Bài tập tự luận học phần Lý luận chung
Bài tập tự luận học phần Lý luận chung của trường đại học Luật Hà Nội giúp sinh viên củng cố, ôn tập kiến thức và đạt kết quả cao trong bài thi kết thúc học phần. Mời bạn đón đón xem!
Preview text:
lOMoARc PSD|36215725 1.
Phân tích các đặc trưng cơ bản của nhà nước. Trên cơ sở đó, làm sáng tỏ biểu
hiệnmột đặc trưng của nhà nước Việt Nam hiện nay.
1.1. Đặc trưng cơ bản
- ĐN: : Nhà nước là tổ chức quyền lực công đặc biệt, tập hợp và quản lý dân cư theo lãnh
thổ, nắm giữ và thực thi chủ quyền quốc gia, ban hành pháp luật và thực hiện việc quản lý
xã hội bằng pháp luật, phục vụ lợi ích các giai tầng, lợi ích của cả xã hội, vì sự tồn tại và
phát triển của cả đất nước.. - Đặc điểm:
NN là tổ chức quyền lực công đặc biệt:Nhà nước không phải là một cá nhân riêng biệt mà
là một tổ chức. Quyền lực nhà nước là khả năng nhà nước buộc các tổ chức và cá nhân trong
xã hội phục tùng nhà nước. Quyền lực công đây được hiểu là:
- Thứ nhất quyền lực này được thực hiện một cách công khai: Nghĩa là mọi tổ chức
và các nhân trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đều biết và đều phải phục tùng.
- Thứ 2 đây là quyền lực công cộng: tức là quyền lực đó thường được tạo nên và
được thực hiện bởi 1 cộng đồng người nhất định => đại diện và bảo vệ lợi ích của
1 giai cấp, 1 liên minh giai cấp, 1 cộng đồng dân cư trong 1 địa phương hoặc toàn
quốc gia dân tộc. Quyền lực nhà nước bao trùm toàn bộ lãnh thổ của một đất nước
và có tính tối cao so với quyền lực của các tổ chức khác. Quyền lực nhà nước chi
phối quyền lực của các tổ chức khác trong xã hội.
Để thực hiện quyền lực của mình , Nhà nước thành lập một lớp người chuyên làm nhiệm vụ
quản lí và thực hiện cưỡng chế đối với toàn xã hội nhằm duy trì trật tự xã hội tạo điề kiện
cho xã hội ổn định và phát triển .
Nhà nước phân chia lãnh thổ theo các đơn vị hành chính và thực hiện quản lí
dân cư theo lãnh thổ. Việc phân định lãnh thổ thành các đơn vị hành chính tạo ra khả năng
để tổ chức bộ máy nhà nước một cách chặt chẽ và thống nhất với sự phân công, phân cấp
hợp lí. Nhà nước quản lí dân cư theo địa bàn cư trú của họ chứ không quản lí dân cư theo
mục đích, chính kiến, nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính,… như các tổ chức xã hội khác.
Do vậy nhà nước có cơ sở xã hội và phạm vi tác động rộng lớn nhất trong quốc gia. lOMoARc PSD|36215725
Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia bao gồm quyền quyết định tối
cao trong vấn đề đối nội và quyền độc lập tự quyết trong vấn đề đối ngoại. Hiến pháp các
nước quy định chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân, nhưng nhân dân ủy quyền cho nhà
nước thực hiện do vậy nhà nước là đại diện chính thức cho toàn quốc gia, dân tộc trong các
quan hệ đối nội, đối ngoại.
Trong nước, quy định của nhà nước có tính bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với
các tổ chức, cá nhân có liên quan. Các tổ chức khác chỉ được thành lập hoặc tồn tại và hoạt
động một cách hợp pháp khi được nhà nước cho phép hoặc công nhận.
Trong quan hệ đối ngoại, nhà nước có quyền xác định và thực hiện các đường lối, chính sách đối ngoại của mình.
Nhà nước có quyền ban hành pháp luật và thực hiện quản lí xã hội bằng pháp luật.
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự chung có tính bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực
hiện đối với các tổ chức và cá nhân trong 1 lĩnh vực, 1 phạm vi lãnh thổ, 1 thời hạn nhất
định. Pháp luật là phương tiện đặc biệt quan trọng để tổ chức và quản lí xã hội. Với tư cách
là người đại diện chính thức của toàn xã hội nhà nước là tổ chức duy nhất trong xã hội có
quyền ban hành ra pháp luật.
Pháp luật được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp như: tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục, tổ chức thực hiện,… và các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Pháp luật được triển khai và thực hiện một cách rỗng rãi và có hiệu quả trong phạm vi toàn
xã hội, do vậy pháp luật là phương tiện tổ chức và quản lí xã hội có hiệu quả của n2.
Nhà nước có quyền quy định và thực hiện việc thu các loại thuế dưới các hình thức bắt
buộc, với số lượng và thời hạn định trước, ngoài ra có quyền phát hành tiền, công trái
Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân buộc phải nộp cho nhà nước theo quy định
của pháp luật . Nhà nước là bộ máy được tách ra khỏi lao động sản xuất trực tiếp để chuyên
thực hiện chức năng quản lí xã hội , vì vậy nó phải được nuôi dưỡng từ của cải nhân dân
đóng góp . Chỉ nhà nước mời có quyền quyết định và thực hiện việc thu thuế vì nhà nước là
tổ chức duy nhất có tư cách đại diện chính thức cho toàn xã hội . Nhà nước phát hành tiền
làm phương tiện trao đổi trong sản xuất , phân phối , tiêu dùng của cải trong đời sống . 2 lOMoARc PSD|36215725
2. Phân biệt Nhà nước CHXHCNVN với Đảng cộng sản VN.
* Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay , Nhà nước giữ vị trí trung tâm và có vai tròchủ
đạo đối với quản lí xã hội . Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ tác động qua lại với Đảng
và các tổ chức xã hội khác
* Trong quan hệ giữa Nhà nước với Đảng cộng sản Việt Nam thì Nhà nước là phương
tiệnquan trọng nhất để đưa đường lối , chính sách của Đảng vào cuộc sống thông qua ba
hình thức hoạt động chủ yếu là xây dựng pháp luật , tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ
pháp luật nhắm thực hiện mục tiêu mà Đảng đã đặt ra là dân giàu nước mạnh , dân chủ , công bằng , văn minh
* Đảng Cộng sản Việt Nam là “ lực lượng lãnh đạo Nhà nước “ .
+ Đảng lãnh đạo một cách toàn diện từ tổ chức đến các hoạt động của nhà nước .
+ Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước bằng việc Đảng vạch ra đường lối chiến lược về đối nội
, đối ngoại để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật ; đào tạo
, bồi dưỡng cán bộ cho Nhà nước , giới thiệu đảng viên và người ngoài đảng đủ năng lực và
phẩm chất để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét , bố trí vào những chỗ chủ chốt
trong bộ máy nhà nước hoặc để cử tri bầu vào các cơ quan dân cử trực tiếp
+ Đảng thường xuyên giáp dục chính trị , tư tưởng , đạo đức , tác phong cho cán bộ , đảng
viên và người ngoài Đảng làm việc trong bộ máy nhà nước ; chỉ đạo công cuộc cải cách ,
hoàn thiện bộ máy nhà nước và cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cự trong bộ máy nhà nước hiện nay
+ Các phương pháp chủ yếu mà Đảng sử dụng để lãnh đạo Nhà nước là tuyên truyền , vận
động , giáo dục , thuyết phục và tự nêu gương của đảng viên làm việc trong bộ máy nhà nước
Trong điều kiện một đảng cầm quyền , việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà
nước và Đảng trên cơ sở phân định rõ ràng chức năng Nhà nước với chức năng lOMoARc PSD|36215725
của Đảng có ý nghĩa quan trọng để Nhà nước phát huy hết hiệu lực của mình những
vẫn chịu sự lãnh đạo của Đảng , còn Đảng vẫn lãnh đạo được Nhà nước nhưng không
làm thay đổi Nhà nước . Việc phân định đó chỉ có thể được thực hiện bằng công cụ
pháp luật mới đảm bảo được tính bền vững .
3. Phân loại nhà nước, trình bày khái quát về từng loại nhà nước, cho ví dụ. -
Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người tách ra từ
xãhội để chuyên thực thi quyền lực , nhằm tổ chức và quản lí xã hội , phục vụ lợi ích chung
của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền . -
Theo quan niệm truyền thống, xã hội có giai cấp đã và sẽ trải qua các hình thái kinh
tế xãhội là chiếm hữu nô lệ , phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, tương ứng
với bốn kiểu nhà nước : nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà
nước xã hội chủ nghĩa…
3.1. Kiểu nhà nước chủ nô : -
Kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ ( chủ nô ) là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử xã
hộiloài người . Kiểu nhà nước này được hình thành trên cơ sở chế độ thị tộc , bộ lạc của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy . Do lực lượng sản xuất ngày càng phát triển nên
đã có sự chuyển biến từ nền kinh tế tự nhiên chiếm đoạt sang nên kinh tế sản xuất. Những
biến đổi về kinh tế dẫn đến sự thay đổi về xã hội là hình thành nên các giai cấp đối lập nhau
về quyền lợi kinh tế. Giai cấp chủ nô là giai cấp chiếm số ít trong xã hội nhưng lại sở hữu
phần lớn tư liệu sản xuất không tham gia lao động sản xuất nhưng bóc lột sức lao động.
Ngược lại giai cấp nô lệ chiếm số đông trong xã hội là lực lượng sản xuất chủ yếu nhưng
không sở hữu tư liệu sản xuất và bị bóc lột sức lao động . Điều này đã dẫn đến mâu thuẫn
giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ đến mức không thể điều hòa được làm xuất hiện nhà nước chủ nô.
* Cơ sở kinh tế : chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất . Trong đó, giai cấp chủ nô là chủ
sở hữu của các tư liệu sản xuất chủ yếu. Đối tượng sở hữu của chế độ tư hữu này rất đa dạng 4 lOMoARc PSD|36215725
gồm : đất đai, gia súc, tiền và kể cả nô lệ. Vì vậy , địa vị của giai cấp nô lệ trong xã hội này
rất thấp kém, nô lệ được coi là vật sở hữu của giai cấp chủ nô. * Cơ sở xã hội : mâu thuẫn
giữa giai cấp chủ nô và giai cấp phong kiến -
Về bản chất , nhà nước chủ nô là một bộ máy cưỡng chế dặc biệt , thực hiện chức
năng cơbản là trấn áp giai cấp nô lệ và duy trì mối quan hệ bóc lột giai cấp nhằm bảo vệ
quyền lợi của giai cấp chủ nô -
Ở các nhà nước phương Tây như La Mã , Hy Lạp cổ đại tồn tại chế độ nô lệ điển hình
.Có thể nói , sự xuất hiện của các nhà nước này phù hợp với quan điểm Mác – Lênin bắt
nguồn từ sự chuyển biến về kinh tế là hình thành chế độ tư hữu và sự chuyển biến xã hội là
hình thành nên giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong khi đó các nhà nước phương Đông như
Ai Cập, Ấn Độ với đặc điểm đặc thù là chế độ sở hữu chung về đất đai trong xã công xã .
Thực tế do nhu cầu trị thủy cho nền nông nghiệp và bảo vệ cộng đồng dân cư ở quốc gia này
là những nguyên nhân chủ yếu làm xuất hiện nhà nước chứ không phải là chế độ sở hữu tư
nhân và đấu tranh giai cấp giống như các nhà nước phương Tây.
3.2 Nhà nước phong kiến : -
Kiểu nhà nước phong kiến xuất hiện trên cơ sở hình thành phương thức sản xuất
phongkiến thay cho phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. Nền kinh tế đặc trưng là nền
kinh tế nông nghiệp . Vì vậy , tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai . Chủ sở hữu của các tư liệu
sản xuất là giai cấp địa chủ quý tộc phong kiến còn lực lượng lao động chính sản xuất của
cải vật chất là tầng lớp nông dân. *
Cơ sở kinh tế : chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất . Trong đó giai cấp quý tộc
địachủ phong kiến là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu . Tư liệu sản xuất chủ yếu là
đối tượng sở hữu của chế độ sở hữu này là đất đai *
Cơ sở xã hội : mâu thuẫn giai cấp có tính chất đối kháng giữa giai cấp quý tộc địa
chủphong kiến và giai cấp nông dân. lOMoARc PSD|36215725 -
Về bản chất , nhà nước phong kiến là công cụ của giai cấp quý tộc địa chủ phong
kiếnchiếm số ít trong xã hội nhằm trấn áp , bóc lột đối với giai cấp nông dân là một bộ phận
chiếm số đông và cũng là lực lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội . 3
3.3 . Nhà nước tư sản : -
Phương thức tư bản chủ nghĩa với đặc trưng là nền kinh tế công nghiệp và nên kinh
tế thịtrường hàng hóa. Giai cấp tư sản được hình thành từ tầng lớp thị dân ngày càng có sức
mạnh về kinh tế nhưng lại không thỏa mãn về địa vị chính trị . Trong khi đó , giai cấp quý
tộc phong kiến nắm toàn bộ quyền lực về chính trị nhưng sức mạnh kinh tế ngày càng suy
giảm. Khi mẫu thuẫn xã hội đi đến đỉnh điểm thì mâu thuẫn này được giải quyết bằng các
cuộc cách mạng tư sản. -
Giai cấp tư sản chiếm thiểu số trong xã hội nhưng nắm giữ phần lớn tư liệu sản xuất
haynguồn tài sản của xã hội nên có khả năng quyết định quá trình tổ chức lao động và phân
phối sản phẩm lao động . Trong khi đó, giai cấp vô sản chiếm số đông trong xã hộ là lực
lượng sản xuất chính và bị bóc lột sức lao động . Với cơ sở kinh tế hay chế độ sở hữu tư
nhân trong giai đoạn này tất yếu hình thành nên mâu thuẫn giai cấp giữa giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản. Đây chính là cơ sở xã hôi – cơ sở tồn tại trực tiếp của nhà nước tư sản . *
Cơ sở kinh tế : chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất . Trong đó, giai cấp tư sản là chủ
sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu. Tư liệu sản xuất chủ yếu đối tượng sở hữu của chế độ tư hữu này là vốn. *
Cơ sở xã hội : mâu thuẫn giai cấp có tính chất đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai
cấpvô sản ( trực tiếp nhất là giai cấp công nhân )
=> Về bản chất , nhà nước tư sản là công cụ của giai cấp tư sản chiếm số ít trong xã hội
nhằm trấn áp, bóc lột đối với giai cấp vô sản là bộ phận chiếm số đông và cũng là lực lượng
sản xuất chủ yếu trong xã hội . Vì vậy, nhà nước tư sản cũng mang bản chất “bóc lột” giống
như các kiểu nhà nước trước đó.
3.4. Nhà nước xã hội chủ nghĩa: 6 lOMoARc PSD|36215725
Nhà nước XHCN là kiểu nhà nước được chủ nghĩa Mác – Lênin dự báo tất yếu sẽ xuất
hiện thay thế cho nhà nước tư sản. Sự thay thế này diễn ra theo quy luật chung của chủ nghĩa
duy vật lịch sử - thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội TBCN sang XHCN . Về cơ sở kinh tế
, phương thức sản xuất XHCN thực hiện dựa trên chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất .
Chủ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội là giai cấp giống như các giai đoạn
trước của xã hội. Về cơ sở xã hội, trong giai đoạn này tồn tại hai giai cấp chủ là giai cấp
công nhân và giai cấp nông dân, các giai cấp này liên minh , hợp tác với nhau cùng thực
hiện mục tiêu chung là giải phóng giai cấp , nhà nước. Ngoài ra, trong xã hội vẫn còn tầng
lớp tư sản, tiểu tư sản và thành phần bóc lột còn sót lại dần dần sẽ cải tạo để trở thanh giai
cấp vô sản nhằm chuẩn bị cơ sở xã hội hoàn bị cho chủ nghĩa cộng sản – xã hội không còn
giai cấp và nhà nước nữa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước trong giai đoạn quá độ
của xã hội cộng sản chủ nghĩa, các giai cấp vẫn còn nhưng không đối kháng , áp bức và bóc
lột tiến đến xã hội không còn đấu tranh và áp bức giai cấp, và khi áp bức giai cấp mất đi ,
nhà nước sẽ tự tiêu vong *
Cơ sở kinh tế : xây dựng chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất . Trong đó , giai cấp
vôsản là chủ sở hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. *
Cơ sở xã hội : liên minh, hợp tác giữa các giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là
chủyếu chứ không phải là mâu thuẫn giai cấp.
=> Do đó , nhà nước XHCN là nhà nước có bản chất “dân chủ” còn nhà nước chủ nô, phong
kiến, tư sản mang tính chất “bóc lột”.
4. Trình bày khái niệm bản chất nhà nước. Phân tích ý nghĩa của vấn đề bản chất nhà nước.
* Bản chất nhà nước là tổng hợp những mặt, những mối liên hệ, những thuộc tính tất
nhiên,tương đối ổn định bên trong của nhà nước, quy định sự tồn tại, phát triển của nhà nước.
* Bản chất Nhà nước có hai thuộc tính là tính xã hội và tính giai cấp. lOMoARc PSD|36215725 4.1. Tính giai cấp:
a. Nêu định nghĩa nhà nước b. Khẳng định :
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì tính giai cấp là thuộc tính cơ bản và không thể
thiếu của tất cả các nhà nước.
c. Lý do nhà nước có tính giai cấp: -
Nhà nước xuất hiện do nhu cầu bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị của giai cấp thống trị
hoặclực lượng cầm quyền. -
Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp, tức là xã hội có sự phân chia giai cấp,
mâuthuẫn và đấu tranh giai cấp. -
Nhà nước là hình thức tổ chức của xã hội có giai cấp, bởi lẽ sau khi trong xã hội đã
xuấthiện giai cấp, mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp thì không thể tổ chức theo hình thức thị
tộc bộ lạc được nữa mà phải tổ chức thành nhà nước, với sức mạnh và bộ máy cưỡng chế
của nó thì mới đủ khả năng làm dịu xung đột giai cấp trong xã hội hoặc giữ cho xung đột đó
ở trong vòng một “trật tự” nhất định, có như vậy, xã hội mới tồn tại và phát triển được. d.
Biểu hiện của tính giai cấp của nhà nước: -
Tính giai cấp của nhà nước được thể hiện ở chỗ: nhà nước là bộ máy chuyên chính
giai cấp, tức là công cụ để thực hiện, củng cố và bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị thống trị của
lực lượng hoặc giai cấp cầm quyền trong xã hội trên ba lĩnh vực : kinh tế, chính trị và tư tưởng. -
Sự thống trị xã hội thể hiện chủ yếu ở ba lĩnh vực : kinh tế, chính trị và tư tưởng, trong
đólĩnh vực tiền đề và giữ vai trò quyết định là kinh tế. Thông thường giai cấp hoặc lực lượng
nắm quyền sở hữu phần lớn tư liệu sản xuất hoặc tài sản của xã hội sẽ trở thành lực lượng
thống trị về kinh tế hay chủ thể của quyền lực kinh tế, có thể bắt lực lượng khác phải phụ
thuộc nó về mặt kinh tế hoặc bóc lột các lực lượng khác. Do vậy, sự thống trị về kinh tế
tạo ra tiền đề, cơ sở cho sự thống trị giai cấp. 8 lOMoARc PSD|36215725 -
Tuy nhiên, quyền lực kinh tế không đủ khả năng duy trì sự thống trị, vì thế để bảo vệ
lợiích của mình, lực lượng thống trị phải dùng bộ máy nhà nước để trấn áp sự phản
kháng, sự chống đối của các giai cấp, lực lượng khác và nhà nước trở thành bộ máy cưỡng
chế đặc biệt, thành công cụ để bảo vệ lợi ích kinh tế của lực lượng cầm quyền. -
Nhà nước bảo vệ lợi ích bằng cách dùng bộ máy bạo lực như quân đội, cảnh sát, tòa
án…Đồng thời nhà nước thể hiện ý chí của mình mà trước tiên là ý chí của lực lượng cầm
quyền thông qua pháp luật, thông qua các quy định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực
hiện, bắt cả xã hội phải phục tùng ý chí của nó. Bên cạnh đó, nhà nước còn tổ chức, quản
lí và sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng; các cơ sở văn hóa giáo dục nhằm tạo
ra sự phục tùng tự giác của các giai cấp, lực lượng khác. e. Biểu hiện của tính giai cấp qua
các kiểu nhà nước: -
Ở các nhà nước chủ nô, phong kiến, do điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ phát
triểncủa xã hội lúc đó nên các nhà nước này chủ yếu bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô, địa
chủ, quý tộc phong kiến, tăng lữ, đàn áp nô lệ, người dân và những người lao động khác nên
tính giai cấp của các nhà nước này thể hiện cực kỳ công khai và rõ rệt. -
Ở các nhà nước tư sản, biểu hiện tính giai cấp của nhà nước có sự thay đổi qua các
giaiđoạn phát triển của nhà nước tư sản. Trong thời kỳ của chủ nghĩa đế quốc, khi các nhà
nước tư bản chủ yếu bảo vệ lợi ích của các tập đoàn tư bản độc quyền lũng đoạn nhà nước
thì tính giai cấp của nhà nước cũng thể hiện rõ rệt. Ở giai đoạn của chủ nghĩa tư bản hiện
đại, do sự thay đổi trong điều kiện kinh tế, sự phát triển của xã hội, của KHKT và của nền
dân chủ, tính giai cấp của nhà nước có xu hướng thể hiện ít sâu sắc, rõ rệt hơn giai đoạn
trước. Trong các chính sách của nhà nước, bên cạnh việc tính đến lợi ích của các tập đoàn
tư bản độc quyền, của giai cấp tư sản, nhà nước tư sản còn tính đến lợi ích của các giai cấp,
tầng lớp khác, của cả cộng đồng. -
Ở các nước xã hội chủ nghĩa sau này và nhà nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện
nay,tính giai cấp của nhà nước thể hiện mờ nhạt, hạn chế nhiều hơn so với tính xã hội. Nhà lOMoARc PSD|36215725
nước bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhận và những người lao động khác dưới sự lãnh đạo
của đản cộng sản, nhà nước là công cụ để thực hiện và bảo vệ sự lãnh đạo của đảng cộng
sản, là công cụ chủ yếu để xây dựng thành công CNXH. 4.2. Tính giai cấp:
a. Nêu định nghĩa nhà nước: b. Khẳng định
Cùng với tính giai cấp thì tính xã hội cũng là thuộc tính cơ bản, khách quan và không thể
thiếu của tất cả các nhà nước
c. Lý do nhà nước có tính xã hội -
Nhà nước xuất hiện do nhu cầu điều hành và quản lý xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn
trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội -
Nhà nước là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người, là một tổ chức trong xã hội,
nóchỉ ra đời, tồn tại và phát triển trong lòng xã hội loài người ở những giai đoạn lịch sử nhất
định và có sứ mệnh điều hành, quản lí xã hội. -
Nhà nước là một hình thức tổ chức của xã hội nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển củaxã hội.
d. Biểu hiện tính xã hội của nhà nước: -
Tính xã hội của nhà nước thể hiện ở chỗ: nhà nước là bộ máy để tổ chức, quản lí xã
hội,nhằm thiết lập, giữ gìn trật tự và sự ổn định của xã hội, bảo vệ lợi ích chung của cả
cộng đồng, vì sự phát triển của xã hội. -
Bất cứ xã hội nào muốn tồn tại và phát triển được cũng phải có trật tự và sự ổn
địnhtương đối, tức là phải được tổ chức và quản lí chặt chẽ. Xã hội nào cũng có hàng loạt
các vấn đề mang tính chất chung như: sản xuất, thiên tai, địch họa, trật tự… để giải quyết
các vấn đề chung đó cần một tổ chức thay mặt xã hội nhân danh xã hội để tổ chức, tập
hợp, quản lí toàn xã hội, tổ chức phải nhân danh quyền lực chung của toàn xã hội. Tổ chức đó chính là nhà nước 10 lOMoARc PSD|36215725 -
Nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội nên ở mức độ này hay mức độ
khác phải có trách nhiệm xác lập, thực hiện và bảo vệ các lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc
gia, dân tộc và công dân của mình; phải tập hợp và huy động mọi tầng lớp trong xã hội vào
việc thực hiện các nhiệm vụ chung để bảo vệ chủ quyền, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội;
duy trì trật tự xã hội và giải quyết các vấn đề phát sinh trong nước và quốc tế, tạo điều kiện
cho các lĩnh vực hoạt động của xã hội được tiến hành bình thường, có hiệu quả, thúc đẩy sự
phát triển của xã hội để quản lí xã hội, giải quyết các công việc chung của cả cộng đồng xã hội. -
Nhà nước có nhiều hoạt động vì lợi ích của các giai cấp, lực lượng khác nhau trong
xã hội, của cả cộng đồng như : xây dựng và phát triển giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, … -
Nhà nước là bộ máy cưỡng chế để bảo vệ công lí, công bằng xã hội, bảo vệ trật tự
an ninh an toàn xã hội , bảo đảm trật tự an toàn giao thông … -
Nhà nước thay mặt xã hội thực thi chủ quyền quốc gia, phòng, chống ngoại xâm,
bảo vệ Tổ quốc… Không những thế, nhà nước còn là công cụ để giữ gìn và phát triển những
tài sản văn hóa tinh thần chung của xã hội, những giá trị đạo đức, truyền thống và phong tục,
tập quán phù hợp với ý chí của nhà nước.
d. Tính xã hội thay đổi qua các giai đoạn : -
Ở các nhà nước chủ nô và phong kiến, do cơ sở kinh tế - xã hội và trình độ phát triển
củaxã hội lúc đó nên tính xã hội của các nhà nước đó thể hiện khá mờ nhạt và hạn chế. Nhà
nước đã thực hiện một số hoạt động vì lợi ích chung của xã hội như xây dựng và bảo vệ các
công trình thủy nông, xây dựng đường sá, cầu cống, thúc đẩy một số ngành nghề sản xuất phát triển. -
Khi nhà nước tư sản ra đời, do yêu cầu và phát triển của xã hội, của nền dân chủ nên
tínhxã hội của nhà nước tư sản thể hiện rõ rệt và rộng rãi hơn nhiều so với các nhà nước chủ
nô và phong kiến, đặc biệt là giai đoạn hiện tại. Nhà nước tư sản để thực hiện khá nhiều lOMoARc PSD|36215725
chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội, của nền văn minh nhân loại, nhưng
tất nhiên là không ảnh hưởng nhiều đến lợi ích của giai cấp tư sản, của lực lượng cầm quyền.
- Ở các nhà nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, tính xã hội đã thể hiện khá rộng rãi
và rõ rệt, phần lớn các hoạt động của nhà nước là vì lợi ích chung của xã hội, của cả cộng đồng. -
Nhà nước xã hội chủ nghĩa sau này sẽ là kiểu nhà nước thể hiện tính xã hội rộng rãi,
rõrệt và sâu sắc nhất. Nhà nước sẽ dần thành nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, là công cụ để phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội và là công cụ chủ yếu để
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
=> Cùng với sự phát triển của KHKT, dân chủ và văn minh mà tính xã hội của nhà nước có
xu hướng thể hiện ngày càng rõ rệt, rộng rãi và sâu sắc hơn; sự giới hạn quyền lực nhà nước
được xác định ngày càng chặt chẽ hơn; tính minh bạch, công khai và cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước ngày càng được thực hiện có hiệu quả hơn; quá trình xã hội hóa một số hoạt
động của nhà nước diễn ra ngày càng mạnh mẽ hơn.
