-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Bài tập thảo luận nhóm - Triết học Mác Lênin | Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Bài tập thảo luận nhóm - Triết học Mác Lênin | Trường Đại học Văn hóa Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học mác - lênin (THM00)
Trường: Đại học Văn hóa Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN Thành viên nhóm 3: 1. Phạm Thị Thương 2. Vũ Ngọc Quỳnh Trang 3. Nguyễn Phương Linh 4. Lê Thị Nguyệt
5. Nguyễn Thị Thuỳ Trang 6. Nguyễn Diễm Quỳnh 7. Lê Thị Ngọc Mỹ
Chủ đề thảo luận: Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức của Triết
học Mác-Lênin, hãy rút ra ý nghĩa phương pháp luận trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận
trên trong việc lựa chọn ngành mà bạn đang theo học.
Nội dung: gồm 3 phần
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
2. Ý nghĩa PPL trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan.
3. Vận dụng ý nghĩa trên vào ngành học. NHÓM 3
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
1. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN.
1.1. Vật chất và ý thức.
Trước tiên để biết được mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì ta cần hiểu một
cách ngắn gọn vật chất là gì và ý thức là gì.
- Vật chất theo quan điểm của Lênin được hiểu là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại; chụp lại; phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác.
- Ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh một cách tích cực, năng
động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người thông qua hoạt động thực tiễn.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc
biệt là của triết học hiện đại”. Tùy theo lập trường thế giới quan khác nhau, khi giải
quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức mà hình thành hai đường lối cơ bản
trong triết học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Trong lịch sử, các nhà triết học đã phạm sai lầm chủ quan, phiến diện khi lý giải
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Trong Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã chỉ
ra hạn chế của chủ nghĩa duy vật trực quan và chủ nghĩa duy tâm: “Sự vật, thực
tại, cảm tính chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể, hay trực quan, chứ
không được nhận thức là hoạt động cảm tính của con người, là thực tiễn, không
nhận thức về mặt chủ quan. Do đó, mặt năng động được chủ nghĩa duy tâm phát
triển nhưng phát triển một cách trừu tượng...”
* Đối với chủ nghĩa duy tâm:
- Những người theo chủ nghĩa duy tâm coi ý thức là thứ tồn tại duy nhất, tuyệt đối,
là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác
của ý thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra. NHÓM 3
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
- Thực tế, chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận tôn giáo, chủ nghĩa ngu dân. Người
duy tâm phủ nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ quan, hành
động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.
* Đối với chủ nghĩa duy vật siêu hình:
- Tuyệt đối hóa vật chất, chỉ nhấn mạnh vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức,
phủ nhận tính độc lập tương đối của ý thức, không thấy được sự năng động, sáng
tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động cải thiện thực tiễn khách quan.
- Do đó, họ đã phải sai lầm có tính nguyên tắc bởi thái độ “khách quan chủ nghĩa”,
thụ động, ỷ lại, không hiệu quả trong thực tiễn.
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Nắm vững phép biện chứng duy vật và luôn theo sát, kịp thời khái quát những
thành tựu mới của khoa học xã hội, Mác-Lênin đã khắc phục được sai lầm, hạn chế
và nêu lên những quan điểm đúng đắn về vật chất, ý thức và mối quan hệ của chung.
Theo Triết học Mác-Lênin, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ
biện chứng trong đó: vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn gốc,
quyết định ý thức,
tác động tích cực trở lại vật
còn ý thức thì không thụ động mà
chất qua hoạt động của con người.
* Vật chất quyết định ý thức
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc ý thức.
Vật chất “sinh” ra ý thức. Vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con
người từ lâu, mà con người là kết quả của quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài của
giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra,
vậy nên ý thức-một thuộc tính của bộ phận con người cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra.
Các thành tựu khoa học hiện đại đã chứng minh rằng, tự nhiên có trước con người:
vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Vật
chất tồn tại khách quan, độc lập và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là
dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý NHÓM 3
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động của não bộ. Do đó, sự vận động của thế giới
vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cải vật chất có tư duy là bộ não người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều phản ánh hiện thực khách quan. Thế giới
hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan, được phản ánh vào
ý thức, từ đó mới có nội dung của ý thức.
