1. Nguồn gốc:
- TIền đề kinh tế:
Với việc tập trung bản, lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ cao,
người lao động tăng lên về số lượng với trình độ tay nghề cao. Lực lượng sản
xuất trình độ cao này đòi hỏi phải cải tạo đúng đắn quan hệ sản xuất quan hệ
sản xuất phải tiến hành bằng cách mạng hội, tất yếu dẫn đến sự thay thế nhà
nước sản bằng nhà nước mới nhà nước hội chủ nghĩa.
- Tiền đề hội:
đường bần cùng hóa. Mâu thuẫn giữa lao động làm công ăn lương bản
ngày càng gay gắt, sự bất công trong hội cũng như những chính sách phản
động, phản dân chủ đã đưa hội bản đến sự phân hóa sâu sắc.
Mặt khác, nền sản xuất bản chủ nghĩa với một nền công nghiệp lớn đã làm
tăng đáng kể số lượng công nhân. Đội ngũ này không chỉ lớn về số lượng
còn ngày càng phát triển về chất lượng thêm vào đó một tổ chức rất kỷ luật
do nền sản xuất công nghiệp tạo ra. Chính điều này đã làm cho giai cấp công
nhân trở thành một giai cấp tiên tiến trong hội vai trò lịch sử vùng
lên lãnh đạo cách mạng sản, xóa bỏ nhà nước sản, thành lập nhà nước
nhân dân.
- Tiền đề tưởng chính trị
Giai cấp công nhân khí tưởng luận tối tân chủ nghĩa duy vật
biện chứng chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhận thức đúng đắn các quy luật vận
động phát triển của hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa duy
vật lịch sử sở luận để giai cấp công nhân tổ chức lãnh đạo các cuộc
cách mạng, xây dựng nhà nước hội của mình.
Trong cuộc đấu tranh này, hạt nhân lãnh đạo của các đảng cộng sản đội tiên
phong của giai cấp sản, lãnh đạo phong trào cách mạng của quần chúng
trở thành nhân tố quyết định thắng lợi về lợi ích của cách mạng sản.
mỗi nước với những đặc điểm riêng đều những nhân tố tác động đến cách
mạng sản. Vì vậy, các nước khác nhau, cách mạng sản diễn ra những
thời điểm khác nhau không hoàn toàn giống nhau về hình thức.
Nhà nước hội chủ nghĩa ra đời kết quả của cách mạng do giai cấp
sản nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhưng
cách mạng của mỗi nước những điều kiện hoàn cảnh khác nhau, cho nên
sự ra đời của các nhà nước hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền
sau khi cách mạng thành công cũng những đặc điểm đặc thù riêng. Mỗi nước
sẽ chọn cho mình những phương pháp hình thức phù hợp.
2. Bản chất:
Về chính trị, nhà nước hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân,
lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân dân lao động. Trong
hội hội chủ nghĩa, giai cấp sản lực lượng giữ địa vị thống trị về
chính trị, sự thống trị về chính trị của giai cấp sản sự thống trị của đa số
đối với thiểu số giai cấp bóc lột nhằm giải phóng giai cấp mình giải phóng tất
cả các tầng lớp nhân dân lao động khác trong hội. Do đó, nhà nước hội
chủ nghĩa đại biểu cho ý chí chung của nhân dân lao động.
Về kinh tế, bản chất của nhà nước hội chủ nghĩa chịu sự quy định của sở
kinh tế của hội hội chủ nghĩa, đó chế độ sở hữu hội về liệu sản
xuất chủ yếu. Do đó, không còn tồn tại quan hệ sản xuất bóc lột. Nếu như tất cả
các nhà nước bóc lột khác trong lịch sử đều nhà nước theo đúng nghĩa của nó,
nghĩa bộ máy của thiểu số những kẻ bóc lột để trấn áp đa số nhân dân lao
động bị áp bức, bóc lột, thì nhà nước hội chủ nghĩa vừa một bộ máy chính
trị - hành chính, một quan cưỡng chế, vừa một tổ chức quản kinh tế -
hội của nhân dân lao động, không còn nhà nước theo đúng nghĩa, chỉ
“nửa nhà nước”. Việc chăm lo cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động trở
thành mục tiêu hàng đầu của nhà nước hội chủ nghĩa.
