Bài tập tự học chính trị học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Phân tích bản chất mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế. Từ đó liên hệ với Việt Nam. Quan niệm chung về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Vai trò của chính  trị đối với sự phát triển kinh tế. Liên hệ với Việt Nam. Mối quan hệ giữa kinh tế và  chính trị là mối quan hệ cơ bản nhất, trọng yếu nhất, bao trùm nhất chi phối các  quan hệ khác trong đời sống xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Họ và tên: Nguyễn Thị Xuân Mai
Mã sinh viên: 2356140024
Lớp tín chỉ: CT51001_K43_3
Môn học: Chính trị học đại cương
BÀI TỰ HỌC SỐ 2
Phân tích bản chất mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế.
Từ đó liên hệ với Việt Nam.
1 - Quan niệm chung về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ cơ bản nhất, trọng yếu nhất, bao trùm nhất
chi phối các quan hệ khác trong đời sống xã hội. C.Mác đã chỉ rõ: "Phương thức sản xuất đời
sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không
phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý
thức của họ". Cơ sở hạ tầng xã hội bao giờ cũng là nhân tố cơ bản quyết định kiến trúc thượng
tầng, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn sự thay đổi kiến trúc thượng tầng cũng sẽ
diễn ra. Ông viết: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị
đảo lộn ít nhiều nhanh chóng". Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc
thượng tầng là cả một quá trình hết sức phức tạp. Nguyên nhân của quá trình đó, xét cho cùng là
sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Cơ sở hạ tầng với tư cách là kết cấu kinh tế hiện thực của xã hội không chỉ sản sinh ra kiến trúc
thượng tầng tương ứng, mà còn quy định cả tính chất của kiến trúc thượng tầng - giai cấp nào
giữ địa vị thống trị xã hội về mặt kinh tế thì nó cũng chiếm địa vị thống trị trong kiến trúc
thượng tầng xã hội; mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu thuẫn trong
lĩnh vực tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực chính trị tư tưởng là biểu hiện của
những mâu thuẫn đối kháng trong lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, kiến trúc thượng tầng không phải
là sản phẩm giản đơn, thụ động của cơ sở hạ tầng. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các
yếu tố cấu thành của nó có tính độc lập tương đối, có sự tác động qua lại lẫn nhau và tác động
mạnh mẽ trở lại đối với cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các yếu tố nhà nước, đảng phái chính trị. Tác
động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng là tích cực khi nó tác động cùng chiều với
sự vận động của các quy luật kinh tế khách quan đó, còn ngược lại thì nó sẽ là trở lực, gây tác
hại cho sự phát triển của sản xuất và xã hội.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ xuyên suốt lịch sử phát triển của xã hội có
giai cấp, nó quy định sự vận động, biến đổi của các xã hội đó. Theo các nhà kinh điển mác-xít
sự chuyển biến trạng thái xã hội từ xã hội này sang xã hội khác đều do quan hệ kinh tế - chính
trị quyết định. Sự thay đổi đó có nguyên nhân sâu xa là từ sự phát triển của lực lượng sản xuất,
dẫn tới sự thay đổi trong quan hệ sản xuất và toàn bộ hệ thống các quan hệ xã hội. C.Mác nhấn
mạnh: "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định,
tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này
phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn
bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực
trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội
nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó". Như vậy, trong hệ thống các quan hệ xã hội, quan
hệ sản xuất là bộ phận cấu thành quan trọng nhất và sự vận động của mối quan hệ kinh tế -
chính trị đã đóng vai trò quyết định trong việc tạo ra tính chất đặc thù của toàn bộ hệ thống đó
trong từng điều kiện lịch sử cụ thể. C.Mác đã nhận định: "Tổng hợp lại thì những quan hệ sản
xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, là xã hội, và hơn nữa hợp thành
một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo
riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư sản đều là những tổng thể quan hệ sản
xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong
lịch sử nhân loại". Như vậy, quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế có ảnh hưởng quyết
định tới sự biến đổi của chính trị.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ biện chứng. Một mặt, chính trị phụ thuộc
vào kinh tế, sự chuyển biến về chính trị gắn liền với sự chuyển biến về chế độ kinh tế. Theo
C.Mác "chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại". Kinh tế mạnh mới bảo đảm cho nền chính trị
ổn định. Mặt khác, chính trị tác động mạnh mẽ trở lại đối với kinh tế và có địa vị hàng đầu do
tính giai cấp, tính đảng của các hoạt động kinh tế trong các chế độ xã hội có giai cấp. Mối quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị còn thể hiện ở chỗ: chúng có thể phù hợp với nhau hoặc
cũng có thể mâu thuẫn với nhau. Nếu sự thống nhất, phù hợp giữa chúng tạo nên sự ổn định và
phát triển xã hội thì sự không phù hợp giữa chúng tạo nên sự bất ổn định, sự trì trệ, thậm chí
còn là sự rối loạn xã hội. C.Mác và Ph.Ăng-ghen không đưa ra một cái nhìn siêu hình hoặc
tuyệt đối hóa một trong hai yếu tố của mối quan hệ này, mà nó có tính biện chứng sâu sắc và có
tác động tương hỗ, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
2 - Vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế
Trước hết, vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua mối quan hệ giữa
kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng.
