-
Thông tin
-
Quiz
Bài tập tự học Chính trị học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Chính trị là gì? Trình bày đối tượng, chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu của Chính trị học? Phân tích luận điểm “Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật”. Phân tích nội dung tư tưởng chính trị của Pháp gia? Ảnh hưởng của tư tưởng đó đến đời sống chính trị Việt Nam hiện nay? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Chính Trị Học 130 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.7 K tài liệu
Bài tập tự học Chính trị học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Chính trị là gì? Trình bày đối tượng, chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu của Chính trị học? Phân tích luận điểm “Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật”. Phân tích nội dung tư tưởng chính trị của Pháp gia? Ảnh hưởng của tư tưởng đó đến đời sống chính trị Việt Nam hiện nay? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chính Trị Học 130 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.7 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
Họ và tên: Trần Ngọc Bảo Châu Mã sinh viên: 2356150009
Lớp hành chính: Quan hệ công chúng K43
Lớp tín chỉ: CT01001_K43_4
BÀI TẬP TỰ HỌC MÔN CHÍNH TRỊ HỌC
Câu 1. Chính trị là gì? Trình bày đối tượng, chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu của Chính trị
học? Phân tích luận điểm “Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật”.
Là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm và có vai trò quan trọng, chính trị đã được nhiều nhà tư tưởng
quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên đến nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về chính trị.
Thuật ngữ chính trị (politica) theo nguyên nghĩa tiếng Hy Lạp có nguồn gốc từ “thành bang”
(polis), nhà nước cổ đại Hy Lạp. Theo đó, chính trị là công việc nhà nước. Platôn, nhà triết
học cổ đại Hy Lạp, cho rằng chính trị là nghệ thuật cai trị, cai trị bằng sức mạnh là độc tài, cai
trị bằng thuyết phục mới đích thực là chính trị. Arixtốt coi chính trị là khoa học lãnh đạo con
người, khoa học kiến trúc xã hội của mọi công dân. Thời kỳ Phục Hưng ở phương Tây, chính
trị được coi là hoạt động điều tiết hành động của những cá nhân trong xã hội. Theo Mác –
Vâybe, nhà xã hội học Đức đầu thế kỉ XX cho rằng chính trị là khát vọng tham gia quyền lực
hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong quốc gia, giữa các
tập đoàn người trong một quốc gia. Ở phương Đông, người Trung Quốc cổ đại coi chính trị là
sự tác động, điều tiết để xã hội phát triển đúng đắn; là sự sắp đặt, quản lý để xã hội có kỷ
cương, nề nếp, ổn định. Đến thời kỳ cận đại, Tôn Trung Sơn định nghĩa: chính là việc của dân
chúng, trị là quản lý, quản lý việc cả dân chúng là chính trị. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản lại
cho rằng chính trị là hoạt động tìm kiếm những khả năng áp đặt quyền lực chính trị.
Theo quan niệm Chủ nghĩa Mác – Lênin: chính trị là lợi ích, quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai
cấp trước hết vì lợi ích giai cấp; là việc tổ chức chính quyền nhà nước; là sự tham gia vào
công việc nhà nước; là định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội dung, nhiệm vụ của
nhà nước; chính trị là biểu hiện của tập trung kinh tế; là việc xây dựng nhà nước về kinh tế và
chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật.
Từ tất cả các quan niệm trên, có thể xem chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa
các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực
nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội; là hoạt động thực
tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm khả năng thực hiện đường lối và
những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
Đối tượng nghiên cứu của Chính trị học là những quy luật, tính quy luật chung nhất của đời
sống chính trị của xã hội; những cơ chế tác động, cơ chế vận dụng; những phương thức, thủ
thuật, công nghệ chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính quy luật đó.
Chính trị học có chức năng tổng quát là: phát hiện, dự báo những quy luật, tính quy luật cơ
bản nhất của đời sống chính trị trong phạm vi mỗi quốc gia cũng như quốc tế; hình thành hệ
thống tri thức có tính lý luận, có căn cứ khoa học và thực tiễn (lý luận về tổ chức chsinh trị và
cơ chế vận dụng những quy luật, tính quy luật của đời sống chính trị, lý luận về công nghệ
chính trị, nghệ thuật tổ chức và thực thi quyền lực chính trị) phục vụ sự nghiệp xây dựng chế
độ chính trị tiến bộ.
Chính trị học có những nhiệm vụ cụ thể sau: trang bị cho các nhà lãnh đạo chính trị những tri
thức, kinh nghiệm cần thiết, giúp cho hoạt động của họ phù hợp với quy luật khách quan,
tránh được những sai lầm: giáo điều, chủ quan, duy ý chí; trang bị cho mỗi công dân những
cơ sở khoa học để họ có thể nhận thức về các sự kiện chính trị, trên cơ sở đó xây dựng thái
độ, động cơ đúng đắn, phù hợp với khả năng trong sự phát triển chung mà mỗi công dân tham
gia như một chủ thể; góp phần hình thành cơ sở khoa học cho các chương trình chính trị, cho
việc hoạch định chiến lược với những mục tiêu đối nội, đối ngoại, cùng các phương pháp,
phương tiện, những thủ thuật chính trị nhằm đạt mục tiêu chính trị; phân tích các thể chế
chính trị và mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng, xây dựng học thuyết, lý luận chính trị,
làm rõ sự phát triển của nền dân chủ.
Trước hết, chính trị là khoa học bởi vì chính trị là một hiện tượng khách quan trong đời sống
xã hội loài người, xuất hiện cùng với giai cấp và nhà nước, gắn liền với quyền lực, với đấu
tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Chính trị là lĩnh vực tương đối độc lập trong đời sống xã
hội, có logic phát triển nội tại, có quy luật phát triển khách quan. Chính trị là một hệ thống tri
thức, từ những tri thức kinh nghiệm đến tri thức lý luận hoàn chỉnh, phản ánh quy luật vận
động khách quan của chính trị. Do hạn chế lịch sử và bị chi phối bởi lợi ích giai cấp nên
chính trị trở thành đặc quyền của giai cấp thống trị. Nó chỉ trở thành khoa học đích thực khi
chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời. Ngày nay, chính trị thực sự trở thành một khoa học với đối
tượng, phương pháp nghiên cứu riêng.
