Tích luỹ tư bản đầy đủ trong - Triết học Mác Lênin | Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Tích luỹ tư bản đầy đủ trong - Triết học Mác Lênin | Trường Đại học Văn hóa Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học mác - lênin (THM00)
Trường: Đại học Văn hóa Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TÍCH LŨY TƯ BẢN
Như đã được học, tư bản hay vốn là khái niệm để chỉ những vật thể mang
tính giá trị và cũng là vật thể để đo lường sự giàu có của người sở hữu chúng, từ
đó mà nhà tư bản (người sở hữu tư bản) sẽ bỏ ra tiến hành sản xuất kinh doanh
và thu được giá trị thực dư và mang lại giá trị thực dư cho người làm thuê bằng
cách thuê mướn sức lao động. Và tích lũy tư bản là cách thức tạo ra nhiều giá trị
thặng dư hơn cho nhà tư bản, tích lũy tư bản mang bản chất của tích lũy thông
thường như cách chúng ta thường tích lũy tiền trong đời sống chỉ khác ở đây là
tích lũy tư bản. Với hoạt động được thực hiện trong sản xuất, kinh doanh của
nhà tư bản. Đây là phần đầu tư ròng, bổ sung thêm vào khối lượng tư bản, người
ta còn gọi quá trình tích lũy tư bản là hình thành tư bản. Các hoạt động của nhà
tư bản giúp tìm kiếm được giá trị thặng dư trong nhu cầu kinh doanh của mình,
các giá trị này được sử dụng trong mục đích tìm kiếm những lợi ích mới. Giá trị
mang vào tích lũy sau khi cân nhắc và sử dụng cho những nhu cầu tiêu dùng cần
thiết. Có thể thể hiện tích lũy tư bản với công thức sau:
Tích lũy tư bản = Gía trị thặng dư – Tiêu dùng cá nhân.
1. Bản chất của tích lũy tư bản
Để chỉ ra bản chất của tích lũy tư bản, trước hết ta cần nghiên cứu về tái sản
xuất. Trong thực tế nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, quá trình sản xuất
liên tực được lặp đi lặp lại không ngừng được gọi là tái sản xuất. Tái sản xuất có
hai hình thức chủ yếu là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất giản đơn là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như cũ.
Trong trường hợp này ứng với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, toàn bộ giá trị
thặng dư đã được nhà đầu tư tiêu dùng cho cá nhân.
Tuy nhiên, tư bản không những được bảo tồn mà còn phải không ngừng lớn
lên. Để thực hiện tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải biên một bộ phận giá trị
thặng dư thành tư bản phụ thêm. Sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành
tư bản gọi là tích lũy tư bản.
Tích lũy tư sản xuất phát từ lợi ích nhà tư bản mong muốn
Tích luỹ tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm
(tư bản mới). Các giá trị thông qua đầu tư sẽ mang đến các giá trị mới được sinh
ra. Nếu xét ở thời điểm này, nó được xem là tư bản mới. Nhưng khi sử dụng nó
để thực hiện đầu tư, nó lại đóng vai trò là tích lũy tư bản. Thông thường, các giá
trị thặng dư sẽ được sử dụng một phần để tham gia vào các tích lũy mới.
Nhà tư bản mong muốn giàu lên với các nắm giữ lớn hơn cho giá trị thặng
dư. Cho nên nhu cầu trong đầu tư luôn được thể hiện. Trong tính chất sản xuất
hay kinh doanh, họ mua giá trị từ hàng hóa sức lao động của công nhân. Từ đó
tiến hành công việc để tìm kiếm giá trị từ hàng hóa được tạo ra. Cũng chính các
tính toán đó mà sau khi trừ các chi phí ban đầu, họ vẫn nhận về cho mình những giá trị thặng dư.
Tích lũy tư bản mang tính liên tục và tái sản xuất
Các lợi ích ổn định có thể được tìm kiếm khi sản xuất hay kinh doanh
được tiến hành ổn định. Nhà tư bản với nhu cầu trong tiêu dùng hay tích lũy
cũng không dừng lại. Do đó mà tái sản xuất là bản chất của tích lũy tư bản.
Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại không ngừng. Tính
chất thực hiện hoạt động bên cạnh các lợi thế và tiềm năng mà nhà tư bản xác
định. Đồng thời, với tham vọng tìm kiếm lợi ích, nhà tư bản cũng xây dựng
chiến lược cho việc mở rộng quy mô. Điều này thể hiện với các đổi mới trong
dây chuyền sản xuất, bằng việc thay thế các tư liệu sản xuất phù hợp. Các nhân
công cũng cần thiết đáp ứng tiêu chí lao động ngày càng cao. Nó giúp cho các
giá trị trả cho tiền lương được thực hiện hiệu quả. Từ đó mà giá trị thặng dư có
thể kiếm về cho nhà tư bản là lớn hơn.