4.2. Ý nghĩa của việc tìm hiểu bản chất nhà nước: -
Theo quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước xét về bản chất, là một
hiệntượng thuộc thượng tầng kiến trúc, tồn tại dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định; là công
cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là một tổ chức quyền lực
đặc biệt, có bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý nhằm
thực hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng. -
Dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trên cơ sở kế
thừa,phát huy những quy định của các bản Hiến pháp trước trong điều kiện đổi mới đất nước,
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định bản chất nhà nước một cách mềm
dẻo hơn, thể hiện một cách sâu sắc và đầy đủ bản chất của nhà nước ta. -
Bản chất nhà nước ta được cụ thể hóa qua từng chế định được quy định trong
Hiến pháp hiện hành. Việc nắm vững bản chất của nhà nước ta có ý nghĩa nhận thức và 12 lOMoARc PSD|36215725
thực tiễn vô cùng quan trọng đối với công dân Việt Nam nói chung và có ý nghĩa hơn đối
với đối tượng nghiên cứu là sinh viên - đội ngũ tri thức trẻ. -
Trước hết, việc nắm vững bản chất nhà nước ta góp phần làm cho sinh viên hiểu và
thêmyêu chế độ của đất nước ta. Từ đó củng cố niềm tin vào nhà nước, vào chế độ và vào
tương lai của đất nước. Đây là tiền đề quan trọng cho sự phát triển những giá trị của dân tộc về sau. -
Tiếp đó,việc nắm vững bản chất của nhà nước tạo những điều kiện cần thiết cho sinh
viênphát huy quyền hợp pháp và làm tròn nghĩa vụ của công dân đối với đất nước và toàn
xã hội. Từ đây sinh viên có thể bằng chính năng lực và khả năng sáng tạo của mình tham gia
vào các hoạt động kinh tế, sáng tạo những giá trị văn hóa mới vừa mang tính hiện đại vừa
thấm nhuần nền văn hóa dân tộc, tạo nên một nét đẹp hài hòa mang đậm dấu ấn riêng. Và
đó chính là cơ sở tạo tiền đề cho sự tham gia tích cực vào các hoạt động củng cố khối đại
đoàn kết dân tộc, bởi môi trường học tập là nơi giao lưu với nhiều bè bạn từ các vùng miền
trên cả nước; vì vậy nắm vững bản chất sẽ giúp sinh viên nhận thức được vấn đề củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân không chỉ là nhiệm vụ của các cấp các ngành hay khi đất nước
vào thời chiến mà nó là nhiệm vụ của toàn dân mọi thời đại, mọi lúc mọi nơi và không bao
giờ được buông lỏng nó. -
Từ đó, góp phần nâng cao ý thức tinh thần trách nhiệm và ỹ thức thực hiện nghĩa vụ
xâydựng và bảo vệ tổ quốc của công dân; mà trước hết đối với sinh viên đó là ra sức học tập
và công tác tốt tạo tiền đề tri thức cho sự phát triển đất nước bền vững trong tườn lai.Và đề
cao cảnh giác, ý thức giai cấp đấu tranh làm thất bại âm mưu xuyên tạc bản chất ưu việt của
nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. -
Và hơn hết, chính việc năm vững bản chất nhà nước ta và nhận thức được tầm ưu việt
củanó sẽ đó tạo niềm tin chothế hệ trẻ một xã hội “dân chủ– công bằng – văn minh - tiến
bộ” trong tương lai không xa, từ đó tạo tâm thế vững vàng cho sự nghiệp cống hiến vì tương lOMoARc PSD|36215725
lai dân tộc, vì mong mỏi của Bác Hồ kính yêu là dân tộc ta “sánh vai với các cường quốc
năm châu” trên thế giới. 5.
Phân tích sự thống nhất giữa tính xã hội và tính giai cấp của nhà nước. Trình
bàyảnh hưởng của nó trong việc thực hiện chức năng nhà nước Việt Nam hiện nay.
5.1 Sự thống nhất giữa tính xã hội và tính giai cấp -
Trong bất cứ chế độ xã hội nào (XHCN, TBCN...), nhà nước đều là công cụ của giai
cấpnắm chính quyền. Vì vậy nhà nước của chế độ xã hội nào thì bảo vệ và phục vụ cho chế
độ xã hội đấy. Đó là tính giai cấp rõ nét nhất của nhà nước.Chức năng giai cấp của Nhà nước
giữ vai trò định hướng, chi phối chức năng xã hội. Đến lượt nó, chức năng xã hội là điều
kiện, là cơ sở xã hội để thực hiện chức năng giai cấp. Nhà nước ta mang bản chất giai cấp
công nhân, đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. -
Chức năng xã hội với nội dung chủ yếu là tổ chức, quản lý và xây dựng xã hội mới
phục vụ lợi ích cho toàn xã hội trên lập trường của giai cấp công nhân. Tính giai cấp của nhà
nước thì được thể hiện ở rất nhiều mặt, trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống: Nhà
nước có tính giai cấp bởi vì nó được lập ra và duy trì nhằm bảo vệ lợi ích của một giai cấp
nhất định, giai cấp đã sinh ra nó. Nhà nước là công cụ để giai cấp đó thực hiện chuyên chính
với tất cả các giai cấp khác trong xã hội. Ví dụ nhà nước chuyên chính tư sản thì phục vụ lợi
ích của giai cấp tư sản có vai trò áp đặt sự thống trị nên các giai cấp khác và có các công cụ
bạo lực như cảnh sát, tòa án, quân đội để đàn áp. Tương tự như vậy với nhà nước chuyên chính vô sản.
Chừng nào không còn các giai cấp tồn tại thì cũng không còn nhà nước tồn tại. - Chức năng
giai cấp của Nhà nước giữ vai trò định hướng, chi phối chức năng xã hội. Đến lượt nó, chức
năng xã hội là điều kiện, là cơ sở xã hội để thực hiện chức năng giai cấp. Nhà nước ta mang
bản chất giai cấp công nhân, đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chức
năng xã hội với nội dung chủ yếu là tổ chức, quản lý và xây dựng xã hội mới phục vụ lợi ích 14 lOMoARc PSD|36215725
cho toàn xã hội trên lập trường của giai cấp công nhân.Thứ nhất, là tính giai cấp của Nhà
nước: thể hiện ở chỗ nhà nước là công cụ thống trị trong xã hội để thực hiện ý chí của giai
cấp cầm quyền, củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản
chất của nhà nước chỉ rõ nhà nước đó là của ai, do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo, phục vụ
lợi ích của giai cấp nào?
=> Vì vậy nhà nước tồn tại với hai tư cách:
1. Một là bộ máy duy trì sự thống trị của giai cấp này với giai cấp khác.
2. Hai là tổ chức quyền lực công – tức là nhà nước vừa là người bảo vệ pháp luật vừa làngười
bảo đảm các quyền công dân được thực thi. Trong nhà nước, giai cấp thống trị tồn tại
trong cả mối quan hệ giữa các tầng lớp giai cấp khác, do vậy, ngoài tư cách là công cụ
duy trì sự thống trị, nhà nước còn là công cụ để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội.
5.2. Trình bày ảnh hưởng của nó trong việc thực hiện chức năng nhà nước Việt Nam hiện nay. -
Chức năng nhà nước là những mặt hoạt động cơ bản của nhà nước phù hợp với bản
chất, mục đích, nhiệm vụ của nhà nước và được xác định bởi điều kiện kinh tế - xã hội của
đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó. -
Nói đến chức năng nhà nước là nói đến những hoạt động cơ bản của nhà nước để
thựchiện những công việc mà nhà nước phải làm, đó là tổ chức và quản lí các mặt của đời
sống xã hội. Chức năng nhà nước luôn phản ánh bản chất nhà nước hay do bản chất nhà
nước quyết định. Với bản chất là nhà nước của dân, do dân và vì dân và là bộ máy chuyên
chính vô sản thì các chức năng tổ chức và quản lí kinh tế, tổ chức và quản lí văn hóa, giáo
dục, kĩ thuật… là chức năng phổ biến của các nhà nước XHCN. -
Trong quá trình xây dựng CNXH, nhà nước VN có hai nhiệm vụ chính phù hợp vs
bảnchất NN là xây dựng tổ quốc XHCN và bảo vệ Tổ quốc XHCN, tất cả các chức năng của
NN đều được xác định và thực hiện nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này.
6. Phân tích vai trò xã hội của nhà nước CHXHCNVN hiện nay. lOMoARc PSD|36215725
- Nhà nước có sứ mệnh tổ chức và quản lý cac mặt hoạt động cơ bản trong đời sống xã
hội, nhằm xây dựng 1 xã hội mới trong đó mọi người đều đc công bằng bình đẳng,
giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công, mọi người đều hoàn toàn tự do bình đẳng với
nhau, đời sống vật chất tinh thần ngày càng đc nâng cao
- Nhà nước tổ chức cho xã hội thực hiện các hoạt động kinh tế - xã hội và có thể trực
tiếp thực hiện các hoạt động đó. Tất cả đều nhắm đến mục tiêu dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng dân chủ văn minh, hiện đại.
- NN hướng tới việc đem lại lợi ích cho toàn thể cộng đồng xã hội, không phân biệt giai
cấp, tầng lớp, dân tộc tôn giáo…Mọi thành viên trong xã hội đều được nhà nước chăm
sóc, bảo đảm, bảo vệ các quyền và lợi ich chính đáng của họ
- NN tích cực phát triển nền giáo dục, y tế hiện đại, xây dựng cơ sở hạ tầng,vật chất kỹ
thuật cùng các công trình phúc lợi xã hội, cung cấp dịch vuj công cho xã hội và bảo vệ môi trường sống.
- NN có gắng thiết lập trật tự an ninh, an toàn xã hội, trấn áp những phần tử phản tiến
bộ, thiếu ý thức và không lương thiện
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân do dân vì dân điều đó được thể hiện ở những điểm sau:
+ Trong xã hội, mọi quyền lực nhà nước đều là của toàn thể nhân dân, đều xuất pháp
từ nhân dân, do nhân dân ủy quyền cho nhà nước thực hiện nên nhà nước chỉ là công
cụ để đại diện và thực hiện quyền lực của nhân dân mà không phải là bộ máy để cai trị nhân dân
+ NN là của toàn thể nhân dân, nhân dân là chủ của đất nước, có quyền quyết định tối
cao và cuối cùng các vấn đề trọng đại của đất nước, các vấn đề có liên quan đến vận
mệnh quốc gia, nhà nước phải phục tùng ý chí của nhân dân
+ NN là do nhân dân tổ chức nên, thông qua việc bầu cử, nhân dân đã trực tiếp hoặc
gián tiếp thành lập nên cá CQNN. Các đại biểu do nhân dân bầu ra chỉ là những người
được sự ủy quyền của nhân dân, chỉ là “công bộc” “đầy tớ” của nhân dân chứ ko phải
là ông chủ của nhân dân.
+ NN phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ rộng rãi cho công dân, phải xây dựng
các thiết chế dân chủ để đảm bảo thực thi các quyền đó và phải tạo điều kiện cần thiết 16 lOMoARc PSD|36215725
khác để cho quyền làm chủ của nhân dân dân dần trở thành hiện thực đối với đa sô nhân dân.
+ NN phải bảo vệ các quyền tự do dân chủ của nhân dân, nghiêm trị các hành vi mà
xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Nhân dân được quyền giám
sát các hoạt động của các nhân viên và CQNN, phê bình, xây dựng, giúp đỡ để nhà
nước ngày càng trong sạch vững mạnh hơn
+ Nhà nước phải phục vụ cho lợi ích và đáp ững tốt nhất những nguyện vọng chính
đang của nhân dân. Mọi chính sách của nhà nước đều phải xuất phát từ nhân dân.
Phải ưu tiên lợi ích của nhân dân hơn nhu cầu của nhà nước
+ Các cán bộ, nhân viên của nhà nước vừa là đầy tớ, vừa là người lãnh đạo, hướng
dẫn nhân dân hoạt động nên phải trung thành và tận tuy với nhân dân, phải thực sự
trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không có đặc quyền đặc lợi.
- NNXNCN là công cụ chủ yếu để xây dựng nền dân chủ XHCN, xây dựng 1 xã hội công
bằng, nhân đạo và bình đẳng 7.
Trình bày sự hiểu biết của anh/chị về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhândân. Theo anh (chị), làm thế nào để một nhà nước thực sự là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.
7.1. Sự hiểu biết về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam , tổ chức và hoạt động theo tinh thần đề cao chủ quyền nhân dân , những vấn đề quan
trọng nhất của đất nước do nhân dân quyết định . Nhà nước coi con người là giá trị cao nhất
trong xã hội , luôn phấn đấu vì hạnh phúc con người ; quyền lực nhà nước là thống nhất , có
sự phân công phối hợp , kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp , hành pháp và tư pháp ; thừa nhận vị trí tối thượng của hiến pháp và luật trong đời sống xã hội lOMoARc PSD|36215725
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai câp công nhân và giai cấp nông dân cùng đội ngũ tri thức
=> Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân , do nhân dân và vì nhân dân . 1.C a dân ủ
Gốc của quyền lực nhà nước là của toàn thể nhân dân do nhân dân ủy quyền cho nhà
nước thực hiện, thế nên nhà nước chỉ là công cụ đại diện và thực hiện quyền lực của nhân
dân mà không phải là bộ máy để áp bức và cai trị nhân dân.
Nhân dân có quyền quyết định tối cao và cuối cùng mọi vấn đề có liên quan đến vận
mệnh quốc gia, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Người dân được hưởng mọi quyền tự do dân chủ, nhân dân có quyền làm bất cứ việc
gì mà pháp luật không cấm nhưng phải có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện pháp luật của nhà
nước. NN phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ rộng rãi cho công dân, phải xây dựng các
thiết chế dân chủ để đảm bảo thực thi các quyền đó và phải tạo các điều kiện cần thiết khác
để làm cho quyền làm chủ của nhân dân dần trở thành hiện thực đối với đa số nhân dân.
Các đại biểu do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra chỉ là những người được sự
ủy quyền của nhân dân nên đó chỉ là “công bộc” hay “đầy tớ” của nhân dân chứ ko phải là
ông chủ của nhân dân. Vì thế nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu khi những người này
không còn xứng đáng với sự ủy nhiệm của nhân dân.
VD : tên của nhiều cơ quan quan trọng đều có chữ “nhân dân” : Tòa án nhân dân; hội
đồng nhân dân; ủy ban nhân dân… 2.Do dân -
Nhà nước do nhân dân tổ chức nên thông qua việc trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập
nêncác cơ quan nhà nước -
Nhà nước do nhân dân ủng hộ, đóng thuế để nuôi và giám sát hoạt đông của các
nhânviên và cơ quan nhà nước. -
Nhà nước do nhân dân phê bình, xây dựng giúp đỡ để cho nhà nước ngày càng
trongsạch vững mạnh hơn. 18 lOMoARc PSD|36215725 -
Nhân đân không chỉ lập ra các cơ quan nhà nước mà còn có thể trực tiếp làm việc
trongcác cơ quan đó để trực tiếp nắm giữ và thưc hiện quyền lực nhà nước. VD : nhân dân
bầu cử ra các đại biểu quốc hội. 3.Vì dân -
Đó là nhà nước phục vụ cho lợi ích và đáp ứng tốt nhất những nguyện vọng của
nhândân. Mọi chính sách của nhà nước đều phải xuất phát từ nhu cầu của nhân dân, phải ưu
tiên lợi ích của nhân dân hơn nhu cầu của nhà nước. -
Các cán bộ, nhân viên của nhà nước vừa là đầy tớ, vừa là người lãnh đạo, hướng
dẫnnhân dân hoạt động nên phải trung thành, tận tụy với nhân dân, phải thực sự trong sạch,
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư ko có đặc quyền đặc lợi.
VD : dân được hưởng các thành quả do xã hội mang lại, dân được phát biểu ý kiến, khiếu nại, tố cáo...
Nhà nước của nhân dân , do nhân dân thì sẽ vì nhân dân , do vậy , các cơ quan nhà
nước , cán bộ công chức , viên chức nhà nước ở Việt Nam phải luôn tôn trọng nhân
dân , tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân , lắng nghe ý kiến và
chịu sự giám sát của nhân dân .
7.2. Để có nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân cần: -
Hiện nay, đất nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hộinhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong bối cảnh
đó, yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đặt ra rất cấp bách. -
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ cả lập
pháp,hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo
hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội”. lOMoARc PSD|36215725 -
Gắn kết chặt chẽ bản chất giai cấp của Nhà nước với tính dân tộc, tính nhân dân, thể
hiệnsâu sắc ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bởi lợi ích căn bản của giai cấp công nhân,
của dân tộc và của nhân dân là thống nhất. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ -
Xây dựng Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, gần dân, sâu sát dân, bảo đảm trên
thực tế mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Tổ chức nhiều hình thức phù hợp để nhân dân tích
cực tham gia hoạch định chính sách, pháp luật và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp
luật của các cơ quan nhà nước, coi đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta. Chính
quyền có trong sạch, được dân tin yêu, ủng hộ thì mới vững mạnh, giữ vững được quốc
phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, tạo động lực to lớn để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao vị thế, uy tín của
nước ta trên trường quốc tế. -
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
donhân dân và vì nhân dân là phương hướng cơ bản để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, siết chặt kỷ
luật; quyền đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ; dân chủ được thể chế hóa thành pháp luật, dân
chủ trong khuôn khổ pháp luật. -
Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ quan trọng và
hữuhiệu để bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội. Đẩy mạnh các
hoạt động thanh tra, kiểm tra trong nội bộ các cơ quan, tổ chức nhà nước; đề cao trách nhiệm
kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới, của các cấp chính quyền đối với mọi cơ quan, tổ chức
trên địa bàn, lãnh thổ. Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự, khắc phục tình trạng vô kỷ luật, dân 20 lOMoARc PSD|36215725
chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối an ninh, trật tự; làm thất bại mọi âm mưu, hoạt
động của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo” để chống phá chế độ ta. -
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong bộ máy nhà nước đáp
ứngyêu cầu của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp) để các
cơ quan này thực sự là cơ quan đại diện của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước
trong việc xem xét và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương. -
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên
trongviệc xây dựng, bảo vệ chính quyền, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thu hút sự
tham gia ngày càng rộng rãi của nhân dân vào công việc quản lý nhà nước, đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà
nước cũng như trong đời sống xã hội. -
Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ sự nghiệp đổi mới đất nước, tận dụng mọi thời
cơ,vượt lên mọi khó khăn, thách thức, nhất định công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân sẽ giành được những
thành tựu to lớn hơn nữa, đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
8. Trình bày sự hiểu biết của anh/chị về nhà nước dân chủ. Theo anh/chị, làm thế nào
để một nhà nước dân chủ thực sự và rộng rãi.
- Chế độ chính trị dân chủ là phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước trong đó bảo
đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (hay là chủ quyền nhân dân)
cũng như bảo đảm các quyền tự do về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của con người
(hay còn gọi là quyền còn người). Có hai hình thức thực hiện chế độ chính trị dân chủ
là: Trực tiếp (thông qua bầu cử, trưng cầu ý dân), cử đại diện. Một trong những đặc trưng
nổi bật nhất của hình thức quản lý của chế độ dân chủ là thiết lập và duy trì nguyên tắc lOMoARc PSD|36215725
“thiểu số phục tùng đa số” và thừa nhận quyền tự do trong chính kiến và bình đẳng về
giới tính, về dân tộc, về chính trị xã hội của công dân.
Chế độ dân chủ ra đời đánh dấu bước tiến bộ trong lịch sữ phát triển của loài người, trước
hết là trong đấu tranh giai cấp nhằm chống lạichế độ quân chủ mà thực chất của nó là một
người quyết định tất cả, là hình thức thống trị của một cá nhân. Có các loại: dân chủ tư
sản,dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ nhân dân, dân chủ đại diện, dân chủ thuần túy; dân
chủ hình thức; dân chủ giả hiệu.
Dân chủ ở nước ta được thể hiện, mở rộng và có cơ chế để đảm bảo thực hiện trên nhiều
lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, hệ thống pháp luật, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước.Dân chủ thực sự về kinh tế thể hiện qua cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
tạo điều kiện cho mọi công dân phát huy được quyền tự chủ của mình trong sản xuất, kinh
doanh. Mọi công dân có quyền lao động và hưởng thành quả lao động theo năng lực và
sự đóng góp của mình, có quyền tự do kinh doanh, sản xuất, đầu tư… Nhà nước còn có
những chính sách thiết thực để khuyến khích người dân phát triển kinh tế, làm cho dân giàu,
nước mạnh.Trong lĩnh vực chính trị, dân chủ thể hiện rõ nét qua các quy định được nêu lên
trong các bản hiến pháp: “Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì
dân”. Quyền lực nhà nước thuộc về toàn dân chứ không hề nằm trong tay một tổ chức, một
nhóm hay một cá nhân nào. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình qua 2 hình
thức: trực tiếp và gián tiếp. Nhân dân có quyền tố cáo, khiếu nại những người có hành vi
vi phạm pháp luật và được cơ quan có thẩm quyền giải quyết.Trong lĩnh vực tôn giáo, công
dân có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. Tuy nhiên, nhà nước cũng nghiêm cấm mọi hành
vi lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xúi giục, kích động và lôi kéo nhân dân làm việc
trái pháp luật. Ngoài ra, dân chủ còn thể hiện ở quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự
do đi lại, tự do cư trú, có quyền học tập, khám chữa bệnh và đặc biệt là quyền được thể hiện
chính kiến của bản thân về việc xây dựng nhà nước và xã hội Việt Nam. 22 lOMoARc PSD|36215725
9+11. Trình bày khái niệm chức năng nhà nước. Phân tích ý nghĩa của việc xác định và
thực hiện chức năng nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
9.1. Khái niệm chức năng nhà nước.
Bản chất , vai trò xã hội của Nhà nước được thể hiện thông qua chức năng nhà nước . Chức
năng nhà nước là sự biểu hiện cụ thể bản chất , vai trò của nhà nước , chúng gắn liền với sự
tổn tại và phát triển của nhà nước .
=> Là những phương hướng hoạt động cơ bản của NN, thể hiện bản chất NN & nhằm thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý NN trên các lĩnh vực của đời sống XH, trong các giai
đoạn phát triển cụ thể. Phân loại
* Căn cứ phạm vi hoạt động của nhà nước: Có thể chia chức năng nhà nước
thành 2loại đó là: chức năng đối nội (là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước
trong nội bộ của đất nước) ví dụ như : nhà nước ra chính sách tăng cường các mặt
hàng xuất khẩu công nghệ cao, chức năng đối ngoại (là những hoạt động cơ bản
của nhà nước thể hiện mối quan hệ giữa nó và các quốc gia dân tộc khác ) ví dụ
như đại diện cho nhà nước lên tiếng với TQ và thế giới về giàn khoan HD-981.
* Căn cứ vào các lĩnh vực hoạt động của nhà nước có thể chia chức năng nhà nướcthành:
- Chức năng kinh tế nhằm điều tiết quản lý nền kinh tế. VD : Nhà nước đã ban hành một
loạt chính sách hỗ trợ cho phát triển kinh tế nhanh, toàn diện và bền vững như thể chế thị
trường dịch vụ kế toán, kiểm toán; thể chế thị trường khoa học – công nghệ; thể chế thị
trường hàng hóa, dịch vụ;…
- Chức năng xã hội nhằm giải quyết những vấn đề chung vì sự phát triển của xã hội như:
phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng, cung cấp dịch vụ công … VD : nhà nước
nâng cao các máy móc chuyên dùng trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là y tế.
- Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược : đây là chức năng đặc trưng của giai cấp chủ
nô , nhà nước phong kiến , nhà nước tư sản giai đoạn chủ nghĩa đế quốc trở về trước
nhằm xâm chiếm mở rộng lãnh thổ , bóc lột nhân dân cũng như áp đặt sự nô dịch đối với các dân tộc khác lOMoARc PSD|36215725
- Chức năng trấn áp nhằm bảo vệ địa vị và quyền thống trị của giai cấp thống trị, giữ vững
an ninh, trật tự, an toàn xã hội . VD : có các cơ quan tổ chức chuyên quản lí xã hội và
cưỡng chế thực hiện như Công an, tòa án, viện kiểm sát …
- Chức năng quốc phòng để chống xâm lược, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước VD
: có quân đội , bộ đội...
- Chức năng thiết lập các mối quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế.
* Căn cứ vào mục đích hoạt động của nhà nước có thể chia chức năng của nhà nước
thành 2 loại chức năng là:
- Chức năng tổ chức và quản lý (bao gồm 1 số chức năng cụ thể như chức năng kinh tế, xã
hội, thiết lập các mối quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế…)
- Chức năng bảo vệ (chức năng bảo vệ tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội..
Số lượng chức năng
- Các nhà nước đều có chức năng kinh tế, chức năng xã hội, chức năng bảo vệ đất
nước…Tuy nhiên có những chức năng chỉ xuất hiện ở nhà nước hiện đại (VD: giáo dục, KHCN, môi trường…)
- Tùy vào cơ sở kte và cơ sở XH mà sự thay đổi về số lượng chức năng còn thể hiện việcmất
đi chức năng nào đó của nhà nước. (VD: chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược chủ
yếu ở nhà nước chủ nô và phong kiến…)
Các hình thức thực hiện chức năng của nhà nước
- Nhà nước có nhiều hình thức để thực hiện chức năng của mình trong đó có 3 hình thức
cơbản hay 3 hình thức mang tính pháp lý được thể hiện trong tất cả các nhà nước là: xây
dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.
Ngoài ra còn có các hình thức ít hoặc không mang tính pháp lý như:
- Các biện pháp tổ chức - xã hội trực tiếp (tổ chức các cuộc hội thảo, mít tinh, biểu tình
của quần chúng, các phong trào thi đua …).
- Những hoạt động tác nghiệp vật chất kỹ thuật: đánh máy, văn thư, lưu trữ, in ấn…
- Những hoạt động mang tính quyền lực pháp lý (hoạt động thi hành các biện pháp cưỡng
chế của nhà nước, bắt buộc chữa bệnh, giải phóng mặt bằng..) 24 lOMoARc PSD|36215725
. Phương pháp thực hiện
- Điều chỉnh PL
+ Quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ & trách nhiệm của các chủ thể
+ Tạo điều kiện và khuyến khích chủ thể chủ động tham gia tích cực vào các quan hệ XH
+ Có các chế tài nghiêm khắc để áp dụng đối vs các trường hợp vi phạm
- Thuyết phục: Động viên, khuyến khích tính tích cực, tự giác, tự nguyện của các chủ thể
trong việc đáp ứng các y/cầu thực hiện CNNN
- Cưỡng chế: NN SD trong t/hợp có vi phạm PL & cần thiết phải áp dụng trong các biện
pháp truy cứu trách nhiệm pháp lý
- Thanh tra, kiểm tra: Sử dụng thường xuyên ở nhiều cấp độ khác nhau để đánh giá, phát
hiện & xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh trong qúa trình thực hiện
9.2. Phân tích ý nghĩa của việc xác định và thực hiện chức năng nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
- Chức năng nhà nước là những mặt hoạt động cơ bản của nhà nước phù hợp với bản chất,
mục đích, nhiệm vụ của nhà nước và được xác định bởi điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó.
- Nói đến chức năng nhà nước là nói đến những hoạt động cơ bản của nhà nước để thựchiện
những công việc mà nhà nước phải làm, đó là tổ chức và quản lí các mặt của đời sống xã
hội. Chức năng nhà nước luôn phản ánh bản chất nhà nước hay do bản chất nhà nước
quyết định. Với bản chất là nhà nước của dân, do dân và vì dân và là bộ máy chuyên
chính vô sản thì các chức năng tổ chức và quản lí kinh tế, tổ chức và quản lí văn hóa, giáo
dục, kĩ thuật… là chức năng phổ biến của các nhà nước XHCN.
- Trong quá trình xây dựng CNXH, nhà nước VN có hai nhiệm vụ chính phù hợp vs bảnchất
NN là xây dựng tổ quốc XHCN và bảo vệ Tổ quốc XHCN, tất cả các chức năng của NN
đều được xác định và thực hiện nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này. lOMoARc PSD|36215725
10. Phân tích các yếu tố quy định chức năng nhà nước.
Bản chất nhà nước quy định chức năng nhà nước, nhưng thức tế còn có những yếu tố
khác tác động đến chức năng nhà nước. Những yếu tố làm cho chức năng nhà nước trở nên
đa dạng, phức tạp tạo ra những sắc thái riêng của mội nhà nước cụ thể những yếu tố khách
quan, yếu tố chủ quan, yếu tố lịch sử, yếu tố thời đại, yếu tố nội sinh, yếu tố ngoại
sinh,..nhưng có những yếu tố diển hình tác động trực tiếp đến chức năng, để lại dấu ấn đậm
nét trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước là:
+ Cơ sở kinh tế: mà trong đó lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng nhất.
