Bài tập tự luận Đề số 1: Anh (chị) hãy làm rõ các trường hợp ảnh hưởng tới hiệu lực của quy phạm pháp luật xung đột - Pháp luật đại cương | Trường Đại học Mở Hà Nội
Bài tập tự luận Đề số 1: Anh (chị) hãy làm rõ các trường hợp ảnh hưởng tới hiệu lực của quy phạm pháp luật xung đột - Pháp luật đại cương | Trường Đại học Mở Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Pháp luật đại cương (BLAW0001)
Trường: Đại học Mở Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD|44744371 lOMoARcPSD|44744371
TRƯỜNG ĐẠI HỌCĐỀMỞKIỂMHÀTRANỘITỰ LUẬN
MÔN: Tư pháp quốc tế - Mã môn: EL18.047 NGÀNH LUẬT KINH TẾ BÀI TẬP TỰ LUẬN
MÔN HỌC: TƯ PHÁP QUỐC TẾ – EL18.047
Đề số 1: Anh (chị) hãy làm rõ các trường hợp ảnh hưởng tới hiệu lực
của quy phạm pháp luật xung đột
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thanh Hương
Lớp: Luật kinh tế K16 Sinh viên thực hiện: Trịnh Văn Ban Ngày sinh: 26/07/1986 Lớp: ENDVT-116 Ngành đào tạo: Luật Kinh Tế Địa điểm học:
Trường Trung Cấp Vạn Tường
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 05/2023 lOMoARcPSD|44744371 TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
……………………………………………………………………………………………………..
Đề 1: Anh (chị) hãy làm rõ các trường hợp ảnh hưởng tới hiệu lực của quy
phạm pháp luật xung đột BÀI LÀM
Trong Tư pháp quốc tế, để giải quyết các quan hệ dân sự theo nghĩa
rộng có yếu tố nước ngoài, việc xác định luật của quốc gia được áp dụng là rất
quan trọng. Việc lựa chọn pháp luật của nước nào để áp dụng phải dựa trên
quy định của các quy phạm xung đột. Tuy nhiên, không phải trong bất kì
trường hợp nào pháp luật của nước được áp dụng và quy phạm xung đột dẫn
chiếu cũng có hiệu lực áp dụng vì các lý do khác nhau.
Quy phạm pháp luật xung đột được nhắc tới trong Tư pháp quốc tế, là
theo đó nó thường xảy ra mâu thuẫn với thị trường kinh doanh như trong các
lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực xã hội, lĩnh vực y tế, giao thông, giữa giáo dục – văn
hóa, tín ngưỡng tôn giáo, lĩnh vực môi trường,.. và có thể thấy các mâu thuẫn
và xung đột ở nước ta đều liên quan đến quyền và lợi ích của các bên.
Cơ sở pháp lý áp dụng:
– Bộ luật Dân sự năm 2015
– Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015
– Luật Hôn nhân và gia đình (Luật HNGĐ) năm 2014
– Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Lao động năm 2012
– Luật Đầu tư năm 2014 – Luật Nhà ở năm 2014
– Bộ luật Hàng hải năm 2015
Hiểu rõ xung đột pháp luật là gì? 2 lOMoARcPSD|44744371
Quy phạm xung đột là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần phải
áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài trong
một tình huống cụ thể.
I. Một số vấn đề chung
1. Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
Theo Điều 758 Bộ luật dân sự 2015 thì quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ
chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc các
quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng
căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài,
phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Từ quy định, có thể thấy, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là một
quan hệ dân sự, do đó, nó mang những đặc điểm thể hiện bản chất một quan
hệ dân sự: Chủ thể là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài hoặc căn xứ xác lập thực hiện, thay đổi, chấm dứt
ở nước ngoài, hoặc tài sản là đối tượng của quan hệ hiện diện ở nước ngoài.
