. Bản
tổng thuật tài liệu cần đảm bảo tính khách quan khoa học của các tài liệu khảo cứu.
Bản tóm tắt lược thuật và tổng thuật tài liệu là căn cứu, dữ liệu khoa học quan trọng để
nhà nghiên cứu thông qua hoạt động tư duy sáng tạo của mình hình thành các ý tưởng
nghiên cứu, tìm kiếm luận cứ chứng minh giả thuyết. Bản tóm tắt lược thuật hay tổng
luận tài liệu do người nghiên cứu thực hiện khác với bản tổng thuật tài liệu do các cơ bản
thông tin thực hiện nhằm mục đích phổ biến thông tin.
Bản tổng thuật tài liệu này cũng khác với tổng luận kết quả nghiên cứu thực hiện sau khi
hoàn thành đề tài, là sản phẩm chính của một đề tài. Bản tổng hợp vấn đề nghiên cứu đề
cập đến trong phần này chỉ dừng ở các sản phẩm trung gian trong nghiên cứu một đề tài.
Câu 9: Trình bày các phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu khoa học và nêu
ví dụ minh họa:
1. Khái niệm và đặc điểm của phương pháp nghiên cứu thực nghiệm:
a. Khái niệm:
Thực nghiệm là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng được thực hiện bởi những
quan sát trực tiếp trong điều kiện gây biến đổi cho đối tượng khảo sát một cách có kiểm
soát và chủ đích.
Thực chất của phương pháp thực nghiệm là nghiên cứu dựa trên sự mô phỏng các quá
trình hiện thực. Thực nghiệm giúp nhà khoa học chủ động tạo ra các hoạt động, các biến
chuyển giúp nhà nghiên cứu quan sát mô hình hay môi trường giả định thông qua sự mô
phỏng các quá trình diễn ra trong thực tế.
Mục đích của thực nghiệm xã hội là quá trình tạo lập, thiết kế mô hình, thế chế xã hội và
cách thức tác động có tính quy chuẩn, mẫu mực để nghiên cứu, thử nghiệm, điều chỉnh và
nhân rộng, đưa vào đời sống xã hội hiện thực. Với ý nghĩa đó, thực nghiệm xã hội là
phương pháp được lựa chọn trong nhiều nghiên cứu về tổ chức, quản lý xã hội.
Về bản chất, phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu khoa học xã hội cũng tương tự
như trong nghiên cứu khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Song, xuất phát từ tính đặc thù trong
nghiên cứu xã hội, thực hiện phương pháp thực nghiệm là không đơn giản.
Nghiên cứu thực nghiệm được thực hiện chủ yếu dựa vào nguyên tắc xem xét mối quan
hệ nhân quả. Yêu cầu chủ yếu của phương pháp này là nhà nghiên cứu cần nắm chắc và
thao túng được nguyên nhân trong một môi trường có sự kiểm soát.
b. Các điều kiện để sử dụng phương pháp thực nghiệm:
Một là, nhà nghiên cứu nhận thức được những yêu tố gây ảnh hưởng đến sự nảy sinh và
diễn biến của đối tượng nghiên cứu.
Hai là, người nghiên cứu xác định được những nguyên nhân của các hiện tượng do vạch
ra được các điều kiện ảnh hưởng.
Ba là, người nghiên cứu cần và có thể lặp lại nhiều lần thực nghiệm,
c. Các bước tiến hành thực nghiệm:
Nhà nghiên cứu cần nắm được tiến trình triển khai phương pháp thực nghiệm gồm ba giai
đoạn cơ bản:
Một là, chuẩn bị thực nghiệm, người nghiên cứu cần xác định mục đích thực nghiệm, đối
tượng thực nghiệm, thời gian, địa điểm thực nghiệm. Đồng thời, nhà nghiên cứu cần
chuẩn bị các tiêu chí đo đạc kết quả thực nghiệm.
Hai là, tiến hành thực nghiệm. Nhà nghiên cứu phân công cộng tác viên giám sát và thu
nhận các thông tin trong quá trình thực nghiệm; kịp thời kiểm soát và điều chỉnh các tác
động trong quá trình thực nghiệm.
Ba là, xử lý kết quả thực nghiệm. Nhà nghiên cứu kiểm tra lại các thông số, so sánh, đối
chiếu, đo lường kết quả thực nghiệm trên cơ sở tiêu chí thực nghiệm đã xác định; viết báo
cáo và có thể công bố kết quả thực nghiệm.
2. Phân loại thực nghiệm:
a. Phân loại theo tiến trình thời gian tiến hành thực nghiệm:
Theo quá trình tiến hành thực nghiệm có thực nghiệm cấp diễn, thực nghiệm bán cấp diễn
và thực nghiệm trường diễn.
- Thực nghiệm cấp diễn là thực nghiệm để xác định sự tác động của các giải pháp tác
động hoặc ảnh hưởng của các tác nhân lên đối tượng nghiên cứu trong một thời gian
ngắn.
- Thực nghiệm trường diễn là thực nghiệm nhằm xác định sự tác động của các giải pháp
hoặc ảnh hưởng của các tác nhân lên đối tượng nghiên cứu lâu dài, liên tục.
- Thực nghiệm bán cấp diễn diễn ra ở mức độ trung gian giữa hai quá trình thực nghiệm
nêu trên.
b. Phân loại theo nơi tiến hành thực nghiệm:
Quá trình thực nghiệm có thể được tiến hành ở nhiều môi trường khác nhau tùy theo yêu
cầu của nghiên cứu.
- Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm:
Trong phòng thí nghiệm, người nghiên cứu hoàn toàn chủ động tạo dựng mô hình nghiên
cứu và khống chế các thông số. Người nghiên cứu có thể kiểm soát toàn bộ điều kiện
thực nghiệm, tạo ra tình huống như mong muốn, chủ động kiểm soát hay vận dụng các
biến số. Nhà nghiên cứu có thể quan sát và đánh giá được kết quả của việc vận dụng các
biến số ấy. Chính vì vậy, thực nghiệm trong phòng có thể trở thành một phương thức
nghiên cứu mang tính kỹ thuật. Phương pháp này cho phép nhà nghiên cứu tạo ra được
những tình huống cần thiết, quan sát chính xác các diễn biến của đối tượng trong quá
trình thực nghiệm. Đồng thời, nhà nghiên cứu có thể dự kiến và đo lường kết quả chính
xác hơn. Do vậy, thực nghiệm trong phòng đặc biệt phù hợp với các ngành khoa học tự
nhiên và kỹ thuật.
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm có những giới hạn nhất định khi đơn giản hóa các
quá trình hiện thực, nhất là các quá trình xã hội. Điều kiện thực nghiệm trong phòng luôn
có khoảng cách khá xa đối tượng thực.
- Thực nghiệm tại hiện trường:
Nếu thực nghiệm trong phòng là sự mô phỏng hiện thực thì thực nghiệm tại hiện trường
được tiến hành trong môi trường hiện thực. Tại đây, người nghiên cứu được tiếp cận mọi
tham số và những điều kiện hoàn toàn thực nhưng lại bị hạn chế về khả năng khống chế
các tham số và các điều kiện tham dự vào quá trình nghiên cứu.
- Thực nghiệm trong quần thể xã hội:
Đây là dạng thực nghiệm được tiến hành trên một cộng đồng người trong những điều
kiện sống của họ. Trong thực nghiệm này, người nghiên cứu thay đổi các điều kiện sinh
hoạt, cách thức tổ chức quản lý... của đối tượng. Trong các nghiên cứu khoa học xã hội,
trong y học... thực nghiệm trong quần thể xã hội ngày càng có vị trí quan trọng trong xây
dựng và kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu.
c. Phân loại theo mục đích thực nghiệm:
- Thực nghiệm thăm đò được tiến hành để phát hiện bản chất của đối tượng nghiên cứu.
Đây là phương pháp được sử dụng trong xây dựng giá thuyết khoa học.
- Thực nghiệm kiểm chứng là những thực nghiệm nhằm tìm kiếm các luận cứ để chứng
minh cho các giải thuyết nghiên cứu.
- Thực nghiệm song hành là những thực nghiệm được tiến hành đối với hai hay nhiều đối
tượng khác nhau trong những điều kiện thực nghiệm như nhau nhằm xác định mức độ
ảnh hưởng của cùng một điều kiện thực nghiệm lên những đối tượng khác nhau.
- Thực nghiệm đối nghịch là những thực nghiệm được tiến hành trên hai hay nhiều đối
tượng như nhau trong các điều kiện thực nghiệm ngược chiều nhau nhằm xác định mức
độ ảnh hưởng của cùng một loại đối tượng dưới tác động của những điều kiện thực
nghiệm khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau.
- Thực nghiệm đối chứng là những thực nghiệm được tiến hành đối với một trong hai
(hay trong nhóm) đối tượng như nhau. Trong trường hợp này, người nghiên cứu muốn
xác định mức độ tác động của các điều kiện thực nghiệm so với các đối tượng không chịu
các tác động đó. Các đối tượng còn lại được coi là đối chứng của đối tượng thực nghiệm.
Trong quá trình nghiên cứu, nhà khoa học có thể thay đổi vị trí của hai nhóm này để thực
hiện phương pháp.
Ví dụ: Nghiên cứu về chuyển động rơi tự do của vật bằng cách thực hiện các thí nghiệm
thả rơi vật ở các độ cao khác nhau, các vật khác nhau (khối lượng, hình dạng, kích
thước).