+ Sự biến đổi của đời sống xã hội: cơ cấu xã hội & phân tầng xã hội, sự vận động
phát triển & thay đổi vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp dân tộc, tôn giáo trong xã hội.
+ Cá nhân: trách nhiệm của nhà nước là tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện về
mặt cá nhân, đảm bảo các quyền & tự do của công dân kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân
& lợi ích cộng đồng.
+ Trách nhiệm của nhà nước trong việc xác định vị trí, vai trò của các chức năng
đối với sự ổn định & phát triển bền vững của xã hội.
+ Hoàn cảnh quốc tế & hợp tác quốc tế: tác động đến sự phát triển mọi mặt của
quốc gia, có thê mang tính tích cựa hay tiêu cực & thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của mỗi nước.
12. Phân tích ý nghĩa của hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp đối với việc
thựchiện chức năng nhà nước.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước mà ở đó các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp là thống nhất và có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền đó; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là Nhà nước do một đảng duy nhất lãnh đạo - Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước
có 3 chức năng cơ bản và chỉ riêng Nhà nước mới có 3 chức năng này, đó là lập pháp, hành pháp và tư pháp. 26 lOMoARc PSD|36215725
Quyền lập pháp là quyền làm luật, xây dựng luật và ban hành những văn bản luật được
áp dụng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền lập pháp do Quốc hội tiến
hành.Cơ quan lập pháp là kiểu hội đồng thảo luận đại diện có quyền thông qua các luật. Đây
là một trong ba cơ quan chính gồm lập pháp, hành pháp và tư pháp của thể chế chính trị tam
quyền phân lập. Lập pháp có nhiều tên gọi khác nhau, phổ biến nhất là nghị viện và quốc
hội (lưỡng viện), mặc dù những tên này có nhiều nghĩa đặc trưng khác nữa. Trong hệ thống
nghị viện của chính phủ, cơ quan lập pháp là cơ quan tối cao chính thức và chỉ định cơ quan
hành pháp. Ở hệ thống tổng thống, cơ quan lập pháp được xem là phân nhánh quyền lực
tương đương và độc lập với cơ quan hành pháp. Ngoài việc ban hành luật ra, cơ quan lập
pháp còn có quyền tăng thuế, thông qua ngân sách và các khoản chi tiêu khác. Quyền hành
pháp là một trong ba quyền trong cơ cấu quyền lực Nhà nước, bên cạnh quyền lập pháp và
quyền tư pháp. Quyền hành pháp do các cơ quan hành chính Nhà nước thực thi để đảm bảo
hoàn thành chức năng và nhiệm vụ của mình. Quyền hành pháp bao gồm hai quyền: quyền
lập qui và quyền hành chính. Quyền lập qui là quyền ban hành những văn bản pháp qui
dưới luật, để cụ thể hoá luật pháp do các cơ quan lập pháp ban hành trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Quyền hành chính là quyền tổ chức quản lý tất cả các mặt, các quan hệ
xã hội bằng cách sử dụng quyền lực Nhà nước. Quyền hành chính bao gồm các quyền về tổ
chức nhân sự trong cơ quan hành chính, quyền tổ chức thực thi và áp dụng pháp luật trong
các mối quan hệ giữa tổ chức với cá nhân, tổ chức với tổ chức và giữa các cá nhân với nhau
trong đời sống xã hội.
Quyền tư pháp là quyền bảo vệ luật pháp, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện và chống
lại các hành vi vi phạm pháp luật. Quyền tư pháp do Tòa án và Viện Kiểm sát tiến hành.
Theo luật học, cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là một hệ thống tòa án nhân danh quyền
tối cao hoặc nhà nước để thực thi công lý, một cơ chế để giải quyết các tranh chấp. Thuật
ngữ này cũng được dùng để đề cập đến cả quan tòa ở các cấp, những người thiết lập nền
móng cho một bộ máy tư pháp và cả những người trợ giúp cho hệ thống này hoạt động tốt. lOMoARc PSD|36215725
13. Phân tích vai trò của bộ máy nhà nước đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụcủa nhà nước.
- BMNN thiết lập để thực hiện các CN, nhiệm vụ của NN : CN, nhiệm vụ của NN được thực
hiện thông qua BMNN, khi NN cần phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ nào đó, NN thành
lập ra các CQ tương ứng để thực hiện CN, nhiệm vụ ấy.( VD: khi môi trường bị ô nhiễm thì
NN phải thành lập CQ quản lí và bảo vệ môi trường nhằm xây dựng và ban hành giải pháp
, phương hướng khắc phục hiệu quả…)
14. Phân tích mối quan hệ giữa bộ máy nhà nước và chức năng nhà nước của nhà nước
Việt Nam hiện nay. 1.Định nghĩa
CQNN là hệ thống các CQNN từ trung ương tới địa phương, đc tổ chức & hoạt động theo
những nguyên tắc chung nhất định tạo thành 1 cơ chế để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của NN.
Chức năng NN là những phương hướng hoạt động cơ bản của NN, thể hiện bản chất NN
& nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý NN trên các lĩnh vực của đời sống XH,
trong các giai đoạn phát triển cụ thể.
2. Mối liên hệ giữa BMMM và chức năng NN -
BMNN được thành lập và hoạt động để thực hiện các CNNN, do vậy, quy mô, cơ cấu
củaBMNN cũng như cách thức tổ chức và hoạt động của từng cơ quan NN… chịu sự chi
phối có tính chất quyết định của CNNN (VD: nếu CN chủ yếu của NN là trấn áp thì trong
BMNN các cơ quan cưỡng chế, trấn áp cũng là chủ yếu và được coi trọng nhất…) - CNNN
càng nhiều, càng đa dạng, phong phú thì BMNN càng đồ sộ, phức tạp, số lượng các CQ và
nhân viên trong BMNN càng đông hơn và cách thức tổ chức và hđ của các CQ trong BMNN
càng phải KH và hợp lí hơn. -
Do được thành lập để thực hiện các CNNN nên hiệu quả thực hiện các CNNN lại
phụthuộc vào sự hợp lí trong tổ chức và hiệu quả hđ của BMNN. 28 lOMoARc PSD|36215725
15. Phân tích khái niệm cơ quan nhà nước, phân biệt cơ quan nhà nước với bộ
phậnkhác của nhà nước. 15.1 Kn CQNN:
Định nghĩa: Cơ quan nhà nước là một số lượng người nhất định được tổ chức và hoạt động
theo quy định của pháp luật, nhân danh nhà nước để thực hiện quyền lực nhà nước Đặc điểm:
- Cơ quan nhà nước có thể gồm 1 người hoặc 1 nhóm người.
- Trình tự thành lập và cơ cấu tổ chức của CQNN do pháp luật quy định
- Cơ quan nhà nước nhân danh và sử dụng quyền lực NN để thực hiện thẩm quyền của
mình ( đó là toàn bộ những quyền mà nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho nó, nó bao
gồm những nội dung sau: có quyền ban hành những văn bản pháp luật nhất định – tức
là những văn bản đó có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với các tổ
chức cá nhân có liên quan; có quyền yêu cầu các tổ chức và cá nhân có liên quan phải
thực hiện. Những văn bản đó được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp mang tính
quyền lực nhà nước; có quyền kiểm tra giám sát, việc thực hiên các văn bản của
CQNN, đồng thời có thể sửa đổi bổ sung hoặc thay thế các văn bản đó)
- Mỗi cơ quan nhà nước sẽ thực hiện những chức năng riêng theo quy định của pháp luật.
- Những người đảm nhiệm chức vụ trong các cơ quan nhà nước phải là công dân. 15.2 Phân biệt: Cơ quan nhà nước
Cơ quan của các tổ chức xã hội Là khái niệm dùng để chỉ 1
Là khái niệm dùng để chỉ 1 người hoặc 1 nhóm người đc tổ
người hoặc 1 nhóm người đc chức & hoạt động theo quy định
thành lập & hoạt động theo quy Định nghĩa
của PL, nhân danh NN thực hiện
định của tổ chức, nhân danh tổ QLNN.
chức để thực hiên hoạt động của tổ chức
Quốốc h i, Chính ph là ộ ủ C quan ơ
Ban chấp hành trung ương đảng Ví dụ nhà nước
cộng sản Việt Nam là 1 cơ quan lOMoARc PSD|36215725 của tổ chức Đảng Giống nhau
-Đềuề gốềm 1 ng ho c 1 nhóm ngặ ười đc thành l p & ho t đ ng tậ
ạ ộ rền c s các quy đ nh chung nhâốt đ nh, nhân danh t ch c đ th c
ơ ở ị ị ổ ứ ể ự hiền ho t đ ng c a minhạ ộ ủ
-Trong quá trình ho t đ ng, các CQ này đềều có th ban hành ra ạ ộ
ể nh ng quy đ nh có gía tr bắốt bu c ph i tốn tr ng ho c th c hiữ ị ị
ộ ả ọ ặ ự ện đốối vs nh ng t ch c ho c cá nhân nhâtố đ nh.ữ ổ ứ ặ ị
-Đềuề có quyềền yều câuề các t ch c & cá nhân có liền quan ổ ứ
ph i ả th c hi n các quy đ nh đó.ự ệ ị
-Ki m tra, giám sát vi c th c hi n các quy đ nh đóể ệ ự ệ ị
-S a đ i, b sung các quy đ nhử ổ ổ ị
-Đ m b o cho các quy đ nh đc th c hi n = nhiềều bi n pháp nhâốt ả ả ị ự ệ ệ dân Trình tự
Do PL quy định Do điều lệ của tổ chức quy định thành lập & cơ cấu tổ chức
Nhân danh NN & Sử dụng
Nhân danh tổ chức để thực hiện Nhân danh
QLNN để thực hiện thẩm quyền các HĐ của tổ chức ai ?? của mình
-Ban hành những văn bản PL -Ban hành ra các quy định có nhất
định: những văn bản này có g/trị bắt buộc phải tôn trọng gía trị
bắt buộc phải tôn trọng
hoặc thực hiện đối vs các hội hoặc
thực hiện đối vs các tổ chức viên trong tổ chức & cá nhân có liên quan.
-Yêu cầu các tổ chức & cá nhân
có liên quan phải thực hiện
nghiêm chỉnh những văn bản mà
nó ban hành & có hiệu lực pháp lý.
Thẩm quyền -Đảm bảo cho các văn bản đó đc - Đảm bảo cho các quy định của 30 lOMoARc PSD|36215725
thực hiện = các biện pháp mang
nó đc thực hiện = sự tự giác
của tính QLNN (tuyên truyền, giáo các hội viên & = các hình thức
dục, cổ động, cưỡng chế) kỷ luật của tổ chức
-Kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các văn bản của CQNN,
đồng thời có thể sửa đổi, bổ sung
hoặc thay thế các văn bản đó.
-Mỗi CQNN sẽ thực hiện những
-Mỗi CQ của tổ chức sẽ thực
chức năng riêng theo quy định
hiện những chức năng, nhiệm vụ của PL
riêng theo quy định của tổ chức Thành viên
Công chức, viên chức trong Các thành viên của tổ chức được
CQNN được hình thành bằng bầu, cử từ các thành viên của tổ con
đường bầu, cử hoặc tuyển chức đó
đ nh ị(tuyền truyềền, c đ ng, cổ ộ ưỡng chềố …)
-Th c hi n nh ng ch c nắng, nhi m v riềng theo quy đ nh c a tự ệ ữ ứ ệ ụ ị ủ ổ ch c.ứ
-Nh ng ngữười đ m nhi m ch c v trong các CQ này đềều là cống ả ệ ứ ụ lOMoARc PSD|36215725 theo luật định
Ngân sách NN câốp đ duy trì HĐ, ể Hoạt động nhờ vào ngân sách Ngân sách đc quy đ nh c th ị ụ ể theo lu t ậ của nhà nước (ngửa tay xin nhà đ nhị
nước) và tiền đóng góp từ các hội viên.
16. Phân tích nội dung, giá trị của nguyên tắc đảm bảo chủ quyền nhân dân trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
1. Nêu định nghĩa nguyên tắc: 2. Phân tích:
- Đây là nguyên tắc được áp dụng phổ biến trong tổ chức và hoạt động của BMNN đươngđại.
Trước đây, chủ quyền quốc gia thuộc về vua. Nhà vua có quyền quyết định tối cao trong
mọi vấn đề của đất nước.
- Hiện nay, chủ quyền trong XH thuộc về nhân dân. Nhân dân là người chủ tối cao của
đấtnước, là người thành lập ra NN, trao quyền cho NN và kiểm tra, giám sát hoạt động của
NN. ND có quyền quyết định tối cao trong các vấn đề quan trọng của đất nước, NN phải
phục tùng các quyết định của ND. Hiến pháp và pháp luật ở hầu hết các quốc gia đương đại quy định :
- Chủ quyền thuộc về ND
- Các hình thức để ND tham gia vào tổ chức và hoạt động của BMNN: bầu cử và ứng cửvào
CQ đại diện của NN, trực tiếp thực hiện các hoạt động của NN khi được bầu, bổ nhiệm
hoặc tuyển dụng vào CQNN
-Vị trí, vai trò của CQ dân cử trong BMNN
- Những vấn đề quan trọng của đất nước NN ko được tự ý quyết định, NN phải trưng cầu ýkiến ND 32 lOMoARc PSD|36215725
- Trách nhiệm của NN trong việc thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con ng,quyền
CD; quy định vai trò của XH dân sự…
* Tại VN, chủ quyền ND được nhận thức và thực hiện với những mức độ , phạm vi khác nhau.
1. Nhà nước CHXHCNVN là NN pháp quyền XHCN của ND, do ND, vì ND.
2. Nước CHXHCNVN do ND làm chủ, tất cả quyền lực NN thuộc về ND mà nền tảng làliên
minh giữa giai cấp CN với giai cấp ND và đội ngũ tri thức ( Điều 2 HP 2013)
17. Phân tích nội dung, giá trị của nguyên tắc bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt
động theo hiến pháp và pháp luật.
Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các CQNN phải đc tiến hành
theo đúng pháp luật trên cơ sở của pháp luật; mọi cán bộ và nhân viên nhà nước đều phải
nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật khi thực thi quyền hạn và nhiệm vụ của mình;
tăng cường công tác kiểm tra giám sát và xử lý nghiêm minh mọi hành vi VPPL -
Trong lĩnh vực lập quy: Khi ban hành QPPL thuộc phạm vi điều chỉnh của mình, các
cơ quan nhà nước phải tôn trọng pháp chế, phải tôn trọng Hiến Pháp và luật. Nội dung của
các VBQPPL ko được trái với hiến pháp và văn bản luật, chỉ được ban hành những văn bản
QPPL trong phạm vi thẩm quyền, theo hình thức, trình tự thủ tục do pháp luật quy định -
Trong lĩnh vực thực hiện pháp luât: Việc áp dụng các QPPL phải tuân theo nguyên
tắc pháp chế tức là phải phù hợp với yêu cầu của luật và các VBQPPL khác, phải thiết lập
trách nhiệm pháp lý với chủ thể áp dụng QPPL, mọi vi phạm phải xử lý theo pháp luật, việc
áp dụng pháp luật cần phải đúng nội dung, đúng thầm quyền và phải tôn trọng những
VBQPPL do chính cơ quan đấy ban hành. -
Trong lĩnh vực tổ chức: Ðể đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
đòi hỏi việc thực hiện pháp chế phải trở thành chức năng quan trọng của mọi cơ quan quản
lý và ngay trong bộ máy quản lý cũng phải có những tổ chức chuyên môn thực hiện chức
năng này. Vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực tổ chức là vi phạm lOMoARc PSD|36215725
nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản
lý hành chính nhà nước, vi phạm mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau. -
Trong việc quản lý nói chung: Mở rộng, bảo đảm các quyền dân chủ của công dân.
Mọi quyết định hành chính và hành vi hành chính đều phải dựa trên quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân trực tiếp hoặc gián tiếp. Ngược lại, việc hạn chế quyền công dân chỉ được
áp dụng trên cơ sở hiến định. -
Phải chịu trách nhiệm trước pháp luật: Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước
phải chịu trách nhiệm do những sai phạm của mình trong hoạt động quản lý hành chính nhà
nước, những hành động mà đã xâm phạm đến lợi ích tới quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân và phải bồi thường cho công dân. Chính vì vậy, hoạt động quản lý gắn liền với một chế
độ trách nhiệm nghiêm ngặt đối với một chủ thể quản lý. Chế độ trách nhiệm ấy thông qua
pháp luật và các hệ thống kỷ luật nhà nước. Cụ thể hơn, yêu cầu của quản lý đặt dưới sự
thanh tra, kiểm tra giám sát và tài phán hành chính để pháp chế được tuân thủ thống nhất,
mọi vi phạm đều bị phát hiện và xử lý theo đúng pháp luật. Sự kiểm tra và giám sát ấy, trước
hết phải được bảo đảm thực hiện chính từ chủ thể quản lý. Tự kiểm tra với tư cách tổ chức
chuyên môn vì thế cũng rất cần thiết như sự kiểm tra, giám sát từ phía các cơ qaun nhà nước
tương ứng, các tổ chức xã hội và công dân.
Thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế sẽ là cơ sở đảm bảo cho sựu hoạt động bình thường
của BMNN,tạo ra sự thống nhất đồng bộ, phát huy hiệu lực quản lý NN, bảo đảm công bằng xã hội.
18. Phân tích nội dung, giá trị của nguyên tắc phân quyền trong tổ chức và hoạt
độngcủa bộ máy nhà nước tư sản.
Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước( hay còn gọi là nguyên tắc phân quyền) có cơ
sở từ thuyết tam quyền phân lập. Thuyết tam quyền phân lập lần đầu tiên xuất hiện bởi nhà 34 lOMoARc PSD|36215725
tư tưởng Hi Lạp Aristote. Theo Aristote nhà nước quản lí xã hội bằng ba phương pháp: lập
pháp-hành pháp-phân xử. Ông cho rằng không có loại hình chính phủ nào là duy nhất có thể
phù hợp với tất cả thời đại và quốc gia. Bên cạnh Aristote có John Locke, Locke cho rằng:
quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân. Nhân dân nhường một phần quyền lực
của mình cho nhà nước qua khế ước, và để chống độc tài phải thực hiện phân quyền. Locke
phân quyền lực thành: lập pháp- hành pháp-liên hợp. Từ thế kỉ 18, nhà tư tưởng vĩ đại người
Pháp Montesquieu phát triển thuyết tam quyền phân lập thành một thuýêt độc lập với mục
đích tạo dựng thể chế chính trị đảm bảo tự do công dân.
Nếu như quyền lập pháp với hành pháp nhập lại trong tay 1 người thì sẽ dẫn đến hậu quả là
làm tăng sự độc tài. Nếu tư pháp nhập lại với quyền lập pháp sẽ dẫn đến sự độc đoán với
quyền tự do của công dân, quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu tư pháp nhập lại với hành
pháp thì quan tòa sẽ có sức mạnh của 1 kẻ đàn áp. Còn nếu 1 người hay 1 tổ chức của quan
chức hoặc của quý tộc hoặc của dân chúng nắm luôn 3 quyền nói trên thì tất cả sẽ mất hết.
Chính vì vậy trong bộ máy nhà nước tư sản quyền lực nhà nước được phân làm 3 phần đưa
vào 3 cơ quan riêng biệt đó là: Lập pháp thuộc về quốc hội, hành pháp thuộc về chính phủ
và tư pháp thuộc về tòa án. Việc này sẽ làm hạn chế sự độc đoán chuyên quyền và để cho
các quyền lực có thể kiểm soát bằng các cơ quan độc lập có quyền ngang nhau và đối trọng nhau.
19. Phân tích các giải pháp hoàn thiện bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay. 1. Định nghĩa BMNN
BMNN là hệ thống các CQNN từ trung ương đến địa phương, được tổ chức và hoạt động
theo quy định của PL để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của NN.
2. Đặc điểm của BMNNVN hiện nay.
a. BMNNVN mang tính nhân dân sâu sắc -
BMMM do nhân dân tổ chức ra nên nó được tổ chức và hoạt động trên cơ sở sự ủy nhiệmcủa nhân dân. lOMoARc PSD|36215725 -
Các cơ quan, nhân viên NN nhận được quyền lực từ nhân dân, thừa ủy quyền của
nhândân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực của họ, các hoạt động của BMNN đều
nhằm phục vụ nhân dân, bảo đảm, bảo vệ lợi ích của nhân dân, chịu sự giám sát của ND…
b. BMNNVN được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc tập trung dân chủ và tiến
bộ xuất phát từ bản chất của NNCHXHCNVN
- Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của BMNNVN hiện nay bao gồm: bảo đảm chủ quyền
ND; quyền lực NN là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các CQNN trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp
và pháp luật; tập trung dân chủ… c.
Trong BMNNVN, các cơ quan quản lí kinh tế - XH ngày càng phát triển hoàn thiện
đểthực hiện sự quản lí mọi mặt của đs XH, các cơ quan cưỡng chế, trấn áp được xây dựng
chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại để có thể có đủ khả năng bảo vệ CQQG, trật tự an ninh, an toàn XH. d.
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tăc đặc thù trong tổ chức và hoạt động
củaBMNNVN hiện nay.
3. Hoàn thiện BMNNVN hiện nay. -
Hoàn thiện BMNN là hoạt động phải được tiến hành thường xuyên nhằm làm cho tổ
chức và hoạt động của BMNN ngày càng tinh gọn, chặt chẽ, hợp lí, dân chủ đảm bảo sự
kiểm soát quyền lực NN, nâng cao tinh thần, trách nhiệm của đội ngũ công chức NN, bảo
đảm, bảo vệ quyền con ng, quyền công dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của BMNN. -
Thời gian vừa qua, tổ chức và hoạt động của BMNN ở nước ra đã được đổi mới
và hoàn thiện một cách đáng kể, góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước. Tuy
nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định như: cơ cấu chưa phù hợp với điều kiện, tình hình
đất nước; hoạt động chưa đạt hiệu quả như mong muốn… - Cần có những biện pháp như sau: 36 lOMoARc PSD|36215725
+ Đổi mới cơ cấu tổ chức BMNN, đổi mới cách thức, trình tự tổ chức các CQNN. Giảm bớt
số lượng các CQNN. Công tác bầu cử, thi tuyển, bổ nhiệm… phải là thực sự dân chủ, khách
quan, khoa học, tránh hình thức, đảm bảo lựa chọn đúng người có năng lực và phẩm chất…
+ Đổi mới, nâng cao vai trò của từng CQNN. Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp, chủ động
trong hoạt dộng của hệ thống cơ quan ĐBND. Quốc hội phải trở nên hoạt động thường xuyên
. Nâng cao vai trò của Chính phủ với tính chất là cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Cải
cách, nâng cao năng lực của chính quyền cấp cơ sở, chuyên nghiệp hóa hoạt động của nó,
xóa bỏ sự phân biệt công chức cấp xã trong hệ thống công chức NN. + Tăng cường sự phân
công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền lực NN. Phân định rõ ràng chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn giữa các CQNN. Đòi hỏi có cơ chế rõ ràng để thực hiện việc kiểm soát giữa
các CQ trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
+ Nâng cao năng lực, phẩm chất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng như tính chuyên
nghiệp và tinh thần phục vụ trong hoạt động của đội ngũ công chức NN
+ Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giảm bớt phiền hà cho ND, bảo đảm, bảo
vệ quyền con người, quyền CD
+ Tích cực đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí để làm trong sạch BMNN, củng cố lòng tin ở ng dân.
20. Phân biệt nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang thông qua những ví dụ cụ thể
về hai dạng cấu trúc nhà nước này.
- Định nghĩa nhà nước đơn nhất : Là nhà nước duy nhất và có chủ quyền hoàn toàn trong
phạm vi lãnh thổ của 1 quốc gia. (VD: Việt Nam)
- Định nghĩa nhà nước liên bang : Là 1 nhà nước do nhiều nhà nước hợp thành trong đó
có 1 nhà nước chung cho toàn liên bang và mỗi bang thành viên có 1 nhà nước riêng. (VD: Mỹ )
- Nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang khác nhau bởi những điểm sau:
Nhà nước đơn nhất
Nhà nước liên bang
Nó có m t h thốnố g c quan nhà ộ ệ ơ
ương. C quan nhà nơ ướ ởc trung
nước t trung ừ ương t i đ a phớ ị
ương có th m quyềền l p pháp, hành lOMoARc PSD|36215725
pháp và ẩ ậ t pháp trền toàn lãnh th ộ
ệ chung cho toàn liền bang, có
, c quan ư ổ ơ nhà nướ ởc đ a phị
th m ẩ quyềnề tốối cao trền toàn
ương ph thu c ụ ộ vào c quan trung
lãnh th , mốỗiổ bang thành viền l i có ơ ương m t h thốống ạ ộ ệ c quan
Nó có nhiềuề h thốống c quan nhà ệ nhà nơ
ước có th m quyềền ẩ
ơ nước, trong đó có m t h thốống là trong ph m vi bang đóạ -Lãnh th đổ
ược phân chia thành các Nhà nước này có ba h thốnố g
chính ệ đ n v hành chính- lãnh th khống cóơ ị ổ quyềnề là liền bang, bang và đ a ị ch quyềền nhà nủước
phương. S phân chia quyềền l c gi aự ự ữ
- có hai h thốnố g chính quyềền là ệ
nhà nước liền bang v i các nhà nớ
ước trung ương và đ a phị
ương thành viền được th hi n rõ trong c ể ệ ả
ba lĩnh v c: l p pháp, hành pháp, t ự ậ ư pháp
Nó có m t h thốống pháp lu tộ ệ
ậ duy Có nhiềều h thốống pháp lu t, nhiềều ệ
ậ nhâốt t trung ừ ương t i đ a phớ ị ương, b n
hiềốn pháp ả trong đó có m t h ộ
ệ có m t b n hiềnố pháp và m t h ộ ả ộ ệ
thốnố g là chung cho toàn liền bang, có
thốống pháp lu t duy nhâốt có hi u l c ậ ệ ự1 b n hiềốn pháp chung v i hi u l c ả ớ ệ ự trền toàn lãnh thổ
pháp lý cao nhâốt và trền ph m vi ạ
toàn lãnh th liền bang, mốỗi bang ổ
thành viền l i có m t h thốống pháp ạ ộ
ệ lu t, m t b n hiềốn pháp riềng và ch ậ ộ ả ỉ có hi u l
c pháp lý trong ph m vi ệ ự ạ toàn bang đó
Trước đây, công dân chỉ có một quốc Công dân có nhiều quốc
tịch tịch nhưng nay thì có thể có nhiều quốc tịch
VD : Lào, Việt Nam, Campuchia…
Ví dụ : Mỹ , Liên Xô (cũ)…
21. Cho biết ý kiến cá nhân của anh/chị về những ưu việt, hạn chế của chính thể quân
chủ và chính thể cộng hoà. 38 lOMoARc PSD|36215725
* Chính thể quân chủ:
- Là chính thể mà trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ hoặc một phần
vào tay một cá nhân (vua; quốc vương…) theo phương thức cha truyển con nối (thế tập). - Ưu việt :
+ Thứ nhất, vai trò của các vương triều nổi trội hơn cả các chính khách, người đứng đầu
nhà nước được dân bầu. Sự lựa chọn vị trí cao nhất trong chế độ quân chủ không bị ảnh
hưởng hoặc phụ thuộc tài chính, phương tiện truyền thông hay đảng phái chính trị.
+ Thứ hai, và có liên quan chặt chẽ đến lợi thế nói trên, tại các nước dân chủ như Thái Lan
chẳng hạn, sự tồn tại của một vị vua thường là điều duy nhất để giữ gìn đất nước trước thảm họa nội chiến.
+ Thứ ba, chế độ quân chủ có thể ngăn chặn sự hình thành các chính phủ cực đoan bằng
cách điều chỉnh “nhân sự” của chính phủ. Tất cả các chính khách chính trị buộc phải thực
thi vai trò giống như thủ tướng hay bộ trưởng theo đúng luật và dưới quyền của nhà Vua.