Đồng thời, chính trị cũng vừa là nghệ thuật bởi vì chính trị là hoạt động của con người liên
quan đến tranh giành quyền lực, quyết liệt một mất một còn, nên các chủ thể chính trị (trước
hết là giai cấp) sử dụng mọi biện pháp, thủ đoạn để đạt mục tiêu chính trị. Hoạt động chính trị
luôn sáng tạo, linh hoạt, khôn khéo, mềm dẻo, phù hợp với thực tiễn để đạt hiệu quả cao nhất.
Chính trị là phạm vi hoạt động hấp dẫn, nhưng phức tạp, “giống đại số hơn số học”, “người
mù chữ đứng ngoài chính trị” (Lênin). Nó đòi hỏi kỹ năng, kỹ xảo cao, tầm trí tuệ tương ứng
của các nhà chính trị. Chính trị là nghệ thuật của sự mềm dẻo. Đó là nghệ thuật vận dụng tri
thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, để xử lý các tình huống chính trị phức tạp, vận dụng
đúng đắn phép biện chứng giữa khách quan và chủ quan trong hoạt động, đấu tranh chính trị.
Chính trị là nghệ thuật tổ chức lực lượng, sử dụng con người, nghệ thuật vận động quần
chúng, nghệ thuật tiến hành chiến tranh cách mạng.
Về mối quan hệ biện chứng giữa tính khoa học và nghệ thuật của chính trị, bản thân chính trị
là một khoa học cũng đã phản ánh nghệ thuật của nó, bởi khoa học và nghệ thuật luôn gắn bó.
Chính trị là lĩnh vực nhạy cảm, liên quan đến vận mệnh của con người do đó người lãnh đạo
phải khoa học, nhân văn. Trong hoạt động chính trị thực tiễn, tính khoa học và tính nghệ thuật
kết hợp, bổ sung cho nhau và gắn bó chặt chẽ với nhau.
Câu 2. Phân tích nội dung tư tưởng chính trị của Pháp gia? Ảnh hưởng của tư tưởng đó đến
đời sống chính trị Việt Nam hiện nay?
Phái Pháp gia gồm nhiều nhà tư tưởng, nhiều trường phái khác nhau và Hàn Phi Tử là người
tổng kết, phát triển tư tưởng của những nhà pháp gia tiền bối, hoàn chỉnh học thuyết này. Học
thuyết chính trị của ông được dựng trên cơ sở thống nhất pháp – thuật – thế. Pháp luật là
những quy ước, khuôn mẫu, chuẩn mực do vua ban ra, được phổ biến rộng rãi để nhân dân
thực hiện. Pháp luật phải hợp thời, đáp ứng được những yêu cầu phát triển của xã hội, rõ ràng
dễ hiểu, phù hợp với trình độ dân chúng. Pháp luật phải công bằng để kẻ mạnh không lấn át
kẻ yếu. Quyền lực phải tập trung vào một người là vua. Thuật là thủ đoạn hay thuật cai trị của
người làm vua, để kiểm tra, giám sát, điều khiển bầy tôi. Thuật là phương pháp tuyển chọn,
sử dụng người đúng chức năng, tạo cho họ làm tròn bổn phận của mình. Như vậy, thuật là yếu
tố cần thiết, bổ trợ và làm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh. Thế là uy thế, quyền lực
của người cầm quyền. Thế là quyền lực đảm bảo cho việc thi hành pháp luật. Thế phải tuân
thủ theo nguyên tắc tập trung, không được chia sẻ, không được để rơi vào tay người khác.
Vua phải nắm chắc hai phương tiện cưỡng chế, đó là “nhị bính”: thưởng và phạt. Thưởng,
phạt phải căn cứ trên cơ sở pháp luật. Vua phải phục tùng pháp luật.
Tư tưởng này đã xuất hiện ở Việt Nam từ thời nhà Lý (Luật Hình thư – 1042), thời Trần và
đến thời Lê đã được đề cao. Bộ Luật Hồng Đức (1483) là điển hình của tư tưởng nhà nước
pháp quyền ở nước ta. Với Bộ luật Gia Long (1815), nhà Nguyễn cũng coi trọng pháp luật,
nhưng do ảnh hưởng của Nho giáo quá lớn nên không thể áp dụng pháp trị. Trải qua 10 thế kỷ
với hàng chục triều đại đã cho ra đời hàng nghìn chỉ, dụ, sắc… đặc biệt có 4 bộ luật thành văn
ra đời: Hình thư, Hình Luật thời Lý, Trần; Quốc triều hình luật thời Lê Sơ, Hoàng triều luật lệ
thời Nguyễn. Đó là những sản phẩm trí tuệ của hệ thống kiến trúc thượng tầng chế độ phong
kiến nước ta. Sau khi ra đời, các bộ luật đó đã đi vào cuộc sống và đáp ứng được yêu cầu cai
trị của các triều đại phong kiến Việt Nam trong lĩnh vực hợp pháp hóa hình thức sở hữu ruộng
đất tư nhân cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là quý tộc địa chủ, đồng thời bảo hộ những
quyền và lợi ích liên quan đến tông tộc nhà vua và điều chỉnh những quan hệ xã hội khác
bằng hệ thống pháp luật hà khắc, ngay cả những quan hệ đạo đức cũng được pháp luật quy
định. Thời phong kiến, các vua chúa đã biết đề ra các quy tắc, chuẩn mực xã hội buộc mọi
ngườiphải tuân theo. Tư tưởng cai trị bằng pháp luật xuất hiện ở Việt Nam từ thời nhà Lý
(Luật hình thư), thời Trần và đến thời Lê đã được đề cao. Bộ luật Hồng Đức là điển hình của
tư tưởng pháp quyền của nhà nước phong kiến ở nước ta. Thời hiện đại, Pháp gia du nhập vào
Việt trước hết đó là việc xây dựng hệ thống pháp luật để quản lý và duy trì sự phát triển bền
vững của đất nước. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước ta giành được độc lập, chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự ra đời của Hiến Pháp đầu tiên năm 1946, đánh dấu sự tồn tại
và phát triển của một quốc gia độc lập. Hiến pháp năm 1946 dần dần được sửa đổi và hoàn
thiện để ngày càng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cho đến hôm
nay, nhờ sự có mặt của luật pháp mà nước ta đã duy trì được chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa,
duy trì được sự ổn định chính trị tạo đà cho kinh tế phát triển.