Câu 10: Trình bày các phương pháp nghiên cứu được phân loại theo logic biện
chứng:
Dựa trên cơ sở có tính nguyên tắc của nhận thức luận mác xít và logic biện chứng, người
ta chia thành các phương pháp nhận thức khoa học thành: phương pháp phân tích - tổng
hợp; phương pháp lịch sử - logic; phương pháp loại trừ nhau mà có quan hệ biện chứng
với nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình nhận thức chân lý. Mỗi phương pháp nhận
thức có vị trí, vai trò nhất định trong tính lịch sử - cụ thể của đối tượng; Thành công trong
nghiên cứu chi có thể đạt được khi chủ thể sử dụng hợp lý, tổng hợp các phương pháp.
Việc cào bằng trong đánh giá vị trí vai trò của mỗi phương pháp nhận thức hay cường
điệu phương pháp này, hạ thấp phương pháp kia chắc chắn dẫn đến những sai lầm trong
nhận thức khoa học.
1. Phương pháp phân tích và tổng hợp:
- Phân tích là phương pháp phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận để đi sâu nhận
thức các bộ phận đó. Còn tổng hợp là phương pháp thống nhất các bộ phận đã được phân
tích nhằm nhận thức cái toàn bộ.
- Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức đối lập nhưng thống nhất với nhau
giúp tìm hiểu đối tượng như một chỉnh thể toàn vẹn. Không có phân tích thì không hiểu
được những cái bộ phận cấu thành cái toàn bộ và ngược lại, không có tổng hợp thì không
hiểu cái toàn bộ như một chỉnh thể được tạo thành như thế nào từ những cái bộ phận nào.
Vì vậy, muốn hiểu thực chất của đối tượng mà chỉ có phân tích hoặc chỉ có tổng hợp
không thôi thì chưa đủ mà kết hợp chúng với nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
nghiên cứu nhất định, bản thân mỗi phương pháp vẫn có ưu thế riêng của mình.
2. Phương pháp quy nạp và diễn dịch:
- Quy nạp là phương pháp suy luận đi từ tiền đề chứa dựng trí thức riêng đến kết luận
chứa đựng tri thức chung. Còn diễn dịch là phương pháp suy luận đi từ tiền đề chứa đựng
tri thức chung đến kết luận chứa đựng tri thức riêng.
- Quy nạp và diễn dịch là hai phương pháp nhận thức đối lập nhưng thống nhất với nhua
giúp phát hiện ra những tri thức mới về đối tượng.
- Sự đối lập của quy nạp và diễn dịch thể hiện ở chỗ: Quy nạp được dùng để khái quát các
tài liệu quan sát, thí nghiệm nhằm xây dựng các giả thuyết nguyên lý, định luật tổng quát
của khoa học, vì vậy quy nạp, đặc biệt là quy nạp khoa học, có giá trị lớn trong khoa học
thực nghiệm. Diễn dịch được dùng để cụ thể hóa các giả thuyết, nguyên lý, định luận
tổng quát của khoa học trong các điều kiện tình hình cụ thể, vì vậy diễn dịch, đặc biệt là
phương pháp giả thuyết - diễn dịch, phương pháp tiên đề, có giá trị lớn trong khoa học lý
thuyết.
- Sự thống nhất của quy nạp và diễn dịch thể hiện ở chỗ: Quy nạp xây dựng tiền đề cho
diễn dịch, còn diễn dịch bổ sung thêm tiền đề cho quy nạp thêm chắc chắn. Không có quy
nạp thì không hiểu được cái chung tồn tại trong cái riêng như thế nào, ngược lại không có
diễn dịch thì không hiểu cái riêng có liên hệ với cái chung ra sao. Vì vậy, muốn hiểu thực
chất của đối tượng mà chỉ có quy nạp hoặc chỉ có diễn dịch không thôi thì chưa đủ mà
phải kết hợp chúng với nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nghiên cứu nhất định,
bản thân mỗi phương pháp vẫn có ưu thế riêng của mình
3. Phương pháp lịch sử - logic:
- Lịch sử là phạm trù dùng để chỉ quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong của sự vật
trong tính đa dạng, sinh động của nó. Còn logic là phạm trù dùng để chỉ tính tất yếu - quy
luật của sự vật (logic khách quan) hay mối liên hệ tất yếu giữa các tư tưởng (logic chủ
quan). Phương pháp lịch sử là phương pháp đòi hỏi phải tái hiện lại trong tư duy quá

Preview text:

Câu 1: Khái niệm, đặc điểm, chức năng của nghiên cứu khoa học:
- Khái niệm của nghiên cứu khoa học:
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm tìm tòi, khám phá
bản chất và các quy luật vận động của thế giới, ứng dụng vào quá trình xã hội để tạo ra
những sản phẩm vật chất, tinh thần thoải mãn nhu cầu của con người.
Chủ thể của hoạt động nghiên cứu là:
+ Các nhà khoa học có phẩm chất trí tuệ và năng lực hoạt động nhất định.
+ Những người xác định rõ mục đích nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu. Họ
hoạt động vì sự phát triển của giai cấp, dân tộc và nhân loại.
Mục đích của nghiên cứu khoa học là:
+ Tìm tòi, khám phá bản chất, các quy luật vận động của thế giới tự nhiên và xã hội,
nhằm ứng dụng chúng vào sản xuất hay tạo ra những giá trị tinh thần.
+ Thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người.
Sản phẩm của hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn:
+ Tri thức phản ánh bản chất, quy luật của quan hệ xã hội và các quá trình xã hội.
+ Những phương hướng, biện pháp và mô hình xã hội phục vụ trực tiếp cho hoạt động
tổ chức, quản lý xã hội theo định hướng xác định của mỗi quốc gia.
- 5 đặc điểm của nghiên cứu khoa học:
+ Tính mới và sự thừa kế:
Tính mới là biểu hiện quan trọng nhất, là thuộc tính số một của lao động khoa học.
Nghiên cứu khoa học luôn hướng tới những phát hiện mới hoặc sáng tạo những sự vật,
những giải pháp quản lý và công nghệ mới. Biểu hiện tính mới trong nghiên cứu khoa
học là sự không chấp nhận lặp lại về phương pháp, cách tiếp cận hay sản phẩm tạo ra.
Con người dù đã đạt được những thành tựu khoa học vĩ đại thì vẫn không ngừng tìm
kiếm và sáng tạo, liên tục chiếm lĩnh những đỉnh cao mới trong nhận thức và hiệu quả cải tạo thế giới.
Tính mới không mâu thuẫn mà bao hàm trong nó sự kế thừa những kết quả nghiên cứu
của các nhà khoa học đi trước. Thành quả nghiên cứu khoa học phụ thuộc vào thái độ của
nhà khoa học trước những giá trị khoa học mà nhân loại đã sáng tạo ra.
+ Tính khách quan, tin cậy, trung thực của thông tin:
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học là những tri thức thể hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau như bài báo khoa học, mẫu sản phẩm, mô hình sản xuất thí điểm... song đều đem
đến cho người tiếp nhận những tin tức, thông báo và hiểu biết mới. Sự gắn bó giữa thông
tin- tri thức, tri thức - thông tin ở hoạt động nghiên cứu khoa học làm nên đặc trưng của
hoạt động này. Thông tin là nguyên liệu của hoạt động nghiên cứu. Thông qua quá trình
xử lý thông tin của tư duy để hình thành tri thức mới. Khi đưa vào hệ thống lưu chuyển
xã hội, tri thức ấy lại đóng vai trò là thông tin trong một quá trình nghiên cứu tiếp theo.
Do vậy thông tin cũng là sản phẩm của nghiên cứu khoa học. Đặc thù này đòi hỏi thông
tin trong nghiên cứu khoa học phải đạt yêu cầu về sự khách quan, trung thực, đa chiều và
cập nhật. Đồng thời, quá trình nghiên cứu chỉ có chất lượng khi nhà khoa học có những
phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực tư duy lý luận khoa học.
+ Tính mạnh dạn, mạo hiểm:
Đặc trưng tính mới của hoạt động này đặt ra yêu cầu người nghiên cứu dám đảm nhận
việc những vấn đề nghiên cứu hết sức mới mẻ. Do vậy, dù cân nhắc đến tính hiệu quả, sự
thành công thì những người nghiên cứu phải luôn chấp nhận những rủi ro, khả năng thất
bại trong nghiên cứu. Thất bại trong nghiên cứu có thể do nhiều nguyên nhân với những
mức độ khác nhau. Chẳng hạn như thiếu thông tin và thông tin thiếu tin cậy là cơ sở cho
công trình nghiên cứu; năng lực thực hiện của nhà khoa học; mức độ đầy đủ và trình độ
kỹ thuật của phương tiện nghiên cứu; các tác nhân bất khả kháng trong quá trình nghiên
cứu... Ngay cả những công trình đã tạo ra sản phẩm thử nghiệm thành công vẫn chịu
những rủi ro khi áp dụng trong thực tiễn. Thất bại trong nghiên cứu cũng được xem là kết
quả có ý nghĩa. Sự thất bại ấy cần được tổng kết, lưu giữ như một tài liệu khoa học, trở
thành bài học kinh nghiệm quý giá cho đồng nghiệp đi sau, tránh lãng phí các nguồn lực nghiên cứu. + Tính phi kinh tế:
Mục đích của nghiên cứu khoa học là giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả chinh
phục tự nhiên và tổ chức quản lý, phát triển kinh tế xã hội. Song trong nghiên cứu khoa
học, lợi ích kinh tế trước mắt không được xem là mục đích trực tiếp, động lực duy nhất.
Tính phi kinh tế trong khoa học thể hiện:
+ Lao động nghiên cứu khoa học khó định mức một cách chính xác như trong lĩnh vực
sản xuất vật chất. Trong một số trường hợp, lao động khoa học không thể định mức.
++ Những thiết bị chuyên dụng cho nghiên cứu khoa học hầu như không thể khấu hao
bởi tần suất sử dụng không ổn định. Tốc độ hao mòn vô hình luôn vượt trước xa so với
hao mòn hữu hình. Chẳng hạn một thiết bị thí nghiệm có thể chưa hao mòn hữu hình thì
đã trở nên lỗi thời về kỹ thuật.