Bằng chứng, sự hiện diện của các vương triều ở Campuchia, Jordan hay Morocco đã chứng
minh được điều này. Nó ngăn chặn kịp thời những khuynh hướng bảo thủ, bè cánh và cực
đoan của giới chính khách, và của các phe phái “bằng mặt chứ không bằng lòng”.
+ Thứ tư, chế độ quân chủ hoàn toàn “xứng cái tâm, đáng cái tầm”, đủ danh vọng và uy tín
để thực hiện những sự lựa chọn cuối, hay những quyết định khó khăn nhất cho đất nước mà
không một chế độ nào làm được.
Ví dụ, nhà Vua Juan Carlos của Tây Ban Nha đích thân đảm bảo quá trình chuyển giao đất
nước trở thành chế độ quân chủ lập hiến với các cơ quan của Quốc hội và đập tan âm mưu đảo chính quân sự. - Nhược điểm lOMoARc PSD|36215725
Tuy vậy, chế độ quân chủ hiện vẫn còn bị chỉ trích, bị coi là không phù hợp với xã hội hiện
đại. Một trong những lý do là vương triều có thể sử dụng quyền lực tuyệt đối, tùy tiện mà
không qua bất kỳ sự kiểm soát nào; thậm chí có vương triều nặng tư tưởng sinh ra để cai trị,
quan tâm nhiều đến lợi ích cá nhân hơn là lợi ích chung của đất nước.
* Chính thể cộng hòa:
- Cộng hòa là chính thể mà trong đó quyền lực cao nhất của nhà nước thuộc về cơ quan(tập
thể) đại diện của nhân dân. - Ưu điểm
+ Về cơ bản, đây là hình thức cai trị tiến bộ hơn chế độ quân chủ, nó đã khắc phục được
những mặt yếu của chính thể quân chủ.
+ Quyền lực tối cao của nhà nước chính thể cộng hòa nằm trong tay của một hoặc một số cơ
quan được bầu ra theo nhiệm kì nhất định với phương thức trao quyền được quy định về mặt
pháp lí. Trong các nhà nước cộng hòa dân chủ tầng lớp nhân dân lao động trực tiếp tham gia
bầu cử để lập ra cơ quan đại diện (quyền lực) của nhà nước.
22. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hình thức nhà nước.
23. Phân tích vị trí, vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị. Trình bày ý
nghĩacủa việc xác định vị trí, vai trò của nhà nước trong hệ thống chính trị. - Khái niệm NN
- Khái niệm HTCT là tổng thể các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội trực tiếp nắm giữ
hoặc tham gia thực thi quyền lực chính trị, có mối liên hệ mật thiết với nhau dưới sự lãnh
đạo của một đảng hoặc một liên minh các đảng phái chính trị nhằm thực hiện các mục
tiêu chính trị của lực lượng cầm quyền
- Vị trí: nhà nước ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị, là nơi hội tụ của đời sống
chính trị xã hội. Nhà nước có quan hệ với tất cả tổ chức khác trong hệ thống chính trị,
thu hút các tổ chức đó về phía mình. Các tổ chức khác trong hệ thống chính trị là lực
lượng hỗ trợ nhà nước. 40 lOMoARc PSD|36215725
- Vai trò: nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng mang tính quyết định trong hệ thống
chính trị. Nó quyết định sự ra đời, tồn tại, phát triển của hệ thống chính trị. Nhà nước
là công cụ hữu hiệu nhất để thực hiện quyền lực của nhân dân lao động. Nhà nước chi
phối tất cả các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Nó cho phép thành lập cũng như
làm mất đi một thành tố nào đó trong hệ thống chính trị. Nó có thể điều hòa được quan
hệ giữa các lực lượng chính trị trong xã hội, nó là biểu hiện tập trung nhất của quyền lực
nhân dân và công cụ thực hiện quyền lực nhân dân.
- Ý nghĩa của việc xác định vị trí, vai trò của nhà nước:
Khẳng định vị trí và vai trò vô cùng quan trọng của NN
24. Phân tích ưu thế của nhà nước so với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, liên
hệ thực tế Việt Nam.
1. Nhà nước là sản phẩm thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội do giai cấp cầm
quyềnlãnh đạo, nhằm xóa bỏ chế độ cũ, thiết lập chế độ mới.
Hệ thống chính trị được hình thành cùng với sự hình thành của nhà nước tư sản nên chỉ trong
XHTBCN và XHXHCN mới có HTCT. So với các tổ chức khác trong HTCT, nhà nước được
xây dựng, bảo vệ, củng cố và phát triển trên nền tảng XH rộng lớn nhất. Cơ sở XH của nhà
nước là mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội… Cơ sở xã hội của các tổ chức khác chỉ là một bộ phận của dân cư.
2. Nhà nước là tổ chức đại diện chính thức, hợp pháp cho toàn thể xã hội, nhân danhxã
hội để thực hiện việc tổ chức và quản lí hầu hết các mặt của đs XH
Nhà nước là tổ chức do nhân dân thành lập, đại diện và thực hiện quyền lực của nhân dân
nên chỉ nhà nước mới là đại diện chính thức cho toàn xã hội, có chức năng tổ chức và quản
lí xã hội để thiết lập trật tự Xh, vì sự phát triển chung của XH.
3. Nhà nước có quyền lực công khai và có phạm vi tác động rộng lớn nhất trongHTCT,
bao trùm lên toàn XH, tới mọi cá nhân, tổ chức, mọi miền lãnh thổ và các lĩnh vực
hoạt động cơ bản của XH. lOMoARc PSD|36215725
Để thực hiện quyền lực của mình, nhà nước có bộ máy hùng mạnh nhất, bao gồm một hệ
thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương, trong đó có cả các cơ quan bạo
lực như quân đội, cảnh sát để bảo đảm cho việc thực hiện quyền lực NN.
4. Nhà nước có pháp luật, công cụ quản lí XH có hiệu quả nhất.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện
với tất cả các tổ chức và cá nhân trong XH. Pháp luật do NN ban hành và bảo đảm thực hiện
bằng tất cả sức mạnh của mình, trong đó có sức mạnh cưỡng chế.
Quy định của các tổ chức khác chỉ có giá trị bắt buộc phải tôn trọng và thực hiện đối với
các hội viên trong tổ chức, đồng thời chỉ được đảm bảo thực hiện bằng sự tự giác của hội
vien và các hình thức kỉ luật của tổ chức, nên sức mạnh và hiệu quả thấp hơn pháp luật.
Các tổ chức khác chỉ được nêu lên sáng kiến XDPL khi được NN cho phép.
5. Nhà nước là tổ chức duy nhất trong HTCT nắm giữ và thực hiện chủ quyền QG:
Trong HTCT chỉ NN mới có quyền cho phép các tổ chức khác trong HTCT được thành
lập hoặc được tồn tại và hoạt động một cách hợp pháp, chỉ NN mới có toàn quyền xác
định và thực hiện các đường lối, chính sách đối ngoại của mình. Do đó, chỉ NN mới đủ
khả năng huy động mọi tiềm năng trong nước, mọi sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế vào công
cuộc XD và phát triển đất nước.
6. Nhà nước có sức mạnh vật chất to lớn nhất, vì vậy NN có đầy đủ các phương tiệnvật
chất cần thiết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình
Nhà nước có quyền thu thuế, phát hành tiền, quốc trái và là chủ sở hữu lớn nhất trong XH
nen nó có sức mạnh vật chất to lớn, không chỉ có thể trang trải cho các hoạt động của nó và
của XH mà còn có thể hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động cho một số tổ chức khác trong HTCT.
25. Phân tích mối quan hệ giữa nhà nước CHXHCN Việt Nam với Đảng cộng sản Việt
Nam. Ý nghĩa của mối quan hệ này trong tổ chức, quản lý xã hội hiện nay. 42 lOMoARc PSD|36215725 -
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức quyền lực công của quốc gia VN, nhờ có pháp
luật và những phương tiện cưỡng chế hợp pháp nên có khả năng tổ chức và quản lí dân cư
trong phạm vị lãnh thổ VN nhằm thực hiện mục đích và bảo vệ lợi ích của giai cấp công
nhân và những người lao động khác dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN nhằm thiết lập, giữ gìn
trật tự xã hội; nhà nước CHXHCNVN là đại diện chính thức cho quốc gia, dân tộc VN trong
các quan hệ đối nội và đối ngoại và là chủ thể độc lập trong các quan hệ quốc tế. -
ĐCSVN là tổ chức tự nguyện của những người lao động ưu tú có cùng mục đích,
chính kiến và lý tưởng giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động và xây dựng thành công CNXH ở VN. -
Hệ thống CTXHCN là tổng thể các tổ chức chính trị- xã hội có mối liên hệ mật thiết
với nhau mà vai trò lãnh đạo thuộc về ĐCS, nhằm thực hiện QLND, xây dựng CNXH. ở VN
hiện nay, HTCT bao gồm: Đảng, nhà nước, Mặt trận tổ quốc VN, các đoàn thể quần chúng,
các tổ chức xã hội được tổ chức và hoạt động theo một cơ chế bảo đảm đầy đủ QLND dưới sự lãnh đạo của ĐCS. -
Nhà nước xã hội chủ nghĩa và Đảng cộng sản là hai thành tố quan trọng nhất trong hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Giữa chúng có mối quan hệ rất chặt chẽ. Đảng là lực lượng
lãnh đạo nhà nước, đ ồng thời nhà nước có sự tác động rất lớn đối với đảng. Sự lãnh đảo của
Đảng cộng sản đối với nhà nước là 1 điều tất yếu, khách quan, phù hợp với quy luật phát triển. •
Tác động của Đảng đối với nhà nước: Đảng lãnh đạo nhà nước = những hình thức và phương pháp nhất định
Đảng đề ra đường lối, chính sách có tính chất định hướng cho sự phát triển của đất nước
trong từng giai đoạn nên cũng là sự định hướng cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước trong mỗi giai đoạn đó để nhà nước cụ thể hóa thành PL và tổ chức thực hiện lOMoARc PSD|36215725
Đảng lựa chọn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ để giới thiệu cho nhà nước, các cán bộ đó có
thể được đảm nhiệm các chức vụ nhất định trong bộ máy nhà nước = con đường nhà nước,
thông qua bầu cử, ứng cử, bổ nhiệm
Đảng theo dõi, hướng dẫn và kiểm tra các hoạt động của nhà nước để kịp thời phát hiện và
uốn nắn những sai sót, lệch lạc trong hoạt động của nhà nước để vừa đảm bảo cho nhà nước
hoạt động theo đúng hướng đảng đã vạch ra, vừa có thể phát hiện ra những điểm thiếu sót,
bất hợp lý trong đường lối, chính sách của đảng mà sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn của đất nước •
Tác động của nhà nước đối với đảng:
Nhà nước ghi nhận sự lãnh đạo của Đảng trong PL, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho sự
tồn tại, hoạt động và lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội
Nhà nước thể chế hóa đường lối, chính sách của đảng thành PL, tổ chức thực hiện và đảm
bảo cho Pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh. = cách đó, nhà nước đảm bảo cho đường
lối, chính sách của Đảng có thể được thực hiện trong toàn xã hội, giúp cho đảng thực hiện
được quyền lãnh đạo của mình đối với nhà nước và xã hội
Thông qua hoạt động thực tiễn, nhà nước kiểm nghiệm tính đúng đắn trong đường lối,
chính sách của đảng, từ đó có cơ sở đóng góp ý kiến cho đảng hoạch định đường lối, chính
sách để bảo đảm sự phù hợp hơn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Vì thế nhà
nước là tổ chức mà thông qua đó đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội.
Nhà nước bảo vệ đường lối, chính sách cũng như tổ chức của đảng, tạo điều kiện về
cơ sở vật chất, hỗ trợ kinh phí hoạt động và các điều kiện khác cho đảng hoạt động
Nhà nước quản lý các đảng viên và các tổ chức đảng theo PL nhằm bảo đảm hoạt
động của đảng viên và các tổ chức đảng phù hợp với PL, nhằm đáp ứng mục tiêu xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCNVN * Ý nghĩa của việc xác định: 44 lOMoARc PSD|36215725
- Trong điều kiện một đảng cầm quyền, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa NN và
Đảng trên cơ sở phân định rõ chức năng của NN và Đảng trên cơ sở phân định rõ ràng chức
năng của NN với chức năng của Đảng có ý nghĩa quan trọng để NN phát huy hết hiệu lực
của mình vẫn chịu sự lãnh đạo của Đảng, còn Đảng vẫn lãnh đạo được NN nhưng không
làm thay NN. Việc phân định đó chỉ có thể được thực hiện bằng công cụ PL mới bảo đảm
được sự chắc chắn và bền vững.
26. Phân tích yêu cầu, đòi hỏi đối với pháp luật trong nhà nước pháp quyền.
* Thứ nhất, trong NN pháp quyền, PL đã trở thành công lý của thời đại. -
PL không còn là công cụ của riêng NN, điều chỉnh các QHXH theo ý chí chủ quan
củaNN mà là sự kết tinh những giá trị XH cao quý nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho ND -
PL thừa nhận và hướng tới việc bảo đảm, bảo vệ tốt nhất quyền con người, quyền
CD,hướng tới việc bảo vệ công bằng XH. Do vậy, PL thực sự trở thành chuẩn mực chung
được mọi người thừa nhận. -
PL được xây dựng trên cơ sở đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân, nhóm XH và
lợiích chung của toàn XH. -
Hoạt động áp dụng PL được tiến hành trên cơ sở và theo nguyên tắc bảo vệ công lý,
bảođảm, bảo vệ các quyền con người, tự do cá nhân, bảo đảm công bằng, bình đẳng trong xã hội.
* Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện hệ thống PL theo các tiêu chí của PL trong NN pháp quyền,
đồng thời tổ chức thực hiện PL một cách có hiệu quả.
Mặc dù thời gian qua NN ta đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện HTPL cũng như tổ chức thực
hiện PL, song đối chiếu với những yêu cầu của PL trong NN pháp quyền thì vẫn còn một
khoảng cách lớn. Vì thế cần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng, hoàn thiện HTPL và tổ
chức thực hiện PL. PL phải thừa nhận rộng rãi hơn các quyền con người, quyền công dân.
Hạn chế tình trạng luật ban hành nhưng phải có văn bản hướng dẫn mới thực hiện được; tiếp
tục giảm dần và đi tới xóa bỏ pháp lệnh. PL phải phù hợp với đk kinh tế, ctri, VHXH của
đất nước, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như với thông lệ khu vực và thế giới… lOMoARc PSD|36215725
27. Trình bày quan điểm của anh (chị) về nhận định: “Việc quá đề cao pháp luật có
thể dẫn đến tình trạng lạm dụng pháp luật”.
28. Phân tích những yêu cầu, đòi hỏi đối với bộ máy nhà nước trong nhà nước phápquyền.
Từ các đặc điểm có tính phổ biến của NNPQ và các đặc thù của NNPQ XHCN của dân,
do dân, vì dân ở nước ta, trong quá trình đổi mới mô hình tổ chức bộ máy nhà nước phải
xuất phát từ các yêu cầu sau:
Một là, bộ máy nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Trước hết, để đổi mới bộ máy nhà nước phải xem xét đến khả năng sửa đổi Hiến pháp và
các đạo luật về tổ chức bộ máy theo đúng các giá trị và tiêu chuẩn của chế độ pháp quyền
dân chủ. Mọi thẩm quyền của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp phải được quy định
rành mạch, rõ ràng trong Hiến pháp và các đạo luật, không một cơ quan nhà nước nào, dù là
Quốc hội có thể tự đặt thêm cho mình các quyền hạn, ngoài các quyền đã được Hiến pháp
quy định. Ý nghĩa sâu sắc của NNPQ chính là ở nhận thức: Nhà nước của pháp quyền chứ
không phải pháp quyền của Nhà nước. Do vậy, luật pháp phải là khách quan đối với
Nhà nước, là yếu tố cơ bản quy định tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Hiến pháp, các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước được ban hành trên cơ sở Hiến pháp
không chỉ quy định quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư
pháp mà còn phải quy định chặt chẽ và rành mạch mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan
này trong quá trình thực hiện quyền lực được nhân dân uỷ quyền
Hai là, bộ máy nhà nước phải được tổ chức và hoạt động đúng với quan điểm: “Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ
quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp”.
Vấn đề đặt ra ở đây là tính thống nhất của quyền lực nhà nước cần được nhận thức đầy đủ
và đúng đắn từ góc độ của chế độ pháp quyền. Thật ra, bất luận trong một mô hình tổ chức 46 lOMoARc PSD|36215725
nhà nước nào, quyền lực nhà nước, tự bản thân nó luôn bao hàm sự thống nhất; thiếu tính
thống nhất quyền lực là mất hiệu lực. Sở dĩ quyền lực nhà nước có được hiệu lực vì nó luôn
là một hệ thống. Chính sự phân công, phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp là sự phân công giữa ba bộ phận của một hệ thống tồn tại dưới dạng một chính thể các
quan hệ quyền lực. Do vậy, khi xác định tính thống nhất của quyền lực nhà nước và sự phân
công, phối hợp giữa ba quyền, cần phải đặt ba quyền này trong một thể thống nhất của hệ
thống với việc xác định rõ địa vị pháp lý của từng thiết chế quyền lực thực hiện các quyền.
Hiến pháp cần chỉ rõ rằng: Sự phân công, phối hợp giữa ba quyền và tương ứng với chúng
là ba thiết chế quyền lực nhà nước, là sự phân công có điều kiện về khả năng loại bỏ sự độc
quyền quyền lực từ bất kỳ một thiết chế quyền lực nào. Theo đó, mỗi một thiết chế quyền
lực chỉ thực thi một loại quyền lực và không thể có một thiết chế quyền lực nào lại thâu tóm
toàn bộ quyền lực nhà nước vào tay mình. Tinh thần này chính là nội dung pháp lý của sự
phân công, phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhân dân là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực nhà nước và nếu có có tồn tại một
nguyên tắc tập quyền, thì chính là sự biểu đạt của tư tưởng: toàn bộ quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, chứ không thể toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về Quốc hội như đã
từng được quan niệm. Chúng ta không chủ trương thực hiện phương thức “kiềm chế, đối
trọng” trong cơ cấu phân quyền như quy định của nhiều nước, nhưng phải xây dựng một cơ
chế kiểm soát quyền lực giữa các nhánh quyền lực nhà nước sao cho mỗi cơ quan nhà nước
đều phải thực hiện đúng thẩm quyền của mình trong đúng phạm vi, thủ tục và giới hạn được
luật pháp định đoạt, không một hoạt động quyền lực nào nằm ngoài sự kiểm soát kể cả từ
phía xã hội và ngay cả trong nội bộ bộ máy nhà nước. Dĩ nhiên, mọi sự kiểm soát quyền lực,
bất luận được tiến hành bởi một cơ quan nào đều không được phép làm ngưng trệ, cản trở
việc thực thi quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước khác, mà ngược lại, phải làm
cho việc thực hiện thẩm quyền của mỗi một cơ quan trở nên minh bạch hơn, hiệu quả hơn.
Ba là, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động không vì mục đích “cai trị dân chúng”,
không nhằm tạo ra các ưu thế và điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước trong quản lOMoARc PSD|36215725
lý các công việc của dân chúng, mà phải vì mục đích đảm bảo cho người dân được thực hiện
đầy đủ và đúng đắn các quyền con người của mình.
Trong NNPQ, bộ máy nhà nước không có lợi ích riêng, công việc riêng. Công việc của các
cơ quan nhà nước, lợi ích của các cơ quan nhà nước chỉ có thể là lợi ích của nhân dân, công
việc của nhân dân. Quyền lực của bộ máy nhà nước chính là quyền lực do nhân dân uỷ
quyền, nhằm giúp nhân dân thực hiện tốt quyền của mình, bảo vệ tốt lợi ích của mình ở
những quan hệ mà tự người dân không thể trực tiếp thực hiện. Do vậy, quyền lực của bộ máy
nhà nước luôn phải được hạn chế và quy định chặt chẽ. Bộ máy nhà nước phải được tổ chức
như một nhân tố bảo đảm quyền con người, vì quyền con người, theo ý chí và nguyện vọng của người dân.
Bốn là, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở xác định rõ mối quan hệ và
tương tác lẫn nhau giữa NNPQ XHCN và xã hội dân sự trong điều kiện cụ thể nước ta.
Một trong những điểm khác biệt cơ bản giữa NNPQ và Nhà nước toàn trị là ở chỗ, Nhà nước
toàn trị bao trùm toàn bộ xã hội, quyết định hầu hết các vấn đề của đời sống xã hội, hay nói
một cách khác là “nhà nước hoá toàn bộ xã hội”; NNPQ không đồng nhất Nhà nước với xã
hội mà tồn tại đồng hành với xã hội trên cơ sở phân định khá rõ tính chất, phạm vi, mức độ
và phương pháp tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và các cấu trúc của xã hội dân sự.
Năm là, trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta, việc đổi
mới mô hình tổ chức bộ máy nhà nước phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân là
một đặc điểm quan trọng của Nhà nước ta. Đặc điểm này luôn chi phối quá trình đổi mới,
cải cách bộ máy nhà nước ta trong suốt những năm đổi mới đất nước.
Đặc điểm, yêu cầu của quá trình xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân ở nước ta
đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo chính trị của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ 48 lOMoARc PSD|36215725
máy nhà nước, đồng thời tôn trọng vị trí, vai trò độc lập của bộ máy nhà nước, không bao
biện làm thay Nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực do nhân dân uỷ quyền.
29. Phân tích các đặc trưng cơ bản của pháp luật, trên cơ sở đó, làm sáng tỏ biểu hiện
một đặc trưng của pháp luật Việt Nam hiện nay.
- KN PL: là hệ thống các quy tắc xử sự chung, do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện
bằng nhiều biện pháp , thể hiện ý chí của nhà nước và là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã
hội vì lợi ích, mục đích của giai cấp thống trị, vì sự tồn tại, phát triển của cả xã hội.
Là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội PL có những thuộc tính cơ bản sau:
+ PL có tính quyền lực nhà nước (PL do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện).
Pháp luật không có quyền lực nhà nước nhưng lại có tính quyền lực nhà nước vì pháp
luật do nhà nước đặt ra. Mà nhà nước lại là tổ chức hợp pháp công khai và có quyền lực bao
trùm toàn xã hội. Thông qua nhà nước giai cấp thống trị thể hiện và hợp pháp hóa ý chí của
giai cấp mình. Việc bảo đảm cho các quy định pháp luật được thực thi có hiệu quả chính là
việc bảo đảm cho quyền lực nhà nước có thể tác động đến mọi chủ thể.
PL đc bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó có các biện pháp cưỡng chế
nhà nước rât nghiêm khắc như phạt tiền, tù có thời hạn, tù chung thân… làm cho PL luôn đc
các tổ chức, cá nhân tôn trọng và thực hiện nghiêm minh.
+ PL có tính quy phạm phổ biến, gồm những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung.
PL gồm các quy tắc xử sự chung, được thể hiện trong những hình thức xác định, có kết cấu
logic chặt chẽ và đc đặt ra không phải xuất phát từ một trường hợp cụ thể mà là sự tổng hợp
từ rất nhiều những trường hợp có tính phổ biến trong xã hội. Điều này đã làm cho các qui
định PL có tính khái quát hóa cao, là những khuôn mẫu điển hình để các tổ chức, cá nhân
thực hiện theo khi gặp phải những tình huống mà PL đã dự liệu.
PL mang tính chất bắt buộc chung, các qui định PL đc dự liệu không phải cho một tổ chức
hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ chức và cá nhân liên quan. Việc thực hiện PL là bắt
buộc đối với bất cứ tổ chức, cá nhân nào khi đã ở vào hoàn cảnh, điều kiện mà PL đã dự liệu.
PL có phạm vi điều chỉnh rộng lớn, hầu hết các quan hệ xã hội quan trọng đều được PL điều
chỉnh. PL là sự mô hình hóa những nhu cầu xã hội, những quy luật phát triển xã hội dưới lOMoARc PSD|36215725
dạng các quy tắc xử sự chung, không chỉ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà nước, PL
còn phản ánh những nhu cầu, đòi hỏi khách quan của xã hội dưới hình thức pháp lý.
* Pháp luật có tính hệ thống :
- Bản thân pháp luật là một hệ thống các quy phạm hay các quy tắc xử sự chung , các nguyên
tắc , các khái niệm pháp lí … Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng cách tác động
lên cách xử sự của chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó , làm cho quan hệ phát triển theo
chiều hướng mà nhà nước mong muốn . Mặc dù điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nhiều
lĩnh vực khác nhau , song các quy định của pháp luật không tồn tại biệt lập mà giữa chúng
có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau , tạo nên một chỉnh thể thống nhất
30. Phân biệt pháp luật với các công cụ khác trong hệ thống công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội. Tiêu chí Pháp luật Các công cụ khác Khái niệm
Pháp luật là hệ thống các quy Là hệ thống những quy tắc xử sự tắc xử sự chung mang tính bắt
chung được hình thành trong đời buộc
được nhà nước ban hành
sống xã hội , dùng để điều chỉnh hoặc
thừa nhận nhằm điều các quan hệ xã hội.
chỉnh các mối quan hệ xã hội
theo mục tiêu và định hướng cụ thể .
Tính quyền Pháp luật mang tính quyền lực Không mang tính quyền lực nhà lực
nhà nhà nước được nhà nước đảm nước , được đảm bảo thực hiện nước bảo
bằng các biện pháp tuyên
bằng lương tâm , dư luận xã hội , truyền , giáo dục ,
cưỡng chế không mang tính cưỡng chế . Phạm vi tác Phạm vi tác động rộng lớn ,
Phạm vi tác động hẹp , mỗi công động
bao trùm lên mọi chủ thể có cụ chỉ có phạm vi tác động đối với liên quan
thành viên tổ chức mình Hình thức
Tương đối chặt chẽ , có hệ
Hình thức mang tính rải rác , thống , khoa học
không hệ thống , khó tập hợp Tính ổn
Tính ổn định thấp hơn , dễ thay Tính ổn định cao , tồn tại lâu dài , định đổi hơn khó thay đổi 50 lOMoARc PSD|36215725 Hiệu quả
Hiệu quả tác động cao hơn vì Hiệu quả hoạt động thấp hơn vì
được bảo đảm thực hiện bằng thiếu tính cưỡng chế cưỡng chế nhà nước Bản chất
Mang tính xã hội và tính giai
Mang tính xã hội nhưng tính giai cấp
cấp có thể có hoặc không
31.Phân tích biện pháp giải quyết sự xung đột giữa pháp luật với đạo đức.
32. Phân tích biện pháp giải quyết sự xung đột giữa pháp luật với tập quán.
33. Phân tích ưu thế của pháp luật so với các công cụ khác trong điều chỉnh quan hệxã hội.
Sở dĩ, PL có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng như nêu trên là bởi vì, so với các công cụ điều
chỉnh khác, PL thể hiện những ưu thế vượt trội sau đây:
1. PL có phạm vi tác động rộng lớn nhất.
PL do nhà nước ban hành, vì vậy, nó được truyền bá, phổ biến bằng con đường chính thức
thông qua hệ thống cơ quan NN có thẩm quyền. Nhờ đó, PL có khả năng tác động đến mọi
cá nhân, tổ chức trong XH, tác động đến mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội, tác động đến
mọi vùng miền, lãnh thổ của đất nước. Ở đâu có sự hiện diện của chính quyền, ở đó có sự
tác động của PL. Bởi vậy, PL có thể điều chỉnh các QHXH trên bình diện rộng lớn trên các
lĩnh vực của đời sống.
2. PL được NN tổ chức thực hiện và bảo vệ bằng nhiều biện pháp khác nhau.NN bảo
vệ PL bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp cưỡng chế NN, nhờ đó nó
có tính bắt buộc đối với mọi người. Trong điều kiện XH có sự khác biệt, thậm chí mâu
thuẫn về lợi ích, mọi người đều muốn cái lợi cho riêng mình thì những lời khuyên, điều
răn hay những cách xử sự theo thói quen…không phải khi nào cũng phát huy tác dụng.