2. Xung đột pháp luật
Xung đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật
cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
Xung đột pháp luật thường phát sinh do các nguyên nhân sau:
- Thứ nhất, do pháp luật các nước quy định khác nhau trong giải
quyết một quan hệ Tư pháp quốc tế cụ thể.
- Thứ hai, do đặc điểm về quan hệ xã hội thuộc Tư pháp quốc tế đều
điều chỉnh. Quan hệ do Tư pháp quốc tế điều chỉnh luôn có yếu tố nước ngoài
tham gia và luôn liên quan đế ít nhất là hai hệ thống pháp luật. Ngoài ra, xung 3 lOMoARcPSD|44744371
đột pháp luật còn phát sinh từ các nguyên nhân khác như do cách áp dụng và
giải thích pháp luật của các nước có sự khác nhau. 3. Q
uy phạm xung đột
- Quy phạm xung đột là các quy định ấn định luật pháp nước nào cần
phải áp dụng để giải quyết quan hệ pháp luật dân sự có yếu tố nước ngoài
trong một tình huống thực tế. Từ khái niệm này, có thể thấy:
- Quy phạm xung đột không trực tiếp điều chỉnh các quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài đang phát sinh mà các quy phạm này chỉ quy định việc
chọn pháp luật nước này hay nước khác để điều chỉnh các quan hệ có yếu tố
nước ngoài. Việc chọn luật không phải là tự do tùy tiện lựa chọn hệ thống
pháp luật nào để áp dụng mà phải dựa trên những nguyên tắc nhất định.
- Quy phạm xung đột luôn mang tính “dẫn chiếu” . Khi Quy phạm
xung đột dẫn chiếu đến hệ thống pháp luật áp cụ thể và các quy phạm thực
chất trong hệ thống pháp luật đó để giải quyết quan hệ dân sự phát sinh, đó
chính là tính chất “song hành”giữa quy phạm thực chất và Quy phạm xung
đột trong điều chỉnh pháp luật.
II. Các trường hợp làm hạn chế quy phạm xung đột pháp luật
1. Bảo lưu trật tự công:
Khái niệm về “trật tự công” là một thuật ngữ trừu tượng trong pháp
luật hầu hết các quốc gia, dưới góc độ Tư pháp quốc tế được hiểu là trật tự
pháp lý hình thành trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và
pháp luật của một quốc gia. Qua đó có thể hiểu bảo lưu trật tự công cộng là
bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và pháp luật của một quốc gia.
Khi cơ quan có thẩm quyền sử dụng quy phạm xung đột của quốc gia
dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài nhưng không áo dụng hệ thống pháp luật
nước ngoài đó(mà trên thực tế lẽ ra phải áp dụng) hoặc không thừa nhận hiệu 4 lOMoARcPSD|44744371
lực phán quyết của Tòa án nước ngoài do phán quyết đó phát sinh hoặc xét
thấy việc áp dụng pháp luật trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật nhà nước
mình nhằm bảo vệ trật tự công quốc gia.
Hệ quả pháp lý: là cơ quan có thẩm quyền khi viện dẫn bảo lưu trật tự
công sẽ từ chối không áp dụng pháp luật nước ngoài theo sự dẫn chiếu của
quy phạm xung đột mà sẽ áp dụng luật Tòa án để giải quyết
Ở Việt Nam, bảo lưu trật tự công cộng được ghi nhận ở Khoản 4 Điều 759 B
LDS 2005 “…nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam”. Như vậy, trật tự công được pháp luật Việt Nam thừa nhận là những
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, ghi nhận trong Hiến pháp và ở
một số Văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc bảo lưu
trật tự công cộng chỉ áp dụng đối với những quy định liên quan trái với trật tự
công mà không phải là phủ nhận toàn bộ Hệ thống pháp luật nước ngoài.