Vai trò của kiến thức thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nói chung có tác động hai mặt của nó.
Nếu kiến trúc thượng tầng có tác động thuận chiều cùng với sự vận động của những quy luật
kinh tế khách quan, thì kiến trúc thượng tầng sẽ có ảnh hưởng và vai trò tích cực trong việc thúc
đẩy sự phát triển ngày càng nhanh của kết cấu kinh tế - xã hội và ngược lại.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã phân tích về vai trò của chính trị đối với sự phát
triển kinh tế như sau: "Tác động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế
có thể có ba loại. Nó có thể tác động cùng hướng - khi ấy sự phát triển diễn ra nhanh hơn; nó có
thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế - khi ấy thì hiện nay ở mỗi dân tộc lớn, nó sẽ tan vỡ
sau một khoảng thời gian nhất định, hoặc là nó có thể cản trở sự phát triển kinh tế ở những
hướng nào đó và thúc đẩy sự phát triển ở những hướng khác. Trường hợp này rốt cuộc dẫn đến
một trong hai trường hợp trên. Tuy nhiên, rõ ràng là trong trường hợp thứ hai và thứ ba, quyền
lực chính trị có thể gây tác hại lớn cho sự phát triển kinh tế và có thể gây ra sự lãng phí to lớn
về sức lực và vật chất". Ph.Ăng-ghen đã phân tích rõ vai trò và ảnh hưởng của nhà nước thông
qua hình tượng của bạo lực như sau: Sau khi bạo lực chính trị đã trở thành độc lập đối với xã
hội, sau khi đã từ đày tớ trở thành người chủ rồi, thì nó có thể tác động theo hai chiều hướng.
Thứ nhất, nó tác động theo hai ý nghĩa và chiều hướng của sự phát triển kinh tế có tính quy luật.
Như thế giữa bạo lực chính trị và sự phát triển kinh tế không có sự xung đột nào và sự phát triển
kinh tế được đẩy mạnh hơn. Thứ hai, nó chống lại sự phát triển kinh tế và khi đó trừ một vài
ngoại lệ ra, thường thường nó chịu sức ép của sự phát triển kinh tế.
Trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, vai trò quyết định thuộc về các quan hệ kinh tế như
đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, chính trị cũng có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với
kinh tế. Tính độc lập tương đối đó biểu hiện ra thông qua tác động trở lại của chính trị đối với
kinh tế. "Tất cả các chính phủ, ngay cả những chính phủ chuyên chế nhất... có thể đẩy nhanh
hoặc làm chậm sự phát triển kinh tế cùng với những hệ quả về chính trị và pháp luật bắt nguồn
từ sự phát triển kinh tế ấy, song rút cục họ vẫn phải tuân theo sự phát triển ấy".
Thứ hai, vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế còn thể hiện trong mối quan hệ giữa
quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế. Khi xem xét mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực
chính trị C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra rằng lợi ích kinh tế quy định quyền lực chính trị và
một khi đã tồn tại như chính nó quyền lực chính trị lại tác động rất lớn đến kinh tế. Tính quy
định của lợi ích kinh tế đối với quyền lực chính trị được thể hiện qua những điểm sau. Một là,
lợi ích kinh tế là sự phản ánh và biểu hiện trực tiếp của quan hệ sản xuất, mà trong xã hội thì
quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, chi phối các quan hệ xã hội còn lại, trong đó có quan hệ về
tương quan lực lượng chính trị. Hai là, cơ sở và nội dung của quyền lực chính trị là lợi ích kinh
tế. Theo các nhà kinh điển mác-xít thì đằng sau những hành động chính trị là sự thúc đẩy của
lợi ích vật chất, để thỏa mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm
phương tiện đơn thuần. Ba là, sự vận động, phát triển của lợi ích kinh tế quy định sự phát triển
và vận động của quyền lực chính trị. Song với tư cách là nhà duy vật biện chứng, C.Mác không
bao giờ quan niệm mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị là mối quan hệ một
chiều. Hai nhân tố lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị luôn luôn tác động qua lại lẫn nhau.
C.Mác chỉ rõ rằng, quyền lực chính trị có thể tác động tới kinh tế theo ba cách thức: thúc đẩy
mạnh mẽ sự phát triển kinh tế; thúc đẩy ở mặt này, kìm hãm ở mặt khác; kìm hãm sự phát triển
kinh tế. Ông kết luận "sự vận động của kinh tế chịu ảnh hưởng một bên là sự vận động của
quyền lực nhà nước, còn một bên là của lực lượng đối lập sinh ra đồng thời với quyền lực ấy.
