PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Họ và tên: Lê Thị Cẩm Vân
Mã sinh viên: 2355270052
BÀI 1: CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM Ở MỸ
Dân Mỹ tiêu thụ rất nhiều đồ ăn, thức uống đã chế biến, đóng hộp hoặc ướp
sẵn để dùng không cần nấu nướng hoặc chỉ chần trong giây lát, đó yêu cầu thực
tế của lối sống vội vàng, bận rộn trong một xã hội công nghiệp, lâu ngày trở thành
thói quen.
Đa phần dân Mỹ sống làm việc các khu vực thành thị. Nhà thường xa
nơi làm việc hàng mấy chục kilômét, di chuyển mất nhiều thì giờ. Nhiều hộ (nếu
họ có đủ cả vợ và chồng) cùng đi làm. Do đó, người dân ít có thì giờ để lo việc nội
trợ, bếp núc. Lại nữa, nhà cửa những khu công nghiệp thành thị thường chật
hẹp, khép kín không thuận lợi cho việc nấu nướng nhiều, cho nên dần người ta
mất đi thói quen dùng những đồ ăn tươi…Vừa nhìn qua một vòng các gian hàng
bán đồ ăn trong siêu thị, ta cũng có thể thấy 90% các loại đồ ăn uống từ thịt cá đến
rau cỏ và trái cây đều là thực phẩm chế biến.
Đáp ứng nhu cầu ăn uống của một thị trường hơn 260 triệu dân, công nghiệp
chế biến thực phẩm Mỹ có tầm vóc lớn trong nền kinh tế Mỹ.
Doanh thu năm 1994 của 10 công ty hàng đầu trong công nghiệp chế biến
thực phẩm Mỹ (chưa kể ngành sản xuất đồ uống) gần 150 tỷ USD, trong khi
doanh thu cùng năm của 10 công ty chế tạo sản xuất máy bay lớn nhất 93 t
USD.
Công nghiệp chế biến thực phẩm của Mỹ từ khâu nông nghiệp qua các nhà
máy chế biến cho đến thị trường đã một thời đứng hàng đầu thế giới. Năng suất
cao của công nghiệp chế biến thực phẩm làm giảm giá thành cho tiền chi tiêu vào
thực phẩm chỉ chiếm khoảng hơn 10 % thu nhập cảu người dân Mỹ.
Đó một chỉ số thấp nhất trên thế giới. những nước kinh tế chưa phát
triển, chi tiêu của một hộ vào thực phẩm ít nhất cũng trên 50% thu nhập.
Công nghiệp chế biến thực phẩm Mỹ có những ngành cơ bản sau đây:
1. Sản phẩm thịt gà, , lợn và cá đóng hộp hoc chế biến thành các dạng sẵnng
đăn.
2. Sữa và sản phẩm của sữa như bơ, phomát, sữa đặc, sữa bột, sữa tươi, kem.
3. Trái cây, rau đóng hộp hoặc đông lạnh
4. Ngũ cốc chế biến, như các loại cốm khô dùng để ăn sáng.
5. Các loại bánh mỳ, bánh ngọt bánh bích quy mặn, bánh bích quy ngọt.
6. Đường và các loại kẹo.
Đồ uống gồm các loại chế biến từ lúa mạch, các thứ rượu chế biến từ quả
nho hay các loại ngũ cốc, rượu mạnh, nước ngọt hay nước có chứa khí cácbonnát.
Trên thị trường quốc tế 10 năm qua, công nghiệp thực phẩm Mỹ gặp sức
cạnh tranh mạnh của các công ty thực phẩm nước ngoài. Các công ty nước ngoài
đã bỏ ra hơn 20 tỷ USD để mua các công ty thực phẩm của Mỹ hoặc đầu trực
tiếp tại Mỹ. Ngược lại, các công ty chế biến thực phẩm ở nước ngoài từ 9.6 tỷ năm
1984 lên 15.5 tỷ USD trong năm 1994.
thể nói dân Mỹ không biết uống nước trắng, từ trẻ sinh cho đến ông
già cả hễ khát phải uống những thứ nước ngọt chế biến pha phách cách này
hay cách khác và đựng trong chai, trong hộp, thậm chí cả nước “chè xanh” pha sẵn
đóng hộp.
Đơn giản cho trẻ nhỏ thì nước cam, nước táo, người lớn thì có hàng chục thứ
nước mang nhãn hiệu khác nhau, chưa kể bia và các thứ rượu. Bình quân mỗi năm
một người dân Mỹ uống 100 lít bia, 9 lít rượu vang, 180 lít nước ngọt các loại, 100
lít sữa, 20 t trái cây 20 lít nước suối đóng chai, không thấy nói đến nước
trắng.