++ Hiệu qủa kinh tế của nghiên cứu khoa học hầu như không thể xác định. Ngay cả
những kết quả nghiên cứu về kỹ thuật có giá trị mua bán cao trên thị trường song vẫn có
thể không được áp dụng bởi lý do thuần túy xã hội.
Hơn nữa trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, hiệu quả kinh tế của công trình
nghiên cứu không thể xác định ngay và rõ ràng. Nhiều công trình nghiên cứu sau khi áp
dụng, có thể đem lại sự thay đổi to lớn cho xã hội, song điều đó chỉ có thể nhận thấy qua
thời gian dài hay khi xem xét một cách trừu tượng cả quá trình phát triển.
+ Tính cá nhân và vai trò của tập thể khoa học:
Hoạt động nghiên cứu khoa học là một dạng lao động xã hội. Vai trò của tập thể khoa học
được khẳng định. Song, trong nghiên cứu, những sáng tạo mới, những phát minh, sáng
chế luôn gắn với vai trò đột phá của cá nhân, của các nhà khoa học đầu đàn. Tính cá nhân
thể hiện trong tư duy và chủ kiến độc đáo của nhà nghiên cứu.
Uy tín của nhà khoa học được xem xét thông qua tập hợp các tiêu chí định tính và định
lượng thể hiện phẩm chất, năng lực, sức cống hiến của một nhà khoa học cho nhân loại.
Các tiêu chí đó bao gồm: Số lượng và chất lượng công trình nghiên cứu đã hoàn thành,
được công bố hay áp dụng; số lượng, chất lượng và trình độ học vấn các học viên do nhà khoa học đào tạo...
Trong hoạt động nghiên cứu, cá nhân không tách rời tập thể khoa học. Tập thể khoa học
là môi trường nâng đỡ cho sự ra đời ý tưởng mới của cá nhân, phản biện, hoàn thiện ý
tưởng ấy, tập trung trí tuệ thực hiện quá trình nghiên cứu. Không phải ngẫu nhiên trên thế
giới, hình thành trung tâm nghiên cứu lớn, từng bước chuyên môn hóa quá trình nghiên
cứu trở thành khuynh hướng cho sự phát triển khoa học.
- Chức năng của nghiên cứu khoa học: + Mô tả:
Nhận thức một sự vật hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ mô tả sự vật hiện tượng ấy.
Mô tả sự vật là trình bày bằng ngôn ngữ, hình ảnh về cấu trúc, trạng thái, sự vận động của
sự vật. Trong nghiên cứu khoa học, sự vật được mô tả một cách chân thực như sự tồn tại,
vận động vốn có của nó. Mô tả giúp con người nhận dạng, phân biệt sự vật hiện tượng ấy
với các sự vật hiện tượng khác thông qua những dấu hiệu của nói. Mô tả định lượng
nhằm chỉ rõ những đặc trưng về lượng của sự vật. Mô tả định tính cho phép nhận thức
đặc trưng về chất của sự vật ấy. + Giải thích:
Giải thích trong nghiên cứu khoa học là làm rõ căn nguyên dẫn đến sự hình thành, phát
triển và quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật hiện tượng. Trong nghiên cứu
khoa học, giải thích bao gồm làm rõ nguồn gốc, mối quan hệ, sự tương tác giữa các yếu
tố cầu thành sự vật và giữa sự vật hiện tượng ấy với sự vật hiện tượng khác. Mục đích
của giải thích là đưa ra thông tin về thuộc tính bản chất của sự vật nhằm nhận thức cả
những thuộc tính bên trong của sự vật. + Tiên đoán, dự báo:
Tiên đoán là nhìn trước quá trình hình thành, sự vận động và biến đổi của sự vật hiện
tượng trong tương lai. Tiên đoán được thực hiện trên cơ sở mô tả và giải thích. Với
phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu, con người có thể tiên đoán với độ chuẩn
xác cao về hiện tượng, quá trình diễn ra trong tự nhiên và xã hội. Những dự báo của khoa
học thiên văn, về những biến cố chính trị - xã hội hay các hiện tượng kinh tế... đã chứng
minh khả năng tiên đoán trong nghiên cứu khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học, mặc dù thừa nhận khá năng tiên đoán của con người về sự
vật, hiện tượng song chúng ta cần chấp nhận sự sai lệch nhất định trong chính khả năng ấy.
Sự sai lệch này có nhiều nguyên nhân: do nhận thức bạn đầu về sự vật chưa chuẩn xác,
môi trường vận động của sự vật biến động... phương pháp luận biện chứng duy vật không
cho phép người nghiên cứu tự thỏa mãn với những tiên đoán hoặc lạm dụng tiên đoán.
Mọi tiên đoán phải được kiểm chứng trong đời sống hiện thực. + Sáng tạo:
Sáng tạo là làm ra một sự vật mới chưa từng tồn tại. Sứ mệnh lớn lao của khoa học là
sáng tạo ra các giải pháp nhằm cải tạo thế giới. Giải pháp ấy có thể là những phương
pháp, phương tiện, cách thức tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của con người;
có thể là những giải pháp kỹ thuật trong sản xuất, nguyên lý công nghệ mới, vật liệu hay sản phẩm mới.
Câu 2: Vấn đề nghiên cứu và các phương pháp phát hiện vấn đề nghiên cứu: Vấn đề nghiên cứu:
Khái niệm: Vấn đề nghiên cứu là những mâu thuẫn nhà nghiên cứu phát hiện trong quá trình quan sát sự kiện.
Quá trình phát triển nhận thức khoa học của nhân loại thể hiện trong bước chuyển liên
tục: Từ đặt vấn đề nghiên cứu đến giải quyết chúng. Nhận thức và giải quyết những mâu
thuẫn tồn tại trong hiện thực là nhiệm vụ của công tác nghiên cứu.
Bản chất của vấn đề nghiên cứu là mâu thuẫn đang đặt ra yêu cầu nhận thức và giải
quyết. Mâu thuẫn được đề cập đến trong vấn đề nghiên cứu thuộc về khách thể, gắn với
khách thể, là cái vốn có của hiện thực khách quan. Song việc phát hiện ra mâu thuẫn lại
thuộc về cảm nhận chủ quan của nhà nghiên cứu. Mâu thuẫn trong lĩnh vực xã hội hết sức
phong phú, tồn tại muôn hình muôn vẻ, có thể được che phủ dưới nhiều hình thức khác
nhau. Bản thân những mâu thuẫn xã hội cũng thường xuyên vận động theo nhiều xu
hướng. Việc nhận diện mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu trong đời sống xã hội đòi hỏi nhà
nghiên cứu có cảm quan nhạy bén, tư duy khoa học và trách nhiệm xã hội.
Vấn đề nghiên cứu được phát hiện trong quá trình quan sát sự kiện. Người nghiên cứu có
thể thiết lập sự kiện để tiến hành quan sát bằng cách chọn những sự kiện vốn tồn tại trong
xã hội hoặc chủ động tạo ra sự kiện xã hội bằng con đường thực nghiệm.
Sự kiện là cơ sở tất yếu của khoa học. Song sự kiện biểu hiện ra bên ngoại là những quan
hệ mang tính ngẫu nhiên, hiện tượng. Đề nhận thức và giải quyết chúng cần sự tham gia
của tư duy lý luận khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học, quan sát có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Quan sát không chỉ
nhằm phát hiện vấn đề nghiên cứu mà còn giúp nhà khoa học xây dựng giả thuyết, kiểm
chứng giả thuyết trong quá trình triển khai hoạt động nghiên cứu sau này.
Câu hỏi nghiên cứu là hình thức ban đầu của vấn đề nghiên cứu. Câu hỏi nghiên cứu là
biểu hiện của mâu thuẫn giữa nhu cầu nhận thức của chủ thể với vốn tri thức đã có; giữa
mong muốn của nhà nghiên cứu với những gì đang diễn ra trong hiện thực. Câu hỏi
nghiên cứu biểu hiện nhu cầu nhận thức và cải tạo xã hội của bản thân nhà nghiên cứu,
mang tính chủ quan. Vấn đề nghiên cứu chỉ có ý nghĩa khi nó phản ánh nhu cầu của xã
hội, do thực tiễn đặt ra, mang tính khách quan.
Trong khoa học xã hội và nhân văn, vấn đề nghiên cứu biểu hiện là những mâu thuẫn về
nhận thức của giới khoa học trước các hiện tượng xã hội, về việc xác định phương hướng,
cách tổ chức quản lý xã hội so với yêu cầu phát triển của thực tiễn đặt ra. Việc nhận thức
và giải quyết vấn đề nghiên cứu có ý nghĩa thúc đẩy tích cực quá trình phát triển xã hội, con người.
5 phương pháp phát hiện vấn đề nghiên cứu:
- Phát hiện những " kẻ hở" trong các tài liệu khoa học:
Tài liệu khoa học là sản phẩm nghiên cứu của các nhà khoa học. Kết quả nghiên cứu là
những luận giải các vấn đề nghiên cứu cụ thể mà lý luận và thực tiễn đặt ra trong một
điều kiện lịch sử cụ thể. Song thực tiễn vận động và biến đổi không ngừng. Những kiến
giải đó trở nên không phù hợp hoàn toàn với hiện thực. Tri thức mà tài liệu khoa học ấy
chuyển tải không đáp ứng nhu cầu nhận thức và cải tạo thực tiễn. Khi những vấn đề của
thực tiễn không thể giải quyết được trong khuôn khổ các lý thuyết hiện có - vấn đề
nghiên cứu cần được xác định. Nghiên cứu tài liệu là phương thức phát hiện vấn đề nghiên cứu.