Chính vì vậy, trong chính trị vấn đề quyền lực chính trị (biểu hiện tập trung ở quyền lực nhà
nước) là một mục tiêu trọng tâm trực tiếp mà giai cấp nào, nhóm xã hội nào cũng muốn nắm và
chi phối. Vì nắm được quyền lực chính trị là nắm được công cụ cơ bản, trọng yếu để giải quyết
quan hệ lợi ích với các giai cấp khác, nhóm xã hội khác theo hướng có lợi cho giai cấp mình,
nhóm xã hội mình. Do đó, tác động của chính trị đối với kinh tế thể hiện ở sự tác động của
quyền lực chính trị đối với kinh tế.
Thứ ba, vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế thể hiện qua vai trò lãnh đạo của đảng
chính trị đối với đời sống xã hội. Khi phân tích, nhận xét đánh giá về hệ quả của cuộc đấu tranh
giai cấp trong xã hội, các nhà kinh điển mác-xít đã đi đến kết luận rằng: Trong cuộc đấu tranh
giai cấp ấy nhất định sẽ dẫn đến việc hình thành các đảng chính trị và các đảng chính trị đó sẽ
đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Đảng chính trị là tổ chức có mục đích chính trị rõ
ràng, có tổ chức chặt chẽ, tập hợp lôi cuốn quần chúng cùng hành động chung để đạt mục đích
đề ra. C.Mác đã chỉ ra rằng, trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào giành được quyền lực chính
trị sẽ trở thành giai cấp thống trị và thực hiện vai trò lãnh đạo xã hội. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã
chỉ ra rằng, trong việc nhận thức và giải quyết quan hệ chính trị với kinh tế, bên cạnh việc ý
thức tới vị trí và lợi ích của giai cấp cầm quyền thì yêu cầu cơ bản, nền tảng trước hết mà đảng
chính trị cầm quyền phải hướng tới là: quan hệ và sự tác động của chính trị đối với kinh tế, phải
vì mục tiêu phát triển sức sản xuất, phát triển xã hội, tạo ra những điều kiện vật chất của một xã
hội mới. Đối với đảng chính trị tiến bộ là đại diện cho lợi ích của toàn thể nhân dân lao động thì
chủ trương, đường lối chính sách phát triển đất nước của nó phù hợp với quy luật phát triển
chung của xã hội, nên vai trò thúc đẩy xã hội tiến lên là vô cùng to lớn. Đối với đảng chính trị
phản tiến bộ thì vai trò của nó đối với xã hội chỉ là sự kìm hãm.
Do đó, đường lối, chủ trương, chính sách, các biện pháp chính trị của đảng cầm quyền có vai trò
đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế. Như V.I. Lê-nin đã phân tích: "Trong một nước tiểu
nông... trao đổi... sự phát triển của nền kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản, một sự phát
triển tư bản chủ nghĩa... tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự trao đổi
tư nhân... tức là của chủ nghĩa tư bản, một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu
người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng
nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát, vì
những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản".
C.Mác đánh giá cao vai trò tích cực của Đảng của giai cấp vô sản đối với sự phát triển xã hội
nói chung và phát triển kinh tế nói riêng. Theo C.Mác, đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc
đấu tranh chính trị thực chất là lãnh đạo sự nghiệp giải phóng kinh tế. Trong điều lệ tạm thời
của Hội liên hiệp công nhân quốc tế do C.Mác soạn thảo viết: "...việc giải phóng giai cấp công
nhân về mặt kinh tế là mục tiêu vĩ đại mà bất kỳ phong trào chính trị nào cũng đều phải phục
tùng với tư cách là một thủ đoạn". Đảng của giai cấp vô sản luôn có đường lối, chính sách hợp
lý. Cơ sở của đường lối, chính sách đấu tranh của chính đảng cách mạng của giai cấp vô sản là
lợi ích cách mạng của giai cấp vô sản, đồng thời có tính toán một cách khách quan đến tất cả
mọi quan hệ xã hội. Nhờ có sách lược đúng đắn của đảng cộng sản đã thu hút được đông đảo
quần chúng nhân dân tham gia vào quá trình phát triển xã hội nhằm mục đích phát triển kinh tế
đem lại đời sống ấm no cho nhân dân...
3 - Liên hệ với Việt Nam
Từ khi đổi mới (năm 1986) đến nay, trên cơ sở nhận thức chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung,
quan điểm của C.Mác vàPh.Ăngghen về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị nói riêng; Đảng
ta đã chủ trương đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đổi
mới cả kinh tế và chính trị. Qua hơn 30 năm đổi mới, trong cả nhận thức và thực tiễn giải quyết
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam đã có nhiều biến chuyển theo
hướng ngày càng sáng rõ, hợp lý hơn. Về quan điểm, Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước
đổi mới chính trị” . Kế thừa tinh thần của các kỳ Đại hội trước, Đại hội XII (năm 2016) nhấn
(10)
mạnh mục tiêu và nhiệm vụ phát triển đất nước trong 5 năm tới là: “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện
và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị” .