Nguyên nhân chính đặt ra vấn đề bảo lưu trật tự công cộng trong Tư
pháp quốc tế đó là việc sử dụng Quy phạm xung đột và nội dung pháp luật
các nước có quy định khác nhau về cùng một vấn đề hay chính xác là việc bảo
vệ trật tự công ở mỗi quốc gia là khác nhau. Tư pháp quốc tế điều chỉnh
những quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, dẫn đến việc có thể sử dụng pháp
luật nước ngoài để giải quyết vụ việc. Các Quy phạm xung đột chỉ đưa ra
những nguyên tắc chung để chọn luật áp dụng giữa những hệ thống pháp luật
liên quan mà không trực tiếp quy định cách giải quyết vụ việc. Việc lựa chọn
này hoàn toàn khách quan, mang tính chất dẫn chiếu và điều chỉnh gián tiếp,
dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền khi được dẫn chiễu áp dụng luật nước
ngoài, hoặc các nguồn luật quốc tế nhưng lại không lường trước được nội
dung của quy định đó. Trường hợp pháp luật nước ngoài có quy định trái với
trật tự công của quốc gia mình thì khi đó phải “bảo lưu trật tự công cộng”. 5 lOMoARcPSD|44744371
Khi bảo lưu trật tự công cộng, luật nước ngoài sẽ bị gạt bỏ không được
áp dụng. Do đó, hiệu lực của quy phạm xung đột sẽ bị triệt tiêu. Quy phạm
xung đột dẫn chiếu tới hệ thống pháp luật nước ngoài, nhưng luật nước ngoài
không được áp dụng bởi nó trái với trật tự công thì việc dẫn chiếu đó là vô
nghĩa, hay chính là việc chọn một hệ thống pháp luật nước ngoài không áp
dụng được trên thực tế. Điều đó làm Quy phạm xung đột mất hiệu lực.
Ví dụ: Khi đăng ký kết hôn giữa một nữ công dân Việt Nam (A) và
nam công dân Iran (B). Iran là quốc gia hồi giáo, pháp luật nước này công
nhận chế độ hôn nhân đa thê. Theo Khoản 1 Điều 122 Luật Hôn nhân gia đình
2014, thì các quy định của pháp luật về Hôn nhân gia đình của Việt Nam được
áp dụng đối với quan hệ Hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài, trừ trường
hợp Luật này có quy định khác. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng
quy định của Điều ước quốc tế đó.
Giả định công dân B đáp ứng đầy đủ quy định của pháp luật nước B
kể cả việc công nhận anh B có quyền kết hôn đa thê. Trong tình huống này
nếu áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 122 Luật Hôn nhân gia đình sẽ dẫn
đến hậu quả là cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng hệ thống pháp luật nước
ngoài có nội dung vi phạm “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”,
vì pháp luật Hôn nhân gia đình Việt Nam chỉ công nhận chế độ hôn nhân tiến
bộ, một vợ một chồng (Khoản 1 Điều 2 Luật Hôn nhân gia đình), do vậy,
trong trường hợp này cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thể từ chối
không áp dụng pháp luật nước ngoài đó để bảo vệ trật tự công của Việt Nam,
do tại khoản 2 Điều 122 Luật Hôn nhân gia đình có quy định: “… dẫn chiếu
về việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp dụng,
nếu việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản được quy định tại
Điều 2 của Luật này”. 6 lOMoARcPSD|44744371
Hệ quả tích cực của bảo lưu trật tự công là cơ quan tài phán sẽ không
áp dụng pháp luật nước ngoài lẽ ra phải được áp dụng theo sự dẫn chiếu của
quy phạm xung đột mà áp dụng nội luật của mình trong tình huống pháp lý cụ
thể. Nói cách khác là trong trường hợp xét thấy cần bảo vệ trật tự công quốc
gia thì sẽ áp dụng ngay pháp luật của quốc gia để giải quyết mà không cần
thông qua quy phạm xung đột.
Ví dụ: cơ quan có thẩm quyền sẽ không áp dụng pháp luật nước ngoài
quy định công nhận hôn nhân đa thê.