Hơn nữa, vấn đề nghiên cứu còn xuất hiện khi những nội dung chưa được nhận thức và
giải quyết trọn vẹn về mặt khoa học trong các tài liệu khoa học, khi các nhà nghiên cứu
tham gia phản biện các công trình khoa học của đồng nghiệp.
Tất nhiên, để có thể phát hiện vấn đề nghiên cứu trong quá trình nghiên cứu tài liệu đòi
hỏi nhà khoa học phải phát huy tính phân tích, phản biện của tư duy.
- Nhận dạng những bất đồng trong tranh luận khoa học:
Khi tham dự các cuộc tranh luận khoa học, trong hội nghị, hội thảo hay các buổi tọa đàm
khoa học, trước những ý kiến trái chiều cùng bàn về một vấn đề khoa học, người nghiên
cứu có thể nhận dạng vấn đề khoa học cần được giải quyết thấu đáo và sâu sắc hơn.
Tranh luận khoa học là điều kiện, môi trường tốt cho sự nhận diện vấn đề nghiên cứu và
hình thành ý tưởng nghiên cứu.
- Nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động thực tiễn:
Những khó khăn nảy sinh trong hoạt động sản xuất, tổ chức và quản lý xã hội không thể
sử dụng biện pháp thông thường, hay biện pháp thông thường không thể đưa lại kết quả
mong muốn. Thực tế ấy đã đặt ra yêu cầu phải thay đổi nhận thức và hành động. Những
vấn đề khao học được phát hiện từ nhu cầu đổi mới nộp dung, phương pháp làm việc
trong lĩnh vực công tác chuyên môn. Song để có thể phát hiện vấn đề nghiên cứu, nhà
khoa học cần có ý thức trách nhiệm cao, tích cực trong lao động, yêu nghề mới có thể
nhận diện những vấn đề khoa học đang tồn tại trong lĩnh vực hoạt động của mình.
- Sự phản ánh của quần chúng nhân dân:
Mục đích cao nhất của hoạt động nghiên cứu là hướng đến giải quyết các vấn đề thực tiễn
cuộc sống, tạo nên điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của con người và xã hội. Đối
tượng thụ hưởng những thành tựu ấy là quần chúng nhân dân. Những ý kiến đánh giá về
cái đã lạc hậu, sự chưa hợp lý, chưa toàn vẹn thậm chí là sự sai lầm... trong khi áp dụng
các thành tựu nghiên cứu trước đây luôn là gợi ý tốt nhất cho nhà khoa học về vấn đề nghiên cứu.
Đôi khi vấn đề nghiên cứu xuất hiện khi nhà nghiên cứu lắng nghe ý kiến phàn nàn của
quần chúng nhân dân về những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống mà họ không đủ am hiểu để lý giải chúng.
- Nghĩa ngược lại những quan niệm thông thường:
Tri thức được hình thành trong quá trình phản ánh thực tiễn. Tri thức có nhiều cấp độ,
trình độ và được xác định vị trí tương đối bền vững trong nhận thức của con người, trở
thành những quan niệm thông thường, phổ biến. Song bên cạnh sự thừa nhận những quan
niệm thông thường, nhà khoa học cần có thái độ hoài nghi khoa học, không tự bằng long
với những tri thức đã có, biết lật đi lật lại vấn đề, đặt ra hướng giải quyết khác biệt, đôi
khi là trái ngược với những kiến giải và phương pháp đã được thừa nhận rộng rãi. Khi ấy,
tình huống mâu thuẫn nảy sinh ấy sẽ là điểm khởi đầu cho một hướng nghiên cứu mới mẻ.
Vấn đề nghiên cứu thường tồn tại dưới dạng các câu hỏi nghiên cứu. Trong nghiên cứu
khoa học thường xuất hiện hai lớp vấn đề. Một là, vấn đề về bản thân sự vật và quy luật
vận động của nó. Hai là, vấn đề về phương pháp tác động vào sự vật hiện tượng. Giải
quyết vấn đề sẽ mở ra những khả năng mới cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
Câu 3: Phương pháp thẩm định vấn đề nghiên cứu, kết qủa thẩm định và phương
án xử lý kết quả thẩm định vấn đề nghiên cứu:
Thầm định vấn đề nghiên cứu là quá trình xem xét nhằm củng cố ý tưởng nghiên cứru,
loại bỏ hướng nghiên cứu không phù hợp để chuẩn bị xây dựng giả thuyết nghiên cứu.
Các phương pháp thẩm định vấn đề nghiên cửu:
- Thay đổi phương thức quan sát.
- Mở rộng phạm vi quan sát. - Thu thập tài liệu.
- Trao đổi với đồng nghiệp.
Sau khi tiến hành thẩm định vấn đề nghiên cứu, có 3 khả năng được ghi nhận:
- Một là, vấn đề nghiên cứu được khẳng định, ý tưởng nghiên cứu được củng cố.
- Hai là, vấn đề nghiên cứu có thể không tồn tại hoặc đã được giải quyết.
- Ba là, vấn đề nghiên cứu được xác định là "giả - vấn đề":
+ Vấn đề nghiên cứu tồn tại những nguyên nhân của nó nằm ngoài hướng tiếp cận ban
đầu. Xét về nguồn gốc, giả - vấn đề xuất hiện có thể do thế giới quan sai lầm hoặc vấn đề
nảy sinh từ tư duy tư biện, phiến diện của một số học giả. Trong một số trường hợp, giả -
vấn đề còn xuất hiện khi ý tưởng nghiên cứu xuất hiện quá sớm so với điều kiện cho phép
để giải quyết chúng. Chẳng hạn những tiên đoán về vấn đề nghiên cứu có thể xuất hiện
trong tương lai, xa vời so với thời điểm hiện thực đặt vấn đề.
Câu 4: Khái niệm giả thuyết nghiên cứu, các phương pháp suy luận cơ bản để hình
thành giả thuyết nghiên cứu:
1. Khái niệm giả thuyết nghiên cứu:
- Giả thuyết khoa học là một kết luận giả định về bản chất, biện pháp tác động đến một
hiện tượng hay một quá trình xã hội đã được đặt ra trong vấn đề nghiên cứu
- Tiêu chí để xem xét giả thuyết khoa học:
+ Một là, giả thuyết phải được xây dựng trên cơ sở quan sát.
+ Hai là, giả thuyết khoa học không được trái với lý thuyết đã được xác tính đúng đắn về mặt khoa học
+ Ba là, giả thuyết có thể kiểm chứng bằng lý thuyết hoặc thực nghiệm.
2. Các phương pháp suy luận cơ bản để hình thành giả thuyết nghiên cứu:
- Có ba hình thức suy luận để hình thành giả thuyết là: suy luận quy nạp, suy luận diễn dịch và loại suy - Suy luận quy nạp:
+ Là hình thức suy luận trong đó kết luận là tri thức chung được khái quát từ những tri thức ít chung hơn.
+ Phương pháp xem xét tất cả các lớp đối tượng nghiên cứu rồi rút ra kết luận về thuộc
tính, tính chất chung của chúng là quy nạp hoàn toàn.
+ Kết luận thu được bằng cách chỉ xét một số bộ phận của lớp đối tượng gọi là quy nạp không hoàn toàn. - Suy luận diễn dịch:
+ Khi có những khái quát về thuộc tính chung của một loại đối tượng người ta xây dựng
những kết luận (giả định) về các sự vật, hiện trợng mới trong cùng tập hợp
+ Diễn dịch trực tiếp là suy luận diễn dịch mà kết luận được rút ra từ một tiền đề. Có thể
thực hiện diễn dịch trực tiếp bằng phép chuyển hóa, phép đảo ngược hay phép đối lập vị từ.
Chẳng hạn, từ luận đề: chúng ta không thể nâng cao chất lượng giáo dục nếu không xây
dựng được đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn, có thể xây dựng giả thuyết:
++ Nếu không có đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn thì không thể nâng cao chất lượng giáo dục.
++ Muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì phải xây dựng đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn.
+ Nếu có đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn thì ( mới có thể) nâng cao chất lượng giáo dục.
+ Diễn dịch gián tiếp là suy luận diễn dịch mà kết luận được rút ra từ nhiều tiền đề. Trong
đó tam luận là trường hợp được sử dụng khá phô biến trong suy luận.
Chẳng hạn: Toàn cầu hóa là xu thế chung của sự phát triển, tác động một cách mạnh mẽ,
sâu rộng tới các lĩnh vực đời sống của mọi quốc gia trên thế giới. VN xây dựng và phát
triển kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa. (Do vậy) Việt Nam không thể tránh khỏi những
tác động của toàn cầu hóa. - Suy luận loại suy:
+ Loại suy là suy luận, mà nhờ nó từ sự giống (hoặc khác) nhau của các đối tượng ở một
số các đặc điểm suy ra sự giống (hoặc khác) nhau của chúng ở những đặc điểm khác. Sự
khác biệt chủ yếu của nó với diễn dịch và quy nạp là ở chỗ, tri thức kết luân có cùng cấp
độ với tri thức tiền đề.
+ Đồng thời suy luân tương tự cũng gắn liền với diễn dịch và quy nạp. Một mặt, nó dựa
trên những tri thức được khai thác bằng con đường diễn dịch và quy nạp. Mặt khác, nó
cung cấp cho chúng chất liệu để rút ra những kết luân mới.
Câu 5: Yêu cầu cơ bản của quá trình kiểm chứng giã thuyết nghiên cứu:
1. Khái niệm giả thuyết nghiên cứu:
- Giá thuyết khoa học là một kết luận giả định về bản chất, biện pháp tác động đến một
hiện tượng hay một quá trình xã hội đã được đặt ra trong vấn đề nghiên cứu
- Tiêu chí để xem xét giả thuyết khoa học:
+ Một là, giả thuyết phải được xây dựng trên cơ sở quan sát
+ Hai là, giả thuyết khoa học không được trái với lý thuyết đã được xác tính đúng đắn về mặt khoa học
+ Ba là, giả thuyết có thể kiểm chứng bằng lý thuyết hoặc thực nghiệm.