(11)
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các Văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình chuyển đổi nền
kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là bước
chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới,
kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các Văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình đổi mới tư duy
chính trị về chủ nghĩa xã hội; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị,
trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững ổn định chính trị để xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
phát triển kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu .to lớn và có ý nghĩa lịch sử
Về đổi mới kinh tế, nhờ thực hiện chủ trương “lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm”, tập trung giải
quyết những vấn đề cấp thiết của nhân dân về sản xuất và đời sống, giải phóng sức sản xuất,
hình thành và phát huy vai trò của hệ thống động lực…, nước ta đã thoát khỏi tình trạng trì trệ
và khủng hoảng về kinh tế - xã hội vốn kéo dài nhiều năm; hơn thế, còn tiếp tục duy trì được tốc
độ tăng trưởng kinh tế khá cao, ổn định và liên tục, mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế với
nhiều quốc gia và tổ chức kinh tế quốc tế…, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước
ngoài, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần với sự đa dạng của các hình thức sở hữu, các hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, cũng như mô hình quản lý theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác lập và bước đầu vận hành thông suốt.
Về đổi mới chính trị, việc đổi mới về thể chế, tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động được
thực hiện đồng bộ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể khác thuộc hệ
thống chính trị theo hướng dân chủ hóa; khắc phục và loại bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành
chính mệnh lệnh, xơ cứng, giáo điều, tách rời và cản trở sự phát triển của kinh tế. Đánh giá ảnh
hưởng tích cực của đổi mới chính trị đối với kinh tế, Đảng ta khẳng định: “Những kết quả đổi
mới hệ thống chính trị, đổi mới tư duy, chính sách, pháp luật đến tổ chức hoạt động của bộ máy
nhà nước tuy mới là bước đầu, song đã tạo nền tảng vững chắc cho đổi mới và phát triển kinh tế
- xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh
(12)
.
Như vậy, với việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, nước ta vừa thúc đẩy được
nền kinh tế của đất nước phát triển theo quy luật khách quan, vừa tạo nên sự năng động, tích
cực trong tư duy, tư tưởng và đời sống tinh thần nói chung của xã hội, làm cho con người được
thực sự tự do và có điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Hai quá trình đó có
quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên sức mạnh giúp chúng ta có cơ sở thực hiện thành công sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình đổi mới đất nước nói chung và đổi mới kinh tế,
chính trị ở nước ta nói riêng vẫn còn những bất cập, hạn chế. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ:
“Nền kinh tế chủ yếu vẫn phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều
vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa vào tri thức và khoa học
công nghệ, thiếu nhiều lao động có kỹ năng” . Ngoài ra, đổi mới chính trị còn chậm và hiệu
(13)
quả còn thấp: “Tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng
nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ,... Việc kiện toàn tổ
chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội gắn với tinh giản
biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức kết quả còn thấp. Số lượng cán bô |,
công chức không những không giảm mà lại tăng...” .
(14)
Để tiếp tục đổi mới kinh tế và chính trị có hiệu quả, cần vận dụng một số nguyên tắc có tính
phương pháp luận như sau:
Th nh!t, nhận thức đúng vấn đề có tính quy luật là mọi sự biến đổi của chính trị đều là sự phản
ánh sự biến đổi của kinh tế, do kinh tế quyết định. Vì vậy, phải xuất phát từ đổi mới kinh tế mà
tiến tới đổi mới chính trị; hay nói cách khác, phải xuất phát từ thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà đổi mới chính trị cho phù hợp. Đồng thời, cũng cần tích
cực đổi mới chính trị, phát huy vai trò định hướng, dẫn dắt của chính trị đối với kinh tế thông
qua các cơ chế, chính sách phù hợp. Tuy nhiên, chính trị là lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp nên
đổi mới chính trị phải thận trọng, có bước đi phù hợp, tiến hành từng bước.
Th hai, đặt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong các mối quan hệ khác
của quá trình đổi mới. Ở Đại hội XII, Đảng ta đã coi kinh tế và chính trị là một trong chín mối
quan hệ cơ bản của quá trình đổi mới. Tuy các mối quan hệ có nội dung, bản chất khác nhau
song chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Do đó, cần kết hợp hài hòa việc giải quyết
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với các mối quan hệ khác. Vì kinh tế và chính trị là hai
lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội nên giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị là điều kiện giải quyết các mối quan hệ khác. Do vậy, “trong thời kỳ đổi mới cần giải
quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị theo hướng thiết lập và hoàn thiện
thể chế kinh tế - chính trị - xã hội thống nhất, hài hòa; xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại,
đầy đủ, hội nhập quốc tế; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phù hợp, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả; phát huy đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thông qua nâng cao chất lượng chế
độ dân chủ đại diện và ngày càng coi trọng các hình thức dân chủ trực tiếp” .