Một năm dân Mỹ tiêu thụ chừng 65.5 Tỷ USD tiền rượu, 15.5 tỷ tiền bia, 28
tỷ tiền nước ngọt. Gần đây, mỗi năm Mỹ nhập khẩu các loại rượu và bia trị giá từ 3
đến 5 tỷ USD. Chỉ một số ít các công ty lớn chiếm lĩnh gần hết thị trường đồ
uống. Năm công ty sản xuất bia chiếm 90 % thị trường. Trong số này lớn nhất
Coca cola Pepsi Cola chiếm 72 % thị trường. Khoảng 15 vạn công nhân viên
làm việc trong công nghiệp sản xuất rượu và các đồ uống đóng chai, đóng hộp.
1.Trình bày luận đề được tác giả trình bày trong bài báo:
Tác giả trình bày rằng : Công nghiệp thực phẩm ở Mỹ phát triển mạnh mẽ do lối
sống bận rộn và nhu cầu tiêu thụ thực phẩm chế biến sẵn của người dân. Sự phát
triển này không chỉ phản ánh thói quen tiêu dùng mà còn có tác động lớn đến nền
kinh tế Mỹ, với doanh thu từ ngành chế biến thực phẩm chiếm tỷ lệ cao trong tổng
thu nhập của người dân.
2.Chỉ ra một vài luận cứ được sử dụng để chứng minh luận đề:
Luận cứ 1:
Người dân Mỹ tiêu thụ chủ yếu các loại thực phẩm chế biến sẵn, điều này thể hiện
rõ qua thói quen ăn uống hàng ngày của họ. Tác giả nêu rõ răng khoảng 90% thực
phẩm trong siêu thị là các sản phẩm đã qua chế biến, từ thịt, cá, đến rau củ và trái
cây đóng hôp. Sự phổ biến của thực phẩm tiện lợi này không chỉ phản ánh nhu cầu
của người tiêu dùng mà còn cho thấy sự thay đổi trong lối sông hiện đại, khi mà
thời gian dành cho việc nấu nướng ngày càng giảm sút do áp lực công việc và cuộc
sống bận rộn.
Luận cứ 2:
Doanh thu của 10 công ty hàng đầu trong ngành chế biến thực phẩm Mỹ vào năm
1994 đạt gần 150 tỷ USD, vượt xa doanh thu của 10 công ty sản xuát máy bay lớn
nhất chỉ khoảng 93 tỷ USD. Điều này cho thấy tầm quan trọng và quy mô lớn của
ngành chế biến thực phẩm trong nền kinh tế Mỹ. Ngành này không chỉ đóng góp
vào GDP mà còn tạo ra hàng triệu việc làm, từ sản xuất đến phân phối, góp phần
vào sự phát triển kinh tế toàn diện.
Luận cứ 3:
Tỷ lệ chi tiêu cho thực phẩm của người dân Mỹ chỉ chiếm khoảng 10% thu nhập,
mức thấp nhất trên thế giới. Trong khi đó, ở các nước đang phát triển, con số này
thường trên 50%. Điều này chỉ ra rằng công nghiệp chế biến thực phẩm ở Mỹ rất
hiệu quả, với năng suất cao và giá thành thấp. Nhờ vậy, người dân có thể tiết kiệm
chi phí cho thực phẩm và có thể dành nhiều tiền hơn cho các nhu cầu khác, như
giáo dục, giải trí và tiết kiệm
3. Nhận dạng các phương pháp thu thập và xử lý thông tin được tác giả sử
dụng trong quá trình đưa các luận cứ để chứng minh luận đề. Trả lời câu hỏi
này bằng cách đánh dấu vào câu trả lời mà anh (chị) đồng tình:
☑ Nghiên c u tài li u
Quan sát khách quan
Thực nghiệm
Phương pháp trắc nghiệm
Phỏng vấn
Nếu anh (chị) thấy tác giả đã sử dụng một phương pháp nào khác, xin nêu rõ
phương pháp của tác giả:
Phân tích số liệu thống kê và báo cáo tài chính từ các công ty lớn trong ngành
chế biến thực phẩm.