2. Yêu cầu cơ bản của quá trình kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu:
- Một giả thuyết đưa ra cần phải được kiểm chứng dựa trên những căn cứ khoa học. Kết
quả kiểm chứng là khẳng định hay phủ định giả thuyết. Quá trình này gồm 3 bộ phận hợp thành *Luận đề:
- Là những phán đoán do nhà nghiên cứu đưa ra và tính chân xác của nó cần được chứng minh hoặc bác bỏ.
- Yêu cầu luận đề phải được trình bày rõ ràng, xác định và đơn nghĩa * Luận cứ:
- Là những căn cứ, những bằng chứng được đưa ra để chứng minh hoặc bác bỏ luận đề.
Tính chân xác của luận cứ đã được công nhận và được sử dụng làm tiền đề để chứng
minh giả thuyết do nhà nghiên cứu đặt ra. Luận cứ có 2 loại:
+ Luận cứ lý thuyết: Là cơ sở lý thuyết khoa học, các luận điểm khoa học, các định luật,
định lý, quy luật mà tính đúng đắn của nó đã được các nhà khoa học xác nhận
+ Luận cứ thực tiễn: Là căn cứ thu được từ quan sát hoăc thực nghiệm khoa học, bao gồm số liệu, dữ kiện,...
- Yêu cầu luận cứ sử dụng để kiểm chứng giả thuyết phải chính xác, có liên hệ với luận
đề và đảm bảo đủ cơ sở để rút ra kết luận cho luận đề. -* Luận chứng:
- Là cách thức tổ chức, nối kết các luận cứ và liên hệ giữa các luận cứ và các luận đề
nhằm khẳng định hoặc phủ định luận đề ấy,
- Yêu cầu luận chứng bao gồm một chuỗi các phép suy luận khác nhau được liên kết lại
với nhau theo một trật tự xác định. Luận chứng phải thực hiện theo đúng các quy tắc suy luận.
Câu 6: Các phương pháp kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu:
1. Khái niệm giá thuyết nghiên cứu:
- Giả thuyết khoa học là một kết luận giả định về bản chất, biện pháp tác động đến một
hiện tượng hay một quá trình xã hội đã được đặt ra trong vấn đề nghiên cứu
- Tiêu chí để xem xét giả thuyết khoa học:
+ Một là, giả thuyết phải được xây dựng trên cơ sở quan sát
+ Hai là, giả thuyết khoa học không được trái với lý thuyết đã được xác tính đúng đắn về mặt khoa học
+ Ba là, giả thuyết có thể kiểm chứng bằng lý thuyết hoặc thực nghiệm.
2. Các phương pháp kiểm chứng giá thuyết:
a. Chứng minh giả thuyết:
Chứng minh là hình thức suy luận trong đó người nghiên cứu dựa vào những luận cứ đề
khẳng định tính chân xác của luận đề.
Chứng minh giả thuyết được thực hiện bằng hai cách: chứng minh trực tiếp và chứng minh gián tiếp.
Chứng minh trực tiếp là phép chứng minh dựa vào những luận cứ chân thực và bằng các
quy tắc quy luật để khẳng định tính chân xác của một giả thuyết.
Chứng minh gián tiếp là phép chứng minh trong đó tính chân xác của luận đề được khẳng
định khi nhà nghiên cứu đã chứng minh tính phi chân xác của phản luận đề. Nghĩa là từ
việc khẳng định phản luận đề là giả dối, nhà nghiên cứu rút ra luận đề là chân thực.
Chứng minh gián tiếp được chia thành hai loại: chứng mịnh phản chứng và chứng minh phân liệt.
Chứng minh phản chứng là phép chứng minh trong đó tính chân xác của giả thuyết được
chứng minh bằng tính phi chân xác của phản luận đề, tức là một giả thuyết đặt ngược lại
với giá thuyết ban đầu.
Chứng minh phân liệt là phép chứng minh gián tiếp dựa trên cơ sở loại bỏò một số luận
cứt này để khẳng định những luận cứ khác. Do vậy, chứng minh phân liệt còn được gọi là
chứng minh bằng phương pháp loại trừ. Phương pháp này rất có ý nghĩa và nhiều sức
thuyết phục trong khoa học xã hội. b. Bác bỏ giả thuyết:
Bác bỏ là một hình thức chứng minh nhằm chỉ rõ tính phi chân xác, sai lầm của một giả
thuyết. Bác bỏ giả thuyết được thực hiện khi phủ định cả ba hoặc một trong ba thành
phần cấu thành của quá trình kiểm chứng.
Một là, bác bỏ luận đề. Một luận đề ( tức một giả thuyết) bị bác bỏ khi người nghiên cứu
chứng minh được rằng luận đề không hội tụ đủ các điều kiện của một giả thuyết, không
thỏa mãn các tiêu chí của một giả thuyết.
Hai là, bác bỏ luận cứ. Nhà nghiên cứu chứng minh rằng luận cứ được sử dụng để chứng
minh luận đề là sai, thiếu luận cứ để rút ra kết luận.
Ba là, bác bỏ luận chứng, vạch rõ tính phi logic, sự vi phạm nguyên tắc trong chứng minh.
Câu 7: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học và các cấp độ phương pháp luận nghiên cứu khoa học: a. Khái niệm:
Thuật ngữ phương pháp luận bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với nghĩa là lý luận về phương
pháp. Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về phương pháp luận. Chẳng hạn:
- Phương pháp luận được hiểu như là cơ sở lý luận, cương lĩnh lý luận của hoạt động
nhận thức khoa học. Nó điều chinh hoạt động của con người đảm bảo cho tính có mục
đích của hoạt động đó và định hướng cho nó.
- Phương pháp luận là sự tổng hợp, là hệ thống, là "tổ hợp" các phương pháp nghiên cứu
đã được sử dụng trong bộ môn khoa học này hay bộ môn khoa học khác.
- Đồng nhất phương pháp luận với triết học, coi triết học là lý luận vạn năng về phương pháp.
- Trong nhiều công trình nghiên cứu, phương pháp luận lại được xem như cách tiếp nhận
nghiên cứu và xem nó là điểm tựa, cơ sở xuất phát cho sự nghiên cứu, xác định và lựa chọn hướng nghiên cứu.
Các ý kiến khác nhau về phương pháp luận không phủ nhận phương pháp luận là phạm
trù thuộc về nhận thức, tư duy, có ý nghĩa quan trọng trong mọi hoạt động của con người.
Phương pháp luận có quan hệ mật thiết với thế giới quan, với lý luận. Trong đó, phương
pháp luận và thế giới quan đều thể hiện những quan niệm, nguyên tắc chung cho hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người. Thế giới quan là quan niệm của con người về
thế giới. Trong đó, chỉ những quan niệm mang tính hệ chuẩn ( có tính nguyên tắc, có tính
dẫn đường, định hướng....) của thế giới quan mới trở thành nội dung của phương pháp luận.
Phương pháp luận và lý luận là hai phạm trù cùng trình độ, phản ánh bản chất, tính quy
luật của thế giới khách quan. Song không thể đồng nhất lý luận và phương pháp luận bởi
chỉ những nội dung lý luận mang tính chuẩn mực ( chung nhất, cơ bản nhất, có tính định
hướng,...) mới trở thành nội dung của phương pháp luận - cái chi phối hoạt động nhận
thức và thực tiễn của con người.
Từ những cách tiếp nhận khác nhau, có thể thấy phương pháp luận nghiên cứu khoa học
là lý luận về phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới. Phương pháp luận nghiên cứu là
hệ thống quan điểm có tính nguyên tắc mà nhà nghiên cứu coi là cơ sở, điểm xuất phát
cho việc lựa chọn, sử dụng các phương pháp nghiên cứu cũng như dự kiến phạm vi, mức
độ sử dụng phương pháp ấy để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
Bất kì một nghiên cứu nào cũng thực hiện trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu nhất định.
Phương pháp luận là kim chi nam hướng dẫn nhà nghiên cứu trên con đường tìm tỏi
nghiên cứu. Nắm vững phương pháp luận là điều kiện thiết yếu để thành công trong nghiên cứu khoa học.
b. Các cấp độ phương pháp luận nghiên cứu khoa học:
- Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận triết học - những quan điểm, nguyên
tắc chung nhất, xuất phát điểm cho việc lưa chọn và sử dụng các phương pháp bộ môn và
phương pháp luận chung, chi phối cả phương pháp nhận thức và phương pháp hoạt động thực tiễn.
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học lĩnh vực xã hội và nhân văn ở nước ta, phương
pháp luận chung nhất là phương pháp biện chứng mác-xít. Triết học Mác Lenin bao gồm
những quan điểm có tính nguyên tắc cà về thế giới quan và phương pháp luận cho hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người. Có thể kể đến những nguyên tắc căn bản như
nguyên tắc khách quan, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể...
+ Phương pháp luận chung là những quan điểm, nguyên tắc xác định các phương pháp
nhằm giải quyết các vấn đề của nhóm các ngành khoa học có những điểm chung nhất
định nào đó. Chẳng hạn, đối với việc nghiên cứu khoa học, nhóm ngành khoa học xã hội
và nhân văn thì quan điểm giai cấp, tiếp cận lợi ích,... là những nguyên tắc không thể xa rời.
- Phương pháp luận riêng hay phương pháp luận bộ môn là những luận điểm, lý thuyết cơ
bản và góc tiếp cận đặc thù của mỗi ngành khoa học, mỗi đề tài khoa học cụ thể. Chẳng
hạn, phương pháp luận sử học, phương pháp luận văn học... là phương pháp luận mà mỗi
đề tài cụ thể luôn có. Nó là những nguyên tắc tương ứng, phù hợp với đối tượng mà
người nghiên cứu xác định.