(15)
Th ba, cần giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị gắn với điều kiện
lịch sử - cụ thể. Không phải ngẫu nhiên mà trong suốt 30 năm đổi mới, quan điểm về đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử
nhất định. Sự vận động của thực tiễn ở mỗi giai đoạn đã đặt ra cho Đảng ta yêu cầu phải có
những điều chỉnh cho phù hợp. Trong giai đoạn hiện nay, giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị cần được đặt trong bối cảnh mới - tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế trong thời đại cách
mạng công nghiệp 4.0. Từ đó, có những chủ trương, chính sách cho phù hợp với đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị.
| 1/6

Preview text:

Họ và tên: Nguyễn Thị Xuân Mai Mã sinh viên: 2356140024
Lớp tín chỉ: CT51001_K43_3
Môn học: Chính trị học đại cương BÀI TỰ HỌC SỐ 2
Phân tích bản chất mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế.
Từ đó liên hệ với Việt Nam.
1 - Quan niệm chung về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ cơ bản nhất, trọng yếu nhất, bao trùm nhất
chi phối các quan hệ khác trong đời sống xã hội. C.Mác đã chỉ rõ: "Phương thức sản xuất đời
sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không
phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý
thức của họ". Cơ sở hạ tầng xã hội bao giờ cũng là nhân tố cơ bản quyết định kiến trúc thượng
tầng, khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn sự thay đổi kiến trúc thượng tầng cũng sẽ
diễn ra. Ông viết: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị
đảo lộn ít nhiều nhanh chóng". Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc
thượng tầng là cả một quá trình hết sức phức tạp. Nguyên nhân của quá trình đó, xét cho cùng là
sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Cơ sở hạ tầng với tư cách là kết cấu kinh tế hiện thực của xã hội không chỉ sản sinh ra kiến trúc
thượng tầng tương ứng, mà còn quy định cả tính chất của kiến trúc thượng tầng - giai cấp nào
giữ địa vị thống trị xã hội về mặt kinh tế thì nó cũng chiếm địa vị thống trị trong kiến trúc
thượng tầng xã hội; mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quyết định mâu thuẫn trong
lĩnh vực tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực chính trị tư tưởng là biểu hiện của
những mâu thuẫn đối kháng trong lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, kiến trúc thượng tầng không phải
là sản phẩm giản đơn, thụ động của cơ sở hạ tầng. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các
yếu tố cấu thành của nó có tính độc lập tương đối, có sự tác động qua lại lẫn nhau và tác động
mạnh mẽ trở lại đối với cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các yếu tố nhà nước, đảng phái chính trị. Tác
động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng là tích cực khi nó tác động cùng chiều với
sự vận động của các quy luật kinh tế khách quan đó, còn ngược lại thì nó sẽ là trở lực, gây tác
hại cho sự phát triển của sản xuất và xã hội.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ xuyên suốt lịch sử phát triển của xã hội có
giai cấp, nó quy định sự vận động, biến đổi của các xã hội đó. Theo các nhà kinh điển mác-xít
sự chuyển biến trạng thái xã hội từ xã hội này sang xã hội khác đều do quan hệ kinh tế - chính
trị quyết định. Sự thay đổi đó có nguyên nhân sâu xa là từ sự phát triển của lực lượng sản xuất,
dẫn tới sự thay đổi trong quan hệ sản xuất và toàn bộ hệ thống các quan hệ xã hội. C.Mác nhấn
mạnh: "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định,
tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này
phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn
bộ những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực
trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội
nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó". Như vậy, trong hệ thống các quan hệ xã hội, quan
hệ sản xuất là bộ phận cấu thành quan trọng nhất và sự vận động của mối quan hệ kinh tế -
chính trị đã đóng vai trò quyết định trong việc tạo ra tính chất đặc thù của toàn bộ hệ thống đó
trong từng điều kiện lịch sử cụ thể. C.Mác đã nhận định: "Tổng hợp lại thì những quan hệ sản
xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội, là xã hội, và hơn nữa hợp thành
một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính chất độc đáo
riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội tư sản đều là những tổng thể quan hệ sản
xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong
lịch sử nhân loại". Như vậy, quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế có ảnh hưởng quyết
định tới sự biến đổi của chính trị.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ biện chứng. Một mặt, chính trị phụ thuộc
vào kinh tế, sự chuyển biến về chính trị gắn liền với sự chuyển biến về chế độ kinh tế. Theo
C.Mác "chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại". Kinh tế mạnh mới bảo đảm cho nền chính trị
ổn định. Mặt khác, chính trị tác động mạnh mẽ trở lại đối với kinh tế và có địa vị hàng đầu do
tính giai cấp, tính đảng của các hoạt động kinh tế trong các chế độ xã hội có giai cấp. Mối quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị còn thể hiện ở chỗ: chúng có thể phù hợp với nhau hoặc
cũng có thể mâu thuẫn với nhau. Nếu sự thống nhất, phù hợp giữa chúng tạo nên sự ổn định và
phát triển xã hội thì sự không phù hợp giữa chúng tạo nên sự bất ổn định, sự trì trệ, thậm chí
còn là sự rối loạn xã hội. C.Mác và Ph.Ăng-ghen không đưa ra một cái nhìn siêu hình hoặc
tuyệt đối hóa một trong hai yếu tố của mối quan hệ này, mà nó có tính biện chứng sâu sắc và có
tác động tương hỗ, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
2 - Vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế
Trước hết, vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua mối quan hệ giữa
kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng.