Sự ảnh hưởng của Pháp gia đến đời sống chính trị - xã hội Việt Nam có cả mặt tích cực và
tiêu cực. Về ảnh hưởng tích cực, pháp luật giữ cho xã hội ổn định và phát triển theo hướng
tích cực; nhờ pháp luật vì lẽ phải và phục vụ lợi ích chung mà trong những năm qua công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Đó là
thành tựu trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, an ninh quốc phòng… Trong lĩnh vực chính trị,
dân chủ hóa xã hội được mở rộng (nhân dân là người bỏ phiếu để bầu ra lực lượng đại diện
cho mình). Sự công bằng của pháp luật đã đảm bảo cho việc thực hiện nó một cách nghiêm
túc. Yếu tố này không những duy trì sự ổn định chế độ mà còn kích thích việc tìm ra nhân tài
cho đất nước. Còn về ảnh hưởng tiêu cực, pháp luật có thể bị giai cấp cầm quyền lợi dụng vì
tư lợi thay vì quyền lợi chung của cả đất nước; việc thực hiện các mệnh lệnh một cách cứng
nhắc, máy móc có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.
Câu 3. Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị? Chứng minh những sáng tạo
của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng học thuyết chính trị Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, Pháp tăng cường khai thác thuộc địa và bóc lột xã hội nặng
nề, đời sống nhân dân cực khổ, phong trào yêu nước ở Việt Nam đã phát triển và thoái trào,
hàng loạt các cuộc khởi nghĩa bị dìm trong bể máu. Tư tưởng Hồ Chí minh về chính trị là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước; là lý luận vì cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh bao gồm năm nội dung như sau.
Thứ nhất, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng bao trùm là tư tưởng
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”; đây là hạt nhân cốt lõi trong tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh xuyên suốt toàn bộ hệ thống trong tiến trình đấu tranh cách mạng dân tộc. Độc lập dân
tộc bao gồm những nội dung: dân tộc đó phải thoát khỏi nô lệ dưới mọi hình thức bằng con
đường cách mạng do chính dân tộc đó tiến hành; dân tộc phải có có chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, có quyền tự quyết định sự phát triển của dân tộc mình; độc lập dân tộc phải là một
nền dân tộc thật sự chứ không phải giả hiệu, phải thực hiện các giá trị như tự do, dân chủ,
công bằng bình đẳng đối với nhân dân; độc lập về chính trị gắn liền với sự phồn vinh về các
mặt kinh tế, xã hội, văn hóa; phải tự giành lấy con đường cách mạng tự lực tự cường và tự
động. Hồ Chí Minh rút ra kết luận độc lập dân tộc phải thực sự gắn liền với Chủ nghĩa xã hội,
trong đóđộc lập là tiền đề, là điều kiện để đi đến chủ nghĩa xã hội, còn Chủ nghĩa xã hội là
bảo đảm chắc chắn nhất vật chất nhất cho độc lập dân tộc.
Thứ hai, tư tưởng về đại đoàn kết. Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn trong tư tưởng chính trị
của Người. Hồ Chí Minh quan niệm sức mạnh là ở đoàn kết toàn dân, ở sự đồng lòng của
toàn xã hội. Đoàn kết phải dựa trên cơ sở có lý, có tình, có nghĩa; đoàn kết là để phát triển, để
làm tốt hơn nhiệm vụ cách mạng, cách mạng muốn thắng lợi thì phải đoàn kết; đoàn kết lấy
liên minh công – nông – trí thức làm nền tảng, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm điểm quy tụ
để bảo đảm hài hòa giữa các lợi ích. Chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh vừa phát huy
truyền thống đoàn kết của dân tộc qua hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước và phát triển đất
nước, vừa thể hiện tinh thần bất hủ của chủ nghĩa Mác - Lênin là: “vô sản các nước và các
dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới kết lại”. Trong sự nghiệp đổi mới hôm nay, Đảng và nhân
dân ta hơn bao giờ hết đã và đang dâng cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, thực hiện chính
sách đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa và chính sách đa dạng hóa với tinh
thần: Việt Nam là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ ba, tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là
nước dân chủ. Bao nhiêu quyền lợi đều vì dân; Bao nhiêu quyền hạn đều của dân; Công việc
đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân; Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của
dân; Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra; Đoàn thể từ Trung ương đến
xã do dân tổ chức nên; Nói tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.”. Từ quan
niệm như vậy, Hồ Chí Minh cho rằng chế độ dân chủ phù hợp với nhà nước ta. Đó là một nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Về bản chất giai cấp của nhà nước ta, Hồ chí
Minh chỉ rõ rằng, Đảng ta là Đảng cầm quyền, nhà nước ta do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, mang tính chất dân chủ nhưng dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên
minh công nhân – nông dân – trí thức, do giai cấp công nhân lãnh đạo; tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ; quản lý xã hội bằng hiến pháp và pháp luật; thực hiện sự
thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rõ ràng.
Thứ tư, lý luận về Đảng cầm quyền. Phảt triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về
đảng chính trị nói chung, đảng của giai cấp công nhân nói riêng, Hồ Chí Minh luôn coi xây
dựng Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, là nhân tố
quyết định trước hết đối với mọi thắng lợi của cách mạng. Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự
hình thành một Đảng Cộng sản ở Việt Nam vừa quán triệt đầy đủ học thuyết Mác - Lênin về
Đảng Cộng sản, vừa phù hợp với hoàn cảnh một nước thuộc địa lạc hậu chậm phát triển, nơi
có truyền thống đấu tranh yêu nước lâu đời của nhân dân, nơi số lượng giai cấp công nhân
còn ít ỏi nhưng đã có mối quan hệ chặt chẽ với phong trào yêu nước ngay từ đầu. Đảng Cộng
sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân
phong trào yêu nước Việt Nam.