Tuy nhiên, hệ quả tiêu cực ở đây là trường hợp pháp luật nước ngoài
có thể áp dụng nhưng hậu quả của việc áp dụng đó ảnh hưởng đến trật tự công
quốc gia. Ví dụ việc tòa án phải công nhận hiệu lực của một bản án hay quyết
định do tòa án hoặc trọng tài nước ngoài giải quyết hoàn toàn theo pháp luật nước ngoài.
Như vậy, các cơ quan tư pháp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở
nước ta phải rất cẩn trọng trọng viêc vận dụng nguyên tắc bảo lưu trật tự công
cộng, song thực tiễn tư pháp cho thấy là rất hiếm các trường hợp phải vận
dụng và trong trường hợp phải bắt buộc vận dụng bao giờ cũng dựa trên
những cơ sở pháp lý đứng đắn và khách quan, bảo đảm thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2. Dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba:
Dẫn chiếu ngược có nghĩa là theo quy phạm xung đột mà cơ quan có
thẩm quyền áp dụng thì pháp luật nước ngoài cần được áp dụng để giải quyết
một quan hệ Tư pháp quốc tế cụ thể nhưng trong pháp luật nước ngoài đó lại
có quy phạm xung đột quy định áp dụng pháp luật của nước có cơ quan có thẩm quyền.
Dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba có nghĩa là theo quy phạm xung
đột của nước có cơ quan giải quyết tranh chấp thì pháp luật của nước ngoài 7 lOMoARcPSD|44744371
phải được áp dụng nhưng trong pháp luật nước ngoài đó lại có quy phạm
xung đột quy định cần phải áp dụng pháp luật của nước thứ ba.
Theo tư pháp quốc tế Việt Nam dẫn chiếu ngược là dẫn chiếu toàn
bộ hệ thống pháp luật nước đó kể cả luật thực chất và luật xung đột thì có
nghĩa là chấp nhận dẫn chiếu ngược trở lại cũng như dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba.
Hiện tượng dẫn chiếu xuất hiện do nguyên nhân sau:
- Thứ nhất, quy phạm xung đột gồm hai bộ phận: phần phạm vi và
phần hệ thuộc. Hiện tượng dẫn chiếu xuất hiện khi một vấn đề pháp lý thuộc
phần phạm vi của hai quy phạm xung đột của hai nước có phần hệ thuộc khác
nhau hay là do có sự quy định khác nhau trong các quy phạm xung đột của
các nước về nguyên tắc chọn luật áp dụng cho cùng một vấn đề pháp lý.
- Nguyên nhân thứ hai có khả năng làm phát sinh dẫn chiếu là việc
giải thích các hệ thuộc luật của các nước có thể khác nhau, có thể dẫn chiếu
đến khả năng một vấn đề pháp lý sẽ được hệ thống pháp luật của hai nước đều
cho rằng sẽ áp dụng, hoặc cả hai nước đều từ chối áp dụng cho rằng pháp luật
nước mình không có thẩm quyền áp dụng.
Trong khoa học Tư pháp quốc tế, vấn đề dẫn chiếu hiện nay có hai quan điểm:
- Quan điểm thứ nhất, coi sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột đến
pháp luật nước ngoài chỉ là dẫn chiếu đến luật thực chất của nước ngoài
(không bao gồm các quy phạm xung đột trong luật pháp của nước ngoài), có
nghĩa là không chấp nhận dẫn chiếu ngược trở lại và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba.
- Quan điểm thứ hai, coi sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột đến
pháp luật nước ngoài là dẫn chiếu đến cả hệ thống pháp luật nước ngoài (gồm
các quy phạm xung đột và quy phạm thực chất trong pháp luật của nước 8 lOMoARcPSD|44744371
ngoài), có nghĩa là chấp nhận dẫn chiếu ngược trở lại và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba.