Các cấp độ phương pháp luận độc lập tương đối, hợp thành hệ thống khoa học về phương
pháp chỉ đạo việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp cụ thể sao cho khoa học, hiệu quả.
Phương pháp luận chung đóng vai trò là nguyên tắc, căn cứ để người nghiên cứu lựa chọn, sử
dụng các phương pháp nghiên cứu nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể của ngành khoa học đó.
Câu 8: Quy trình thực hiện và yêu cầu của phương pháp nghiên cứu tài liệu: a. Tài liệu khoa học:
- Tài liệu là vật thể cung cấp những chi dẫn thông tin. Tài liệu gồm hai đặc trưng cơ bản.
+ Đặc trưng về mặt vật chất thể hiện ở chất liệu và tín hiệu sử dụng.
+ Đặc trưng tri thức thể hiện ở nội dung của tài liệu, mức độ xử lý và phồ biến của tài liệu.
Tùy theo mức độ xử lý nội dung, người ta phân biệt các loại tài liệu như tài liệu sơ cấp, tài liệu thứ cấp,...
- Tài liệu khoa học là những văn bản hoặc vật thể chứa dựng những thông tin khoa học
giúp nhà nghiên cứu tìm hiểu một vấn đề khoa học nào đó. Tài liệu khoa học không chi là
phương tiện công bố kết quả nghiên cứu mà còn là cơ sở khẳng định quyền tác giả của nhà nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp thu thập thông tin khoa học trên cơ sở
nghiên cứu các tài liệu đã có, thông qua các thao tác tư duy để rút ra kết luận khoa học.
Mục đích của nghiên cứu tài liệu là nhằm nhận dạng sơ bộ quy luật chung của đối tượng
nghiên cứu. Những quy luật này đã được trình bày trong tài liệu của những nhà nghiên
cứu trước. Nhà nghiên cứu thu thập, tổng hợp chúng theo một trình tự logic nhất định để
làm tái hiện những quy luật đó.
- Bản chất của phương pháp nghiên cứu tài liệu là nghiên cứu các tài liệu đã tích lũy
trong quá khứ, đúc kết, tìm kiếm thông tin về quy luật diễn ra trong quá khứ có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu.
- Đối với đề tài nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, phương pháp nghiên cứu tài liệu
được sử dụng phổ biến và có vị trí vai trò quan trọng trong việc tạo dựng cơ sở lý luận
cho một đề tài nghiên cứu.
- Đặc trưng của nhóm phương pháp này là người nghiên cứu không có bất kỳ một sự
quan sát trực tiếp nào lên đối tượng nghiên cứu. Song phương pháp này lại đòi hỏi nhà
nghiên cứu phải có lý thuyết "nền" làm căn cứ xuất phát như thế giới quan, quan điểm,
lập trường tư tưởng để có thái độ tiếp nhận và cách thức xử lý thông tin phù hợp.
b. Các phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Nghiên cứu tài liệu bao gồm tập hợp các phương pháp: phân loại tài liệu, phân tích tài
liệu, đọc, ghi chép và tóm tắt tài liệu khoa học.
- Phương pháp thu thập và phân loại tài liệu:
+ Thu thập tài liệu là bước đầu tiên, cần thiết và quan trọng cho bất kỳ hoạt động nghiên
cứu khoa học nào. Việc thu thập tài liệu giúp nhà nghiên cứu tránh được sự trùng lặp với
các nghiên cứu đã hoàn thành; Người nghiên cứu có thêm kiến thức sâu, rộng về lĩnh vực
nghiên cứu đang theo đuổi, làm rõ hơn đề tài nghiên cứu đã lựa chọn.
Căn cứu vào vấn đề nghiên cứu và xuất phát từ giả thuyết khoa học, nhà nghiên cứu tiến
hành xác định nguồn tài liệu, tìm kiếm và lựa chọn những tài liệu cần thiết nhằm làm
sáng rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn để chứng minh cho giả thuyết khoa học của mình.
Về nguyên tắc, tất cả những tài liệu chứa đựng các thông tin liên quan đến nhiệm vụ
nghiên cứu của đề tài đều phải được thu thập. Song hiện nay, sự phát triển khoa học cùng
với cuộc cách mạng khoa học công nghệ, cách mạng thông tin diễn ra trên toàn cầu có tác
động mạnh mẽ tới quy luật tồn tại và phát triển tài liệu khoa học. Người ta dự đoán cứ
sau 10 năm số tài liệu khoa học lại tăng gấp đôi và tiếp tục gia tăng theo hàm số mũ.
Bên cạnh đó, quy luật về sự tập trung và tản mạnh thông tin cũng tác động đên sự tồn tại
của tài liệu khoa học. Quy luật này hình thành do quá trình phân lập và tích hợp khoa học.
Quá trình phân lập các khoa học dẫn đến việc hình thành các tài liệu chuyên môn hẹp.
Quá trình tích hợp khoa học lại dẫn đến việc hình thành các tài liệu khoa học liên ngành.
Tính hữu ích của một tài liệu khoa học được xác định bằng giá trị nội dung, tính thời sự
cũng như khả năng tương thích của nó đối với vấn đề nghiên cứu mà nhà khoa học quan tâm.
Đối với một vấn đề nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, tính hữu ích của thông tin
và giá trị của tài liệu trùng khớp khi nó tương đường với mục tiêu và nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể. Điều này phân biệt với việc xem xét giá trị và tính hữu ích của thông tin khoa
học công nghệ và kỹ thuật. Thông thường, tài liệu khoa học xã hội có tuổi thọ giá trị dài
hơn. Chẳng hạn, tài liệu có tuổi thọ hàng thế kỷ hoặc xa hơn như tài liệu lịch sử, tài liệu
triết học,... Thậm chí, giá trị của tài liệu đó còn được đo bằng tuổi thọ của nó. + Phân loại tài liệu:
Phân loại tài liệu được tiến hành sau khi thu thập tài liệu để chuẩn bị cho quá trình đọc, khai thác nội dung.
Phân loại tài liệu là phương pháp sắp xếp tài liệu khoa học thành hệ thống logic chặt chẽ
theo từng mặt, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề khoa học có cùng dấu hiệu theo mục
đích sử dụng của nhà nghiên cứu.
Các hình thức phân loại phổ biến hiện nay là phân loại theo tên tác giả, phân loại theo
thời gian công bố, hình thức công bố. Ngoài ra còn nhiều cách phân loại khác, tùy theo
mục đích nghiên cứu của đề tài mà nhà nghiên cứu phân loại cho phù hợp.
- Phân tích và tổng hợp tài liệu: + Phân tích tài liệu:
Phân tích tài liệu là phương pháp nghiên cứu tài liệu về một chủ đề bằng cách tách chúng
thành từng bộ phận, từng mặt, từng vấn đề để hiểu chúng một cách sâu sắc, tìm thông tin
phục vụ vấn đề nghiên cứu.
Phân tích tài liệu nhằm xác định độ tin cậy, tính khách quan, tính cập nhật của tài liệu,
giới hạn và phạm vi của vấn đề mà tài liệu đề cập đến. Mục đích của việc phân tích tài
liệu là thông qua phân tích hình thức và nội dung tài liệu, nhà nghiên cứu xác định tính
hữu ích của tài liệu và phạm vi có thể kế thừa nội dung tài liệu đó đối với đề tài họ triển
khai. Thông qua việc phân tích hình thức tài liệu, xác định nguồn tài liệu, tác giả, nơi
công bố, hình thức công bố tài liệu. Trên cơ sở phân tích tài liệu, nhà nghiên cứu xác định
mức độ phải xử lý tài liệu theo mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
Sau khi phân tích các dấu hiệu hình thức, người nghiên cứu tiến hành phân tích số tiêu
chí cơ bản về nội dung tài liệu. Theo cách này, người nghiên cứu lập một phiếu phân tích
tài liệu đối với mỗi tài liệu hay nhóm tài liệu cụ thể. Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ
nghiên cứu và khung lý thuyết của đề tài để thiết kế nội dung của mỗi phiếu phân tích tài
liệu. Phiếu phân tích tài liệu xây dựng theo các tiêu chí: Chú đề chính của tài liệu, nội
dung cơ bản, mục đích, phạm vi nghiên cứu cũng như mức độ sử dụng của thông tin trong tài liệu. + Tổng hợp tài liệu:
Tổng hợp tài liệu là phương pháp liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin từ tài liệu từ
các tài liệu thu thập được nhằm tạo ra một cách hiểu đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên cứu.
Tổng hợp tài liệu được thực hiện trên nhiều tài liệu phong phú về đối tượng. Tổng hợp tài
liệu được thực hiện trên cơ sở kết quả phân tích tài liệu, cho phép nhà nghiên cứu có
những thông tin toàn diện và khái quát về vấn đề nghiên cứu dựa trên những tài liệu đã có.
Tổng hợp tài liệu nhằm mục đích xác định tính tương thích của tài liệu so với mục tiêu
nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, lựa chọn tư liệu cần và đủ, sắp xếp chúng theo tiến trình thời
gian hay quan hệ nhân quả.
Phân tích và tổng hợp tài liệu là hai phương pháp có chiều hướng đối lập nhau song thống
nhất biện chứng và bổ trợ cho nhau, giúp nhà nghiên cứu nắm bắt được thông tin xung
quanh vấn đề nghiên cứu một cách sâu sắc và khái quát.