Thứ năm, về phương pháp cách mạng. Theo nghĩa rộng, đó là sự vận động của tư tưởng Hồ
Chí Minh trong thực tiễn. Nói cách khác, đó là những quy luật hoạt động thực tiễn của quần
chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà theo đó tư tưởng chính trị của Người được
hiện thực hóa. Theo nghĩa hẹp, đó là cách thức tiến hành cách mạng với tính cách là hệ thống
các nguyên tắc được thể hiện bằng hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp để thực hiện thắng
lợi đường lối cách mạng, biến đường lối cách mạng thành hiện thực. Phương pháp cách mạng
của Hồ Chí Minh là phương pháp cách mạng vô sản được vận dụng sáng tạo và phát triển vào
một nước thuộc địa nửa phong kiến. Có thể khái quát một hệ thống các phương pháp cách
mạng chung, cơ bản của Hồ Chí Minh như sau: xuất phát từ thực tế cách mạng Việt Nam, lấy
cải tạo biến đổi thực tế cách mạng Việt Nam làm mục tiêu cho mọi hoạt động cách mạng;
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh của thời đại; dĩ bất biến, ứng vạn biến; nắm vững thời cơ, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa thời, thế, lực; biết thắng từng bước, biết phát động và biết kết
thúc chiến tranh; kết hợp các phương thức đấu tranh cách mạng một cách sáng tạo.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về những vấn đề thuộc địa
và dân tộc của Lênin. Từ năm 1921 đến 1929, Người thông qua hai con đường chủ yếu là
Pháp và Trung Quốc truyền bá tư tưởng Mác - Lenin vào Việt Nam. Bằng phương pháp tiếp
cận khoa học, sáng tạo, bám sát thực tiễn của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt, luôn
trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin; mặt khác, vận dụng
sáng tạo các nguyên lý đó vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Một là, về mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở các nước tư bản và cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa. C. Mác cho rằng, cách mạng vô sản sẽ nổ ra và giành thắng lợi
ở những nước tư bản phát triển. Còn V.I. Lênin nhận định, cách mạng vô sản có thể nổ ra và
thắng lợi ở một số nước, thậm chí là một nước riêng lẻ của chủ nghĩa đế quốc và cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc cần phải liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc
bị áp bức ở các thuộc địa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển thêm một bước nhận thức lý
luận khi cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có quan hệ chặt chẽ
với cách mạng chính quốc, nhưng không hoàn toàn phụ thuộc vào cách mạng chính quốc.
Nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có thể giành thắng lợi trước cách mạng chính
quốc và qua đó, thúc đẩy cách mạng chính quốc.
Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng quy luật về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân,
về sự hình thành Đảng Cộng sản vào việc khẳng định trọng trách của giai cấp công nhân Việt
Nam và chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh đã phân tích khá
sâu sắc các tầng lớp, giai cấp trong xã hội nước ta, nhận ra được những ưu thế vượt trội và sứ
mệnh trọng đại của giai cấp công nhân Việt Nam. Người đã chỉ rõ: “Chỉ có giai cấp công
nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc” và
khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng đi đến
thắng lợi cuối cùng. Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển một cách sáng tạo quy luật hình thành
Đảng cộng sản vào quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu như
quy luật chung về sự ra đời của Đảng Cộng sản là sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với
phong trào công nhân thì khi vận dụng vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã bổ sung thêm nhân tố
nữa là phong trào yêu nước. Giai cấp công nhân Việt Nam mới hình thành, còn nhỏ bé về số
lượng, sự kết hợp lý luận với phong trào công nhân và phong trào yêu nước có tác dụng ý
nghĩa rất lớn đối với các mạng Việt Nam, giúp cho Đảng giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa
dân tộc và giai cấp, phát huy được tinh thần đoàn kết và lực lượng cách mạng, ngăn ngừa và
khắc phục những biểu hiện thành phần chủ nghĩa, công nhân chủnghĩa hoặc chia rẽ, bè phái trong Đảng.
Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển lý luận Mác - Lênin về tập hợp, xây dựng lực
lượng cách mạng. Người khẳng định, động lực cơ bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước
ta là đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng về liên
minh công - nông của chủ nghĩa Mác - Lênin để quy tụ, tập hợp sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, của các lực lượng yêu nước với thế trận chiến tranh nhân dân để giành thắng lợi
trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dựa trên nguyên tắc pháp quyền ở Việt Nam. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, sau khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản sẽ thiết lập nên nền chuyên chính
vô sản. Trên nền tảng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển một hệ thống các quan điểm
sáng tạo về nhà nước kiểu mới: tất cả mọi quyền lực đều là của nhân dân, một nhà nước của
nhân dân, chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ương do nhân dân cử ra; đoàn thể từ Trung
ương đến xã do nhân dân tổ chức nên, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của Hiến
pháp và pháp luật, thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Câu 4. Khái niệm quyền lực chính trị? Trình bày quá trình hình thành quyền lực chính trị và
sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước? Tại sao nói: Ở Việt Nam,
quyền lực chính trị thuộc về nhân dân?
Quyền lực là phạm trù xuất phát của Chính trị học. Trong lịch sử, có sự khác nhau về khái
niệm quyền lực qua các thời đại. Thời Cổ đại, cái gì có sức mạnh là có quyền lực. Thời Trung
đại, “quyền lực Thượng đế” là quyền lực đứng trên tất cả, ngay cả loài người cũng chỉ là cái
phát sinh từ quyền lực Thượng đế. Thời Phục hưng nhấn mạnh tới quyền lực nhà nước và coi
nhà nước là “vương quốc của lý tính”. Trong những năm gần đây, vấn đề quyền lực được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu: nhà Chính trị học Mỹ K.Đantra, L. Lipson, các nhà khoa học
Xô Viết, Giáo sư Nguyễn Khắc Viện, Giáo sư Lưu Văn Sùng. Một số tác giả có cách tiếp cận
khác, theo chiết tự, quyền lực là một khái niệm kép bao gồm quyền và lực; quyền lực phục vụ
cho việc thực hiện các nhu cầu, các lợi ích của một người hay một nhóm người. Quyền lực
gắn với sức mạnh nên người nào, hoặc một số người nào nắm được nó thì buộc người khác
hoặc một số người khác phải phục tùng; nhờ nó mà đạt được mục đích trong hoạt động phối
hợp và trên cơ sở thừa nhận của người khác và nhờ nó mà tác động đến hành vi, phẩm hạnh
của người khác hoặc một số người khác. Quyền lực là cái mà ai nắm được thì buộc người khác phải phục tùng.