Như vậy, khi gặp hiện tượng dẫn chiếu thì phải xét hai trường hợp cơ bản:
Trường hợp 1: theo quan điểm thứ nhất, cho rằng, về nguyên tắc pháp
luật được áp dụng ở đây sẽ là pháp luật của nước mà được pháp luật quốc gia
này dẫn chiếu đến, và áp dụng các quy phạm pháp luật thực chất của nước đó
để giải quyết quan hệ xã hội phát sinh.
Trường hợp 2: theo quan điểm thứ hai, cho rằng, về nguyên tắc chung,
pháp luật sẽ áp dụng là pháp luật của chính quốc gia mà được pháp luật của
quốc gia kia dẫn chiếu ngược trở lại hoặc pháp luật của nước thứ ba.
Ngoài ra, vấn đề dẫn chiếu sẽ không tồn tại trong khi các quốc gia ký
với nhau các hiệp định song phương (thường là các hiệp định TTTP) trong đó
quy định các quy phạm xung đột thống nhất, thì về nguyên tắc, các quy phạm
xung đột thống nhất sẽ được ưu tiên áp dụng.
Việt Nam theo quan điểm thứ hai, đó là chấp nhận dẫn chiếu ngược
trở lại. Theo Khoản 3 Điều 759 BLDS: “… trường hợp pháp luật nước đó dẫn
chiếu trở lại pháp luật Cộng hoà XHCN Việt Nam thì áp dụng pháp luật Cộng
hoà XHCN Việt Nam.”
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Nghị định 138/2006/NĐ-CP thì dẫn
chiếu ngược trở lại và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba được chấp nhận ở
Việt Nam. Vấn đề này trên thực tế rất hiếm gặp, do các quy phạm xung đột
cũng có giới hạn và nhìn chung các quy phạm xung đột của Tư pháp quốc tế
là thống nhất. Đa phần phụ thuộc vào cách giải thích và ý chí của tòa án thụ lý
vụ việc. Chấp nhận dẫn chiếu cũng là tôn trọng ý chí của nhà lập pháp nước
ngoài đã xây dựng nên quy phạm này. Nếu không chấp nhận dễ gây khó khăn
trong việc thụ lý giải quyết vụ ciệc của tòa án. 9 lOMoARcPSD|44744371
Như vậy, khi gặp hiện tượng dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến
pháp luật nước thứ ba, việc áp dụng pháp luật như thế nào sẽ căn cứ theo Tư
pháp quốc tế các nước trên thế giới. Còn riêng trong Tư pháp quốc tế của Việt
Nam, thì vấn đề này được khẳng định là chấp nhận hiện tượng dẫn chiếu.
Trường hợp pháp luật nước đó dẫn chiếu ngược trở lại pháp luật Việt
Nam thì áp dụng pháp luật Việt Nam
Ví dụ: Công dân Việt Nam kết hôn với công dân Anh cư trú tại Việt
Nam. Trong việc kết hôn với công dân giữa Việt Nam và người nước ngoài
thì cân tuân thủ theo pháp luật nước nình về điều kiện kết hôn. Công dân Việt
Nam tuân thủ các quy định về điều kiện kết hôn trong Luật Hôn nhân gia đình
Việt Nam và Công dân Anh cũng phải tuân thủ điều kiện của Anh. Tuy nhiên,
điều kiện kết hôn của công dân Anh ở nước ngoài phải tuân thủ theo pháp luật
mà công dân đó cư trú. Như vậy luật Việt Nam dẫn chiếu đến Anh và luật
Anh dẫn chiếu ngược lại pháp luật của Việt Nam.
Trong trường hợp này mà công dân Anh cư trú tại Trung Quốc thì sẽ
áp dụng luật Trung Quốc. Như vậy luật pháp Việt Nam dẫn chiếu đến luật
Anh và luật Anh dẫn chiếu đến luật Trung Quốc. Đó là dẫn chiếu đến nước thứ ba.