- Phương pháp đọc và ghi chép tài liệu:
Đọc và ghi chép tài liệu là một công đoạn trong phương pháp nghiên cứu tài liệu khoa
học. Cách thức đọc và ghi chép tài liệu nói lên nhà nghiên cứu sẽ sử dụng, tiếp thu, ghi
nhớ thông tin tài liệu đó như thế nào. + Đọc tài liệu:
Phương pháp đọc tài liệu gắn với hành vi tư duy. Yêu cầu đạt được khi đọc tài liệu là ghi
nhớ được tên tài liệu, nguồn, tác giả tài liệu, nội dung cơ bản, những dữ kiện được đề cập
đến trong tài liệu, khả năng sử dụng chúng trong giải quyết vấn đề khoa học của nhà nghiên cứu.
Đối với từng tài liệu, căn cứu vào mục tiêu nghiên cứu của từng đề tài cụ thể có thể có
nhiều cách đọc khác nhau.
Đọc thông thường đối với tài liệu không cần thiết phải quá ghi nhớ và chú ý nhiều.
Đọc nhanh: Đọc tài liệu phổ biến thông tin khoa học với tốc độ nhanh, đồng thời đặt ra
yêu cầu ghi nhớ những thông tin căn bản trong tài liệu.
Đọc trượt là kiểu đọc chọn lọc, khi đọc mắt lướt theo toàn bộ nội dung tài liệu nhưng chỉ
chú ý đến những đoạn cần thiết.
Đọc quét cũng là một kiểu đọc chọn lọc. Khi đọc mắt không lướt trên toàn bộ nội dung
tài liệu mà chỉ lướt theo những phần có thể có thông tin ẩn. Chẳng hạn khi nhà nghiên
cứu tìm những số liệu, dữ kiện cần thiết trong các sách tra cứu.
Đọc sâu đối với những tài liệu chuyên môn phức tạp, yêu cầu nhà nghiên cứu phải suy
nghĩ và phân tích ngay trong quá trình đọc. Để có thể thu được những thông tin hiệu quả,
nhà nghiên cứu còn cần biết điều chinh tốc đô đọc, phương pháp đọc một cách phù hợp.
Thông thường, trình tự đọc một tài liệu là: đọc tổng quát tài liệu nhằm xác định những
phần, những trang phải đọc kỹ; Đọc kỹ những phần đã đánh dấu và tiến hành ghi chép. + Ghi chép tài liệu:
Sau khi đọc lướt toàn bộ tài liệu, nhà khoa học tiến hành đọc kỹ và ghi chép những nội
dung tài liệu có ý nghĩa với nhà khoa học và liên quan đến vấn đề nghiên cứu của mình.
Đối với các tài liệu khoa học, có thể tiến hành ghi chép nội dung tài liệu theo những quy
tắc ghi nhớ. Những ghi chép ban đầu này chính là vật liệu thông tin đầu tiên làm tiền đề
cho các nhà khoa học tiến hành xử lý thông tin trong quá trình nghiên cứu tài liệu. Đó là
thực hiện tóm tắt tài liệu khoa học.
- Phương pháp thực hiện tóm tắt khoa học:
Tóm tắt khoa học thường được thực hiện sau khi nhà nghiên cứu tiến hành đọc và ghi
chép tài liệu. Bản tóm tắt thực hiện trên cơ sở các kết qầu thu được của việc đọc và ghi chép tài liệu.
Mục đích của việc thực hiện tóm tắt khoa học đối với tài liệu là nhằm loại bỏ những
thông tin không cần thiết trong những tài liệu đã thu thập được, cô đọng và làm bật lên
nội dung của tài liuệ mà thích ứng và cần thiết với vấn đề nghiên cứu. Đây cũng là công
việc xử lý thông tin cần thiết, tích lũy tri thức cho nhà nghiên cứu.
Tùy theo nội dung vấn đề nghiên cứu, tùy theo nội dung thông tin trong từng tài liệu khoa
học mà nhà nghiên cứu có thể tiến hành tóm tắt tài liệu theo từng mức độ khác nhau về
độ dài, mức độ chi tiết, có đánh giá, phê phán hay không, tóm tắt toàn bộ tài liệu hay từng phần tài liệu.
Tóm tắt lược thuật là văn bản do nhà nghiên cứu thực hiện nhằm ghi chép lại một cách cô
đọng, trung thực thông tin về kết quả nghiên cứu của một hay một nhóm tài liệu đã được
phân loại có liên quan trực tiếp đến mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu cần thực hiện của một đề tài khoa học.
Bản lược thuật là văn bản đúc kết một cách cô đọng nội dung của tài liệu. Trong đó phải
nêu bật được nội dung chủ đề của tài liệu, thời gian, bối cảnh, địa điểm của sự việc, sự
kiện, các phương pháp được tác giả tài liệu sử dụng, những kết luận và triển vọng của vấn
đề tác giả tài liệu nêu lên.
Bản lược thuật đạt trình đọ khách quan, khoa học, làm căn cứ tin cậy của đề tài khi được
thực hiện theo những tiêu chuẩn sau: vấn đề mà tài liệu nêu lên phải được lược thuật đầy
đủ theo trình tự thời gian, đảm bảo tính lịch sử, tính logic, tránh lược thuật các vấn đề
bằng cách tách rời, cô lập vấn đề đó khỏi bối cảnh tồn tại của nó. Bản lược thuật tài liệu
cần ngắn gọn, súc tích về nội dung, đâm bảo tính chính xác của các thuật ngữ mà tài liệu trình bày.
Tóm tắt tổng thuật là bản trình bày tổng hợp về một hay một số vấn đề luên quan đến
mục tiêu, nhiệm vụ của một đề tài nghiên cứu dựa trên nhiều tài liệu cùng đề cập đến các vấn đề đó.
Bản tóm tắt tổng thuật cũng cần đạt được những yêu cầu của bản tóm tắt lược thuật.
Đồng thời có sự liên hệ, so sánh, bình luận, phê phán một cách sơ bộ các thông tin đó.
Nhà nghiên cứu có thể đưa ra dự kiến về mục đích, mức độ và phạm vi tham khảo. Bản
tổng thuật tài liệu cần đảm bảo tính khách quan khoa học của các tài liệu khảo cứu.
Bản tóm tắt lược thuật và tổng thuật tài liệu là căn cứu, dữ liệu khoa học quan trọng để
nhà nghiên cứu thông qua hoạt động tư duy sáng tạo của mình hình thành các ý tưởng
nghiên cứu, tìm kiếm luận cứ chứng minh giả thuyết. Bản tóm tắt lược thuật hay tổng
luận tài liệu do người nghiên cứu thực hiện khác với bản tổng thuật tài liệu do các cơ bản
thông tin thực hiện nhằm mục đích phổ biến thông tin.
Bản tổng thuật tài liệu này cũng khác với tổng luận kết quả nghiên cứu thực hiện sau khi
hoàn thành đề tài, là sản phẩm chính của một đề tài. Bản tổng hợp vấn đề nghiên cứu đề
cập đến trong phần này chỉ dừng ở các sản phẩm trung gian trong nghiên cứu một đề tài.
Câu 9: Trình bày các phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu khoa học và nêu ví dụ minh họa:
1. Khái niệm và đặc điểm của phương pháp nghiên cứu thực nghiệm: a. Khái niệm:
Thực nghiệm là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng được thực hiện bởi những
quan sát trực tiếp trong điều kiện gây biến đổi cho đối tượng khảo sát một cách có kiểm soát và chủ đích.
Thực chất của phương pháp thực nghiệm là nghiên cứu dựa trên sự mô phỏng các quá
trình hiện thực. Thực nghiệm giúp nhà khoa học chủ động tạo ra các hoạt động, các biến
chuyển giúp nhà nghiên cứu quan sát mô hình hay môi trường giả định thông qua sự mô
phỏng các quá trình diễn ra trong thực tế.
Mục đích của thực nghiệm xã hội là quá trình tạo lập, thiết kế mô hình, thế chế xã hội và
cách thức tác động có tính quy chuẩn, mẫu mực để nghiên cứu, thử nghiệm, điều chỉnh và
nhân rộng, đưa vào đời sống xã hội hiện thực. Với ý nghĩa đó, thực nghiệm xã hội là
phương pháp được lựa chọn trong nhiều nghiên cứu về tổ chức, quản lý xã hội.
Về bản chất, phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu khoa học xã hội cũng tương tự
như trong nghiên cứu khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Song, xuất phát từ tính đặc thù trong
nghiên cứu xã hội, thực hiện phương pháp thực nghiệm là không đơn giản.
Nghiên cứu thực nghiệm được thực hiện chủ yếu dựa vào nguyên tắc xem xét mối quan
hệ nhân quả. Yêu cầu chủ yếu của phương pháp này là nhà nghiên cứu cần nắm chắc và
thao túng được nguyên nhân trong một môi trường có sự kiểm soát.
b. Các điều kiện để sử dụng phương pháp thực nghiệm:
Một là, nhà nghiên cứu nhận thức được những yêu tố gây ảnh hưởng đến sự nảy sinh và
diễn biến của đối tượng nghiên cứu.
Hai là, người nghiên cứu xác định được những nguyên nhân của các hiện tượng do vạch
ra được các điều kiện ảnh hưởng.
Ba là, người nghiên cứu cần và có thể lặp lại nhiều lần thực nghiệm,
c. Các bước tiến hành thực nghiệm:
Nhà nghiên cứu cần nắm được tiến trình triển khai phương pháp thực nghiệm gồm ba giai đoạn cơ bản:
Một là, chuẩn bị thực nghiệm, người nghiên cứu cần xác định mục đích thực nghiệm, đối
tượng thực nghiệm, thời gian, địa điểm thực nghiệm. Đồng thời, nhà nghiên cứu cần
chuẩn bị các tiêu chí đo đạc kết quả thực nghiệm.
Hai là, tiến hành thực nghiệm. Nhà nghiên cứu phân công cộng tác viên giám sát và thu
nhận các thông tin trong quá trình thực nghiệm; kịp thời kiểm soát và điều chỉnh các tác
động trong quá trình thực nghiệm.