Vai trò của kiến thức thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nói chung có tác động hai mặt của nó.
Nếu kiến trúc thượng tầng có tác động thuận chiều cùng với sự vận động của những quy luật
kinh tế khách quan, thì kiến trúc thượng tầng sẽ có ảnh hưởng và vai trò tích cực trong việc thúc
đẩy sự phát triển ngày càng nhanh của kết cấu kinh tế - xã hội và ngược lại.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã phân tích về vai trò của chính trị đối với sự phát
triển kinh tế như sau: "Tác động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế
có thể có ba loại. Nó có thể tác động cùng hướng - khi ấy sự phát triển diễn ra nhanh hơn; nó có
thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế - khi ấy thì hiện nay ở mỗi dân tộc lớn, nó sẽ tan vỡ
sau một khoảng thời gian nhất định, hoặc là nó có thể cản trở sự phát triển kinh tế ở những
hướng nào đó và thúc đẩy sự phát triển ở những hướng khác. Trường hợp này rốt cuộc dẫn đến
một trong hai trường hợp trên. Tuy nhiên, rõ ràng là trong trường hợp thứ hai và thứ ba, quyền
lực chính trị có thể gây tác hại lớn cho sự phát triển kinh tế và có thể gây ra sự lãng phí to lớn
về sức lực và vật chất". Ph.Ăng-ghen đã phân tích rõ vai trò và ảnh hưởng của nhà nước thông
qua hình tượng của bạo lực như sau: Sau khi bạo lực chính trị đã trở thành độc lập đối với xã
hội, sau khi đã từ đày tớ trở thành người chủ rồi, thì nó có thể tác động theo hai chiều hướng.
Thứ nhất, nó tác động theo hai ý nghĩa và chiều hướng của sự phát triển kinh tế có tính quy luật.
Như thế giữa bạo lực chính trị và sự phát triển kinh tế không có sự xung đột nào và sự phát triển
kinh tế được đẩy mạnh hơn. Thứ hai, nó chống lại sự phát triển kinh tế và khi đó trừ một vài
ngoại lệ ra, thường thường nó chịu sức ép của sự phát triển kinh tế.
Trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, vai trò quyết định thuộc về các quan hệ kinh tế như
đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, chính trị cũng có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với
kinh tế. Tính độc lập tương đối đó biểu hiện ra thông qua tác động trở lại của chính trị đối với
kinh tế. "Tất cả các chính phủ, ngay cả những chính phủ chuyên chế nhất... có thể đẩy nhanh
hoặc làm chậm sự phát triển kinh tế cùng với những hệ quả về chính trị và pháp luật bắt nguồn
từ sự phát triển kinh tế ấy, song rút cục họ vẫn phải tuân theo sự phát triển ấy".
Thứ hai, vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế còn thể hiện trong mối quan hệ giữa
quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế. Khi xem xét mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực
chính trị C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra rằng lợi ích kinh tế quy định quyền lực chính trị và
một khi đã tồn tại như chính nó quyền lực chính trị lại tác động rất lớn đến kinh tế. Tính quy
định của lợi ích kinh tế đối với quyền lực chính trị được thể hiện qua những điểm sau. Một là,
lợi ích kinh tế là sự phản ánh và biểu hiện trực tiếp của quan hệ sản xuất, mà trong xã hội thì
quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, chi phối các quan hệ xã hội còn lại, trong đó có quan hệ về
tương quan lực lượng chính trị. Hai là, cơ sở và nội dung của quyền lực chính trị là lợi ích kinh
tế. Theo các nhà kinh điển mác-xít thì đằng sau những hành động chính trị là sự thúc đẩy của
lợi ích vật chất, để thỏa mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm
phương tiện đơn thuần. Ba là, sự vận động, phát triển của lợi ích kinh tế quy định sự phát triển
và vận động của quyền lực chính trị. Song với tư cách là nhà duy vật biện chứng, C.Mác không
bao giờ quan niệm mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị là mối quan hệ một
chiều. Hai nhân tố lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị luôn luôn tác động qua lại lẫn nhau.
C.Mác chỉ rõ rằng, quyền lực chính trị có thể tác động tới kinh tế theo ba cách thức: thúc đẩy
mạnh mẽ sự phát triển kinh tế; thúc đẩy ở mặt này, kìm hãm ở mặt khác; kìm hãm sự phát triển
kinh tế. Ông kết luận "sự vận động của kinh tế chịu ảnh hưởng một bên là sự vận động của
quyền lực nhà nước, còn một bên là của lực lượng đối lập sinh ra đồng thời với quyền lực ấy.
Chính vì vậy, trong chính trị vấn đề quyền lực chính trị (biểu hiện tập trung ở quyền lực nhà
nước) là một mục tiêu trọng tâm trực tiếp mà giai cấp nào, nhóm xã hội nào cũng muốn nắm và
chi phối. Vì nắm được quyền lực chính trị là nắm được công cụ cơ bản, trọng yếu để giải quyết
quan hệ lợi ích với các giai cấp khác, nhóm xã hội khác theo hướng có lợi cho giai cấp mình,
nhóm xã hội mình. Do đó, tác động của chính trị đối với kinh tế thể hiện ở sự tác động của
quyền lực chính trị đối với kinh tế.