Tác giả đã vận dụng phương pháp để thu nhập các thông tin nghiên cứu tài liệu
cần thiết, chẳng hạn như dữ liệu doanh thu của các công ty hàng đầu trong ngành
chế biến thực phẩm và các chỉ số chi tiêu của người dân Mỹ cho thực phẩm. Việc
này cho phép tác giả xây dựng một bức tranh rõ nét về quy mô và tầm ảnh hưởng
của ngành công nghiệp trong nền kinh tế Mỹ. Tác giả đã sử dụng các báo cáo tài
chính và thống kê để xác định doanh thu, từ đó minh chứng cho sự phát triển mạnh
mẽ của ngành chế biến thực phẩm.
Bến cạnh đó, tác giả cũng đã thực hiện quan sát khách quan khi đề cập đến thói
quen tiêu dùng của người dân Mỹ. Thông qua việc quan sát các gian hàng trong
siêu thị và sự phổ biến của thực phaamt của người tiêu dùng. Điều này không chỉ
củng cố luận điểm về nhu cầu thực phẩm chế biến mà còn chỉ rả cách thức mà thị
trường đã đáp ứng nhu cầu này.
Ngoài ra ,tác giả có thể áp dụng để so sánh tỷ lệ chi phân tích dữ liệu thống kê
tiêu cho thực phẩm Mỹ và các nước đang phát triển. Sự so sánh này không chỉ giúp
làm nổi bật tính hiệu quả của ngành công nghiệp thực phẩm Mỹ mà còn cho thấy
sựu khác biệt trong cách tiêu dùng và chi tiêu giữa các quốc gia. Tác giả đã thành
công trong đã thành công trong việc sử dụng những con số cụ thể để chứng minh
người dân Mỹ có khả năng chi tiêu ít hơn cho thực phẩm so với người dân ở các
nước khác, nhờ vào năng suất và hiệu quả cao của ngành chế biên thực phẩm.
Tóm lại, các phương pháp thu thập và xử lý thông tin mà tác giả sử dụng không chỉ
có tính thuyết phục cao mà còn tạo ra một nền tảng vững chắc để minh chứng cho
luận đề. Bằng cách kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, tác giả đã xây dựng một
luận một luận cứ chặt chẽ, dễ hiểu, và có tính thuyết phục cao, giúp người đọc nắm
bắt được sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiepj thực phẩm ở Mỹ trong bối
cảnh xã hội hiện đại.

Preview text:

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Họ và tên: Lê Thị Cẩm Vân
Mã sinh viên: 2355270052
BÀI 1: CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM Ở MỸ
Dân Mỹ tiêu thụ rất nhiều đồ ăn, thức uống đã chế biến, đóng hộp hoặc ướp
sẵn để dùng không cần nấu nướng hoặc chỉ chần trong giây lát, đó là yêu cầu thực
tế của lối sống vội vàng, bận rộn trong một xã hội công nghiệp, lâu ngày trở thành thói quen.
Đa phần dân Mỹ sống và làm việc ở các khu vực thành thị. Nhà thường xa
nơi làm việc hàng mấy chục kilômét, di chuyển mất nhiều thì giờ. Nhiều hộ (nếu
họ có đủ cả vợ và chồng) cùng đi làm. Do đó, người dân ít có thì giờ để lo việc nội
trợ, bếp núc. Lại nữa, nhà cửa ở những khu công nghiệp và thành thị thường chật
hẹp, khép kín không thuận lợi cho việc nấu nướng nhiều, cho nên dần dà người ta
mất đi thói quen dùng những đồ ăn tươi…Vừa nhìn qua một vòng các gian hàng
bán đồ ăn trong siêu thị, ta cũng có thể thấy 90% các loại đồ ăn uống từ thịt cá đến
rau cỏ và trái cây đều là thực phẩm chế biến.
Đáp ứng nhu cầu ăn uống của một thị trường hơn 260 triệu dân, công nghiệp
chế biến thực phẩm Mỹ có tầm vóc lớn trong nền kinh tế Mỹ.
Doanh thu năm 1994 của 10 công ty hàng đầu trong công nghiệp chế biến
thực phẩm Mỹ (chưa kể ngành sản xuất đồ uống) là gần 150 tỷ USD, trong khi
doanh thu cùng năm của 10 công ty chế tạo và sản xuất máy bay lớn nhất là 93 tỷ USD.
Công nghiệp chế biến thực phẩm của Mỹ từ khâu nông nghiệp qua các nhà
máy chế biến cho đến thị trường đã một thời đứng hàng đầu thế giới. Năng suất
cao của công nghiệp chế biến thực phẩm làm giảm giá thành cho tiền chi tiêu vào
thực phẩm chỉ chiếm khoảng hơn 10 % thu nhập cảu người dân Mỹ.