Trong điều kiện đó, phải dùng các biện pháp cưỡng chế của PL mới có thể thiết lập được
trật tự, mới duy trì được sự ổn định của đời sống. PL mang tính bắt buộc đối với mọi
người. Nói cách khác, thực hiện PL nghiêm chỉnh là sự bắt buộc đối với các chủ thể, hoàn
toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của họ. lOMoARc PSD|36215725
3. PL có hình thức xác định chặt chẽ nhất.
PL có sự xác định chặt chẽ về hình thức là một trong những ưu thế vượt trội của PL so với
các công cụ điều chỉnh khác. PL, bản thân nó là một hệ thống, đó là một thể thống nhất
bao gồm các QPPL có mlh mật thiết với nhau được sắp xếp một cách logic, khách quan và
khoa học. Ngôn ngữ PL thường một nghĩa, rõ nghĩa, chính xác, không trừu tượng, chung chung.
Ngược lại, các thể chế phi quan thường không có sự xác định về mặt hình thức. Phong tục
tập quán thể hiện dưới dạng hành vi mẫu, đạo đức, tín ngưỡng dân gian chủ yếu được truyển
miệng dưới dạng tục ngữ, ca dao…
4. PL dễ thích ứng với đk thực tế của đs XH.
Là hình thức pháp lí của các QH KTXH, vì vậy, về cơ bản PL quy định về vấn đề gì, quy
định như thế nào, điều đó phụ thuộc vào thực trạng của đk KTXH. PL có thể đáp ứng kịp
thời yêu cầu đòi hỏi của cuộc sống. Ngược lại, đạo đức, phong tục tập quán… thường có
quá trình hình thành và biến đổi khá chậm chạp. Nói cách khác, các thể chế phi quan thường
không phản ánh kịp thời sự phát triển của cuộc sống. Do đó, chúng không thể điều chỉnh
một cách kịp thời sự biến động của các QHXH.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm vượt trội, PL cũng có những hạn chế nhất định.
34. Phân tích mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong nhà nước pháp quyền.
1. Nêu định nghĩa PL, đạo đức.
2. Sự tác động của PL đến đạo đức, được thể hiện qua các điểm sau: -
PL là công cụ để truyền bá những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo
đức chính thống hay của giai cấp thống trị hay lực lượng cầm quyền. Nhờ được luật hóa,
những tư tưởng, quan điểm đạo đức chính thống của giai cấp thống trị được truyền bá một
cách nhanh chóng và rộng khắp trên toàn XH, trở thành những chuẩn mực mang tính bắt
buộc chung đối với tất cả mn. 52 lOMoARc PSD|36215725 -
Bằng việc ghi nhận những quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức trong PL, PL
gópphần củng cố, giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức XH, hỗ trợ, bổ sung cho đạo đức,
đảm bảo cho chúng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế. -
PL loại trừ những quan niệm, tư tưởng, đạo đức lạc hậu, trái với ý chí NN, lợi ích
của lực lượng cầm quyền, lợi ích chung của cộng đồng cũng như tiến bộ xã hội (PL nghiêm
cấm việc tuyên truyền những tư tưởng đạo đức đó, cấm những hành vi thể hiện các quan
niệm, chuẩn mực đạo đức đó; bắt buộc thực hiện những hành vi thể hiện quan niệm đạo đức
mới, tiến bộ; quy định các chế tài nghiêm khắc đối với các chủ thể vi phạm những quy định trên) -
PL góp phần ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức; ngăn chặn việc hình
thành những quan niệm đạo đức trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc và tiến bộ XH; góp
phần hình thành những quan niệm đạo đức mới; do vậy, PL là công cụ hữu hiện nhất để diệt
trừ cái ác, ngăn chặn sự băng hoại của đạo đức.
3. Sự tác động của đạo đức đến PL
a. Đạo đức tác động đến sự hình thành PL:
Bất kì hệ thống PL nào cũng ra đời, tồn tại và phát triển trên một nền tảng đạo đức nhất
định. Đạo đức là chất liệu góp phần tạo nên các quy định của PL. Những quan điểm,
quan niệm, chuẩn mực đạo đức chính thống đóng vai trò là tiền đề tư tưởng chỉ đạo việc XDPL.
Nhiều quan niệm đạo đức được thể chế hóa trong PL, nhiều quy tắc đạo đức phù hợp với
ý chí của NN được thừa nhận trong PL, góp phần tạo nên PL. NN có thể thừa nhận một tập
quán đạo đức, biến chúng thành tập quán pháp hoặc thừa nhận cách giải quyết một vụ việc
cụ thể dựa trên các quan niệm đạo đức, biến chúng thành tiền lệ pháp. Tuy nhiên, những quy
tắc đạo đức trái với ý chí của NN sẽ trở thành tiền đề để hình thành nên những quy phạm
thay thế chúng nên cũng góp phần làm hình thành nên PL. b. Đạo đức tác động đến việc
thực hiện PL của các chủ thể: lOMoARc PSD|36215725
Những quy tắc đạo đức được thừa nhận trong PL và các quy định PL được XD phù hợp với
các quan niệm, chuẩn mực đạo đức XH thì sẽ phản ánh đươc ý chí, nhu cầu, lợi ích của
các thành viên trong XH, chúng sẽ được mn thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự giác hơn
vì họ thực hiện bằng lương tâm và niềm tin của họ, nhờ vậy, hiệu quả điều chỉnh của PL sẽ
cao hơn. Ngược lại, những quan niệm, quy tắc đạo đức trái với ý chí của NN sẽ cản trở việc
thực hiện PL trong thực tế. Đồng thời, những quy định PL trái với đạo đức XH chắc chắn
sẽ rất khó đi vào đs, hiệu quả điều chỉnh XH sẽ ko cao, có khi còn phản tác dụng.
Ý thức đạo đức của cá nhân giữ vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện PL. Người có ý
thức đạo đức tốt thường là người có thái độ tôn trọng PL, nghiêm chỉnh thực hiện PL. Trong
TH chỉ vô ý dẫn đến vi phạm PL thì họ thường có ý thức ăn năn, hối hận, thành khẩn, sửa
chữa. Ngược lại, chủ thể có ý thức đạo đức kém thì thường việc thực hiện PL sẽ không
nghiêm, dẫn tới sự coi thường PL, vi phạm PL vì thế sẽ gia tăng.
35. Vì sao pháp luật không phải là công cụ duy nhất để điều chỉnh quan hệ xã hội?
Trong sự phát triển tự nhiên của đs XH, bên cạnh những mqh cần thiết, có ích cho XH
thì cũng luôn có cả những mqh ko có ích, thậm chí có hại cho trật tự chung. Để duy trì
ổn định, trật tự XH đòi hỏi các MQH trong XH phải được điều chỉnh, nhằm khuyến
khích, tạo điều kiện cho những QHXH có lợi cho đs XH được tồn tại và phát triển. PL
kp là công cụ duy nhất mà là công cụ hữu dụng nhất để điều chỉnh QHXH.
Điều chỉnh QHXH là sử dụng các công cụ tác động lên các QHXH, làm cho chúng thay
đổi và phát triển theo những mục đích, định hướng nhất định, nhằm duy trì và bảo vệ trật tự XH.
Bản chất của mqh XH là sự tác động qua lại giữa các bên chủ thể tác động lẫn nhau thông
qua hành vi của mình. Trong cuộc sống, mọi người đều không thể tồn tại một cách biệt lập
mà phải tham gia vào các mqh với người khác, tạo nên hệ thống các mối quan hệ XH vô
cùng phức tạp, đan xen chằng chịt với nhau. Khi tham gia vào các mqh XH thì mỗi hành vi
của người này đều có thể ảnh hưởng đến lợi ích của người khác cũng như của cả cộng đồng. 54 lOMoARc PSD|36215725
=> PL không thể điều chỉnh đến từng QHXH trong đời sống nên cần các công cụ điều chỉnh
khác cùng điều chỉnh đảm bảo trật tự XH và cộng đồng.
36. Tại sao cần phải kết hợp giữa pháp luật với các công cụ khác trong điều chỉnhquan hệ xã hội?
37. Phân tích khái niệm điều chỉnh quan hệ xã hội.
1. Định nghĩa QHXH và điều chỉnh QHXH:
Điều chỉnh QHXH là sử dụng các công cụ tác động lên các QHXH, làm cho chúng hình
thành hoặc thay đổi và phát triển trên những mục đích, định hướng nhất định, nhằm thiết
lập, duy trì và bảo vệ trật tự XH.
VD: muốn thiết lập trật tự an toàn giao thông đường bộ, NN ta phải ban hành Luật giao
thông đường bộ để hướng dẫn cách đi đúng đường hay cách tham gia giao thông đường bộ
cho tất cả mọi người.
2. Mục đích điều chỉnh QHXH:
- Mục đích điều chỉnh QHXH là làm cho các QHXH hình thành hoặc thay đổi và phát
triển theo những mục đích, định hướng nhất định, nhằm thiết lập, duy trì và bảo vệ trật tự
XH. Nói một cách cụ thể, thông qua việc tác động lên các QHXH hay tác động lên hành vi
của các chủ thể tham gia, có thể điều chỉnh được QHXH theo hai hướng:
+ Đối với các QHXH phù hợp với lợi ích của NN, lợi ích của XH, với tiến trình phát triển
của XH, ví dụ như quan hệ mua bán, gửi giữ, QH bảo hiểm y tế, bảo hiểm XH… thì có thể
khuyến khích các chủ thể tham gia, củng cố, bảo vệ chúng, tạo điều kiện cho chúng hình
thành và phát triển hoặc thúc đẩy sự phát triển của chúng.
+ Đối với các QHXH không phù hợp với lợi ích của NN, của XH, không phù hợp với quy
luật phát triển của XH, vd: QH cạnh tranh không lành mạnh, trốn thuế,… thì phải hạn chế,
ngăn chặn sự hình thành, phát triển của chúng.
3. Công cụ điều chỉnh QHXH:
Để điều chỉnh QHXH, con người cần đặt ra các quy tắc hành vi hay quy phạm XH để hướng
dẫn cách xử sự cho mọi người khi tham gia vào QHXH đó, vì thế, quy phạm XH trở thành lOMoARc PSD|36215725
công cụ để điều chỉnh QHXH. Các QHXH rất phong phú, đa dạng và phức tạp, do vậy, để
điều chỉnh chúng một cách có hiệu quả, cần phải có nhiều công cụ khác nhau, bao gồm PL,
đạo đức, phong tục tập quán… CÁc công cụ đó vừa có sự độc lập, ràng buộc, phụ thuộc lẫn
nhau, hợp thành hệ thống công cụ điều chỉnh các mối quan hệ XH.
47. Phân tích khái niệm điều chỉnh quan hệ xã hội bằng pháp luật.
Điều chỉnh QHXH là sử dụng các công cụ tác động lên các QHXH, làm cho chúng hình
thành hoặc thay đổi và phát triển trên những mục đích, định hướng nhất định, nhằm thiết
lập, duy trì và bảo vệ trật tự XH.
Trong điều kiện ngày nay, PL trở thành công cụ hàng đầu, quan trọng và có hiệu quả nhất,
công cụ ko thể thay hế để điều chỉnh các mối quan hệ XH, quản lí XH. “PL nổi lên như một
công cụ thép, có hiệu lực mang tính uy quyền của NN. PL là hạt nhân, giữ vị trí trung tâm
trong hệ thống các quy tắc XH. PL không đơn thuần là công cụ quản lí NN, nó còn được xác
định là công cụ để mỗi người tự bảo vệ lợi ích của mình; công cụ điều chỉnh các mối quan
hệ giữa người với người trong cuộc sống nhằm thiết lập, duy trì, bảo vệ trật tự đời sống
chung. Nói cách khác, trong điều kiện ngày nay, PL không còn được quan niệm là của riêng
NN, nó được quan niệm là một loạt quy tắc sinh hoạt công cộng, một công cụ để điều chỉnh
các mqh XH, PL là của chung toàn XH.
Bất kì một thể chế phi quan phương nào cũng không thể hoán đổi vị trí của PL, càng ko thể thay thế cho PL
=> Nhìn chung trên TG, các NN đều sử dụng PL làm công cụ chủ yếu để quản lí XH.
38. Trình bày khái niệm bản chất pháp luật. Phân tích ý nghĩa của vấn đề bản chất pháp luật.
38.1.Bản chất PL do cơ sở KTXH và những điều kiện tồn tại, phát triển của nó quy định. 1. Định nghĩa PL 2. Phân tích 56 lOMoARc PSD|36215725
Theo quan điểm của CN Mác-Lênin, PL luôn gắn bó chặt chẽ với NN, phản ánh bản chất
của NN, vì vậy, cũng như NN, xét về bản chát, PL là một hiện tượng vừa mang tính XH,
vừa mang tính giai cấp. a. Tính giai cấp:
- Tính giai cấp của XH thể hiện ở chỗ: PL là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị hay
lực lượng cầm quyền trong XH, là công cụ điều chỉnh QH giữa các giai ấp, các lực lượng
XH theo chiều hướng bảo vệ lợi ích, bảo vệ quyền và địa vị thống trị của lực lượng này.
Nói cách khác, nó là ý chí của lực lượng cầm quyền được nâng lên thành PL. Bởi vì:
+ Các giai cấp thống trị trong lịch sử đều theo đuổi mục đích củng cố và bảo vệ quyền
thống trị của mình, tìm mọi cách để đạt mục đích đó. Một trong những cách hiệu quả
nhất là biến ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí của NN và từ ý chí của NN sẽ thể hiện
ra thành cách quy định cụ thể của PL tức là thành các quy tắc xử sự có giá trị bắt buộc phải
tôn trọng hoặc thực hiện trong toàn XH.
+ PL điều chỉnh QH giữa các giai cấp, điều chỉnh các QHXH theo chiều hướng mà giai cấp
thống trị hay lực lượng cầm quyền mong muốn nhằm bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị thống
trị của lực lượng này.
- Biểu hiện của tính giai cấp của PL có sự thay đổi qua các kiểu PL:
+ PL chủ nô thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô và tính giai cấp của kiểu Pl
này thể hiện khá công khai, rõ rệt.
+ PL phong kiến thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến và tính giai
cấp của kiểu PL này cũng thể hiện công khai, rõ rệt.
+ PL tư sản thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, song biểu hiện tính giai cấp
của kiểu PL này có sự thay đổi qua các giai đoạn phát triển của XH TBCN. Ở giai đoạn của
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, tính giai cấp của PL tu sản chưa thể hiện công khai thì ở
giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, tính giai cấp của PL tư sản thể hiện công khai và rõ rệt hơn
nhiều so với giai đoạn trước; còn ở giai đoạn của CNTB hiện đại, tính giai cấp của PL tư sản
có xu hướng thể hiện mờ nhạt hơn giai đoạn trước. lOMoARc PSD|36215725
+ PL XHCN thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và những người dân lao
động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng CS, là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của đảng
này. Tính giai cấp của kiểu PL này thể hiện mờ nhạt nhất trong tất cả các kiểu PL vì giai cấp
thống trị trong XH này chiến tuyệt đại đa số dân cư. b. Tính xã hội: -
Tính xã hội của PL thể hiện ở chỗ: PL là sự thể hiện ý chí chung của cả XH, là công
cụ điều chỉnh các QHXH, nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự XH, bảo vệ lợi ích chung của cả
cộng đồng, vì sự phát triển của XH. -
Trong đời sống XH, do sự đòi hỏi của các QH giao tiếp giữa người với người nên đã
hìnhthành các thói quen, các quy tắc, các chuẩn mực ứng xử có tính chất chân lí, thể hiện ý
chí chung của cả cộng đồng, được cả cộng đồng chấp nhận và tuần thủ. -
PL là phương tiện để giải quyết khía cạnh XH của đời sống như: phòng, chống và
khắc phục hậu quả chiến tranh… Nói cách khác, PL luôn hàm chứa các giá trị XH phổ biến,
thuộc về con người. PL luôn phản ánh điều kiện KT-XH, những quan niệm đạo đức, truyền
thống tốt đẹp… Vì thế , PL có nhiểu quy định thể hiện tính XH của nó. -
PL là biểu tượng của công lí, công bằng XH, nó bảo đảm cho các chủ thể ngang
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau trong mối quan hệ XH nhất định. PL là một trong
những công cụ để bảo vệ những công trình và những giá trị VH, tinh thần chung của XH,
những giá trị đạo đức, truyền thống của 1 số phong tục , tập quán của dân tộc. -
Mặc dù, tính XH là thuộc tính chung của tất cả các kiểu PL, song sự thể hiện tính XH
cósự khác nhau giữa các kiểu PL. CÙng với sự phát triển của XH, tính XH của PL ngày càng
trở nên sâu sắc và rộng rãi hơn.
+ Biểu hiện của tính XH trong NN chủ nô, phong kiến còn mờ nhạt và hạn chế, chủ yếu thể
hiện qua vai trò là công cụ đảm bảo an ninh, an toàn XH, bảo vệ các công trình công cộng…
+ Biểu hiện tính XH của PL tư sản có sự thay đổi rất lớn qua các giai đoạn phát triển của
NN tư sản, PL tư sản ra đời thể hiện sự tiến bộ hơn so vs PL phong kiến. Phạm vi điều chỉnh 58 lOMoARc PSD|36215725
rộng dần. PL trở thành công cụ quan trọng để thiết lập địa vị pháp lí bình đẳng giữa các cá
nhân trong XH, hướng tới bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
+ PLXHCN thể hiện tính XH rộng rãu và sâu sắc nhất so với tất cả các kiểu PL trước đó. PL
là công cụ giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, xây dựng XH dân chủ, công
bằng, văn mình, mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, trong đó các giá trị con người
được thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ. PL XHCN là PL vì con người, nhằm phục vụ
con người, đảm bảo cho con người có điều kiện phát triển toàn diện.
38.2. Ý nghĩa của việc tìm hiểu bản chất PL: -
Theo quan điểm của CN Mác-Lênin, PL luôn gắn bó chặt chẽ với NN, phản ánh bản
chấtcủa NN, vì vậy cũng như NN, xét về bản chất, PL là một hiện tượng vừa mang tính xã
hội vừa mang tính giai cấp. -
Là một phạm trù ý thức XH, PL chịu sự quy định của tồn tại XH, chế độ kinh tế là cơ
sởcủa PL, nội dung của PL do các quan hệ KT-XH quyết định , khi các quan hệ KT-XH thay
đổi sớm hay muộn sẽ kéo theo sự thay đổi của PL. Bên cạnh đó, đường lối chính sách của
lực lượng cầm quyền luôn giữ vai trò chỉ đạo đối với PL. -
PL không chỉ phản ánh các chính sách KT mà còn thể hiện các quan hệ giai cấp, phản
ánhđối sách giai cấp và mức độ của cuộc đấu tranh giai cấp. Nói cách khác, bản chất của PL
do cơ sở KTXH và những điều kiện tồn tại, phát triển của nó quy định. PL là sự mô hình hóa
những nhu cầu khách quan, phổ biến trong XH.
=> Trong điều kiện phát triển ngày nay, để thúc đẩy phát triển của XH, đòi hỏi PL của mỗi
nước phải có sự phù hợp nhất định dựa vào cơ sở KT và cơ sở XH của mình.
39. Phân tích sự thống nhất giữa tính xã hội và tính giai cấp của pháp luật. Trình
bàyý nghĩa của vấn đề này trong xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật ở nước ta hiện nay
39.1. SỰ thống nhất giữa tính XH và tính giai cấp
Pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội. Hai thuộc tính
này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Xét theo quan điểm hệ thống thì không có pháp luật lOMoARc PSD|36215725
chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp hoặc không có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính xã hội.
Tuy nhiên ở mức độ nào đó thì hai tính chất này của pháp luật thể hiện rất khác nhau và
thường biến đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, quan điểm, đường lối chính sách và
các trào lưu chính trị xã hội trong mỗi nước, hoặc ở các thời kỳ lịch sử khác nhau thì mức
độ thể hiện cũng khác nhau. a.Pháp luật chủ nô:
Pháp luật chủ nô ra đời dựa trên cơ sở sản xuất chiếm hữu nô lệ và thể hiện bản chất giai
cấp sâu sắc. Tính xã hội của pháp luật chủ nô chưa được thể hiện nhiều. Pháp luật chủ
nô quy định và bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ, thừa nhận chủ nô là công dân có đầy đủ mọi
quyền hành và nô lệ thì không có quyền hạn gì cả kể cả quyền làm một con người. Pháp
luật chủ nô củng cố quyền tư hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ. Quyền này
bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản cũng như đối với nô lệ một
cách tuyệt đối và truyền từ đời nay sang đời khác. Vì thế mà trong giai đoạn này pháp lu ật
mang tính giai cấp sâu sắc, tính xã hội của pháp luật chủ nô chỉ là phương tiện để duy trì
trật tự và tạo điều kiện cho xã hội tồn tại và phát triển vì lợi ích của các lực lượng khác nhau trong xã hội
b. Pháp luật phong kiến:
Pháp luật phong kiến thể hiện ý chí của giai cấp địa chủ phong kiến, củng cố địa vị thống
trị của địa chủ phong kiến đối với nông dân. Pháp luật phong kiến củng cố quan hệ sản xuất
phong kiến trên cơ sở chế độ chiếm hữu của địa chủ đối với đất đai, các tư liệu sản xuất và
cả một phần sức lao động của người nông dân. Hình thức bóc lột mà nhà nước phong kiến
đã đặt lên thành pháp luật là nghĩa vụ phải nộp tô thuế của người nông dân. Pháp luật phong
kiến thể hiện tính xã hội khá rõ nét. Biểu hiện của nó là việc pháp luật được coi là một công
cụ để quản lý xã hội. Các nhà nước phong kiến tùy thuộc điều kiện cụ thể của đất nước mình
luôn tiến hành các hoạt động kinh tế xã hội vì sự phát triển của đất nước, vì lợi ích của nhân
dân cả nước, vì sự phồn thịnh của quốc gia. Tuy nhiên, trong xã hội phong kiến khi mà mọi
quyền lực đều phụ thuộc vào vua chúa hay quan lại thì nền chính trị tốt hay xấu , tính xã hội 60 lOMoARc PSD|36215725
nhiều hay ít, lại phụ thuộc vào nhân cách, phẩm hạnh của các vị vua chúa, quan lại. c. Pháp luật tư sản:
Trong pháp luật tư sản có nhiều quy định về quyền tự do, dân chủ…làm nhiều người
lầm tưởng pháp luật tư sản là pháp luật chung của xã hội, không mang tính giai cấp,
do nhân dân xây dựng và vì lợi ích của nhân dân. Nhưng thông qua chế định quyền sở
hữu, chế định về hợp đồng…, tính giai cấp của pháp luật tư sản được thể hiện rõ nét. Chẳng
hạn về chế định quyền sở hữu, pháp luật của các nước tư sản đều ghi nhận quyền tư hữu là
thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, pháp luật tư sản tuyên bố bảo vệ quyền tư hữu
của tất cả mọi người nhưng thực chất pháp luật tư sản chỉ bảo vệ chế độ tư hữu của giai cấp
tư sản, còn bản thân người công nhân không có gì mà tư hữu ngoài s ức lao động của họ.
Nên xét cho cùng quyền tư hữu không tồn tại đối với giai cấp công nhân mà chỉ phục vụ cho
giai cấp tư sản nắm phần lớn tư liệu sản xuất trong xã hội. Pháp luật tư sản đặc biệt quan
tâm bảo vệ quyền sở hữu bởi vì nó liên quan tới các nhà tư sản chiếm số ít trong xã hội
nhưng lại chiếm giữ tỷ lệ lớn của cải trong xã hội. Về tính xã hội, phạm vi các quan hệ xã
hội mà pháp luật tư sản điều chỉnh ngày càng mở rộng đã tác động hiệu quả đến mọi lĩnh
vực của xã hội. Sự ổn định của nhà nước tư sả n hiện đại phụ thuộc rất nhiều vào chức năng
xã hội và hiệu quả tác động của pháp luật vì nhiều biến động, xung đột xã hội đã được giải
quyết ổn thoả dựa trên cơ sở pháp luật. Do đó tính xã hội của pháp luật tư sản ngày càng
được đề cao và phát triển. Qua phân tích ở trên, pháp luật tư sản bộc lộ rõ bản chất giai
cấp tư sản – giai cấp nắm quyền lực kinh tế và chính trị trong xã hội tư sản. Nhưng mặt khác,
pháp luật tư sản có giá trị xã hội to lớn , đây là bước tiến vượt bậc của văn minh nhân loại
theo hướng phát triển các tư tưởng dân chủ, công bằng, quyền con người và nó thực sự trở
thành công cụ hữu hiệu điều chỉnh mọi quan hệ xã hội . Nhiều chế định luật tiến bộ mà ngày
nay chúng ta cần quan tâm nghiên cứu, chọn lọc để áp dụng.
d. Pháp luật XHCN: Pháp luật XHCN cũng như các kiểu pháp luật khác đều có tính giai
cấp và tính xã hội nhưng tính giai cấp và tính xã hội của pháp luật XHCN có những nội dung
khác với các kiểu pháp luật của các nhà nước trước đó. Tính giai cấp và tính xã hội trong lOMoARc PSD|36215725
pháp luật XHCN được nâng lên ở tầm cao hơn đó là tính giai cấp công nhân và tính nhân
dân. Tính giai cấp công nhân của pháp luật XHCN được thể hiện ở chỗ pháp luật không phải
là công cụ phản ánh ý chí của thiểu số giai cấp thống trị bóc lột mà phản ánh ý chí của giai
cấp công nhân, giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất XHCN, có sứ mệnh lịch sử lãnh
đạo các tầng lớp nhân dân lao động thực hiện sự nghiệp xây dựng CNXH.
39. 2.Ý nghĩa của vấn đề này trong xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật
ở nước ta hiện nay
Ở VN, sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, thống nhất đất nước, cả nước
đi lên chủ nghĩa XH. PL XHCN ở VN hiện nay được xây dựng trên cơ sở kinh tế là các quan
hệ sản xuất gắn với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế NN giữ vai trò
chủ đạo; cơ sở XH là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức; cơ sở tư tưởng là CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM. Cũng như các PL khác, PL VN
hiện nay vừa mang tính XH, vừa mang tính giai cấp.
40. Phân tích tính chủ quan và tính khách quan của pháp luật. Theo anh/chị, làm
thếnào để ngăn ngừa hiện tượng duy ý chí trong xây dựng pháp luật. 40.1.
40.2. Ngăn ngừa hiện tượng duy ý chí trong XDPL:
Để thực hiện sự nghiệp đổi mới, một nguyên tắc hết sức quan trọng - nguyên tắc nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật và rút ra bài học kinh nghiệm bổ
ích "xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan". Tại Đại
hội VII và trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH", Đảng ta đã
chỉ rõ: "Trong cách mạng XHCN, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng
đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng XHCN. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm
chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong cải tạo XHCN, xóa bỏ
ngay nền kinh tế nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp
nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp…". => Nhận định 62 lOMoARc PSD|36215725
đó cho thấy chủ nghĩa chủ quan và duy ý chí là một trong những yếu tố chủ yếu dẫn
đến những sai lầm, khuyết điểm trong việc hoạch định đường lối, chính sách, trong
hoạt động thực tiễn của Đảng và Nhà nước ta suốt một thời gian dài. -
Trong quá trình xây dựng một chế độ xã hội mới, việc hoạch định đường lối chiến
lược lâu dài và định ra đường lối sách lược, chính sách cụ thể cho từng giai đoạn là hết
sức quan trọng. Thực tiễn cũng đã chỉ ra rằng sự can thiệp một cách duy ý chí vào các qúa
trình kinh tế, văn hoá và khoa học – kỹ thuật, việc áp đặt ý muốn chủ quan vào việc hoạch
định đường lối, chính sách vào hoạt động thực tiễn đã dẫn đến những biến dạng, "tha hóa"
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, đưa đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng
kéo dài. Bởi vậy, việc khắc phục chủ nghĩa chủ quan duy ý chí trong việc hoạch định đường
lối, chính sách và trong hoạt động thực tiễn luôn là một vấn đề mang tính thời sự cấp bách.