3. Vấn đề có đi có lại trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài
- Được ghi nhận trong đại đa số các nước trên thế giới cũng như được
thể hiện trong nhiều điều ước quốc tế.
- Trong tư pháp quốc tế các nước thì phần lớn đều thừa nhận việc thi
hành các quy phạm xung đột không bị hạn chế bởi các quy định của nguyên
tắc có đi có lại. Có nghĩa là cơ quan tư pháp hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền nào đó vận dụng luật nước ngoài để giải quyết vụ việc sẽ không cần
thiết phải xem xét là ở nước ngoài đó có áp dụng luật pháp của nước kia không. 10 lOMoARcPSD|44744371
- Nguyên tắc có đi có lại được ghi nhận trong luật pháp của đa số các
nước trên thế giới cũng như được thể hiện trong rất nhiều Điều ước quốc tế.
Ví dụ: Khoản 1 Điều 1 Hiệp định thỏa thuận tư pháp Việt Nam – Liên bang
Nga: “Công dân của bên kí kết này được hưởng trên lãnh thổ của bên kí kết
kia sự bảo vệ pháp lý đối với nhân thân và tài sản như công dân của bên kí kết kia”.
- Tư pháp quốc tế các nước phần lớn đều thừa nhận việc thi hành các
Quy phạm xung đột không bị hạn chế bởi các quy định của nguyên tắc có đi
có lại. Điều này có nghĩa, khi cơ quan tư pháp hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền vận dụng luật nước ngoài để giải quyết vụ việc sẽ không cần thiết
phải xem xét là ở nước ngoài đó có áp dụng luật pháp của nước kia không.
Lý giải vấn đề này: Việc áp dụng luật nước ngoài là nhu cầu tất yếu
khách quan để giải quyết các Quan hệ dân sự quốc tế trong sự phối kết hợp
của hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật mà tất cả đều thừa nhận là giữa các hệ
thống pháp luật đó đều bình đẳng đối với nhau. Nguyên tắc này xuất phát từ
nguyên tắc thiện chí giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Toà án khi giải
quyết các vụ dân sự quốc tế, dựa trên các Quy phạm xung đột để cho phép áp
dụng luật nước ngoài là để bảo vệ quyền lợi của quyền lợi chính đáng của các
bên đương sự và cũng không phương hại đến chủ quyền quốc gia, ngoài ra
còn tăng thêm sự hợp tác quốc tế.
Nguyên tắc có đi có lại trong pháp luật Việt Nam được thể hiện trong Bộ
Luật tố tụng dân sự quy định chỉ áp dụng các bản án của nước ngoài đối với
những nước có kí Hiệp định thỏa thuận tư pháp với Việt Nam, trong đó có
quy định về vấn đề công nhận và thi hành bản án, quyết định dân sự của mỗi nước.
4. Dẫn chiếu đến pháp luật của nước chưa được công nhận:
Khi ban hành pháp luật, Nhà nước luôn bảo đảm lợi ích của thể nhân và
pháp nhân nước mình cũng như thể nhân và pháp nhân nước ngoài. Việc thực 11 lOMoARcPSD|44744371
hiện và áp dụng các Quy phạm xung đột trong các Văn bản pháp luật (trong
nước và quốc tế), các cơ quan thực thi pháp luật không được phép phân biệt
đối xử trong quan hệ với bấy kỳ quốc gia nào. Điều này là phù hợp với luật
quốc tế và tập quán quốc tế.
Tuy nhiên, trên thực tế tòa án của một số nước phương Tây đã vi phạm
các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và có những hành vi kì thị đối với các
Hệ thống pháp luật mà quốc gia của họ chưa công nhận. Họ không công nhận
việc dẫn chiếu tới Hệ thống pháp luật của nước chưa được công nhận với lí lẽ
là đến nhà nước còn chưa được công nhận, thì không thể công nhận Hệ thống pháp luật của nó.