Đó là một chỉ số thấp nhất trên thế giới. ở những nước kinh tế chưa phát
triển, chi tiêu của một hộ vào thực phẩm ít nhất cũng trên 50% thu nhập.
Công nghiệp chế biến thực phẩm Mỹ có những ngành cơ bản sau đây:
1. Sản phẩm thịt gà, bò, lợn và cá đóng hộp hoặc chế biến thành các dạng sẵn sàng để ăn.
2. Sữa và sản phẩm của sữa như bơ, phomát, sữa đặc, sữa bột, sữa tươi, kem.
3. Trái cây, rau đóng hộp hoặc đông lạnh
4. Ngũ cốc chế biến, như các loại cốm khô dùng để ăn sáng.
5. Các loại bánh mỳ, bánh ngọt bánh bích quy mặn, bánh bích quy ngọt.
6. Đường và các loại kẹo.
Đồ uống gồm các loại chế biến từ lúa mạch, các thứ rượu chế biến từ quả
nho hay các loại ngũ cốc, rượu mạnh, nước ngọt hay nước có chứa khí cácbonnát.
Trên thị trường quốc tế 10 năm qua, công nghiệp thực phẩm Mỹ gặp sức
cạnh tranh mạnh của các công ty thực phẩm nước ngoài. Các công ty nước ngoài
đã bỏ ra hơn 20 tỷ USD để mua các công ty thực phẩm của Mỹ hoặc đầu tư trực
tiếp tại Mỹ. Ngược lại, các công ty chế biến thực phẩm ở nước ngoài từ 9.6 tỷ năm
1984 lên 15.5 tỷ USD trong năm 1994.
Có thể nói dân Mỹ không biết uống nước trắng, từ trẻ sơ sinh cho đến ông
già bà cả hễ khát là phải uống những thứ nước ngọt chế biến pha phách cách này
hay cách khác và đựng trong chai, trong hộp, thậm chí cả nước “chè xanh” pha sẵn đóng hộp.
Đơn giản cho trẻ nhỏ thì nước cam, nước táo, người lớn thì có hàng chục thứ
nước mang nhãn hiệu khác nhau, chưa kể bia và các thứ rượu. Bình quân mỗi năm
một người dân Mỹ uống 100 lít bia, 9 lít rượu vang, 180 lít nước ngọt các loại, 100
lít sữa, 20 lít trái cây và 20 lít nước suối đóng chai, không thấy nói gì đến nước trắng.
Một năm dân Mỹ tiêu thụ chừng 65.5 Tỷ USD tiền rượu, 15.5 tỷ tiền bia, 28
tỷ tiền nước ngọt. Gần đây, mỗi năm Mỹ nhập khẩu các loại rượu và bia trị giá từ 3
đến 5 tỷ USD. Chỉ có một số ít các công ty lớn chiếm lĩnh gần hết thị trường đồ
uống. Năm công ty sản xuất bia chiếm 90 % thị trường. Trong số này lớn nhất là
Coca cola và Pepsi Cola chiếm 72 % thị trường. Khoảng 15 vạn công nhân viên
làm việc trong công nghiệp sản xuất rượu và các đồ uống đóng chai, đóng hộp.
1.Trình bày luận đề được tác giả trình bày trong bài báo:
Tác giả trình bày rằng : Công nghiệp thực phẩm ở Mỹ phát triển mạnh mẽ do lối
sống bận rộn và nhu cầu tiêu thụ thực phẩm chế biến sẵn của người dân. Sự phát
triển này không chỉ phản ánh thói quen tiêu dùng mà còn có tác động lớn đến nền
kinh tế Mỹ, với doanh thu từ ngành chế biến thực phẩm chiếm tỷ lệ cao trong tổng
thu nhập của người dân.