Thế giới khách quan, chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội-lịch sử loài
người, là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh. Mác và Ăngghen chỉ rõ:
“Ý thức [...] không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức [...]”.
Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực
tiễn là yếu tố quyết định sự phong phú và độ sâu sắc nội dung của tư duy, ý thức.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức.
Nhưng phản ánh của con người là sự phản ánh tích cực, sáng tạo, tự giác thông qua
thực tiễn chứ không phải “soi gương”, “chụp ảnh” hay “phản ánh tâm lý”.
Nếu chủ nghĩa duy vật cũ xem thế giới vật chất như những sự vật, hiện tượng cảm
tính thì chủ nghĩa duy vật biện chứng xem thế giới vật chất là thế giới của con
người hoạt động thực tiễn. Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biên thế giới
con người-là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức con người vừa
phản ánh vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật
chất; vật chất thay đổi thì ý thức cũng sẽ thay đổi theo. Ta có thể thấy con người
ngày càng phát triển về thể chất lẫn tinh thần thì ý thức - một hình thức phản ánh
của óc người cũng phát triển về nội dung và hình thức phản ánh. Người nguyên
thủy sống bầy đàn dựa vào sản vật thiên nhiên nên tư duy con người ngày càng
phong phú, mở rộng. Con người không chỉ ý thức hiện tại mà còn nhận biết được
quá khứ và dự kiến tương lai.
Sự vận động, biến đổi của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định đến
sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức con người. Khi xã hội xuất hiện chế độ tư NHÓM 3
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
hữu, ý thức chính trị, pháp quyền dần thay thế cho ý thức quần cư, cộng đồng
nguyên thủy; trong sản xuất tư bản, tính chất xã hội hóa là cơ sở để ý thức xã hội
chủ nghĩa ra đời, đỉnh cao là sự phát triển lý luận Mac-Lenin.
Trong đời sống xã hội, vật chất quyết định ý thức biểu hiện ở vai trò kinh tế đối với
chính trị, đời sống vật chất với đời sống tinh thần. Đời sống vật chất thay đổi thì
đời sống tinh thần chắc chắn cũng thay đổi.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt nhận
thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của Lênin: “Sự đối lập giữa
vật chất và ý thức chỉ có nghĩa ở những phạm vi hạn chế: chỉ giới hạn trong vấn
đề nhận thức luận cơ bản là cái gì có trước, cái gì có sau. Ngoài giới hạn đó, mọi
sự đối lập đều là tương đối.”
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động lại vật chất
Thứ nhất, tính độc lập tương đối.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào đầu óc con người, do vật chất sinh ra,
nhưng khi “ra đời”, ý thức có đời sống riêng, quy luật phát triển riêng, không phụ
thuộc máy móc vào vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh chậm hay song hành với
hiện thực nhưng thường hay thay đổi chậm hơn sự biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, ý thức tác động vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh…
để phục vụ con người, còn tự bản thân ý thức thì không biến đổi được hiện thực.
Con người từ những hiểu biết, tri thức về thế giới mà từ đó đặt ra những mục tiêu,
phương hướng để thực hiện mục tiêu đã xác định.
Thứ ba, ý thức chỉ đạo hành động con người, quyết định việc con người làm đúng
hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự
báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành những lý luận
định hướng đúng đắn và những lý luận này sẽ góp phần động viên, khai thác tiềm
năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất sẽ tăng lên. Ngược lại nếu phản ánh sai, nó sẽ tác động tiêu cực. NHÓM 3
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Thứ tư, xã hội càng phát triển, ý thức càng trở nên quan trọng, nhất là trong thời
đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại khoa học công nghệ như hiện nay. Tri thức
đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và có vai trò rất quan trọng. Tính năng
động, sáng tạo của ý thức mặc dù to lớn nhưng không thể vượt qua tính quy định
của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào điều kiện khách quan và năng
lực chủ quan. Nếu quên điều đó, ta sẽ rơi vào “vũng bùn” của chủ nghĩa chủ quan,
duy tâm và sẽ thất bại trong hoạt động thực tiễn.
2. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI
QUAN HỆ GIỮA CÁI KHÁCH QUAN VÀ CÁI CHỦ QUAN.
Phương pháp luận được rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
tôn trọng khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan.
Ý nghĩa của phương pháp luận trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan:
- Khẳng định giữa khách quan và chủ quan có mối quan hệ tác động qua lại lẫn
nhau, khách quan là cái có trước có vai trò quyết định chủ quan và ý thức chủ quan
có thể tác động lại vật chất khách quan.
- Trong nhận thức và hành động thực tiễn phải luôn tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan. Nhận thức được sự vật hiện tượng chân thực đúng đắn, tránh
tô hồng hay bôi đen đối tượng, không gắn cho đối tượng cái mà nó không có. Cần
phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm
thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
- Trong mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan, nhân tố chủ quan mang tính chủ
động sáng tạo. Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy
vai trò của nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ,
thiếu tính sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và
giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa
học, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân nói chung, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa hiện nay. NHÓM 3
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
- Khi áp dụng mối quan hệ biện chứng khách quan và chủ quan và lý luận cần có
cái nhìn khách quan về sự vật hiện tượng, nghiên cứu các mặt khách quan rồi dựa
theo tư tưởng lao động chủ quan để ta hiểu toàn diện về sự vật hiện tượng. Khi vận
dụng mối quan hệ này vào nghiên cứu lý luận sẽ giúp chủ thể nghiên cứu đúng đắn
khoa học chính xác hiện tượng đó.
3. VẬN DỤNG Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRÊN VÀO NGÀNH HỌC.
Thế hệ chúng ta được gọi chung là thế hệ gen Z, sinh ra và lớn lên trong một môi
trường lành mạnh, phát triển mạnh mẽ đặc biệt là công nghệ 4.0. Qua đó xuất hiện
rất nhiều ngành nghề đa dạng để theo học. Trong triết học Mác-Lênin, ta được học
về ý nghĩa phương pháp luận trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cái khách
quan và chủ quan, ta có thể hiểu rõ hơn về ngành nghề mà mình đang học từ đó có
thể chọn công việc phù hợp cho tương lai sau này.
Vật chất quyết định ý thức.
- Vì vật chất quyết định ý thức nên hành động và nhận thức của chúng ta đều bắt
nguồn từ thế giới khách quan. Chúng ta cần tôn trọng và chấp hành những quy luật của nó.
- Tìm hiểu về xu hướng các nghề nghiệp trong tương lai, đặc biệt là những công
việc đòi hỏi trình độ ngoại ngữ tốt như: biên/phiên dịch, giáo viên,...
- Nhận biết được yêu cầu và độ khó công việc, môi trường làm việc phù hợp với khả năng của mình.
- Hiểu rõ về cơ sở vật chất, chất lượng giảng dạy của giảng viên, hoạt động và
mong muốn của nhà trường với sinh viên.
Ý thức tác động tích cực lại vật chất
- Ý thức tác động đến vật chất nên ta cần phát huy sự năng động và sáng tạo của ý
thức. Tri thức là quan trọng nhất trong kết cấu của ý thức nên cần chú trọng phát
triển tri thức của bản thân.
- Hiểu rõ về bản thân mình như mơ ước, bản chất, điểm mạnh và điểm yếu để ta có
tinh thần học tập nâng cao điểm mạnh và khắc phục điểm yếu. NHÓM 3
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
- Không quá phụ thuộc, ỷ lại vào người khác nhằm phát triển khả năng tự lập và tính sáng tạo của mình.
- Rèn luyện phẩm chất, đạo đức tốt đẹp như học hỏi về tư tưởng Hồ Chí Minh
- Chủ động tìm hiểu về những điều mới mẻ nhằm tích lũy kinh nghiệm quý giá cho
mình, tiếp thu những điều ấy một cách có chọn lọc và không được chủ quan trong mọi tình huống.
- Khi đánh giá hoặc đưa ra lựa chọn hay làm cái gì cần cân nhắc kỹ càng, không
chủ quan trước mọi tình huống sao cho cân bằng lợi ích bản thân và mọi người.
Không để sự tham lam, ích kỷ vì lợi ích của bản thân mà vứt bỏ người khác. NHÓM 3