Vấn đề quan trọng ở đây là: -
Thứ nhất, lợi ích của giai cấp thống trị có phù hợp với quy luật khách quan của sự
pháttriển xã hội không? -
Thứ hai đường lối, chính sách có phản ánh một cách đúng đắn và kịp thời quy luật
kháchquan và lợi ích của đông đảo quản chúng lao động không? -
Thứ ba, các biện pháp và phương tiện thực hiện đường lối, chính sách đó trong thực
tiễncó đem lại hiệu quả không?
Rõ ràng là, trong bất cứ đường lối, chính sách nào ngoài cơ sở khách quan còn có mặt chủ
quan. Mặt khách quan của đường lối, chính sách là hoàn cảnh kinh tế, chính trị xã hội,
mối quan hệ giữa các giai cấp và lợi ích của chủ thể đường lối, chính sách. Mặt chủ
quan của đường lối, chính sách thể hiện trong ý chí, nguyện vọng của chủ thể, trong
việc lựa chọn các biện pháp, phương tiện thực hiện nó trong thực tiễn.
Trong quá trình xây dựng CNXH, chúng ta đã phạm phải sai lầm giáo điều, cứng nhắc và
chủ quan duy ý chí khi áp đặt một mô hình CNXH được thiết kế không xuất phát từ thực
tiễn nước ta. Đó là mô hình CNXH thuần khiết với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, chỉ lOMoARc PSD|36215725
hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể được phép tồn tại với sự thống nhất tuyệt đối về
chính trị và tinh thần. Biểu hiện rõ nét nhất của sai lầm đó là đường lối xây dựng CNXH
với bốn mục tiêu chủ yếu mà Đại hội IV đã đề ra, là kế hoạch hoàn thành thời kỳ quá
độ trong vòng 20 năm, là mong muốn giải quyết mọi vấn đề kinh tế - xã hội cả bề rộng
lẫn chiều sâu trong một khoảng thời gian ngắn, là sự phủ nhận nền sản xuất hàng hóa
và thành kiến với quy luật giá trị, với mối quan hệ hàng - tiền, với cạnh tranh… * BIỆN PHÁP:
Một là, hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và thể
chế về phân phối kết quả làm ra để giải phóng sức sản xuất, tạo động lực và nguồn lực cho
tăng trưởng, phát triển, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia;
Hai là, hoàn thiện thể chế về cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, có chính sách đột phá
tháo gỡ những vướng mắc, tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp phát triển trên cơ sở đẩy mạnh
đồng bộ cải cách hành chính và cải cách tư pháp
Ba là, hoàn thiện thể chế về phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, về giáo dục đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao để tranh thủ những thành tựu
của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng
suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế
Bốn là, đổi mới vai trò, chức năng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế và năng
lực kiến tạo sự phát triển của Nhà nước, đặc biệt là năng lực, hiệu quả thể chế hoá đường
lối, chủ trương của Đảng và tổ chức thực hiện chính sách, luật pháp của Nhà nước Năm là,
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực, tinh giản
bộ máy, biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống chính trị.
41. Trình bày những hiểu biết của anh/chị về pháp luật dân chủ. Theo anh/chị, làmthế
nào để pháp luật thực sự dân chủ. 41.1. PL dân chủ 64 lOMoARc PSD|36215725 -
Chế độ chính trị dân chủ là phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước trong đó bảo
đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (hay là chủ quyền nhân dân) cũng
như bảo đảm các quyền tự do về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của con người (hay còn
gọi là quyền còn người). Có hai hình thức thực hiện chế độ chính trị dân chủ là: Trực tiếp
(thông qua bầu cử, trưng cầu ý dân), cử đại diện. -
Pháp luật là yếu tố cốt tử, yếu tố không thể thiếu song hành với NN pháp quyền,
nhưngkhông phải hệ thống PL nào cũng đủ điều kiện là PL của NN pháp quyền. tâm lí dân
tộc, phù hợp với tiến trình phát triển văn minh nhân loại. PL dân chủ là PL tiến bộ, minh
bạch, phù hợp với các điều kiện hiện hữu của đất nước như trình độ phát triển của
KTXH, đạo đức, phong tục tập quán, truyền thống lịch sử, văn hóa, đặc điểm - PL dân
chủ phải thể hiện được ý chí của ND, thừa nhận rộng rãi các quyền cơ bản của con người,
quyền dân chủ của CD, đồng thời thể hiện sự tác động qua lại, trách nhiệm tương hỗ giữa
NN với các cá nhân, tổ chức trong XH cũng như giữa các cá nhân, tổ chức trong XH đối với nhau. -
PL phải có hiệu lực phổ biến đối với mọi người, phải có tính ổn định để giúp các
chủ thể có thể dự đoán được trước kết quả hành vi của mình cũng như lường trước được
phản ứng của NN hoặc các chủ thể khác đối với hành vi đó.
=> Không chỉ CD có trách nhiệm với NN mà NN phải có trách nhiệm với CD. -
Tính dân chủ của HTPL không chỉ thể hiện trong nội dung các quy định của PL mà
cảtrong quá trình xây dựng PL để PL thực sự thể hiện ý chí của ND. Các quy định của PL
phải rõ ràng, cụ thể, được công bố công khai và rộng rãi để bất kì ai khi cần bảo vệ các
quyền, lợi ích của mình đều có thể dễ dàng tìm được. PL dân chủ phải có tính khả thi và chủ
yếu được thể hiện trong các đạo luật được xây dựng với kĩ thuật lập pháp cao, trong đó Hiến
pháp có hiệu lực pháp lí cao nhất. -
PL không còn là công cụ riêng của NN, điều chỉnh các QHXH theo ý chí chủ quan
củaNN mà là sự kết tinh những giá trị VHXH cao quý nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho
ND - Quá trình XDPL phải có sự tham gia rộng rãi của toàn thể ND để đảm bảo PL thể lOMoARc PSD|36215725
hiện được ý chí chung của ND. PL thừa nhận và hướng tới việc bảo đảm, bảo vệ tốt nhất
quyền con người, quyền CD, hướng tới bảo vệ công bằng XH, vì vậy, nó thực sự trở thành
chuẩn mực chung được mn thừa nhận. Các quy định trong HTPL dân chủ được xây dựng
trên cơ sở đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân, nhóm XH và lợi ích chung của toàn XH.
Hoạt động áp dụng PL được tiến hành trên cơ sở và theo nguyên tắc bảo vệ công lí, bảo đảm,
bảo vệ các quyền con người, tự do cá nhân, công bằng XH.
41.2. Giải pháp để có PL thật dân chủ:
42. Phân tích các yếu tố quy định bản chất, nội dung của pháp luật.
Các yếu tố quy định bản chất, nội dung của PL là cơ sở KT và cơ sở XH.
Tính giai cấp của XH thể hiện ở chỗ: PL là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị hay
lực lượng cầm quyền trong XH, là công cụ điều chỉnh QH giữa các giai ấp, các lực lượng
XH theo chiều hướng bảo vệ lợi ích, bảo vệ quyền và địa vị thống trị của lực lượng này.
Nói cách khác, nó là ý chí của lực lượng cầm quyền được nâng lên thành PL.
- Biểu hiện của tính giai cấp của PL có sự thay đổi qua các kiểu PL:
+ PL chủ nô thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô và tính giai cấp của kiểu Pl
này thể hiện khá công khai, rõ rệt.
+ PL phong kiến thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến và tính giai
cấp của kiểu PL này cũng thể hiện công khai, rõ rệt.
+ PL tư sản thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, song biểu hiện tính giai cấp
của kiểu PL này có sự thay đổi qua các giai đoạn phát triển của XH TBCN. Ở giai đoạn của
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, tính giai cấp của PL tu sản chưa thể hiện công khai thì ở
giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, tính giai cấp của PL tư sản thể hiện công khai và rõ rệt hơn
nhiều so với giai đoạn trước; còn ở giai đoạn của CNTB hiện đại, tính giai cấp của PL tư sản
có xu hướng thể hiện mờ nhạt hơn giai đoạn trước.
+ PL XHCN thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và những người dân lao
động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng CS, là sự thể chế hóa đường lối, chính sách của đảng 66 lOMoARc PSD|36215725
này. Tính giai cấp của kiểu PL này thể hiện mờ nhạt nhất trong tất cả các kiểu PL vì giai cấp
thống trị trong XH này chiến tuyệt đại đa số dân cư. b. Tính xã hội:
- Tính xã hội của PL thể hiện ở chỗ: PL là sự thể hiện ý chí chung của cả XH, là công cụ
điều chỉnh các QHXH, nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự XH, bảo vệ lợi ích chung của cả
cộng đồng, vì sự phát triển của XH.
+ Biểu hiện của tính XH trong NN chủ nô, phong kiến còn mờ nhạt và hạn chế, chủ yếu thể
hiện qua vai trò là công cụ đảm bảo an ninh, an toàn XH, bảo vệ các công trình công cộng…
+ Biểu hiện tính XH của PL tư sản có sự thay đổi rất lớn qua các giai đoạn phát triển của
NN tư sản, PL tư sản ra đời thể hiện sự tiến bộ hơn so vs PL phong kiến. Phạm vi điều chỉnh
rộng dần. PL trở thành công cụ quan trọng để thiết lập địa vị pháp lí bình đẳng giữa các cá
nhân trong XH, hướng tới bảo vệ các quyền con người, quyền công dân.
+ PLXHCN thể hiện tính XH rộng rãu và sâu sắc nhất so với tất cả các kiểu PL trước đó. PL
là công cụ giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, xây dựng XH dân chủ, công
bằng, văn mình, mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, trong đó các giá trị con người
được thừa nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ. PL XHCN là PL vì con người, nhằm phục vụ
con người, đảm bảo cho con người có điều kiện phát triển toàn diện.
43. Phân tích luận điểm: “Xã hội không thể một ngày thiếu pháp luật”. 1. Định nghĩa PL
PL là hệ thống các quy tắc xử sự chung được NN đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực
hiện để điều chỉnh các QHXH theo mục đích, định hướng của NN.
2. Vai trò của PL đối với XH:
a. PL điều tiết và định hướng sự phát triển của các QHXH: -
PL không sinh ra các QHXH nhưng là phương tiện không thể thiếu và hiện nay là
công cụ có hiệu quả nhất để điều tiết và định hướng cho sự phát triển của các QHXH, thông
qua việc quy định quyền và nghĩa vụ pháp lí cho chủ thể tham gia QHXH, các biện pháp
đảm bảo thực hiện các quyền đó. PL tạo ra hành lang pháp lí, khuôn khổ cho các QHXH vận
hành. Nhờ có PL, các thành viên trong XH nắm bắt được nhưng hành vi nào là hợp pháp, lOMoARc PSD|36215725
được khuyến khích, hành vi nào là bắt buộc, hành vi nào bị ngăn cấm để từ đó có cách ứng
xử phù hợp khi bắt gặp một tình huống cụ thể. -
PL củng cố và tăng cường các xu hướng phát triển tích cực của các QHXH, ngăn
ngừa, loại bỏ những xu hướng phát triển tiêu cực, đảm bảo sự phát triển của XH phù hợp
với quy luật khách quan (VD: QH sở hữu, sự tích tụ, tập trung ruộng đất) -
Vai trò của PL càng được thể hiện rõ khi có sự thay đổi lớn trong đời sống XH. Sau
mỗicuộc cách mạng, cải cách XH, những yếu tố mới được xác lập thường gặp phải sự chống
đối, sức ỳ và lực cản từ nhiều phía, ngược lại, những yếu tố lạc hậu, lỗi thời, ko còn phù hợp
nhưng chưa hoàn toàn mất hẳn. Bằng PL, những yếu tố mới, tích cực, tiến bộ sẽ được khẳng
định, nhờ đó sự tồn tại của chúng trở nên chính thức và chắc chăn, không thể đảo ngược.
b. PL là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn XH. -
Trật tự an toàn XH là trạng thái của đs XH, trong đó tình hình chính trị ổn định, an
ninhQG được giữ vững và con người được yên ổn trong sinh hoạt hàng ngày, trong lao động,
học tập, nghỉ ngơi… không bị xâm hại. An ninh chủ yếu được thể hiện trong lĩnh vực chính
trị, an toàn XH được thể hiện trên nhiều mặt, an toàn trong sản xuất, trong giao thông, sinh hoạt hàng ngày… -
PL hướng dẫn cách xử sự cho mọi người khi tham gia các QHXH theo chiều hướng
nhằmthiết lập an ninh chính trị, trật tự, an toàn XH, theo quy định những tiêu chuẩn an toàn
lỹ thuật để bảo đảm sự an toàn cho mn trong các lĩnh vực lao động, sản xuất, tiêu dùng… -
PL cấm những hành vi gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn XH và quy định các
biện pháp trừng phạt đối với những chủ thể có hành vi đó, qua đó mà đảm bảo được trật tự, an ninh, an toàn XH.
c. PL là cơ sở để giải quyết các tranh chấp trong XH. -
Trong XH, tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể là điều không thể tránh khỏi: tranh
chấpgiữa các doanh nghiệp, giữa người mua và người bán…Quy định của PL về quyền và 68 lOMoARc PSD|36215725
nghĩa vụ pháp lí của các chủ thể tham gia QHXH chính là các chuẩn mực, cơ sở để giải quyết tranh chấp đó. -
PL quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục để giải quyết các tranh chấp đó nhằm bảo
đảmcho tranh chấp được giải quyết một cách công bằng, vừa thấu tình, vừa đạt lí, bảo đảm công minh của PL.
d. PL là phương tiện bảo đảm và bảo vệ quyền con người: -
Quyền con người là khả năng con người được tự do lựa chọn hành động, tự do lựa
chọn cách thức và mức độ thể hiện tháo độ cũng như hành động theo ý mình, không bị hạn
chếm ràng buộc, cấm đoán một cách vô lý. -
PL của các NN hiện đại có vai trò to lớn trong việc đảm bảo dân chủ, bình đẳng,
công bằng, tiến bộ XH:
+ PL quy định quyền lực NN thuộc về ND, đảm bảo cho ND tham gia quản lí NN và XH,
thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của NN, quy định trách nhiệm của NN trước ND…
+ PL chống lại sự phân biệt đối xử dựa trên khác biệt về mặt nguồn gốc, xuất thân, chủng
tộc, màu da, giới tính,,,
+ PL thừa nhận quyền bình đẳng trước PL của tất cả mọi người.
+ PL bảo đảm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các giai tầng, nhất là những
người ở vị trí XH yếu hơn.
+ Thông qua PL, người có công thì được hướng, kẻ có tội thù bị trừng phạt
+ PL là công cụ quan trọng để ghi nhận và bảo vệ cái mới, tích cực, tiến bộ, thúc đẩy XH
phát triển, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của con người. e. PL đảm bảo sự phát triển bền vững của XH.
- PL điều chỉnh các QHXH theo chiều hướng vừa bảo đảm tăng trưởng kinh tế, vừa bảođảm
phát triển XH, vừa bảo vệ môi trường. f. PL có vai trò giáo dục vô cùng lớn.
- Để điều chỉnh hành vi của con người, PL phải tác động lên ý thức của họ lOMoARc PSD|36215725
- PL vừa là cơ sở, vừa là động lực, vừa là mục đích của nhận thức PL. Với tính chất côngkhai
của mình, một khi PL được công bố, bắt buộc các thành viên trong XH phải nắm bắt được chúng.
- PL giữ vai trò định hướng tư tưởng cho các thành viên trong XH. PL là cơ sở hình thànhý
thức tuân thủ PL, thái độ tôn trọng PL, sống và làm việc theo PL, PL thúc đẩy hình thành
thói quen suy nghĩ và hành động hợp pháp.
- PL giáo dục ý thức CD, làm hình thành ở mỗi người ý thức trách nhiệm, bổn phận của cánhân.
- PL định hướng hành vi con người.
44. Tại sao nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật? (như câu trên)
45. Phân tích khái niệm nguồn của pháp luật. Cho biết các phương thức tạo nguồncủa
pháp luật Việt Nam hiện nay.
* Lịch sử vs nhiều quan điểm : -
Trong khoa học pháp lí ở Việt Nam hiện nay , tồn tại một số quan niệm khác nhau
vềnguồn của pháp luật. Chẳng hạn, có quan niệm cho rằng , nguồn của pháp luật là tất cả
những căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền sử dụng làm cơ sở để xây dựng, thực hiện pháp
luật, cũng như áp dụng để giải quyết những vụ việc pháp lí xảy ra trong thực tiễn. Theo quan
điểm này , nguồn của pháp luật bao gồm nguồn nội dung và nguồn hình thức:
+ Phương diện nội dung: Là xuất xứ và là căn nguyên của pháp luật. Vì nó được các chủ thể
có thẩm quyền dựa vào đó để xây dựng, ban hành và giải thích pháp luật.
+ Phương diện hình thức: Là phương thức tồn tại của các quy phạm pháp luật trong thực tế,
hay là nơi chứa đựng, là nơi có thể cung cấp các QPPL, tức là những căn cứ mà các chủ thể
có thẩm quyền dựa vào đó để giải quyết các vụ việc pháp lý xảy ra trong thực tế.
Hình thức bên ngoài của pháp luật thường được xem xét dưới dạng nguồn hình thức * Định nghĩa : 70 lOMoARc PSD|36215725 -
Nguồn của pháp luật là tất cả các yếu tố chứa đựng hoặc cung cấp căn cứ pháp lí để
các chủ thể thực hiện hành vi thực tế. Nói cách khác, nguồn của pháp luật là tất cả các yếu
tố chứa đựng hoặc cung cấp căn cứ pháp lí hoạt động của cơ quan nhà nước, nhà chức trách
có thẩm quyền cũng như các chủ thể khác trong xã hội.
Có 3 loại nguồn của PL: Tập quán pháp, Tiền lệ pháp và Văn bản QPPL Tiêu Tập quán pháp
Tiền lệ pháp Văn bản QPPL chí
KN Tập quán: Là những thói Tiền lệ: Là cách thức giải QPPL: là
quy quen trong ứng xử của quyết các vụ việc đã xảy tắc xử sự chung
cộng đồng hay những ra trước. Những cách
do Nhà nước quy tắc xử
sự chung được thức, phán quyết để giải ban hành hoặc hình thành một cách tự
quyết các vụ việc xảy ra những vụ việc
phát trong một cộng đồng trước mang tính gương hoặc trường
dân cư, được lưu truyền
mẫu được nhà nước đưa hợp có tình tiết
chủ yếu theo phương
làm khuôn mẫu để giải hay vấn đề
thức truyền miệng, được quyết các vụ việc tương tương tự sau
đảm bảo thực hiện bằng tự về sau Tiền lệ pháp: là đó.
thói quen, bằng sức
hình thức pháp luật tồn thừa nhận và
thuyết phục của chúng,
tại dưới dạng các phán đảm bảo thực
bằng dư luận xã hội và
quyết của các chủ thể có hiện để điều
bằng cả các biện pháp thẩm quyền khi giải chỉnh các quan
cưỡng chế phi nhà
quyết các vụ việc cụ thể hệ xã hội và nước.
được nhà nước thừa bảo vệ lợi ích
Tập quán pháp: là hình
nhận và làm khuôn mẫu cho giai cấp
thức của pháp luật tồn tại cho việc giải quyết các thống trị dưới dạng những phong
vụ việc tương tự về sau. VBQPPL là văn
tục, tập quán đã được lưu Án lệ là một hình thức bản chứa đựng
truyền trong đời sống xã của PL , theo đó Nhà các quy tắc xử
hội, được nhà nước thừa nước thừa nhận những sự chung, do nhận và nâng lên thành
bản án, quyết định giải các chủ thể có những quy tắc xử sự
quyết vụ việc của tòa án thẩm quyền
mang tính bắt buộc đối
(trong các tập san án lệ) ban hành theo vỡi xã hội
làm khuôn mẫu và cơ sở trình tự thủ tục
để đưa ra phán quyết cho và hình thức lOMoARc PSD|36215725
luật định, được nhà nước được sử dụng nhiều lần
bảo đảm thực hiện và trong cuộc sống.
Đặc Là hình thức pháp luật chủ nô, sử dụng quy tắc điê
xuất hiện sớm nhất và m rộng rãi trong các xử sự
được sử dụng khá phổ nước phong kiến chung
biến trong nhà nước chủ và hiện nay chiếm +Do nô và phong kiến, trong một vi trí quan các chủ nhà nước tư sản hình trọng trong các thể có
thức Được sử dụng chủ nhà +Là văn bản thẩm yếu trong cá nhà nước chứa đựng các 72 lOMoARc PSD|36215725
này vẫn được sử dụng
nước tư sản, nhất là ở quyền ban hành
nhất là những nước có Anh, Mĩ.Tiền lệ pháp theo trình tự
chế độ quân chủ, nhưng được sử dụng phổ biến thủ tục được phạm vi hẹp hơn so với hơn trong các quan hệ pháp luât quy các nhà nước trước.
dân sự, đặt biệt là trong định.
các qua hệ thương mại do + Có tên gọi cụ
xu thế hội nhập của nền thể theo quy kinh tế quốc tế. định của pháp luật Được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp + Được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống cho nhiều vụ việc hay những đối tượng khác nhau trong thời gian văn bản có hiêu lực
* Phương thức tạo nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay.
- Xuất phát từ quan niệm về nguồn của PL và giá trị của từng loại nguồn PL mà mỗi nướccó
thể có các loại nguồn PL khác nhau. Ngay trong một nước, trong các điều kiện hoàn cảnh
kinh tế XH khác nhau cũng có thể có các loại nguồn PL khác nhau. Nguồn của PL khá
phong phú, bao gồm nhiều loại như văn bản quy phạm PL; tập quán pháp; tiền lệ pháp;
đường lối; chính sách của lực lượng cầm quyền… Trong đó, VBQPPL; tập quán pháp; tiền
lệ pháp là những loại nguồn cơ bản, các loại nguồn khác được coi là những nguồn không lOMoARc PSD|36215725
cơ bản, nó có giá trị bổ sung, thay thế khi các loại nguồn cơ bản ko quy định hoặc có những
hạn chế, khiến khuyết.
- Có hai phương thức chủ yếu là NN thừa nhận hoặc đặt ra. VD:
- Tập quán pháp là những tập quán của cộng đồng được NN thừa nhận, nâng lên thành PL.
- Tiền lệ pháp là những bản án, quyết định của chủ thể có thẩm quyền khi giải quyết các
vụviệc cụ thể, được NN thừa nhận có chứa đựng khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc khác tương tự
- VBQPPL là VB do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục, hình thức
do PL quy định, trong đó chứa đựng các quy tắc xử sự chung để điều chỉnh các MQH XH.
46. Phân tích khái niệm văn bản qui phạm pháp luật, cho ví dụ. Trình bày ưu thế của văn
bản quy phạm pháp luật so với các loại nguồn khác của pháp luật.
1. Nêu định nghĩa VBQPPL
- ĐN: Văn bản QPPL là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung, do các chủ thể có
thẩm quyền ban hành theo trình tự thủ tục và hình thức luật định, được nhà nước bảo đảm
thực hiện và được sử dụng nhiều lần trong cuộc sống.
2. Văn bản QPPL có các đặc điểm sau:
- Là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung.
- Do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự thủ tục được pháp luật quy định.
(VD: Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng,….) =>mang tính pháp lý cao
- Có tên gọi cụ thể theo quy định của pháp luật như Hiến pháp, luật, nghị định,..
- Được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp như tuyên truyền, tổ chức
thựchiện,..và đặc biệt là các biện pháp cưỡng chế.
- Được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống cho nhiều vụ việc hay những đối tượng khácnhau
trong thời gian văn bản có hiệu lực. 74 lOMoARc PSD|36215725
- Dễ phổ biến, dễ kiểm soát, đơn giản khi ban hành hoặc sửa đổi, có tính khái quát cao.=> Văn
bản qui phạm pháp luật vừa là nguồn , vừa là hình thức pháp luật quan trọng bậc nhất
. Đây là hình thức pháp luật thành văn, thể hiện rõ nét nhất tính xác định về hình thức của pháp luật.
* Một số văn bản luật như: Hiến pháp 2013, Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật hình sự 2015, Luật
hôn nhân và gia đình 2014, Luật giao thông đường bộ 2008,..vv…
* Ví dụ về văn bản dưới luật
Pháp lệnh số 10/2014/UBTVQH13 (PHÁP LỆNH Cảnh sát môi trường)
Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ và đường sắt
3. Ưu thế của văn bản quy phạm pháp luật so với các loại nguồn khác của pháp luật.
* KQ về các loại nguồn khác:
- KN Tập quán pháp: là hình thức của pháp luật tồn tại dưới dạng những phong tục, tập
quán đã được lưu truyền trong đời sống xã hội, được nhà nước thừa nhận thành những quy
tắc xử sự mang tính bắt buộc đối với xã hôi.̣
-KN Tiền lệ pháp: là hình thức pháp luật tồn tại dưới dạng các phán quyết của các chủ
thể có thẩm quyền khi giải quyết các vụ việc cụ thể được nhà nước thừa nhận và làm khuôn
mẫu cho việc giải quyết các vụ việc tương tự về sau. * Ưu thế:
- VBQPPL được hình thành do kết quả của hoạt động XDPL, thường thể hiện trí tuệ củamột
tập thể và tính khoa học tương đối cao. Trong khi tập quán pháp thường hình thành một cách
tự pháp, còn án lệ thì hình thành do kết quả của hoạt động ADPL, do vậy, tính khoa học thường thấp hơn VBQPPL.
- Các quy định trong VBQPPL được thể hiện thành văn nên rõ ràng, cụ thể, dễ bảo đảm
sựthống nhất, đồng bộ của HTPL, dễ phổ biến, dễ áp dụng, có thể được hiểu và thực hiện
thống nhất trên phạm vi rộng. Trong khi đó, tập quán pháp tồn tại dưới dạng bất thành văn lOMoARc PSD|36215725
nên thường chỉ được hiểu một cách ước lệ, nó lại có tính tản man, địa phương nên khó bảo
đảm có thể hiểu và áp dụng một cách thống nhất trên phạm vi cả nước.
- VBQPPL có thể đáp ứng được kịp thời những yêu cầu, đòi hỏi của cuộc sống vì dễ sửađổi,
bổ sung… trong đó tập quán pháp thường có tính bảo thủ, chậm thay đổi.
47. Phân tích khái niệm tập quán pháp. Trình bày những ưu điểm, hạn chế của tập quán
pháp. Cho ví dụ minh hoạ.
1. Nêu định nghĩa và VD về tập quán pháp:
KN : Tập quán: Là những thói quen trong ứng xử của cộng đồng hay những quy tắc xử sự
chung được hình thành một cách tự phát trong một cộng đồng dân cư, được lưu truyền chủ yếu
theo phương thức truyền miệng, được đảm bảo thực hiện bằng thói quen, bằng sức thuyết
phục của chúng, bằng dư luận xã hội và bằng cả các biện pháp cưỡng chế phi nhà nước.
Tập quán pháp: là hình thức của pháp luật tồn tại dưới dạng những phong tục, tập quán đã
được lưu truyền trong đời sống xã hội, được nhà nước thừa nhận và nâng lên thành những
quy tắc xử sự mang tính bắt buộc đối vỡi xã hội
Là hình thức pháp luật xuất hiện sớm nhất và được sử dụng khá phổ biến trong nhà
nước chủ nô và phong kiến, trong nhà nước tư sản hình thức này vẫn được sử dụng nhất là
những nước có chế độ quân chủ, nhưng phạm vi hẹp hơn so với các nhà nước trước.
- Nhà nước thừa nhận một tập quán thành tập quán pháp không chỉ đơn giản là sự chấp nhận
của nhà nước đối với tập quán , khuyến khích xử sự theo tập quán đó mà quan trọng là đưa
quyền lực nhà nước vào trong tập quán đó. Chính vì vậy, khi một tập quán được thừa nhận
thành tập quán pháp nó sẽ trở lên có ý nghĩa bắt buộc và mang tính cưỡng chế.
* Ý nghĩa và cách thừa nhận :
- Nhà nước thừa nhận tập quán thành tập quán pháp bằng nhiều cách thức khác nhau, cóthể liệt kê danh
mục các tập quán được nhà nước thừa nhận .