Thứ ba, vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế thể hiện qua vai trò lãnh đạo của đảng
chính trị đối với đời sống xã hội. Khi phân tích, nhận xét đánh giá về hệ quả của cuộc đấu tranh
giai cấp trong xã hội, các nhà kinh điển mác-xít đã đi đến kết luận rằng: Trong cuộc đấu tranh
giai cấp ấy nhất định sẽ dẫn đến việc hình thành các đảng chính trị và các đảng chính trị đó sẽ
đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Đảng chính trị là tổ chức có mục đích chính trị rõ
ràng, có tổ chức chặt chẽ, tập hợp lôi cuốn quần chúng cùng hành động chung để đạt mục đích
đề ra. C.Mác đã chỉ ra rằng, trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào giành được quyền lực chính
trị sẽ trở thành giai cấp thống trị và thực hiện vai trò lãnh đạo xã hội. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã
chỉ ra rằng, trong việc nhận thức và giải quyết quan hệ chính trị với kinh tế, bên cạnh việc ý
thức tới vị trí và lợi ích của giai cấp cầm quyền thì yêu cầu cơ bản, nền tảng trước hết mà đảng
chính trị cầm quyền phải hướng tới là: quan hệ và sự tác động của chính trị đối với kinh tế, phải
vì mục tiêu phát triển sức sản xuất, phát triển xã hội, tạo ra những điều kiện vật chất của một xã
hội mới. Đối với đảng chính trị tiến bộ là đại diện cho lợi ích của toàn thể nhân dân lao động thì
chủ trương, đường lối chính sách phát triển đất nước của nó phù hợp với quy luật phát triển
chung của xã hội, nên vai trò thúc đẩy xã hội tiến lên là vô cùng to lớn. Đối với đảng chính trị
phản tiến bộ thì vai trò của nó đối với xã hội chỉ là sự kìm hãm.
Do đó, đường lối, chủ trương, chính sách, các biện pháp chính trị của đảng cầm quyền có vai trò
đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế. Như V.I. Lê-nin đã phân tích: "Trong một nước tiểu
nông... trao đổi... sự phát triển của nền kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản, một sự phát
triển tư bản chủ nghĩa... tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự trao đổi
tư nhân... tức là của chủ nghĩa tư bản, một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu
người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng
nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát, vì
những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản".
C.Mác đánh giá cao vai trò tích cực của Đảng của giai cấp vô sản đối với sự phát triển xã hội
nói chung và phát triển kinh tế nói riêng. Theo C.Mác, đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc
đấu tranh chính trị thực chất là lãnh đạo sự nghiệp giải phóng kinh tế. Trong điều lệ tạm thời
của Hội liên hiệp công nhân quốc tế do C.Mác soạn thảo viết: "...việc giải phóng giai cấp công
nhân về mặt kinh tế là mục tiêu vĩ đại mà bất kỳ phong trào chính trị nào cũng đều phải phục
tùng với tư cách là một thủ đoạn". Đảng của giai cấp vô sản luôn có đường lối, chính sách hợp
lý. Cơ sở của đường lối, chính sách đấu tranh của chính đảng cách mạng của giai cấp vô sản là
lợi ích cách mạng của giai cấp vô sản, đồng thời có tính toán một cách khách quan đến tất cả
mọi quan hệ xã hội. Nhờ có sách lược đúng đắn của đảng cộng sản đã thu hút được đông đảo
quần chúng nhân dân tham gia vào quá trình phát triển xã hội nhằm mục đích phát triển kinh tế
đem lại đời sống ấm no cho nhân dân...
3 - Liên hệ với Việt Nam
Từ khi đổi mới (năm 1986) đến nay, trên cơ sở nhận thức chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung,
quan điểm của C.Mác vàPh.Ăngghen về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị nói riêng; Đảng
ta đã chủ trương đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đổi
mới cả kinh tế và chính trị. Qua hơn 30 năm đổi mới, trong cả nhận thức và thực tiễn giải quyết
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam đã có nhiều biến chuyển theo
hướng ngày càng sáng rõ, hợp lý hơn. Về quan điểm, Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước
đổi mới chính trị”(10). Kế thừa tinh thần của các kỳ Đại hội trước, Đại hội XII (năm 2016) nhấn
mạnh mục tiêu và nhiệm vụ phát triển đất nước trong 5 năm tới là: “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện
và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”(11).
Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các Văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình chuyển đổi nền
kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là bước
chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới,
kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các Văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình đổi mới tư duy
chính trị về chủ nghĩa xã hội; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị,
trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững ổn định chính trị để xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
phát triển kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Về đổi mới kinh tế, nhờ thực hiện chủ trương “lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm”, tập trung giải
quyết những vấn đề cấp thiết của nhân dân về sản xuất và đời sống, giải phóng sức sản xuất,
hình thành và phát huy vai trò của hệ thống động lực…, nước ta đã thoát khỏi tình trạng trì trệ
và khủng hoảng về kinh tế - xã hội vốn kéo dài nhiều năm; hơn thế, còn tiếp tục duy trì được tốc
độ tăng trưởng kinh tế khá cao, ổn định và liên tục, mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế với
nhiều quốc gia và tổ chức kinh tế quốc tế…, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước
ngoài, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần với sự đa dạng của các hình thức sở hữu, các hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, cũng như mô hình quản lý theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác lập và bước đầu vận hành thông suốt.
Về đổi mới chính trị, việc đổi mới về thể chế, tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động được
thực hiện đồng bộ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể khác thuộc hệ
thống chính trị theo hướng dân chủ hóa; khắc phục và loại bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành
chính mệnh lệnh, xơ cứng, giáo điều, tách rời và cản trở sự phát triển của kinh tế. Đánh giá ảnh
hưởng tích cực của đổi mới chính trị đối với kinh tế, Đảng ta khẳng định: “Những kết quả đổi
mới hệ thống chính trị, đổi mới tư duy, chính sách, pháp luật đến tổ chức hoạt động của bộ máy
nhà nước tuy mới là bước đầu, song đã tạo nền tảng vững chắc cho đổi mới và phát triển kinh tế
- xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh(12).
Như vậy, với việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, nước ta vừa thúc đẩy được
nền kinh tế của đất nước phát triển theo quy luật khách quan, vừa tạo nên sự năng động, tích
cực trong tư duy, tư tưởng và đời sống tinh thần nói chung của xã hội, làm cho con người được
thực sự tự do và có điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Hai quá trình đó có
quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên sức mạnh giúp chúng ta có cơ sở thực hiện thành công sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình đổi mới đất nước nói chung và đổi mới kinh tế,
chính trị ở nước ta nói riêng vẫn còn những bất cập, hạn chế. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ:
“Nền kinh tế chủ yếu vẫn phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều
vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa vào tri thức và khoa học
công nghệ, thiếu nhiều lao động có kỹ năng”(13). Ngoài ra, đổi mới chính trị còn chậm và hiệu
quả còn thấp: “Tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng
nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ,... Việc kiện toàn tổ
chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội gắn với tinh giản
biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức kết quả còn thấp. Số lượng cán bô |,
công chức không những không giảm mà lại tăng...”(14).
Để tiếp tục đổi mới kinh tế và chính trị có hiệu quả, cần vận dụng một số nguyên tắc có tính
phương pháp luận như sau:
Th nh!t, nhận thức đúng vấn đề có tính quy luật là mọi sự biến đổi của chính trị đều là sự phản
ánh sự biến đổi của kinh tế, do kinh tế quyết định. Vì vậy, phải xuất phát từ đổi mới kinh tế mà
tiến tới đổi mới chính trị; hay nói cách khác, phải xuất phát từ thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà đổi mới chính trị cho phù hợp. Đồng thời, cũng cần tích
cực đổi mới chính trị, phát huy vai trò định hướng, dẫn dắt của chính trị đối với kinh tế thông
qua các cơ chế, chính sách phù hợp. Tuy nhiên, chính trị là lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp nên
đổi mới chính trị phải thận trọng, có bước đi phù hợp, tiến hành từng bước.
Th hai, đặt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong các mối quan hệ khác
của quá trình đổi mới. Ở Đại hội XII, Đảng ta đã coi kinh tế và chính trị là một trong chín mối
quan hệ cơ bản của quá trình đổi mới. Tuy các mối quan hệ có nội dung, bản chất khác nhau
song chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Do đó, cần kết hợp hài hòa việc giải quyết
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị với các mối quan hệ khác. Vì kinh tế và chính trị là hai
lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội nên giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị là điều kiện giải quyết các mối quan hệ khác. Do vậy, “trong thời kỳ đổi mới cần giải
quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị theo hướng thiết lập và hoàn thiện
thể chế kinh tế - chính trị - xã hội thống nhất, hài hòa; xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại,
đầy đủ, hội nhập quốc tế; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phù hợp, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả; phát huy đầy đủ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thông qua nâng cao chất lượng chế
độ dân chủ đại diện và ngày càng coi trọng các hình thức dân chủ trực tiếp”(15).
Th ba, cần giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị gắn với điều kiện
lịch sử - cụ thể. Không phải ngẫu nhiên mà trong suốt 30 năm đổi mới, quan điểm về đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử
nhất định. Sự vận động của thực tiễn ở mỗi giai đoạn đã đặt ra cho Đảng ta yêu cầu phải có
những điều chỉnh cho phù hợp. Trong giai đoạn hiện nay, giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị cần được đặt trong bối cảnh mới - tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế trong thời đại cách
mạng công nghiệp 4.0. Từ đó, có những chủ trương, chính sách cho phù hợp với đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.