Ba là, xử lý kết quả thực nghiệm. Nhà nghiên cứu kiểm tra lại các thông số, so sánh, đối
chiếu, đo lường kết quả thực nghiệm trên cơ sở tiêu chí thực nghiệm đã xác định; viết báo
cáo và có thể công bố kết quả thực nghiệm.
2. Phân loại thực nghiệm:
a. Phân loại theo tiến trình thời gian tiến hành thực nghiệm:
Theo quá trình tiến hành thực nghiệm có thực nghiệm cấp diễn, thực nghiệm bán cấp diễn
và thực nghiệm trường diễn.
- Thực nghiệm cấp diễn là thực nghiệm để xác định sự tác động của các giải pháp tác
động hoặc ảnh hưởng của các tác nhân lên đối tượng nghiên cứu trong một thời gian ngắn.
- Thực nghiệm trường diễn là thực nghiệm nhằm xác định sự tác động của các giải pháp
hoặc ảnh hưởng của các tác nhân lên đối tượng nghiên cứu lâu dài, liên tục.
- Thực nghiệm bán cấp diễn diễn ra ở mức độ trung gian giữa hai quá trình thực nghiệm nêu trên.
b. Phân loại theo nơi tiến hành thực nghiệm:
Quá trình thực nghiệm có thể được tiến hành ở nhiều môi trường khác nhau tùy theo yêu cầu của nghiên cứu.
- Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm:
Trong phòng thí nghiệm, người nghiên cứu hoàn toàn chủ động tạo dựng mô hình nghiên
cứu và khống chế các thông số. Người nghiên cứu có thể kiểm soát toàn bộ điều kiện
thực nghiệm, tạo ra tình huống như mong muốn, chủ động kiểm soát hay vận dụng các
biến số. Nhà nghiên cứu có thể quan sát và đánh giá được kết quả của việc vận dụng các
biến số ấy. Chính vì vậy, thực nghiệm trong phòng có thể trở thành một phương thức
nghiên cứu mang tính kỹ thuật. Phương pháp này cho phép nhà nghiên cứu tạo ra được
những tình huống cần thiết, quan sát chính xác các diễn biến của đối tượng trong quá
trình thực nghiệm. Đồng thời, nhà nghiên cứu có thể dự kiến và đo lường kết quả chính
xác hơn. Do vậy, thực nghiệm trong phòng đặc biệt phù hợp với các ngành khoa học tự nhiên và kỹ thuật.
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm có những giới hạn nhất định khi đơn giản hóa các
quá trình hiện thực, nhất là các quá trình xã hội. Điều kiện thực nghiệm trong phòng luôn
có khoảng cách khá xa đối tượng thực.
- Thực nghiệm tại hiện trường:
Nếu thực nghiệm trong phòng là sự mô phỏng hiện thực thì thực nghiệm tại hiện trường
được tiến hành trong môi trường hiện thực. Tại đây, người nghiên cứu được tiếp cận mọi
tham số và những điều kiện hoàn toàn thực nhưng lại bị hạn chế về khả năng khống chế
các tham số và các điều kiện tham dự vào quá trình nghiên cứu.
- Thực nghiệm trong quần thể xã hội:
Đây là dạng thực nghiệm được tiến hành trên một cộng đồng người trong những điều
kiện sống của họ. Trong thực nghiệm này, người nghiên cứu thay đổi các điều kiện sinh
hoạt, cách thức tổ chức quản lý... của đối tượng. Trong các nghiên cứu khoa học xã hội,
trong y học... thực nghiệm trong quần thể xã hội ngày càng có vị trí quan trọng trong xây
dựng và kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu.
c. Phân loại theo mục đích thực nghiệm:
- Thực nghiệm thăm đò được tiến hành để phát hiện bản chất của đối tượng nghiên cứu.
Đây là phương pháp được sử dụng trong xây dựng giá thuyết khoa học.
- Thực nghiệm kiểm chứng là những thực nghiệm nhằm tìm kiếm các luận cứ để chứng
minh cho các giải thuyết nghiên cứu.
- Thực nghiệm song hành là những thực nghiệm được tiến hành đối với hai hay nhiều đối
tượng khác nhau trong những điều kiện thực nghiệm như nhau nhằm xác định mức độ
ảnh hưởng của cùng một điều kiện thực nghiệm lên những đối tượng khác nhau.
- Thực nghiệm đối nghịch là những thực nghiệm được tiến hành trên hai hay nhiều đối
tượng như nhau trong các điều kiện thực nghiệm ngược chiều nhau nhằm xác định mức
độ ảnh hưởng của cùng một loại đối tượng dưới tác động của những điều kiện thực
nghiệm khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau.
- Thực nghiệm đối chứng là những thực nghiệm được tiến hành đối với một trong hai
(hay trong nhóm) đối tượng như nhau. Trong trường hợp này, người nghiên cứu muốn
xác định mức độ tác động của các điều kiện thực nghiệm so với các đối tượng không chịu
các tác động đó. Các đối tượng còn lại được coi là đối chứng của đối tượng thực nghiệm.
Trong quá trình nghiên cứu, nhà khoa học có thể thay đổi vị trí của hai nhóm này để thực hiện phương pháp.
Ví dụ: Nghiên cứu về chuyển động rơi tự do của vật bằng cách thực hiện các thí nghiệm
thả rơi vật ở các độ cao khác nhau, các vật khác nhau (khối lượng, hình dạng, kích thước).
Câu 10: Trình bày các phương pháp nghiên cứu được phân loại theo logic biện chứng:
Dựa trên cơ sở có tính nguyên tắc của nhận thức luận mác xít và logic biện chứng, người
ta chia thành các phương pháp nhận thức khoa học thành: phương pháp phân tích - tổng
hợp; phương pháp lịch sử - logic; phương pháp loại trừ nhau mà có quan hệ biện chứng
với nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình nhận thức chân lý. Mỗi phương pháp nhận
thức có vị trí, vai trò nhất định trong tính lịch sử - cụ thể của đối tượng; Thành công trong
nghiên cứu chi có thể đạt được khi chủ thể sử dụng hợp lý, tổng hợp các phương pháp.
Việc cào bằng trong đánh giá vị trí vai trò của mỗi phương pháp nhận thức hay cường
điệu phương pháp này, hạ thấp phương pháp kia chắc chắn dẫn đến những sai lầm trong nhận thức khoa học.
1. Phương pháp phân tích và tổng hợp:
- Phân tích là phương pháp phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận để đi sâu nhận
thức các bộ phận đó. Còn tổng hợp là phương pháp thống nhất các bộ phận đã được phân
tích nhằm nhận thức cái toàn bộ.
- Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức đối lập nhưng thống nhất với nhau
giúp tìm hiểu đối tượng như một chỉnh thể toàn vẹn. Không có phân tích thì không hiểu
được những cái bộ phận cấu thành cái toàn bộ và ngược lại, không có tổng hợp thì không
hiểu cái toàn bộ như một chỉnh thể được tạo thành như thế nào từ những cái bộ phận nào.
Vì vậy, muốn hiểu thực chất của đối tượng mà chỉ có phân tích hoặc chỉ có tổng hợp
không thôi thì chưa đủ mà kết hợp chúng với nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
nghiên cứu nhất định, bản thân mỗi phương pháp vẫn có ưu thế riêng của mình.
2. Phương pháp quy nạp và diễn dịch:
- Quy nạp là phương pháp suy luận đi từ tiền đề chứa dựng trí thức riêng đến kết luận
chứa đựng tri thức chung. Còn diễn dịch là phương pháp suy luận đi từ tiền đề chứa đựng
tri thức chung đến kết luận chứa đựng tri thức riêng.
- Quy nạp và diễn dịch là hai phương pháp nhận thức đối lập nhưng thống nhất với nhua
giúp phát hiện ra những tri thức mới về đối tượng.
- Sự đối lập của quy nạp và diễn dịch thể hiện ở chỗ: Quy nạp được dùng để khái quát các
tài liệu quan sát, thí nghiệm nhằm xây dựng các giả thuyết nguyên lý, định luật tổng quát
của khoa học, vì vậy quy nạp, đặc biệt là quy nạp khoa học, có giá trị lớn trong khoa học
thực nghiệm. Diễn dịch được dùng để cụ thể hóa các giả thuyết, nguyên lý, định luận
tổng quát của khoa học trong các điều kiện tình hình cụ thể, vì vậy diễn dịch, đặc biệt là
phương pháp giả thuyết - diễn dịch, phương pháp tiên đề, có giá trị lớn trong khoa học lý thuyết.
- Sự thống nhất của quy nạp và diễn dịch thể hiện ở chỗ: Quy nạp xây dựng tiền đề cho
diễn dịch, còn diễn dịch bổ sung thêm tiền đề cho quy nạp thêm chắc chắn. Không có quy
nạp thì không hiểu được cái chung tồn tại trong cái riêng như thế nào, ngược lại không có
diễn dịch thì không hiểu cái riêng có liên hệ với cái chung ra sao. Vì vậy, muốn hiểu thực
chất của đối tượng mà chỉ có quy nạp hoặc chỉ có diễn dịch không thôi thì chưa đủ mà
phải kết hợp chúng với nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nghiên cứu nhất định,
bản thân mỗi phương pháp vẫn có ưu thế riêng của mình
3. Phương pháp lịch sử - logic:
- Lịch sử là phạm trù dùng để chỉ quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong của sự vật
trong tính đa dạng, sinh động của nó. Còn logic là phạm trù dùng để chỉ tính tất yếu - quy
luật của sự vật (logic khách quan) hay mối liên hệ tất yếu giữa các tư tưởng (logic chủ
quan). Phương pháp lịch sử là phương pháp đòi hỏi phải tái hiện lại trong tư duy quá