+ Với nhà nước : Tập quán đóng vai trò quan trọng tạo nên hệ thống pháp luật của một quốc gia 76 lOMoARc PSD|36215725
+ Với xã hội : tập quán pháp thể hiện sự chấp nhận của nhà nước đối với một thói quen ứng
xử của cộng đồng , đó chính là sự thống nhất giữa ý chí nhà nước với ý chí cộng đồng *Cách
nhà nước thừa nhận tập quán pháp :
- Nhà nước thừa nhận tập quán pháp bằng nhiều cách thức khác nhau , có thể liệt kê danhmục các tập quán
được nhà nước thừa nhận, viện dẫn các tập quan trong pháp luật thành văn , áp dụng tập quán để giải
quyết vụ việc phát sinh trong thực tiến. Đặc điểm Ưu điểm:
- Dễ áp dụng vì đó là những thứ rất gần gũi với cuộc sống (VD: Người Anh có thói quen đi bên trái ) -
Khắc phục được những lỗ hổng của pháp luật. Khi mà pháp luật chưa có những quy định để giải quyết
1 vấn đề nào đó thì sẽ áp dụng tập quán pháp.
VD: Tại 1 số vùng trên đất nước ta. Nếu cuộc hôn nhân của 1 cặp vợ chồng mà có xích mích nặng đến
mức phải ra tòa thì theo tập quán người trong 2 họ sẽ đến để hòa giải
+ Theo điều 3 – Bộ luật dân sự: Khi các chủ thể không
thể giải quyết được mâu thuẫn mà không có điều luật nào
giải quyết thì áp dụng tập quán pháp Nhược điểm :
- Thiếu khoa học do được hình thành môt cách tự phát.̣
-Mang tính cục bô địa phương nên tính quy phạm phổ biến sẽ bị hạn chệ́
- Hình thức này chủ yếu tồn tại bằng truyền miệng nên việc áp dụng tập quán có thể không thống nhất do
xuất hiện nhiều dị bản dẫn đến cách hiểu bị sai lệch
-Hình thành châm, có tính bảo thủ nên ko đáp ứng được yêu cầu linh hoạt của cuộ c sống ̣
Ví dụ về tập quán pháp ở VN hiện nay :
Ví dụ về tập quán pháp trong đó có tình tiết hai bên tranh chấp ở hai địa phương khác nhau
ở hai địa phương đều có tập quán để áp dụng như trường hợp trâu bò thả rông thuộc sở hữu của ai?
Ở khu vực miền núi phía bắc Tây Nguyên đối với trâu bò thả rông. Người được trâu bò thả
rông sau một thời gian không phải là người được xác lập quyền sở hữu đối với trâu bò này
mà người sở hữu thực sự của nó là người đã thả rông nó vì tập quán những nơi này là thả
rông trâu bò, việc áp dụng tập quán này hoàn toàn phù hợp với địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu
của vùng núi mùa khô lạnh, trâu bò không có thức ăn thì thả rông cho trâu bò tự tìm thức ăn, lOMoARc PSD|36215725
đến mùa ấm áp có thức ăn thì trâu bò về lại chuồng trại ban đầu của nó. Ở địa phương khác,
việc xác định chủ sở hữu đối với trâu bò được xác định sở hữu cho người bắt được trâu bò
trong một thời hạn nhất định. Như vậy, ở hai địa phương khác nhau, việc xác định chủ sở
hữu đối với trâu, bò thả rông bị lạc áp dụng tập quán khác nhau. Do đó, khi phát sinh tranh
chấp việc lựa chọn tập quán ở địa phương nào áp dụng để giải quyết tranh chấp còn nhiều vướng mắc.
=> Điều 242 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về việc xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc:
Người bắt được gia súc bị thất lạc phải nuôi giữ và báo cho ủy ban nhân dân xã, phường,
thị trấn nơi người đó cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Chủ
sở hữu nhận lại gia súc bị thất lạc phải thanh toán tiền công nuôi giữ và các chi phí khác
cho người bắt được.Sau sáu tháng, kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến
nhận thì gia súc đó thuộc sở hữu của người bắt được; nếu gia súc bắt được là gia súc thả
rông theo tập quán thì thời hạn này là một năm.Trong thời gian nuôi giữ gia súc bị thất lạc,
nếu gia súc có sinh con thì người bắt được gia súc được hưởng một nửa số gia súc sinh ra
và phải bồi thường thiệt hại nếu có lỗi cố ý làm chết gia súc.
48. Phân tích khái niệm tiền lệ pháp. Trình bày những ưu điểm, hạn chế của tiền lệ pháp.
Cho ví dụ minh hoạ.
KN : Là hình thức pháp luật tồn tại dưới dạng những phán quyết của các chủ thể có thẩm quyền khi giải
quyết các vụ việc cụ thể được nhà nước thừa nhận làm khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc có tính chất tương tự về sau.
Được sử dụng chủ yếu trong cá nhà nước chủ nô, sử dụng rộng rãi trong các nước phong kiến và hiện
nay chiếm một vi trí quan trọng trong các nhà nước tư sản, nhất là ở Anh, Mĩ.Tiền lệ pháp được sử dụng
phổ biến hơn trong các quan hệ dân sự, đặt biệt là trong các qua hệ thương mại do xu thế hội nhập của nền kinh tế quốc tế. Ưuđiểm 78 lOMoARc PSD|36215725 -
Tiền lệ pháp giúp cho hệ thống pháp luật của các quốc gia mang đậm hơi thở của cuộc sống vì nó
được rút ra từ cuộc sống -
Là pháp luật của thực tế nên nó sẽ điều chỉnh được những vấn đề mang tính khái quát qua đó khắc
phục được các lỗ hổng pháp lý của hệ thống pháp luật -
Vì được hình thành từ thực tiễn nên tiền lệ pháp có thể thay đổi theo thời gian. Điều đó thể hiện tính
linh hoạt, mềm dẻo của tiền lệ pháp phù hợp với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội nhất là về lĩnh vực:
Hợp đồng, Giao dịch thương mại, dân sự -
Đối với việc xét xử tòa án tiền lệ pháp có tác dụng thúc đẩy sự công bằng của thẩm phán trong quá
trình xét xử (Vì các đối tượng liên quan trong vụ án có thể biết trước được hậu quả pháp lý của vụ việc,
họ biết các quyết định này không phải là quyết định tùy tiện của các thẩm phán, mà thẩm pháp đã quyết
định dựa vào các bản án trước đó. Thứ 2 Tránh việc được việc xét xử theo cảm tính của thẩm phán, các
đương sự khi nhận được bản án cũng không được tùy tiện kháng cáo bừa bãi) -
Tiền lệ pháp tạo điều kiện cho thẩm phán có thể đưa ra những quan điểm, tư tưởng và đường lối mới
trong việc áp dụng pháp luật để phù hợp với thực tiễn Nhược điểm : -
Tiền lệ pháp do được hình thành không phải từ hoạt động của cơ quan lập pháp mà từ cơ quan tư
pháp với hành pháp nên tính chất pháp lí của nó ko cao.
-Tiền lệ pháp là 1 hình thức làm luật mà xuất pháp từ hoạt động tòa án. Quyết định theo bản án của tòa
án rất nhiều, tăng liên tục theo thời gian nên gây nhiều khó khăn trong việc chọn lựa các án lệ phù hợp
bởi vì mỗi vụ việc tuy có thể có những điều kiện và hoàn cảnh như nhau nhưng tính chất vụ việc lại
hoàn toàn khác nhau. THẨM PHÁN buộc phải so sánh và hình thành 1 tiền lệ mới dẫn đến phức tạp
khi áp dụng pháp luật. -
Mặc dù có tính mềm dẻo nhưng vẫn có tính cứng nhắc. Vì trong quá trình xét xử thẩm phán sẽ phải
tuân thủ những tiền lệ trước đó. Ngoài ra tiền lệ pháp được hình thành từ những bản án riêng lẻ vì thế ko
mang tính khái quát nên rất khó để hệ thống. Án lệ giải thích : Án lệ số 01 :
Trong vụ án có đồng phạm, nếu chứng minh được ý thức chủ quan của người chủ mưu là chỉ
thuê người khác gây thương tích cho người bị hại mà không có ý định tước đoạt tính mạng
của họ (người chủ mưu chỉ yêu cầu gây thương tích ở chân, tay của người bị hại mà không
yêu cầu tấn công vào các phần trọng yếu của cơ thể có khả năng dẫn đến chết người); người
thực hành cũng đã thực hiện theo đúng yêu cầu của người chủ mưu; việc nạn nhân bị chết
nằm ngoài ý thức chủ quan của người chủ mưu thì người chủ mưu phải chịu trách nhiệm lOMoARc PSD|36215725
hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung là “gây thương tích dẫn đến chết người”.
49. Phân tích khái niệm qui phạm pháp luật. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu qui phạm pháp luật.
ĐN: Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và
bảo đảm thực hiện để điều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và mục đích mong muốn Đặc điểm:
- Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự: Với tư cách là quy tắc xử sự, QPPL luôn là khuôn
mẫu cho hành vi của con người, nó chỉ dẫn cho cho mọi người cách xử sự trong những tình
huống nhất định, xác định phạm vi xử sự của con người trong những hoàn cảnh, điều kiện
nhất định, cũng như kết quả hay hậu quả bất lợi gì mà họ phải chịu.
- QPPL là chuẩn mực để giới hạn và đánh giá hành vi con người: Không chỉ là khuôn
mẫu cho việc đánh giá hành vi,QPPL còn là chuẩn mực để xác định giới hạn và đánh giá
hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ mà nó điều chỉnh từ phía nhà nước và từ phía các
chủ thể khác về tính hợp pháp hay ko hợp pháp trong xử sự các bên. Nghĩa là thông qua
QPPL mới biết được hoạt động nào của các chủ thể có hoặc ko có ý nghĩa pháp lý, hoạt động
nào hợp pháp hoặc trái pháp luật…
- QPPL do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện: QPPL là do các cơ
quan có thẩm quyền đặt ra, thừa nhận hoặc phê chuẩn, do vậy bản chất của chúng trùng với
bản chất của pháp luật. QPPL thể hiện ý chí của nhà nước, chúng chứa đựng những tư tưởng
những quan điểm chính trị - pháp lý của nhà nước, của lực lượng cầm quyền trong việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Nhà nước áp đặt ý chí của mình vào các quy phạm pháp luật bằng
cách xác định những tổ chức cá nhân nào, trong những hoàn cảnh điều kiện nào phải chịu sự 80 lOMoARc PSD|36215725
tác động của QPPL, những quyền và nghĩa vụ pháp lý mà họ có và cả những biện pháp mà
nhà nước sẽ đảm bảo cho chúng được thực hiện.
- QPPL là quy tắc xử sự chung: QPPL được ban hành ko phải cho 1 tổ chức hay 1 cá nhân
cụ thể nào mà cho các tổ chức các cá nhân tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Quy
tắc xử sự chung là sự khái quát từ các quy tắc xử sự cụ thể nên nó sẽ phù hợp hầu hết các
trường hợp cụ thể. Mọi tổ chức cá nhân ở vào tình huống mà QPPL đã dự liệu thì đều xử sự như nhau.
- QPPL là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội mà nội dung của nó thường thể hiện ở 2
mặt là cho phép và bắt buộc: Nghĩa là QPPL là quy tắc xử sự mà trong đó chỉ ra các quyền
và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Là công cụ để
điều chỉnh các quan hệ xã hội, QPPL thường chứa đựng các chỉ dẫn về khả năng và các
phạm vi các bên có thể xử sự cũng như những nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ xã hội
mà nó điều chỉnh. Các quyền và nghĩa vụ được QPPL dự liệu cho các chủ thể tham gia quan
hệ mà nó điều chỉnh luôn có sự liên hệ mật thiết. Hình thức tính chất của sự liên hệ đó do
nhà nước xác định phụ thuộc vào tính chất của chính quan hệ xã hội đó. Vì vậy trong cơ chế
điều chỉnh pháp luật, QPPL có vai trò thực hiện chức năng thông báo của nhà nước đến các
chủ thể tham gia quan hệ xã hội về nội dung ý chí, mong muốn của nhà nước để họ biết được
cái gì có thể làm, cái gì ko được làm, cái gì phải làm, cái gì phải tránh ko được làm trong
những hoàn cảnh, điều kiện nhất định nào đó
- QPPL có tính hệ thống: Mỗi QPPL ko tồn tại và tác động một cách biệt lập riêng rẽ mà
giữa chúng luôn có sự liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau tạo nên những hệ thống lớn
nhỏ khác nhau cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội
50. Phân tích cơ cấu của qui phạm pháp luật. Nêu ý nghĩa của từng bộ phận trong qui phạm pháp luật.
1. Nêu định nghĩa QPPL:
2. Phân tích cơ cấu của QPPL: lOMoARc PSD|36215725 a. Giả định :
- Là bộ phận của QPPL nêu lên những điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống
mà khi gặp thì mn cần phải xử sự theo quy định của PL và chỉ rõ chủ thể nào cần phải xử
sự trong điều kiện, hoàn cảnh đó. Phần này còn nêu lên những điều kiện, hoàn cảnh để
áp dụng các biện pháp tác động của NN và chỉ rõ chủ thể nào sẽ là đối tượng để áp dụng
chế tài hoặc các biện pháp tác động khác của NN.
- Vì vậy, bộ phận giả định của QPPL thường trả lời cho các câu hỏi: Ai? Khi nào? Trong
điều kiện, hoàn cảnh đó?
- Giả định của quy phạm pháp luật có thể là giả định đơn giản => tức là chỉ nêu lên 1 điều
kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong thực tế
VD1: Khoản 1 điều 87 Luật giáo dục năm 2005 quy định: “Người được học các chương
trình giáo dục đại học nếu được thưởng học bổng, chi phí đào tạo do nhà nước cấp hoặc
do nước ngoài tài trợ theo hiệp định kí kết với nhà nước thì sau khi tốt nghiệp phải chấp
hành sự điều động làm việc có thời hạn của nhà nước; truờng hợp không chấp hành thì
phải bồi hoàn học bổng, chi phí đào tạo
- Giả định của quy phạm pháp luật có thể là giả định phức tạp tức là nêu lên nhiều điều
kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống và chỉ khi xảy ra tất cả các điều kiện
hoàn cảnh đó thì cơ quan, tổ chức cá nhân được đề cập đến mới chịu sự tác động của quy phạm
VD2: Điều 19 nghị định số 70/2001/NDDCP ngày 3/10/2001 của chính phủ quy định chi
tiết thi hành luật hôn nhân và gia đình quy định: “Trong trường hợp người được cấp dưỡng
1 lần lâm vào tình trạng khó khắn trần trọng do bị tai nạn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, mà
người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế để cấp dưỡng ở mức cao hơn thì
phải cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu của người cấp dưỡng 82 lOMoARc PSD|36215725
Giả định trên nêu lên 2 hoàn cảnh, điều kiện có thể xảy ra trong cuộc sống. Một là người
được cấp dưỡng 1 lần lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng yêu cầu cấp dưỡng bổ sung
và 2 là người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế để cấp dưỡng cao hơn. Ý nghĩa:
+ Làm cho mn biết quy phạm đó điều chỉnh QHXH nào, ai và khi nào, trong điều kiện và hoàn
cảnh nào thì cần phải xử sự theo quy phạm đó.
+ Bộ phận này cũng cho các CQNN có thẩm quyền biết là khi nào thì họ cần phải áp dụng
các biện pháp tác động của NN được quy định trong quy phạm, áp dụng đối với ai, đối tượng
nào và điều kiện để áp dụng các biện pháp đó là gì. b. Quy định :
- Là bộ phận của QPPL nêu lên cách xử sự hay quy tắc xử sự cho chủ thể khi ở các điều
kiện, hoàn cảnh đã nêu trong phần giả định của quy phạm. Đây là phần trực tiếp thể hiện ý
chí của NN, là mệnh lệnh của NN đối với các chủ thể, phần này thường chỉ rõ quyền và
nghĩa vụ pháp lí cho các chủ thể tham gia vào QHXH do quy phạm điều chỉnh. Vì vậy, bộ
phận quy định của quy phạm thường trả lời cho các câu hỏi: được làm gì? Ko được làm gì?
Phải làm gì và làm ntn ?
- Phần quy định của QP gồm hai loại là dứt khoát và tùy nghi. Quy định dứt khoát là quy
định chỉ nêu lên một xử sự rõ ràng, dứt khoát cho chủ thể. Quy định tùy nghi là quy định nêu
lên nhiều cách xử sự, cho phép chủ thể lựa chọn và thực hiện một trong các cách đó.
VD: Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng có quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài
sản chung”. Bộ phận quy định của QP này là cụm từ “có quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản riêng của mình, nhập hoặc ko nhập tài sản riêng vào tài sản chung” và là quy định tùy nghi. Ý nghĩa:
+ Hướng dẫn cách xử sự cho các chủ thể tham gia vào QHXH do quy phạm đó điều chỉnh,
chỉ cho mọi người biết khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh đã nêu trong phần giả định của QP thì lOMoARc PSD|36215725
họ được làm gì hay hành vi nào họ được phép thực hiện; họ không được làm gì hay hành vi
nào họ ko được phép thực hiện; họ phải làm gì hay hành vi nào họ bắt buộc phải thực hiện.
+ Nói cách khác, bộ phận quy định của QP chỉ cho mn biết các quyền và nghĩa vụ pháp lí
của họ khi tham gia vào QHXH do quy phạm điều chỉnh; đồng thời, nó cũng chỉ cho mn biết
ý chí, mong muốn, mục đích của NN khi điều chỉnh QH đó. c. Chế tài:
- Là bộ phận của QPPL nêu lên các biện pháp cưỡng chế mang tính chất trừng phạt mà
NN dự kiến có thể áp dụng đối với các chủ thể được nêu trong phần giả định của QPPL khi
họ VPPL, ko thực hiện hoặc thực hiện ko đúng, ko đầy đủ những nghĩa vụ pháp lí đã được
nêu trong bộ phận quy định của QPPL.
- Chế tài của QPPL thường trả lời cho các câu hỏi: chủ thể được nêu trong phần giả định
của QP có thể phải gánh chịu những hậu quả pháp lí bất lợi gì hoặc biện pháp cưỡng chế nào
nếu VPPL; hoặc các chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể áp dụng những biện pháp cưỡng
chế nào đối với các chủ thể VPPL?
- Chế tài là một trong những biện pháp quan trọng để đảm bảo cho các quy định (những
đòi hỏi, yêu cầu) của PL được thực hiện nghiêm chỉnh trong thực tế, bởi vì, nó nêu lên các
biện pháp cưỡng chế NN nhằm trừng phạt các chủ thể VPPL và nhằm răn đe, phòng ngừa
sự VPPL có thể xảy ra trong thực tế.
- Chế tài của QPPL có thể cố định, tức là chỉ nêu lên một biện pháp cưỡng chế NN; song
cũng có thể là ko cố định, tức là nêu lên nhiều biện pháp cưỡng chế NN, cho phép các chủ
thể có thẩm quyền áp dụng có thể lựa chọn và áp dụng một trong các biện pháp đó tùy theo
mức độ vi phạm của chủ thể vi phạm.
- Chế tài của QPPL còn có thể được chia thành các loại như: chế tài hình sự; chế tài hành
chính; chế tài kỉ luật; chế tài dân sự…
- Ngoài chế tài, để đảm bảo cho PL được thực hiện nghiêm chỉnh, NN còn quy định cácbiện
pháp tác động khác như: khen thưởng, khuyến khích về vật chất, tinh thần hoặc các lợi ích
khác cho các chủ thể có thành tích trong học tâp, công tác, phục vụ…; các biện pháp pháp lí 84 lOMoARc PSD|36215725
bất lợi nhưng ko mang tính chất trừng phạt… Vì thể, bộ phận thứ ba của QPPL nên gọi là
biện pháp tác động của NN hay biện pháp bảo đảm thực hiện PL thì sẽ bao quát và chính xác hơn. Ý nghĩa:
+ Chỉ cho mn biết những biện pháp cưỡng chế NN nào hay những hậu quả pháp lí bất
lợi nào họ có thể gánh chịu nếu tham gia vào QHXH do QP điều chỉnh mà ko thực hiện hoặc
thực hiện ko đúng, ko đầy đủ các nghĩa vụ pháp lí được nêu trong phần quy định của
QP, tức là thực hiện ko đúng những yêu cầu, mệnh lệnh của NN đối với họ
+ Vì thế, chế tài được đặt ra nhằm răn đe, phòng ngừa sự VPPL, và nhằm trừng phạt các
chủ thể VPPL để đảm bảo cho PL được thực hiện nghiêm chỉnh hay bảo đảm tính nghiêm minh của PL.
=> Có thể nói, trong các biện pháp bảo đảm thực hiện PL thì chế tài là biện pháp quan trọng
nhất, có tác dụng lớn nhất và có hiệu quả nhất.
51. Nêu các cách trình bày qui phạm pháp luật trong văn bản qui phạm pháp luật.
Qua đó, phân biệt qui phạm pháp luật với điều luật, cho ví dụ.
51.1.Các cách trình bày QPPL
a. Cách 1: Tất cả các bộ phận của một QPPL có thể được trình bày trong cùng một điều, một khoản của 1 VB QPPL
VD: Khoản 1 Điều 63 Luật giáo dục đại học năm 2012 quy định: ““Người được học các
chương trình giáo dục đại học nếu được thưởng học bổng, chi phí đào tạo do nhà nước
cấp hoặc do nước ngoài tài trợ theo hiệp định kí kết với nhà nước thì sau khi tốt nghiệp
phải chấp hành sự điều động làm việc có thời hạn của nhà nước; truờng hợp không chấp
hành thì phải bồi hoàn học bổng, chi phí đào tạo”
b. Cách 2: Trong một điều của 1 VB QPPL có thể trình bày một hoặc nhiều QPPL.
VD: Luật giao thông đường bộ với mỗi 1 khoản trong 1 điều luật sẽ là 1 QPPL
c. Cách 3: Các bộ phận của 1 QPPL có thể được trình bày trong các điều, khoản khác nhau của cùng 1 VB QPPL. lOMoARc PSD|36215725
VD: Khoản 1 Điều 301 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội bắt cóc
con tin như sau: “Người nào bắt, giữ hoặc giam người khác làm con tin nhằm cưỡng ép một
QG, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân làm hoặc ko làm một việc
như một điều kiện để thả con tin, nếu ko thuộc TH quy định tại điều 113 và điều 299 của Bộ
luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
d. Cách 4: Các bộ phận mang nội dung của 1 QPPL có thể được trình bày trong các điều khoản
khác nhau của các VBQPPL khác nhau.
Đây là cách trình bày khá phổ biến trong các VBQPPL Việt Nam hiện nay.
VD: Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định :
“Cấm các hành vi sau đây: …
Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc
chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.”
Điều 182 BLHS năm 2015 quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau:
“Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác
hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người
mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các TH sau đây, thì bị phạt cảnh
cáo, phạt cải tạo ko giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 đến 01 năm”
Nếu ghép hai điều luật này với nhau sẽ thành một QPPL hoàn chỉnh có đủ cả ba bộ phận
e. Cách 5: Trật tự sắp xếp các bộ phận trong QPPL ko nhất thiết phải theo đúng thứ tự: giả
định, quy định, chế tài hay biện pháp tác động của NN mà có thể trình bày các bộ phận đó
theo cách đảo lộn hoặc đan xen nhau. VD:
Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định :
“Cấm các hành vi sau đây: 86 lOMoARc PSD|36215725 …
Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc
chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.”
51.2. Phân biệt qui phạm pháp luật với điều luật, cho ví dụ.
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và
bảo đảm thực hiện để điều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và mục đích NN mong muốn.
Điều luật là những điều cơ bản nhất của một văn bản pháp luật hay một hợp đồng, quy
định nào đó. Người ta có thể áp dụng điều luật trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống như
kinh tế, thể thao, các tổ chức,...
Quy phạm pháp luật và điều luật là hai hiện tượng pháp lý độc lập. Nếu quy phạm
pháp luật là một bộ phận cấu thành của pháp luật trên phương diện nội dung, thì điều luật
lại là sự biểu hiện của pháp luật về mặt hình thức.
Điều luật và các quy phạm pháp luật có thể trùng khớp với nhau hoặc có thể không
trùng khớp với nhau. Trường hợp trùng khớp là khi cả ba phần của quy phạm pháp
luật được thể hiện ở trong cùng một điều luật, còn trường hợp không trùng khớp là khi
nội dung của quy phạm pháp luật được thể hiện ở một vài điều luật khác nhau.
Tồn tại ba cách thức thể hiện mối liên hệ giữa một điều luật và quy phạm pháp luật.
Thứ nhất, khi một điều luật trùng khớp với một quy phạm pháp luật. Đây là trường
hợp không phải là quá phổ biến trong kỹ thuật lập pháp hiện đại mà là phổ biến trong lịch sử
xây dựng luật pháp ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hiện nay, cách thức này được tìm thấy
nhiều ở trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự ở nước ta. Trong nhiều điều luật ở phần
các tội phạm của Bộ luật hình sự hiện hành, phần quy định của quy phạm pháp luật được
biểu hiện dưới dạng “quy định cấm đoán”, còn giả thiết là nêu các điều kiện hay chủ thể và
phần thứ ba là các chế tài (tử hình, chung thân, tù có thời hạn…). lOMoARc PSD|36215725
Ví dụ, tại Điều 94 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi) “Giết con mới đẻ” quy định:
“Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan
đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.[1] Ở Điều luật
này có thể thấy cả ba phần của quy phạm pháp luật hình sự. Giả định bao gồm người mẹ mới
đẻ con, do ảnh hưởng của tư tưởng lạc hậu nặng nề hoặc do hoàn cảnh khách quan đặc biệt,
giết con hoặc vứt làm đứa trẻ chết; quy định thể hiện ở việc cấm giết con mới đẻ; chế tài có
thể là phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
Thứ hai, khi một quy phạm pháp luật được thể hiện ở nhiều điều luật khác nhau
trong cùng một văn bản hoặc trong các văn bản khác nhau. Đây là trường hợp khi giả định
hoặc giả định và quy định nằm trong một điều luật hoặc cả ba phần khác nhau của quy phạm
pháp luật được thể hiện trong các điều luật khác nhau.
Chẳng hạn, Bộ luật Lao động năm 2012 tại Điều 108 quy định về nghỉ trong giờ làm việc:
“1. Người lao động làm việc liên tục 08 giờ hoặc 06 giờ theo quy định tại Điều 104 của
Bộ luật này được nghỉ giữa giờ ít nhất 30 phút, tính vào thời giờ làm việc.
2. Trường hợp làm việc ban đêm, thì người lao động được nghỉ giữa giờ ít nhất 45phút,
tính vào thời giờ làm việc.
3. Ngoài thời gian nghỉ giữa giờ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người sửdụng
lao động quy định thời điểm các đợt nghỉ ngắn và ghi vào nội quy lao động.”
Theo Điều này, chúng ta hoàn toàn không tìm thấy phần thứ ba “bảo đảm” (hay “chế
tài”) đâu. Tuy nhiên, có thể thấy phần đảm bảo này lại được quy định ở các điều khoản trong
chương XVI “Thanh tra lao động, xử phạt vi phạm lao động” hoặc ở Nghị định 95/2013/
NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã
hội và đưa người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng…
Thứ ba, khi trong một điều luật chứa đựng không chỉ một quy phạm pháp luật mà một vài quy phạm pháp luật. 88 lOMoARc PSD|36215725
Trường hợp này thực tế cũng không phải là hiếm trong kỹ thuật lập pháp ở nước ta hiện
nay. Có thể thấy, ở trong rất nhiều điều luật thuộc phần các tội phạm của Bộ luật hình sự hiện
hành có đến hai hoặc ba “khoản” mà mỗi một khoản hoàn toàn có thể đứng độc lập thành
một quy phạm pháp luật riêng biệt. Có thể thấy ví dụ ở các điều như “Điều 93 - Tội giết
người” hay “Điều 111 - Tội hiếp dâm”. Trong mỗi điều luật này có từ 3 đến 5 khoản và rất
nhiều trong số các khoản đó có đầy đủ các bộ phận của một quy phạm pháp luật hoàn chỉnh.
52. Phân tích bộ phận chế tài của qui phạm pháp luật. Tại sao trên thực tế, bộ phận chế
tài thường không cố định.