Tổng hợp sự phân tích các khái niệm về quyền lực chính trị, quyền lực chính trị là là quyền
được sử dụng sức mạnh chính trị cho mục đích chính trị. Khi một chủ thể có lực (có sức
mạnh) nhưng không có quyền về mặt chính trị thì chủ thể đó hoặc là ngấm ngầm, hoặc là
công khai dùng sức mạnh này trong các mối quan hệ và hoạt động của mình trong đời sống
xã hội có liên quan tới lĩnh vực chính trị. Và kết cục, hoặc là sức mạnh chính trị ấy bị xóa bỏ,
hoặc là sớm muộn nó sẽ buộc lực lượng chính trị đối lập ấy phải thừa nhận nó về mặt nhà
nước. Cấu trúc của quyền lực chính trị bao gồm: chủ thể và đối tượng; mục tiêu và nội dung;
công cụ và phương tiện thực hiện. Chủ thể quyền lực chính trị gồm có quyền lực chính trị của
tổ chức (quyền lực của các nhóm xã hội, tập đoàn người như giai cấp, dân tộc, quốc gia, các
tổ chức quốc tế) và quyền lực chính trị của cá nhân (quyền lực của thủ lĩnh chính trị, của các
chính khách, của công dân). Đối tượng của quyền lực chính trị là nhóm xã hội, giai cấp hay
tập đoàn người. Mục tiêu của quyền lực chính trị là nhằm đạt tới sự áp đặt ý chí của chủ thể
đối với đối tượng và thông qua đó lợi ích của chủ thể được thực hiện. Nội dung của việc thực
thi quyền lực chính trị là việc sử dụng mọi sức mạnh mà chủ thể có được để đạt tới mục tiêu
chính trị. Công cụ của quyền lực chính trị là tổ chức được chủ thể thiết lập và dựa vào hoạt
động để thực thi quyền lực chính trị. Phương thức thực hiện quyền lực chính trị: hình thức tổ
chức công cụ và cách thức chủ thể sử dụng cho hoạt động của công cụ theo mục tiêu và nội
dung của quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị còn có các đặc điểm là: có bản chất giai
cấp, có tính xã hội, có tính lịch sử, có tính tập trung, có tính tha hóa. Các chức năng của
quyền lực chính trị bao gồm: lập ra hệ thống chính trị của xã hội; tổ chức đời sống chính trị,
thiết lập các quan hệ chính trị; quản lý công việc của nhà nước và xã hội; lãnh đạo các cơ
quan quyền lực, các hoạt động chính trị và phi chính trị; kiểm soát các quan hệ chính trị và
các quan hệ xã hội; lập ra một kiểu cầm quyền nhất định đặc trưng cho xã hội, một chế độ
chính trị và chế độ nhà nước nhất định.
Trước hết, về quá trình hình thành quyền lực chính trị. Sự phát triển của lực lượng sản xuất
dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có và đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất cũ.
Mâu thuẫn về xã hội nảy sinh, giai cấp mới đại diện cho lực lượng sản xuất mới tiến bộ ra
đời, thành lập tổ chức của mình và đòi hỏi sự thừa nhận về mặt pháp lý. Quá trình này đưa tới
sự xuất hiện của các nhóm xã hội mới về mặt giai cấp, làm xuất hiện đối kháng về mặt lợi
ích, đối kháng về giai cấp xã hội. Kết quả là lực lượng chính trị mới tương ứng ra đời đại diện
cho lợi ích của giai cấp mới đó. Và điều này dẫn đến sự cọ xát, sự đụng độ giữa các lực lượng
chính trị mới và lực lượng chính trị cũ. Dần dần sớm hay muộn thì lực lượng chính trị mới sẽ
vươn lên để tự khẳng định mình về mặt nhà nước. Khi mà lực lượng chính trị mới buộc nhà
nước hiện tồn phải thừa nhận nó về mặt pháp lý thì nó đã giành được quyền tồn tạivề mặt
pháp lý, quyền lực chính trị của giai cấp mới được thừa nhận về mặt nhà nước trong khuôn
khổ nhà nước hiện tồn. Lúc đó người ta nói lực lượng chính trị mới đã giành được quyền lực
chính trị, và quyền lực chính trị chính thức được hình thành.
Sau đó là sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước. Trong xã hội có giai
cấp và đối kháng giai cấp về cơ bản có hai loại: quyền lực chính trị quyền lực chính trị của
giai cấp thống trị (đã trở thành quyền lực nhà nước) và quyền lực chính trị của các giai cấp,
tầng lớp còn lại trong xã hội. Trong đó bao gồm: quyền lực của nhóm giai cấp, tầng lớp tuy
khác nhưng không đối kháng với giai cấp thống trị (vì thế không có sự khác biệt về chất với
quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, và do vậy nó ko bị diệt trừ mà tồn tại trong sự “đối
lập một cách trung hòa” với nhà nước hiện tồn) và quyền lực của nhóm giai cấp, tầng lớp đối
kháng với giai cấp thống trị (nhóm đại diện cho phương thức sản xuất lỗi thời của xã hội
trước - tàn dư và nhóm đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ của xã hội sau này - mầm
mống). Như vậy phân nhóm quyền lực chính trị này sẽ chỉ có một trong hai kết cục sau đây:
sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn và triệt để bởi quyền lực của nhà nước hiện tồn hoặc sẽ ngày càng
mạnh lên bất chấp sự trấn áp của nhà nước hiện tồn, cho tới lúc nó đủ sức lật đổ quyền lực
chính trị của giai cấp cầm quyền, xóa bỏ quyền lực nhà nước đập tan bộ máy nhà nước của
giai cấp ấy, thiết lập bộ máy nhà nước mới nhằm tổ chức lại xã hội sao cho phù hợp với lợi
ích của giai cấp đó. Khi đó người ta nói quyền lực chính trị đã chuyển thành quyền lực nhà
nước. Ngoài hai hình thức vận động cổ điển này còn có hình thức đảo chính trung tính, đảo chính phản cách mạng.
“Ở Việt Nam, quyền lực chính trị thuộc về nhân dân” bởi vì chủ thể là nhân dân lao động:
công nhân, nông dân, trí thức trong khối đại đoàn kết dân tộc thông qua mặt trận tổ quốc,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lợi ích của Nhân dân được thống nhất trên
cơ sở kinh tế, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và cơ sở chính trị, mọi người dân
được tham gia vào đời sống chính trị. Nhân dân làm chủ trực tiếp, gián tiếp. Đối tượng quyền
lực chính trị là bộ phận vô sản lưu manh đi ngược lại lợi ích nhân dân lao động, lực lượng
chính trị phản động trong và ngoài nước chống đối lại nhân dân. Áp đặt ý chí nhân dân vì độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh phấn đấu theo hai kịch bản của Đại hội XIII chỉ ra. Nội dung bao gồm tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; xây dựng nền văn hoá tiên tiến mang đậm bản sắc dân tộc
với công cụ là hệ thống tổ chức quyền lực chính trị, trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo toàn diện nhà nước và xã hội, Nhà nước và các phương tiện vật chất là trụ cột của hệ
thống chính trị, các đoàn thể chính trị tham gia, làm chủ và phương tiện thực hiện là bản thân
nhân dân lao động thực hiện quyền lựu chính trị của mình, bên cạnh đó vẫn còn cưỡng bức, trấn áp.