Về văn hóa - hội, nhà nước hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng
tinh thần luận của chủ nghĩa Mác - Lênin những giá trị văn hóa tiên tiến,
tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng của dân tộc. Sự phân
hóa giữa các giai cấp, tầng lớp từng bước được thu hẹp, các giai cấp, tầng lớp
bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực hội để phát triển.
3. Chức năng:
Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực, nhà nước chức năng đối nội
chức năng đối ngoại.
- Đối nội đối ngoại:
+ Chức năng đối nội của nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, hội, chính trị
những trật tự khác hiện trong hội. Thông thường điều đó phải được
pháp luật hóa được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của bộ máy nhà nước. dụ:
Nhà nước ban hành giám sát các quan thực hiện chức năng trong việc đảm
bảo trật tự hội, ổn định an ninh, kiểm soát tình trạng đua xe, các đối tượng
hành vi chống đối nhà nước.
+ Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia
thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, hội với các nhà nước khác
lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích quốc gia
không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. tưởng chỉ đạo thực hiện
chức năng này của Nhà nước ta là, trên sở kiên trì đường lối độc lập tự chủ
đoàn kết quốc tế, “nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới giữ
vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, tạo điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội bảo vệ Tổ quốc, đồng
thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ tiến bộ hội”.
Dưới góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước chức năng thống trị
chính trị của giai cấp chức năng hội.
- Thống trị hội:
+ Chức năng thống trị chính trị của giai cấp (hay chức năng giai cấp) chức
năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự
thống trị giai cấp đó đối với toàn thể hội. Chức năng hội của nhà nước
chức năng nhà nước thực hiện sự quản những hoạt động chung sự tồn tại
của hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân nằm dưới sự
quản của nhà nước.
+ Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị bản nhất vai
trò chi phối chức năng hội phải phụ thuộc phục vụ cho chức năng thống
trị chính trị. Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn kiện toàn cách thực
hiện chức năng hội trong khuôn khổ lợi ích của mình. Song, chức năng
hội lại sở cho việc thực hiện chức năng giai cấp, bởi chức năng giai cấp
chỉ thể được thực hiện thông qua chức năng hội cũng chỉ thực hiện tốt
chức năng hội thì vai trò, cách đại biểu, đại diện cho hội, toàn thể cộng
đồng mới hiệu lực nhất
“Ở khắp nơi, chức năng hội sở của sự thống trị chính trị sự thống trị
chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào còn thực hiện chức năng hội đó của
nó”— F. Engels
Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước
được chia thành chức năng chính trị, kinh tê, văn hoá, hội…

Preview text:

1. Nguồn gốc: - TIền đề kinh tế:
Với việc tập trung tư bản, lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ cao,
người lao động tăng lên về số lượng với trình độ tay nghề cao. Lực lượng sản
xuất trình độ cao này đòi hỏi phải cải tạo đúng đắn quan hệ sản xuất mà quan hệ
sản xuất phải tiến hành bằng cách mạng xã hội, tất yếu dẫn đến sự thay thế nhà
nước tư sản bằng nhà nước mới – nhà nước xã hội chủ nghĩa. - Tiền đề xã hội:
Tích tụ và tập trung tư bản đã đẩy đại bộ phận giai cấp công nhân xuống con
đường bần cùng hóa. Mâu thuẫn giữa lao động làm công ăn lương và tư bản
ngày càng gay gắt, sự bất công trong xã hội cũng như những chính sách phản
động, phản dân chủ đã đưa xã hội tư bản đến sự phân hóa sâu sắc.
Mặt khác, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa với một nền công nghiệp lớn đã làm
tăng đáng kể số lượng công nhân. Đội ngũ này không chỉ lớn về số lượng mà
còn ngày càng phát triển về chất lượng và thêm vào đó là một tổ chức rất kỷ luật
do nền sản xuất công nghiệp tạo ra. Chính điều này đã làm cho giai cấp công
nhân trở thành một giai cấp tiên tiến trong xã hội và có vai trò lịch sử là vùng
lên lãnh đạo cách mạng vô sản, xóa bỏ nhà nước tư sản, thành lập nhà nước nhân dân.