Việt Nam luôn khẳng định chính sách đối ngoại nhất quán là chống lại
mọi hành vi phân biệt và kì thị giữa các quốc gia và giữa Việt Nam với các
nước. Giữa các quốc gia Việt Nam đã công nhận và những quốc gia còn chưa
công nhận sẽ không có sự phân biệt hoặc kì thị nào. Việt Nam luôn ủng hộ
quan điểm là việc công nhận quốc gia hay chính phủ không làm phát sinh một
chủ thể mới trong luật quốc tế mà việc công nhận chỉ là thủ tục, các bước tạo
tiền đề cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ và hoàn toàn nhằm củng
cố, tăng cường khả năng hợp tác về mọi mặt giữa nước ta với nước ngoài phù
hợp với đường lối đổi mới công tác đối ngoại của nhà nước là đa phương hóa
và đa diện hóa. Quá trình đấu tranh để giành lại chủ quyền, độc lập tự do của
các dân tộc là một quá trình bền bỉ phức tạp, nước ta luôn ủng hộ quá trình
này, nhằm thiết lập một trật tự pháp lý quốc tế bảo đảm công bằng và công lý
trên toàn thế giới chống lại mọi sự phân biệt kì thị giữa các dân tộc.
5. Lẩn tránh pháp luật:
Lẩn tránh pháp luật là hiện tượng đương sự dung những biện pháp cùng
thủ đoạn để thoát khỏi hệ thống pháp luật đáng nhẽ phải được áp dụng để điều
chỉnh các quan hệ cả họ và nhằm tới một hệ thống pháp luật khác có lợi hơn cho mình. 12 lOMoARcPSD|44744371
Mỗi quốc gia đều có hệ thống quy phạm xung đột riêng, vì vậy, tuy cùng
một vụ việc nhưng cách giải quyết ở các quốc gia sẽ rất khác nhau. Khi nhận
thấy hệ thống pháp luật thực chất do quy phạm xung đột dẫn chiếu đến có khả
năng sẽ gây bất lợi cho mình, một bên trong quan hệ sẽ tìm cách tránh để
không phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật đó và hướng đến một hệ
thống pháp luật khác có lợi hơn trên cơ sở vận dụng các quy phạm xung đột
sao cho có lợi nhất. Đây chính là cơ sở làm phát sinh hiện tượng lẩn tránh
pháp luật trong Tư pháp quốc tế. Để tránh áp dụng hệ thống pháp luật bất lợi
cho mình và áp dụng hệ thống pháp luật có lợi hơn,chủ thể của quan hệ này
thường áp dụng các thủ đoạn như: di chuyển trụ sở, thay đổi nơi cư trú, thay
đổi quốc tịch, chuyển động sản thành bất động sản hoặc ngược lại từ nước này sang nước khác,…
Hầu hết các quốc gia đều xem đây là một hiện tượng không bình thường
và đều tìm cách hạn chế hoặc ngăn cấm. Ở Việt Nam, mọi hành vi lẩn tránh
pháp luật là vi phạm và không được chấp nhận. Thực tiễn ở nước ta về hiện
tượng “lẩn tránh pháp luật” trong Tư pháp quốc tế hầu như chưa có, nhưng
trong các Văn bản pháp luật đã quy định về vấn đề này như: Luật HNGĐ
2014, Nghị định 126/2014/NĐ – CP hay Điều 758 BLDS quy định về QHDS
có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, các quy định này cũng chỉ mới được thể
hiện một vài khía cạnh, chưa đưa ra được cơ sở pháp lý chung để xử lý hiện
tượng “lẩn tránh pháp luật” trong quan hệ có yếu tố nước ngoài.
Thiết nghĩ Nhà nước cần nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện các chế
định, quy định pháp luật để khắc phục hiện tượng lẩn tránh pháp luật trong Tư pháp quốc tế Việt Nam. 13