Câu 5. Phân tích nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay? Biện pháp
kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay?
Năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong
kiến, nhân dân mất tự do, chịu cảnh lầm than, nô lệ, đất nước trong cơn bế tắc, “tình hình đen
tối như không có đường ra”. 15 năm sau khi thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng tháng
Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà
nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á - Nhà nước mang lại lợi ích cho giai cấp công nhân
và nhân dân lao động mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên
độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Về nguyên tắc tổ chức nhà nước: Trong lịch sử thường tồn tại hai nguyên tắc nhà nước khác
nhau là nguyên tắc phân quyền và nguyên tắc tập quyền. Theo nguyên tác phân quyền thì
quyền lực được phân chia thành ba quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp.
Các quyền này độc lập và chế ước lẫn nhau (phân lập). Trong đó có quyền lập pháp thuộc về
quốc hội (cơ quan đại diện của nhân dân) được lập ra qua phổ thông đầu phiếu, quyền hành
pháp thuộc về chính phủ và quyền tư pháp thuộc về toà án. Theo nguyên tắc tập quyền, cũng
là nguyên tắc tổ chức của Nhà nước ở Việt Nam, quyền lực nhân dân được thể hiện và thực
hiện tập trung thống nhất vào một cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất do nhân dân bầu ra
và chịu trách nhiệm trước nhân dân đó là Quốc hội. Mọi cơ quan nhà nước khác đều do cơ
quan quyền lực nhà nước này thành lập, giao nhiệm vụ và phải chịu sự giám sát của nó. Tất
cả các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều được tổ chức theo nguyên tắc này. Cơ sở của nguyên
tắc tập quyền là do lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức
thống nhất, không mâu thuẫn với nhau. Do đó quy định nên thể chế chính trị một đảng, nhất
nguyên. Cơ sở kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Việc phải có sự kiểm soát quyền lực ở Việt Nam sự suy thoái của những biểu hiện tiêu cực sẽ
được loại bỏ, như: tình trạng tha hoá quyền lực; tình trạng suy thoái, biến chất; tình trạng
quan liêu, tham nhũng; tình trạng chuyên quyền, độc đoán, bè phái, lợi ích nhóm. Cần có
những biện pháp kiểm soát quyền lực triệt để để ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực đó. Hiện
nay tại Việt Nam có một số biện pháp xử lý. Bên trong bộ máy Nhà nước: kiểm soát trong cơ
chế giám sát tối cao của Quốc hội, kiểm soát qua cơ chế thanh tra của thanh tra Nhà nước,
kiểm soát quyền lực của cơ quan tư pháp. Bên ngoài bộ máy Nhà nước: kiểm soát quyền lực
của các tổ chức chính trị - xã hội, kiểm soát quyền lực của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, kiểm
soát quyền lực của xã hội (báo chí, nhân dân…).
Câu 6. Đảng chính trị là gì? Phân tích bản chất và vai trò của Đảng chính trị và liên hệ với
bản chất và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Đảng chính trị là một hiện tượng đặc thù của xã hội có phân chia giai cấp và đấu tranh giai
cấp. Trong sự phát triển của xã hội loài người, đặc biệt là ở thời đại ngày nay, đảng chính trị -
yếu tố cơ bản của hệ thống tổ chức quyền lực chính trị, của chế độ chính trị và xã hội công
dân – ngày càng thể hiện vai trò to lớn là công cụ tập hợp giai cấp của một giai cấp, tổ chức
lãnh đạo đấu tranh giai cấp vì mục tiêu giành, giữ, tổ chức, sử dụng quyền lực nhà nước và
định hướng cho sự phát triển.
Xét về bản chất, Đảng chính trị nào cũng mang bản chất giai cấp; đảng chính trị nào cũng tồn
tại với mục đích nắm quyền lực nhà nước để bảo vệ lợi ích giai cấp mà nó đại diện. Không có
đảng chính trị nào phi giai cấp, siêu giai cấp.
Vai trò của Đảng chính trị, đó là, Đảng chính trị là một bộ phận tích cực nhất, có tổ chức nhất
của giai cấp, đảnng chính trị được lập ra để thực hiện lợi ích, mục đích giai cấp, nắm quyền
lực nhà nước. Như vậy, vai trò của Đảng chính trị (vai trò cách mạng, tiến bộ hay bảo thủ,
phản động) tùy thuộc vào địa vị lịch sử của các giai cấp mà đảng chính trị đó đại diện. Ngoài
ra, còn tùy thuộc vào bản chất giai cấp mà đảng đó đại diện. Vai trò tích cực của Đảng chính
trị ở các nước tư bản chủ nghĩa thể hiện ở vai trò của Đảng cầm quyền và vai trò của Đảng
không cầm quyền. Xét về vai trò của Đảng cầm quyền, ở các nước tư bản chủ nghĩa, vai trò
của đảng chính trị thể hiện rõ nhất trong các cuộc bầu cử giành quyền lực nhà nước. Đó là tổ
chức bầu cử, đảm bảo thay đổi chính quyền bằng cách hòa bình, hợp pháp, hợp hiến. Sau khi
đắc cử, Đảng cầm quyền đề ra đường lối, định hướng phát triển kinh tế - xã hội thông qua
cương lĩnh chính trị, đào tạo, bố trí tuyển lựa thành viên của đảng vào các cương vị chủ chốt
của chính quyền, chuẩn bị các chính sách, chiến lược hoạt động của nhà nước. Xét về vai trò
của Đảng không cầm quyền, Đảng không cầm quyền kiềm chế, đối trọng, giám sát đảng cầm
quyền, là “cái van” điều chỉnh hoạt động của đảng cầm quyền. Đảng không cầm quyền tập
hợp giai cấp, tổ chức giai cấp, tập hợp lực lượng để đấu tranh chính trị nhằm giành quyền lực
nhà nước về tay mình. Như vậy, Đảng không cầm quyền tăng cường tính tích cực cho công
dân. Tuy nhiên, vai trò tiêu cực của Đảng chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn
tại, đó là chia rẽ nhân dân, tách nhân dân ra khỏi chính trị. Vai trò tích cực của Đảng chính trị
ở các nước xã hội chủ nghĩa, trong hệ thống chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng
sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo, thực hiện quyền thống trị về chính trị của giai cấp công
nhân để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân và quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng
sản chịu trách nhiệm hoàn toàn trước vận mệnh phát triển của dân tộc, lãnh đạo mọi mặt của
đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Sự lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản
trong điều kiện Đảng cầm quyền thực chất là xây dựng nhà nước về mặt kinh tế. Bởi vậy,
quyền lực của Đảng không mâu thuẫn và không thay thế quyền lực nhà nước, tập trung vào
việc lãnh đạo xây dựng nhà nước để quản lý kinh tế - lĩnh vực suy cho cùng quyết định đến
sự phát triển của xã hội, quyết định vai trò lãnh đạo của Đảng. Còn về mặt tiêu cực, đôi khi,
đảng chính trị cũng có xu hướng bắt người dân phải tuân thủ quá nhiều quy định, hạn chế sự
tự do và độc lập cá nhân của mỗi người.
Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động Việt Nam, lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho
hành động cách mạng: Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai
cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Giữ
vững và nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta là điều kiện tiên quyết, bảo đảm
cho sự thành công của cách mạng. Đảng không chỉ đấu tranh vì lợi ích của giai cấp công nhân
mà còn đấu tranh cho quyền lợi của tập thể, của cả dân tộc. Đảng đại diện cho lợi ích của toàn
dân tộc nên nhân dân Việt Nam coi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của chính mình. Đảng
cũng đã khẳng định rằng, để đảm bảo và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, Đảng luôn
luôn gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc trong tất
cả các thời kỳ của cách mạng. Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân
mà còn bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân lao động khác. Lợi ích của Đảng phù hợp với lợi
ích của dân tộc: tính dân tộc sâu sắc không xóa nhòa bản chất giai cấp của Đảng. Bản chất
giai cấp công nhân, tính dân tộc, tính nhân dân là một thể thống nhất bền vững. Trong mục
tiêu cách mạng do Đảng ta xác định, lợi ích giai cấp công nhân gắn liền với lợi ích của dân
tộc và lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động khác. Các lợi ích này cơ bản là thống nhất,
không đối lập nhau. Quân đội ta chiến đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng,
không chỉ có mục đích giải phóng giai cấp công nhân, mà còn có mục đích giải phóng dân
tộc; không chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động. Tất
cả đã tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng và sức mạnh toàn dân tộc.
Câu 7. Thủ lĩnh chính trị là gì? Hãy lựa chọn một Thủ lĩnh chính trị mà mình tâm đắc nhất, từ
đó phân tích phẩm chất tiêu biểu và vai trò của Thủ lĩnh chính trị đối với sự phát triển của quốc gia đó?
Theo quan niệm thời cổ đại, thủ lĩnh chính trị là người biết chỉ huy, đấu tranh cho lợi ích
chung; thủ lĩnh chính trị phải là nhà thông thái; thủ lĩnh chính trị là nhà tâm lý biết lôi kéo,
tập hợp và tác động đến nhiều người khác. Theo quan niệm thời trung đại, thủ lĩnh chính trị
thực chất là vua; vua đứng đầu đất nước, có quyền lực tối cao. Theo quan niệm thời cận đại,
trong mối quan hệ với quần chúng, thủ lĩnh chính trị là cá nhân vĩ nhân có vai trò quyết định
sự phát triển của lịch sử; những vĩ nhân xuất hiện sớm ngày nào thì sẽ xây dựng được xã hội
“tự do, bình đẳng, bác ái” sớm chừng ấy, và tránh cho nhân loại những đau thương và những điều xấu xa.
Theo Mác - Lênin, thủ lĩnh chính trị xuất hiện trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định và sự
xuất hiện thủ lĩnh chính trị là tất yếu. Thủ lĩnh chính trị ra đời do đòi hỏi của lịch sử, của quần
chúng nhân dân, đóng vai trò quan trọng cho việc thực hiện sứ mệnh lịch sử, sản xuất của
thời đại lịch sử nhất định. Mỗi thời kỳ lịch sử có hình mẫu thủ lĩnh chính trị đặc trưng.
Có thể rút ra định nghĩa về thủ lĩnh chính trị như sau, thủ lĩnh chính trị là cá nhân xuất sắc
trong lĩnh vực chính trị, xuất hiện trong những điều kiện lịch sử nhất định, có sự giác ngộ lợi
ích, mục tiêu, lý tưởng giai cấp, có khả năng nắm bắt và vận dụng quy luật, có năng lực tổ
chức và tập hợp quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ chính trị do lịch sử đặt ra.