- Tiền đề tư tưởng và chính trị
Giai cấp công nhân có vũ khí tư tưởng và lý luận tối tân là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhận thức đúng đắn các quy luật vận
động và phát triển của xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử là cơ sở lý luận để giai cấp công nhân tổ chức và lãnh đạo các cuộc
cách mạng, xây dựng nhà nước và xã hội của mình.
Trong cuộc đấu tranh này, hạt nhân lãnh đạo của các đảng cộng sản là đội tiên
phong của giai cấp vô sản, lãnh đạo phong trào cách mạng của quần chúng và
trở thành nhân tố quyết định thắng lợi về lợi ích của cách mạng vô sản.
Ở mỗi nước với những đặc điểm riêng đều có những nhân tố tác động đến cách
mạng vô sản. Vì vậy, ở các nước khác nhau, cách mạng vô sản diễn ra ở những
thời điểm khác nhau không hoàn toàn giống nhau về hình thức.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cách mạng do giai cấp vô
sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhưng
cách mạng của mỗi nước có những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau, cho nên
sự ra đời của các nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền
sau khi cách mạng thành công cũng có những đặc điểm đặc thù riêng. Mỗi nước
sẽ chọn cho mình những phương pháp và hình thức phù hợp. 2. Bản chất:
Về chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân,
có lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân dân lao động. Trong
xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản là lực lượng giữ địa vị thống trị về
chính trị, sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số
đối với thiểu số giai cấp bóc lột nhằm giải phóng giai cấp mình và giải phóng tất
cả các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội. Do đó, nhà nước xã hội
chủ nghĩa là đại biểu cho ý chí chung của nhân dân lao động.
Về kinh tế, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định của cơ sở
kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản
xuất chủ yếu. Do đó, không còn tồn tại quan hệ sản xuất bóc lột. Nếu như tất cả
các nhà nước bóc lột khác trong lịch sử đều là nhà nước theo đúng nghĩa của nó,
nghĩa là bộ máy của thiểu số những kẻ bóc lột để trấn áp đa số nhân dân lao
động bị áp bức, bóc lột, thì nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy chính
trị - hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế - xã
hội của nhân dân lao động, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa, mà chỉ
là “nửa nhà nước”. Việc chăm lo cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động trở
thành mục tiêu hàng đầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Về văn hóa - xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng
tinh thần là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những giá trị văn hóa tiên tiến,
tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng của dân tộc. Sự phân
hóa giữa các giai cấp, tầng lớp từng bước được thu hẹp, các giai cấp, tầng lớp
bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội để phát triển. 3. Chức năng:
Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực, nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
- Đối nội và đối ngoại:
+ Chức năng đối nội của nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị
và những trật tự khác hiện có trong xã hội. Thông thường điều đó phải được
pháp luật hóa và được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của bộ máy nhà nước. Ví dụ:
Nhà nước ban hành và giám sát các cơ quan thực hiện chức năng trong việc đảm
bảo trật tự xã hội, ổn định an ninh, kiểm soát tình trạng đua xe, các đối tượng có
hành vi chống đối nhà nước.
+ Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia
và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác vì
lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích quốc gia
không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. Tư tưởng chỉ đạo thực hiện
chức năng này của Nhà nước ta là, trên cơ sở kiên trì đường lối độc lập tự chủ
và đoàn kết quốc tế, “nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ
vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng
thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
Dưới góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng thống trị
chính trị của giai cấp và chức năng xã hội. - Thống trị và xã hội:
+ Chức năng thống trị chính trị của giai cấp (hay chức năng giai cấp) là chức
năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự
thống trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Chức năng xã hội của nhà nước là
chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại
của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
+ Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất có vai
trò chi phối chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống
trị chính trị. Giai cấp thống trị bao giờ cũng biết giới hạn kiện toàn cách thực
hiện chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích của mình. Song, chức năng xã
hội lại là cơ sở cho việc thực hiện chức năng giai cấp, bởi vì chức năng giai cấp
chỉ có thể được thực hiện thông qua chức năng xã hội và cũng chỉ thực hiện tốt
chức năng xã hội thì vai trò, tư cách đại biểu, đại diện cho xã hội, toàn thể cộng
đồng mới có hiệu lực nhất
“Ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị và sự thống trị
chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó”— F. Engels
Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước
được chia thành chức năng chính trị, kinh tê, văn hoá, xã hội…