Tích lũy tư bản hướng tới tái sản xuất mở rộng
Hình thức tiến hành của chủ nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng. Trong
tính chất sản xuất quan tâm đến nhiều yếu tố lâu dài và bền vững. Đây có thể là
các yếu tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến thặng dư. Tuy nhiên đều mang
đến hiệu quả và thuận lợi cho nhà tư bản khi thu hút được nhiều nhu cầu hơn. Bao gồm:
Tái sản xuất ra của cải vật chất, quan hệ sản xuất. Mang đến các đảm bảo
cho nhu cầu ổn định và phát triển của con người. Trong đó còn làm mới phù hợp
và hiệu quả cho việc thu về giá trị thặng dư.
Tái sản xuất sức lao động của con người. Thông qua các máy móc hiện
đại thay thế sức lao động. Cũng như khai thác về trình độ kỹ thuật nhiều hơn.
Nhờ vậy mà sức lao động được sử dụng hiệu quả và đảm bảo hơn.
Tái sản xuất môi trường sống của con người. Phản ánh với các điều kiện
sống được nâng cao. Bên cạnh việc sử dụng và khai thác, tác động đến mô
trường. Khắc phục những tác động đến môi trường mang đến tính chất xanh, sạch, đẹp.
Thực chất, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư. Nhờ có
tích lũy tư bản, quan hện sản xuất tư bản chủ nghĩa không những trở tành thống
trị, mà còn không ngừng mở rộng sự thống trị đó.
2. Những nhân tố ảnh hưởng tới quy mô tích lũy
Với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, quy mô tích lũy tư bản phụ thuộc
vào tỉ lệ phân chia giữa tích lũy và tiêu dùng. Nếu tỉ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng
đã được xác định thì quy mô tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị
thặng dư. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến quy mô tích lũy bao gồm:
Thứ nhất, trình độ khai thác sức lao động (trình độ bóc lột giá trị thặng dư)
Tỷ suất giá trị thặng dư tăng sẽ tạo tiền đề để tang quy mô giá trị thặng
dư. Từ đó mà tạo điều kiện để tang quy mô tích lũy. Để nâng cao tỷ xuất giá trị
thặng dư thông thường nhà tư bản phải tang thêm máy móc, thiết bị và công
nhân. Nhưng nhà tư bản có thể không tăng thêm công nhân mà bắt số công nhân
hiện có cung cấp thêm một lượng lao động bằng cách tăng thời gian lao động và
cường độ lao động. Đồng thời, tận dụng một cách triệt để công suất của số máy
móc hiện có, chỉ tăng thêm nguyên liệu tương ứng.
Thứ hai, năng suất lao động xã hội
Năng suất lao động xã hội tăng làm cho giá trị tư liệu sinh hoạt giảm
xuống, sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ:
Một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ
có thể lấn sang phần tiêu dùng, trong khi sự tiêu dùng của nhà tư bản không
giảm mà vẫn có thể bằng hoặc cao hơn trước.
Hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ cũng có thể
chuyển hóa thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm nhiều hơn trước.
Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đã tạo ra nhiều yếu tố phụ thêm cho
tích luỹ nhờ việc sử dụng vật liệu mới và tạo ra công dụng mới của vật liệu hiện
có như những phế thải trong tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của xã hội,
những vật vốn không có giá trị. Cuối cùng, năng suất lao động tăng sẽ làm cho
giá trị của tư bản cũ tái hiện dưới hình thái hữu dụng mới càng nhanh.
Thứ ba, sử dụng hiệu quả máy móc (chênh lệch giữ tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng)
Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị những tư liệu lao động mà toàn bộ
quy mô hiện vật của chúng đều hoạt động trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Còn tư bản tiêu dùng là phần giá trị những tư liệu lao động ấy được chuyển vào
sản phẩm theo từng chu kỳ sản xuất dưới dạng khấu hao. Do đó, có sự chênh
lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Sự chênh lệch này là thước đo sự
tiến bộ của lực lượng sản xuất.
“C.Mác gọi đó là sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng.
Theo C.Mác, máy móc được sử dụng toàn bộ tính năng của nó, song giá trị chỉ
được tính dần vào giá trị sản phẩm qua khấu hao. Sau mỗi chu kỳ như thế, máy
móc vẫn hoạt động toàn bộ nhưng giá trị của bản thân nó đã giảm dần do tính
giá khấu hao để chuyển vào giá trị sản phẩm. Hệ quả là mặc dù giá trị đã bị khấu
hao, song tính năng hay giá trị sử dụng thì vẫn nguyên như cũ, như lực lượng
phục vụ không công trong sản xuất. Sự phục vụ không công ấy được lao động
sống nắm lấy và làm cho chúng hoạt động. Chúng được tích lũy lại cùng với
tang quy mô tích lũy tư bản. Đồng thời, sự lớn lên không ngừng của quỹ khấu
hao trong khi chưa cần thiết phải đổi mới tư bản cố định cũng trở thành nguồn
tài chính có thể sử dụng cho mở rộng sản xuất.”
Sau khi trừ đi những tổn phí hàng ngày trong việc sử dụng máy móc và
công cụ lao động – nghĩa là sau khi trừ đi giá trị hao mòn của chúng đã chuyển
vào sản phẩm – nhà tư bản sử dụng những máy móc và công cụ lao động đó mà
không đòi hỏi một chi phí khác.