Hồ Chí Minh - Người anh hùng giải phóng dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt
Nam. Suốt cả cuộc đời mình, Người luôn vì dân, vì nước, đấu tranh không mệt mỏi cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Là người mở đường xây nền độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt coi trọng việc xây dựng nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng. Người coi đó là gốc rễ
của mọi công việc, là nền tảng thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, bảo đảm cho sự phát triển
bền vững của quốc gia, dân tộc. Một trong bốn chuẩn mực cơ bản nhất của phẩm chất, đạo
đức Hồ Chí Minh đã được Người khái quát gọn trong sáu chữ: “Trung với nước, hiếu với
dân”. Trung với nước, hiếu với dân trong chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh không phải là
những điều mới được đặt ra, mà đó là những phẩm chất đạo đức vốn có từ xa xưa trong đạo
đức truyền thống phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam. Vượt qua những hạn chế
của chủ nghĩa yêu nước truyền thống, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa các giá trị đạo đức
của dân tộc và phát triển lên tầm cao mới. Trên cơ sở những khái niệm quen thuộc, Người đã
đưa vào đó những nội dung đạo đức mới, phù hợp hơn, rộng lớn hơn và sâu đậm tình
người… làm cơ sở cho việc xây dựng một nền đạo đức mang tính cách mạng và khoa học,
hình thành nên những phẩm chất đạo đức tiêu biểu cho con người Việt Nam trong thời đại
mới, để mỗi người học tập, phấn đấu, rèn luyện “không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì
lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”. Mối quan hệ nước - đảng - dân, mang ý
nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện với nhau trong một thể thống nhất về trách nhiệm, nghĩa
vụ và quyền lợi của mỗi người dân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Trung với nước, hiếu
với dân theo đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi công việc cách mạng của Đảng,
trong từng suy nghĩ và việc làm cụ thể của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng và mỗi người
dân. Dù mục tiêu, nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ cách mạng tuy khác nhau, nhưng yêu cầu về
trung, hiếu luôn nhất quán và là tiêu chí chung cho các cán bộ cách mạng và các tầng lớp
nhân dân học tập và rèn luyện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh được nhân dân Việt Nam kính trọng, tôn vinh và được thế giới biết
đến là vị anh hùng giải phóng dân tộc, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, danh nhân văn
hóa thế giới. Bao nhiêu đó cũng đủ thấy được tầm vóc vĩ đại, vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đóng góp cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng và sự phát triển của nhân
loại nói chung. Người đã dành cả đời mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của
nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ngày nay, sự nghiệp của Người tiếp tục được các thế hệ
cách mạng và người dân Việt Nam kế tục và phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng cho thấy, mỗi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh - Người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vai trò, tầm ảnh
hưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc và đất nước là vô cùng to lớn, điều này thể
hiện khái quát ở một số điểm như sau. Thứ nhất, chủ tịch Hồ Chí Minh là người tìm ra con
đường giải phóng dân tộc đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử - xã hội Việt Nam. Ngày
05/6/1911, xuất phát từ hoài bão lớn lao của một thanh niên yêu nước trong bối cảnh nhân
dân Việt Nam phải sống kiếp nô lệ dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, Người ra đi tìm
đường cứu nước bằng hai bàn tay trắng. Ba mươi năm bôn ba khắp thế giới của Người thật sự
là một hành trình vĩ đại. Lĩnh hội được chủ nghĩa Mác – Lênin và qua nhiều năm tìm hiểu các
phong trào cách mạng thế giới, Người xác định rằng chỉ có cách mạng vô sản, là con đường
duy nhất để giải phóng dân tộc Việt Nam. Từ đó, Người kiên định đi theo con đường giải
phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vận dụng vào công cuộc đấu tranh của nhân dân
ta một cách rất tự nhiên nhưng vô cùng phù hợp. Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người tập
hợp, quy tụ được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc. Đoàn kết thật sự là sức mạnh lớn nhất của dân tộc Việt Nam và đại đoàn kết toàn dân
tộc là một nội dung quan trọng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Người khẳng định đoàn kết
là lực lượng mạnh nhất, là sức mạnh vô địch, là lực lượng then chốt của thành công. Chính
quan điểm tập hợp lực lượng rộng rãi, vừa có tính chọn lọc, vừa tận dụng tối đa nguồn lực
con người của đất nước đã tạo nên một lực lượng quần chúng lớn mạnh để đưa phong trào
cách mạng dù trải qua bao nhiêu gian khổ, hy sinh thì cuối cùng vẫn đạt được thắng lợi. Thứ
ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người trực tiếp lãnh đạo, dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta thực hiện thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc. Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam và có uy tín cao trong toàn Đảng, toàn dân nên Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người có
đủ bản lĩnh, sức mạnh để chèo lái con thuyền cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Người không chỉ lựa chọn đúng thời điểm để thực hiện cách mạng mà còn có khả năng tiên
đoán diễn biến, chiều hướng vận động của lịch sử một cách tài tình. Dưới sự chỉ đạo của
Trung ương Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác xây dựng lực lượng cách
mạng, phát động phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền
diễn ra sôi nổi. Đến tháng 8/1945, nhận thức rõ thời cơ đã đến, chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư
kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên khởi nghĩa. Đáp lại lời kêu gọi đó, toàn thể nhân dân ta
trên khắp mọi miền đã đồng loạt đứng lên khởi nghĩa và thắng lợi rực rỡ. Thứ tư, tư tưởng
của Người là một bộ phận tạo nên nền tảng tư tưởng của Đảng, là lý luận soi đường để Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, là tài sản tinh thần to lớn, quý giá của Đảng và cách
mạng Việt Nam. Di sản mà Người để lại có ý nghĩa quyết định cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh bao
trùm hầu hết các lĩnh vực của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam và luôn là lý luận soi đường
để Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vận dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính
trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, an ninh, quốc phòng. Thứ năm, cuộc đời và sự nghiệp, tư
tưởng, đạo đức, phong cách của lãnh tụ Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực để cán bộ, đảng
viên và toàn thể nhân dân học tập và làm theo. Nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong sạch, vững mạnh, Đảng và Nhà nước ta cần có một con người đủ uy tín, tầm ảnh hưởng
để làm tấm gương soi rọi cho cán bộ, đảng viên qua nhiều thế hệ. Và tấm gương sáng nhất
không ai khác là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta. Mỗi mẩu chuyện về Người là
một bài học quý giá cho các thế hệ cán bộ, đảng viên. Cả cuộc đời vì nước vì dân, không một
phút giây tư lợi cho bản thân của Người là lời nhắc nhở cho mỗi cán bộ, đảng viên trước
những cám dỗ của cuộc sống ngày nay. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh không chỉ quan trọng đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên mà còn cần thiết
đối với mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam.
Câu 8. Phân tích nội dung mối quan hệ chính trị với kinh tế? Thực chất quá trình đổi mới ở Việt Nam?
Chính trị thực chất là việc định hướng, tạo động lực cho phát triển kinh tế thông qua các
chính sách, chủ trương, đường lối. Kinh tế là tổng hợp các quan hệ sản xuất tương ứng với
trình độ lực lượng sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội; kinh tế là nguồn gốc của
mọi biến đổi xã hội. Quan hệ chính trị với kinh tế là sự lãnh đạo của nhà nước bằng chủ
trương, chính sách nhằm phát triển kinh tế, cùng cố địa vị thống trị.
Bản chất của mối quan hệ chính trị với kinh tế bao gồm hai nội dung: chính trị là biểu hiện
tập trung của kinh tế và chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Thứ
nhất, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Chính trị là một hình thức biểu hiện của kinh
tế một cách tập trung nhất, cô đọng nhất. Chính trị không ngoài mục đích nào khác là hướng
vào sự phát triển kinh tế. Kinh tế là gốc của chính trị, là thước đo tính hợp lý của chính trị.
Tính đúng đắn của đường lối chính sách kinh tế của đảng cầm quyền giữ vai trò quan
trọng.Thứ hai, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Thắng lợi của
cách mạng chính trị là tiền đề điều kiện đầu tiên và quyết định cho những biến đổi về chất và
phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Với tính độc lập tương đối chính trị có sự tác động trở lại
với kinh tế theo những hướng khác nhau có thể. Hơn nữa, chính trị đóng vai trò định hướng