2.Chỉ ra một vài luận cứ được sử dụng để chứng minh luận đề: Luận cứ 1:
Người dân Mỹ tiêu thụ chủ yếu các loại thực phẩm chế biến sẵn, điều này thể hiện
rõ qua thói quen ăn uống hàng ngày của họ. Tác giả nêu rõ răng khoảng 90% thực
phẩm trong siêu thị là các sản phẩm đã qua chế biến, từ thịt, cá, đến rau củ và trái
cây đóng hôp. Sự phổ biến của thực phẩm tiện lợi này không chỉ phản ánh nhu cầu
của người tiêu dùng mà còn cho thấy sự thay đổi trong lối sông hiện đại, khi mà
thời gian dành cho việc nấu nướng ngày càng giảm sút do áp lực công việc và cuộc sống bận rộn. Luận cứ 2:
Doanh thu của 10 công ty hàng đầu trong ngành chế biến thực phẩm Mỹ vào năm
1994 đạt gần 150 tỷ USD, vượt xa doanh thu của 10 công ty sản xuát máy bay lớn
nhất chỉ khoảng 93 tỷ USD. Điều này cho thấy tầm quan trọng và quy mô lớn của
ngành chế biến thực phẩm trong nền kinh tế Mỹ. Ngành này không chỉ đóng góp
vào GDP mà còn tạo ra hàng triệu việc làm, từ sản xuất đến phân phối, góp phần
vào sự phát triển kinh tế toàn diện. Luận cứ 3:
Tỷ lệ chi tiêu cho thực phẩm của người dân Mỹ chỉ chiếm khoảng 10% thu nhập,
mức thấp nhất trên thế giới. Trong khi đó, ở các nước đang phát triển, con số này
thường trên 50%. Điều này chỉ ra rằng công nghiệp chế biến thực phẩm ở Mỹ rất
hiệu quả, với năng suất cao và giá thành thấp. Nhờ vậy, người dân có thể tiết kiệm
chi phí cho thực phẩm và có thể dành nhiều tiền hơn cho các nhu cầu khác, như
giáo dục, giải trí và tiết kiệm
3. Nhận dạng các phương pháp thu thập và xử lý thông tin được tác giả sử
dụng trong quá trình đưa các luận cứ để chứng minh luận đề. Trả lời câu hỏi
này bằng cách đánh dấu vào câu trả lời mà anh (chị) đồng tình:
 ☑ Nghiên cứu tài liệu ☑ Quan sát khách quan ☐ Thực nghiệm
☐ Phương pháp trắc nghiệm ☐ Phỏng vấn
Nếu anh (chị) thấy tác giả đã sử dụng một phương pháp nào khác, xin nêu rõ
phương pháp của tác giả:
Phân tích số liệu thống kê và báo cáo tài chính từ các công ty lớn trong ngành chế biến thực phẩm.
Tác giả đã vận dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu để thu nhập các thông tin
cần thiết, chẳng hạn như dữ liệu doanh thu của các công ty hàng đầu trong ngành
chế biến thực phẩm và các chỉ số chi tiêu của người dân Mỹ cho thực phẩm. Việc
này cho phép tác giả xây dựng một bức tranh rõ nét về quy mô và tầm ảnh hưởng
của ngành công nghiệp trong nền kinh tế Mỹ. Tác giả đã sử dụng các báo cáo tài
chính và thống kê để xác định doanh thu, từ đó minh chứng cho sự phát triển mạnh
mẽ của ngành chế biến thực phẩm.
Bến cạnh đó, tác giả cũng đã thực hiện quan sát khách quan khi đề cập đến thói
quen tiêu dùng của người dân Mỹ. Thông qua việc quan sát các gian hàng trong
siêu thị và sự phổ biến của thực phaamt của người tiêu dùng. Điều này không chỉ
củng cố luận điểm về nhu cầu thực phẩm chế biến mà còn chỉ rả cách thức mà thị
trường đã đáp ứng nhu cầu này.
Ngoài ra ,tác giả có thể áp dụng phân tích dữ liệu thống kê để so sánh tỷ lệ chi
tiêu cho thực phẩm Mỹ và các nước đang phát triển. Sự so sánh này không chỉ giúp
làm nổi bật tính hiệu quả của ngành công nghiệp thực phẩm Mỹ mà còn cho thấy
sựu khác biệt trong cách tiêu dùng và chi tiêu giữa các quốc gia. Tác giả đã thành
công trong đã thành công trong việc sử dụng những con số cụ thể để chứng minh
người dân Mỹ có khả năng chi tiêu ít hơn cho thực phẩm so với người dân ở các
nước khác, nhờ vào năng suất và hiệu quả cao của ngành chế biên thực phẩm.
Tóm lại, các phương pháp thu thập và xử lý thông tin mà tác giả sử dụng không chỉ
có tính thuyết phục cao mà còn tạo ra một nền tảng vững chắc để minh chứng cho
luận đề. Bằng cách kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, tác giả đã xây dựng một
luận một luận cứ chặt chẽ, dễ hiểu, và có tính thuyết phục cao, giúp người đọc nắm
bắt được sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiepj thực phẩm ở Mỹ trong bối
cảnh xã hội hiện đại.