Kỹ thuật càng hiện đại, sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu
dùng càng lớn, thì sự phục vụ không công của tư liệu lao động càng lớn. Có thể
minh họa điều đó bằng số liệu sau:
Thứ tư, đại lượng tư bản ứng trước Trong công thức: M = m’.V
Nếu m’ (tỷ suất giá trị thặng du) không thay đổi thì M (khối lượng giá trị
thặng dư) chỉ có thể tăng khi V (tổng tư bản khả biến) tăng. Và, tất nhiên tư bản
bất biến cũng phải tăng lên theo quan hệ tỷ lệ nhất định. Do đó, muốn tăng khối
lượng giá trị thặng dư phải tăng quy mô tư bản ứng trước. Đại lượng tư bản ứng
trước càng lớn thì quy mô sản xuất càng được mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu.
3. Một số hệ quả của tích lũy tư bản
Theo C.Mác, quá trình tích lũy trong nền kinh tế thị trường tư bản dẫn tới các
hệ quá kinh tế mang tính quy luật như sau:
Thứ nhất, tích lũy tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản (ký hiệu c/v) là cấu tạo giá trị được quyết định
bởi cấu tạo kỹ thuật và phản ánh sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.
C.Mác cho rằng, nền sản xuất có thề được quan sát qua hình thái hiện vật.
Cũng có thề quan sát qua hình thái giá trị.
Nếu quan sát qua hình thái hiện vật thì mối quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư
liệu sản xuất và số lượng sức lao động được coi là cấu tạo kỹ thuật.
Cấu tạo kỹ thuật này, nếu quan sát qua hình thái giá trị nó phản ánh ở mối
quan hệ tỷ lệ giữa tư bản bất biến với tư bản khả biến. Tý lệ giá trị này được gọi
là cấu tạo hữu cơ. cấu tạo hữu cơ luôn có xu hướng tăng do cấu tạo kỹ thuật
cũng vận động theo xu hướng táng len về lượng.
Vì vậy, quá trình tích lũy tư bản không ngừng làm tăng cấu tạo hữu cơ tư bản.
Thứ hai, tích luỹ tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản.
Trong quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô của tư bản cá biệt
tăng lên thông qua quá trình tích tụ và tập trung tư bản.
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng dư.
Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt đồng thời làm tăng quy mô
tư bản xã hội do giá trị thặng dư được biến thành tư bản phụ thêm. Tích tụ tư
bản là kết quả trực tiếp của tích luỹ tư bản.
Tập trung tư bản là sự tăng lên của quỵ mô tư bản cá biệt mà không làm
tăng quy mô tư bản xã hội do hợp nhât các tư bản cá biệt vào một chỉnh thề tạo
thành một tư bản cá biệt lớn hơn.
Tập trung tư bản có thể dược thực hiện thông qua sáp nhập các tư bán cá biệt với nhau.
Tích tụ và tập trung tư bản đều góp phần tạo tiền đề để có thề thu được
nhiều giá trị thặng dư hơn cho người mua hàng hóa sức lao động.
Thứ ba, quá trình tích luỹ tư bản làm không ngừng làm tăng chênh lệch giữa thu
nhập của nhà tư bản với thu nhập của người lao động làm thuê cả tuyệt đối lẫn tương đối.
Thực tế, xét chung trong toàn bộ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, thu nhập
mà các nhà tư bản có được, lớn hơn gấp rất nhiều lần so với thu nhập dưới dạng
tiền công của người lao động làm thuê. C.Mác đã quan sát thấy thực tế này và
ông gọi đó là sự bần cùng hóa người lao động. Cùng với sự gia tăng quy mô sản
xuất và cấu tạo hữu cơ của tư bản, tư bản khả biên có xu hướng giảm tương đối
so với tư bản bất biến, dẫn tới nguy cơ thừa nhân khẩu. Do đó, quá trình tích luỹ
tư bản có tính hai mặt, một mặt thể hiện sự tích luỹ sự giầu sang về phía giai cấp
tư sản, và mặt khác tích lũy sự bần cùng về phía giai cấp công nhân làm thuê.
Bần cùng hoá giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới hai hình thái là
bần cùng hoá tương đối và bần cùng hoá tuyệt đối. Bần cùng hoá tương đối là
cùng với đà tăng trưởng lực lượng sản xuất, phần sản phẩm phân phối cho giai
cấp công nhân làm thuê tuy có tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm tương đối so với
phân dành cho giai câp tư sán. Bần cùng hoá tuyệt đối thể hiện sự sụt giảm tuyệt
đối về mức sống của giai cấp công nhân làm thuê. Bần cùng hóa tuyệt đối
thường xuất hiện đối với bộ phận giai cấp công nhân làm thuê đang thất nghiệp
và đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê trong các điều kiện kinh tế khó
khăn, đặc biệt trong khủng hoảng kinh tế.