- Là bộ phận của QPPL nêu lên các biện pháp cưỡng chế mang tính chất trừng phạt mà
NN dự kiến có thể áp dụng đối với các chủ thể được nêu trong phần giả định của QPPL khi
họ VPPL, ko thực hiện hoặc thực hiện ko đúng, ko đầy đủ những nghĩa vụ pháp lí đã được
nêu trong bộ phận quy định của QPPL.
- Chế tài của QPPL thường trả lời cho các câu hỏi: chủ thể được nêu trong phần giả định
của QP có thể phải gánh chịu những hậu quả pháp lí bất lợi gì hoặc biện pháp cưỡng chế nào
nếu VPPL; hoặc các chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể áp dụng những biện pháp cưỡng
chế nào đối với các chủ thể VPPL?
- Chế tài là một trong những biện pháp quan trọng để đảm bảo cho các quy định (những
đòi hỏi, yêu cầu) của PL được thực hiện nghiêm chỉnh trong thực tế, bởi vì, nó nêu lên các
biện pháp cưỡng chế NN nhằm trừng phạt các chủ thể VPPL và nhằm răn đe, phòng ngừa
sự VPPL có thể xảy ra trong thực tế.
- Chế tài của QPPL có thể cố định, tức là chỉ nêu lên một biện pháp cưỡng chế NN; song
cũng có thể là ko cố định, tức là nêu lên nhiều biện pháp cưỡng chế NN, cho phép các chủ
thể có thẩm quyền áp dụng có thể lựa chọn và áp dụng một trong các biện pháp đó tùy theo
mức độ vi phạm của chủ thể vi phạm.
- Chế tài của QPPL còn có thể được chia thành các loại như: chế tài hình sự; chế tài hành
chính; chế tài kỉ luật; chế tài dân sự… lOMoARc PSD|36215725
- Ngoài chế tài, để đảm bảo cho PL được thực hiện nghiêm chỉnh, NN còn quy định cácbiện
pháp tác động khác như: khen thưởng, khuyến khích về vật chất, tinh thần hoặc các lợi ích
khác cho các chủ thể có thành tích trong học tâp, công tác, phục vụ…; các biện pháp pháp lí
bất lợi nhưng ko mang tính chất trừng phạt… Vì thể, bộ phận thứ ba của QPPL nên gọi là
biện pháp tác động của NN hay biện pháp bảo đảm thực hiện PL thì sẽ bao quát và chính xác hơn. Ý nghĩa:
+ Chỉ cho mn biết những biện pháp cưỡng chế NN nào hay những hậu quả pháp lí bất
lợi nào họ có thể gánh chịu nếu tham gia vào QHXH do QP điều chỉnh mà ko thực hiện hoặc
thực hiện ko đúng, ko đầy đủ các nghĩa vụ pháp lí được nêu trong phần quy định của
QP, tức là thực hiện ko đúng những yêu cầu, mệnh lệnh của NN đối với họ
+ Vì thế, chế tài được đặt ra nhằm răn đe, phòng ngừa sự VPPL, và nhằm trừng phạt các
chủ thể VPPL để đảm bảo cho PL được thực hiện nghiêm chỉnh hay bảo đảm tính nghiêm minh của PL.
=> Có thể nói, trong các biện pháp bảo đảm thực hiện PL thì chế tài là biện pháp quan trọng
nhất, có tác dụng lớn nhất và có hiệu quả nhất.
* Tại sao trên thực tế, bộ phận chế tài thường không cố định.
Chế tài ko cố định nêu lên nhiều biện pháp chế tài, hoặc một biện pháp nhưng nhiêu mức để
chủ thể có thể lựa chọn.
VD: “phạt tiền từ 1tr đến 2tr đồng đối với hành vi môi giới, dẫn dắt, tổ chức, tạo điều kiện
cho người khác kết hôn với người nước ngoài trái với thuần phong mỹ tục hoặc trái với quy
định PL, làm ảnh hưởng tới an ninh trật tự” – Điều o Khoản 3 Điều 7 Nghị định số 150/2005/NĐ – CP)
Bởi lẽ, QHXH là vô cùng phức tạp, các giả định, quy định của QPPL là vô cùng đa dạng, đòi
hỏi chế tài nêu lên sao cho phù hợp với mỗi QHXH.Chế tài ko cố định ko nêu biện pháp tác
động một cách chính xác, cụ thể, dứt khoát hoặc chỉ quy định mức thấp nhất và mức cao nhất 90 lOMoARc PSD|36215725
của biện pháp tác động. Việc áp dụng biện pháp nào, mức độ bao nhiêu, là do chủ thể có thẩm
quyền áp dụng QP lựa chọn cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của từng vụ việc cần áp dụng.
53. Phân tích cơ cấu của qui phạm pháp luật. Việc thể hiện nội dung từng bộ phận của
qui phạm pháp luật có ảnh hưởng gì đến việc thực hiện pháp luật trên thực tế. ĐN: Quy
phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm
thực hiện để điều chỉnh quan hệ xã hội theo những định hướng và mục đích mong muốn
- Trrong XH có nhiều loại QPPL khác nhau cùng được sử dụng để điều chỉnh các QHXHnhư
quy phạm đạo đức, quy phạm tập quán, quy phạm của các tổ chức chính trị - XH, quy phạm
(tín điều) tôn giáo và QPPL… Các quy phạm XH khác nhau thì có những đặc tính khác nhau,
nhưng chúng luôn liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau và cùng tác động
lên các QHXH. Trong XH có giai cấp thì QPPL có vai trò quan trọng nhất đối với việc
duy trì trật tự XH, tạo điều kiện cho XH ổn định và phát triển.
- Việc thể hiện nội dung từng bộ phận của qui phạm pháp luật có ảnh hưởng lớn đến việcthực
hiện pháp luật trên thực tế, bởi lẽ thể hiện từng nội dung giúp quy phạm trở nên rõ ràng, phổ
biến, ai cũng hiểu và tiếp nhận được nội dung QPPL. Các QP XH là những hiện tượng ko
thể thiếu của đời sống XH, chúng là những phương tiện để quản lí XH, phối hợp ý chí và
quy tụ có mục đích mong muốn tạo điều kiện cho XH ổn định và phát triển. QPPL điều chỉnh
mối QH giữa con người – là nhu cầu tất yếu, cần thiết của đời sống con người, đặc biệt là
khi tính chất XH hóa các hoạt động của con người ngày càng được mở rộng về quy mô và sự phức tạp. 54.
Phân tích khái niệm hệ thống pháp luật. Trình bày ý nghĩa của việc nghiên cứu
hệthống pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật.
54.1. Phân tích kn HTPL:
Khái niệm HTPL được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: 1. Theo nghiax rộng: lOMoARc PSD|36215725
- HTPL được hiểu là 1 “dòng họ PL” hay một “hệ tộc PL” được dùng để chỉ tập hợp các
hệthống PL của 1 số nước có những nét tương tự nhất định do cùng dựa trên 1 nền tảng PL.
chính trị, tư tưởng hoặc văn hóa chung. VD: hệ thống Common Law, hệ thống Civil Law, hệ
thống PL hồi giáo, HTPL XHCN…
- Cũng theo nghĩa rộng, HTPL còn được xem xét dưới tên gọi HTPL quốc tế và HTPL liênquốc gia.
+ HTPL quốc tế là tổng thể các QPPL do các QG và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa
thuận xây dựng nên hoặc thừa nhận để điều chỉnh các QH có tính chất công phát sinh trong
đời sống quốc tế. HTPL này có hai loại nguồn cơ ban là điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
+ HTPL liên quốc gia là tổng thể các QPPL do một nhóm QG thỏa thuận xây dựng nên và
chỉ có giá trị tôn trọng và thực hiện đối với các QG thuộc nhóm đó, VD: PL của Liên minh châu Âu, PL của ASEAN… 2. Theo nghĩa hẹp:
- Khái niệm HTPL có thể được hiểu theo nghĩa là HTPL thực định của 1 QG. VD: HTPLVN.
=> HTPL là tổng thể các QPPL có mlh nội tại và thống nhất với nhau, được phân định thành
các ngành luật, các chế định PL, được thể hiện trong các hình thức PL mà cơ bản là một hệ
thống các VB QPPL, án lệ, tập quán pháp.
- HTPL thực định của mỗi QG có thể được xem xét trên các phương diện: hình thức cấu
trúc, nội dung và hình thức thể hiện. a. Xét về hình thức cấu trúc:
- HTPL là thể thống nhất các ngành luật, trong đó mỗi ngành luật lại được coi là 1 hệ thốngnhỏ
hơn bao gồm các chế định PL và mỗi chế định lại bao gồm nhiều QPPL.
- Ngành luật là tổng thể các QPPL điều chỉnh 1 hoặc 1 số loại QHXH có tính chất giốngnhau
phát sinh trong 1 lĩnh vực hoạt động của đs bằng những biện pháp điều chỉnh nhất định.
- Chế định PL: là 1 nhóm QPPL điều chỉnh 1 nhóm QHXH có đặc điểm chung, có mối liênhệ
mật thiết với nhau thuộc cùng 1 loại. 92 lOMoARc PSD|36215725
- QPPL là quy tắc xử sự chung do NN đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để
điềuchỉnh các QHXH theo mục đích của NN.
Các yếu tố này có MQH qua lại mật thiết với nhau để tạo nên một thể thống nhất là HTPL. b. Xét về mặt nội dung:
- HTPL là sự phản ánh các điều kiện KT-XH, truyền thống, lịch sử, phong tục, tập quán,đặc
điểm tâm lí dân tộc của 1 đất nước trong 1 giai đoạn phát triển của lịch sử. Do vậy, nội dung
của HTPL của các nước khác nhau sẽ khác nhau và nội dung PL của cùng 1 nước nhưng ở
các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử cũng khác nhau. c. Xét về mặt hình thức thể hiện:
- HTPL thực định được thể hiện trong các hình thức PL như tập quán pháp, án lệ, VBQPPLmà
chủ yếu là trong các hệ thống VBQPPL có giá trị pháp lí cao thấp khác nhau, bao gồm các
VB luật và các VB dưới luật.
=> HTPL theo nghĩa chung nhất được hiểu là một chỉnh thể các hiện tượng pháp luật (mà
cốt lõi là các QPPL, được thể hiện trong các nguồn PL) có liên kết, ràng buộc chặt chẽ, thống
nhất với nhau, luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau để thực hiện việc điều chỉnh PL đối với các QHXH.
54.2.Trình bày ý nghĩa của việc nghiên cứu hệ thống pháp luật đối với hoạt động xây
dựng pháp luật và thực hiện pháp luật. a. Đối với hoạt động XDPL:
- Khi XDPL phải luôn ý thức được rằng các quy định PL, các nguồn PL luôn có mối liên hệ,
ràng buộc, gắn bó chặt chẽ với nhau và luôn thống nhất với nhau. Do vậy, các tổ chức
cá nhân khi ban hành bất kì 1 quy định PL nào cũng phải chú ý đến tính hệ thống của nó,
nghĩa là quy định PL được ban hành phải đảm bảo sự thống nhất với các quy định PL
khác, với các điều kiện thực thi nó. Nếu quy định hay nguồn PL mới ban hành mâu thuẫn,
ko thống nhất với các quy định hay nguồn PL hiện hành thì phải được sửa đổi, hủy bỏ quy
định hay nguồn PL mới ban hành hoặc là phải sửa đổi, hủy bỏ các quy định hay nguồn PL
hiện hành để luôn đảm bảo sự vận động, phát triển và sự thống nhất của HTPL. Tránh hiện lOMoARc PSD|36215725
tượng các quy định hay nguồn PL của HTPL thiếu đồng bộ, thống nhất sẽ làm cho tính khả
thi thấp, khó đi vào cuộc sống.
- Trong các hoạt động XDPL thì nguồn PL có hiệu lực pháp lí thấp ko được ban hành
trái với nguồn pháp luật có hiệu lực pháp lí cao hơn và tất cả chúng phải phù hợp với hiến
pháp - luật cơ bản có hiệu lực pháp lí cao nhất.
- Việc ban hành quy định hay nguồn PL phải chú ý đến khả năng thi hành nó trên thực
tế,nghĩa là, nó phải phù hợp với các thiết chế và cơ chế thực thi PL hiện hành. Nếu quy
định hay nguồn PL đó được ban hành ko phù hợp với các thiết chế và cơ chế thực thi PL hiện
hành thì có hoặc là nó phải được sửa đổi, hủy bỏ, hoặc là phải đổi mới, tổ chức lại các thiết
chế và cơ chế thực thi PL ko chú ý đến khả năng tổ chức thực hiện các quy định PL mà mình đã ban hành.
b. Đối với hoạt động thực hiện PL:
- Xuất phát từ hệ thống của PL đòi hỏi tất cả các quy định PL hiện hành đều phải đượcthực
hiện nghiêm minh, các hiện tượng PL đều phải tối ưu. Việc thực hiện hay ko thực hiện
một quy định PL nào đó luôn có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến việc thực hiện các quy
định PL khác, nghĩa là, việc thực hiện quy định PL này sẽ là tiền đề, điều kiện để thực hiện
các quy định PL khác. Việc thực hiện quy định PL này chỉ có thể được tiến hành khi đã thực
hiện các quy định PL khác, nói cách khác, ko thể chỉ thực hiện quy định PL này mà ko thực
hiện quy định PL khác và ngược lại. Nhiều trường hợp, một quy định hay một văn bản QPPL
ko được thực hiện hoặc được thực hiện ko nghiêm minh đã làm cho các quy định hay văn
bản PL khác ko thể thực hiện được. Điều này cho thấy ko thể coi thường việc thực hiện bất
kì một quy định PL nào xuất phát từ HTPL.
- Khi tiến hành thực hiện, áp dụng PL phải ưu tiên các quy định của HP, của các nguồn
PL có hiệu lực pháp luật cao hơn… 55.
Phân tích các yếu tố cấu thành của hệ thống qui phạm pháp luật. Trình bày căncứ
để phân định các ngành luật. 94 lOMoARc PSD|36215725
55.1. Phân tích các yếu tố cấu thành của hệ thống qui phạm pháp luật.
* Hệ thống quy phạm PL (còn gọi là hệ thống cấu trúc của PL) là tổng thể các quy định
PL, có sự liên kết, gắn bó thống nhất nội tại với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, được
phân định thành các bộ phận như quy phạm PL, chế định PL, ngành luật…
* Hệ thống PL gồm các thành tố cơ bản là: QPPL, chế định PL, ngành luật. Ngoài ra
còn có các thành tố khác như phân ngành luật (lớn hơn chế định PL nhưng nhỏ hơn ngành
luật), tổ hợp các ngành luật (lớn hơn ngành luật nhưng nhỏ hơn HTQPPL)… Với mỗi quốc
gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều căn cứ khác nhau mà có sự phân định (xác định) các
bộ phận của HTQPPL khác nhau. - Quy phạm PL:
+ Là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng nhiều lần đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do CQNN,
người có thẩm quyền ban hành và được NN bảo đảm thực hiện. QPPL là một hệ thống nhỏ,
được cấu tạo từ các bộ phận như giả định, quy định, chế tài PL… - Chế định PL:
+ Là tập hợp (hệ thống) bao gồm một nhóm QPPL điều chỉnh một nhóm QHXH có liên
quan mật thiết với nhau. Tính chất chung của mỗi nhóm QHXH đòi hỏi phải có những nhóm
QPPL tương ứng để điều chỉnh. Việc xác định đúng tính chất nhóm của QHXH là vấn đề có
ý nghãi quan trọng trong việc hình thành chế định PL.
+ Tồn tại chế định PL của ngành luật (gồm nhóm các QPPL điều chỉnh nhóm QHXH thuộc
một lĩnh vực, liên quan đến cùng một ngành luật. Chẳng hạn, chế định CD trong ngành luật
HP), song cũng có chế định PL liên ngành luật (gồm nhóm QPPL điều chỉnh nhóm QHXH
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau. Chẳng hạn, chế
định hợp đồng liên quan đến cả ngành luật dân sự, ngành luật thương mại và luật lao động…) - Ngành luật: lOMoARc PSD|36215725
+ Là tập hợp (hệ thống) bao gồm các QPPL điều chỉnh một loại QHXH (những QHXH
có chung tính chất thuộc một lĩnh vực nhất định của đs XH) bằng những phương pháp nhất định.
+ Mỗi ngành luật thường có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của riêng
mình. Đối tượng điều chỉnh của một ngành luật là những QHXH được PL điều chỉnh có
chung tính chất (cùng loại), phát sinh trong một lĩnh vực nhất định điều chỉnh của 1 ngành
luật có thể thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử, phụ thuộc vào ý chí của NN và các điều kiện chính trị, XH khác…
VD: Trong đối tượng điều chỉnh của ngành luật dân sự trước đây bao gồm cả các QHXH
phát sinh do việc kết hôn giữa nam và nữ, nhưng sau này các QHXH phát sinh liên quan đến
việc kết hôn giữa nam và nữ được tách ra khỏi đối tượng điều chỉnh của PL dân sự tạo nên
ngành luật hôn nhân và gia đình.
+ Phương pháp điều chỉnh PL là những cách thức tác động PL lên các QHXH. Phương
pháp điều chỉnh của ngành luật phụ thuộc vào nội dung, tính chất của các QHXH mà PL
điều chỉnh và ý muốn chủ quan của những người trực tiếp ban hành PL thông qua sự nhân
thức, ý thức của họ về lợi ích NN, của XH trong mỗi giai đoạn lịch sử. Nói cách khác, việc
sử dụng cách thức nào để điều chỉnh một dạng QHXH nào đó là phụ thuộc vào nội dung,
tính chất của QHXH đó và ý chí của người ban hành PL.
+ Các cách thức tác động PL lên các QHXH có thể là: cấm (cấm tiến hành một số hoạt
động nhất định); bắt buộc (phải thực hiện 1 số hoạt động nhất định); cho phép (được phép
thực hiện một số hoạt động trong những phạm vi nhất định).
+ Các ngành luật khác nhau có những phương pháp điều chỉnh khác nhau. Thông thường,
các phương pháp điều chỉnh PL có thể chia thành hai loại đặc trưng là phương pháp mệnh lệnh
và phương pháp tự định đoạt (thỏa thuận). Phương pháp mệnh lệnh dùng để điều chỉnh các
QHXH mà trong đó có một bên tham gia là NN (thông qua CQNN có thẩm quyền) chẳng hạn, 96 lOMoARc PSD|36215725
các quan hệ PL hành chính, hình sự… Phương pháp tự định đoạt thường dùng để điều chỉnh các
QHXH mà các bên tham gia có địa vị pháp lí bình đẳng với nhau như QHPL dân sự…
55.2.Trình bày căn cứ để phân định các ngành luật.
Việc phân định hệ thống QPPL thành tổ hợp các ngành luật ở các QG khác nhau thường khác nhau.
Ở một số QG căn cứ vào chủ thể và lợi ích mà PL bảo vệ trong hệ thống QPPL có sự phân
định thành công pháp và tư pháp. Việc phân định này được thực hiện nhiều ở các nước châu Âu lục địa. * Công pháp:
Bao gồm các QPPL điều chỉnh các QHXH liên quan đến việc tổ chức và hoạt động của
CQNN, những QH liên quan tới việc bảo vệ lợi ích XH (lợi ích công) nói chung. Trong công
pháp thường sử dụng phương pháp điều chỉnh mang tính mệnh lệnh, đơn phương thể hiện
QH quyền lực và phục tùng. Công pháp có các ngành luật đặc trưng như luật hiến pháp, luật
hành chính, luật tài chính công, luật ngân hàng, luật hình sự… * Tư pháp:
Bao gồm các QPPL điều chỉnh các QHXH giữa tư nhân với tư nhân, liên quan tới bảo vệ lợi
ích riêng của từng cá nhân với các phương pháp điều chỉnh đặc trưng là thỏa thuận, bình
quyền và các bên tự do thể hiện ý chí của mình trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ
pháp lí. Có các ngành luật đặc trưng như luật dân sự, hôn nhân gia đình, luật thương mại…
* Luật nội dung (luật vật chất):
Gồm các QPPL điều chỉnh, bảo vệ các QHXH trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống XH.
Luật nội dung thường bao gồm các QPPL hiến pháp, hành chính, dân sự, hình sự… Đây là nền
tảng của hệ thống QPPL, chúng thường xác định quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lí của
các tổ chức và cá nhân, cũng như điều kiện để thực hiện chúng… * Luật hình thức (luật thủ tục):
Gồm các QPPL xác định cơ chế, quy trình, trình tự, thủ tục để thực hiện các QPPL nội
dung. Luật hình thức thường gồm các QPPL tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng hành
chính… QPPL hình thức thường liên quan đến việc giải quyết các vụ việc tại các cơ quan lOMoARc PSD|36215725
NN, tòa án, việc truy cứu trách nhiệm pháp lí đối với chủ thể vi phạm PL… Có thể nói, việc
phân định các bộ phận cấu thành hệ thống QPPL chỉ mang tính chất tương đối, nó có thể
thay đổi theo thời gian tùy thuộc vào sự phát triển, thay đổi của các QHXH và quan điểm
của các nhà KH pháp lí ở mỗi QG.
56. Phân tích khái niệm hệ thống nguồn của pháp luật. Trình bày vai trò của các loại nguồn
của pháp luật Việt Nam hiện nay.
- Hệ thống nguồn PL được xem là tập hợp tất cả các nguồn PL, quan trọng hơn cả là các
loại văn bản QPPL có mối liên hệ mật thiết với nhau, được sắp xếp một cách thống nhất,
phù hợp với nhau vừa theo tính chất của các QHXH mà chúng điều chỉnh, vừa theo trật tự
thang bậc hiệu lực PL của chúng.
- Theo tính chất của các QHXH mà PL điều chỉnh có thể tập hợp, sắp xếp các nguồn PL
thành các nhóm điều chỉnh 1 loại QHXH có chung tính chất thuộc 1 lĩnh vực nhất định của
đời sống XH và thường gọi là nguồn của ngành luật. Tuy nhiên, do một số nguồn PL, đặc
biệt là văn bản QPPL có nội dung liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau nên việc phân định
này thường ko triệt để và gặp nhiều khó khăn, nhiều khi ko thể thực hiện được.
- Theo trật tự thứ bậc hiệu lực PL thì các nguồn PL được sắp xếp thành tòa tháp với trật
tự nguồn PL có hiệu lực PL cao nhất (Hiến pháp) ở trên cùng, tiếp đến là các nguồn PL khác
(văn bản luật thông thường), rồi đến các nguồn PL và VB dưới luật (phụ thuộc thẩm quyền
và vị trí của các cơ quan đã ban hành ra chúng).
- Giữa các nguồn của PL luôn có mối liên hệ, ràng buộc theo cả chiều ngang và chiều
dọc,nhất là các văn bản cùng quy định về một vấn đề ko được phép chồng chéo, mâu thuẫn
với nhau. Các nguồn PL có hiệu lực PL khác nhau quy định về cùng một vấn đề mà mâu
thuẫn nhanh thì thực hiện theo nguồn PL có hiệu lực PL cao hơn hoặc theo thứ tự ưu tiên đối với loại nguồn đó. 57.
Phân tích nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật. Theo anh/chị cần làm
gìđể hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay thực sự dân chủ? 98 lOMoARc PSD|36215725
57.1. Phân tích nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật. a. Khái niệm XDPL:
- XDPL là quá trình hoạt động của các CQNN hoặc nhà chức trách có thẩm quyền theo trình
tự và thủ tục do PL quy định nhằm ban hành các QPPL để điều chỉnh QHXH theo mục đích của NN.
- Nguyên tắc xây dựng pháp l uật là những tư tưởng chỉ đạo phản ánh khái quát những sự
việc khách quan liên quan đến quá trình nâng ý chí nhà nước lên thành pháp luật. Đây là
những cơ sở quan trọng của toàn bộ quá trình xây dựng pháp luật, đòi hỏi tất cả các chủ thể
tham gia vào quá trình ban hành, sửa đổi hay bãi bỏ các quy phạm pháp luật phải nghiêm chỉnh tuân theo.
b. Phân tích nguyên tắc dân chủ trong xây dựng pháp luật.
- Nguyên tắc này đòi hỏi hiến pháp, luật phải được ban hành bằng con đường chưng cầu
ýdân hoặc bởi CQ đại diện do dân bầu ra. Các dự án luật, các đạo luật đã được ban hành cần
phải được thông tin đầy đủ, rộng rãi đến nhân dân, nhất là đối với các đói tượng áp dụng của luật.
- Mục đích: Việc XDPL có sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân, nhằm làm cho
PL thể hiện được ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân trong XH. Nguyên tắc này
cho phép phát huy được trí tuệ của đông đảo các tầng lớp ND trong XH và hoạt động XDPL,
đồng thời cũng góp phần nâng cao hơn ý thức PL của ND. Sự tham gia của ND vào quá trình
XDPL sẽ là điều kiện để đảm bảo sự tự giác thực hiện PL nghiêm minh và có hiệu quả sau
này. Ko chỉ bảo đảm sự công khai cuản phải bảo đảm sự minh bạch trong quá trình XDPL.
Tất cả các công đoạn, quy trình của quá trình XDPL, các nguyên tắc XDPL đều cần phải
được quy định rõ ràng, rành mạch.
- Để đảm bảo nguyên tắc này, nhà nước phải ko ngừng mở rộng dân chủ, các CQNN,những
chủ thể có thẩm quyền XDPL phải thực sự lắng nghe ý kiến của ND, tạo điều kiện cho ND
tham gia đông đảo và phải coi đó là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. lOMoARc PSD|36215725
57.2. Theo anh/chị cần làm gì để hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay thực sự dân chủ?
- Ở VN, mặc dù chưa có VBQPPL nào được thông qua theo thủ tục chưng cầu ý dân,
songtrong quá trình xây dựng các VBQPPL quan trọng như Hiến pháp, Bộ luật dân sự… NN
luôn thu nhập và tham khảo ý kiến của ND và các chủ thể có liên quan.
* Để hoạt động XDPL thật sự dân chủ cần:
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế, có cơ chế huy động người dân tham gia vào quátrình
XDPL. Mở rộng hình thức quyết định trực tiếp - trưng cầu dân ý, để toàn dân có quyền
tham gia vào các công việc trọng đại của đất nước, của địa phương.
- Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước. Đổi mới cơ cấu tổ chức,
phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước, mở rộng sự công khai, minh bạch, tạo cơ
hội để người dân nắm được các công việc của Nhà nước để tham gia xây dựng một cách chủ
động, thiết thực, có hiệu quả. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và của công
chức trong việc tiếp thu các ý kiến và nguyện vọng của nhân dân.
- Tiếp tục mở rộng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mở rộng sự hình thành
và tham gia của các hội, tổ chức phi chính phủ trong việc giải quyết các nhu cầu của nhân
dân và tích cực tham gia vào công tác quản lý nhà nước. Có các cơ chế và phương thức để
phát huy và tiếp nhận được các ý kiến phản biện của nhân dân và của các tổ chức quần chúng.
- Tiếp tục có biện pháp giáo dục nâng cao kiến thức, trình độ, nhất là ý thức chính trị,
tinh thần pháp luật của người dân, làm cho người dân tự giác và có ý thức hơn nữa trong
việc tham gia vào các công việc xã hội và các hoạt động quản lý nhà nước.
- Nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng trong việc tuyên truyền, giáo dục và tổ
chức tham gia của người dân đối với việc xây dựng chính sách, pháp luật.
- Sử dụng tốt hơn các phương tiện thông tin đại chúng. Mở rộng việc sử dụng các báo
điện tử trong việc tuyên truyền các chính sách, pháp luật của Nhà nước và thu thập, phản
ánh các ý kiến đóng góp, tham gia của nhân dân. 100 lOMoARc PSD|36215725
58. Phân tích nguyên tắc khách quan trong xây dựng pháp luật. Trình bày ý nghĩa của
nguyên tắc này trong xây dựng pháp luật - KN XDPL
- KN Nguyên tắc XDPL
58.1. Phân tích nguyên tắc khách quan trong xây dựng pháp luật.
- Pháp luật là hiện tượng có tính khách quan, pháp luật sinh ra do nhu cầu đòi hỏi của XH,phải
phản ánh đúng nhu cầu khách quan của XH, xuất phát từ thực tế cuộc sống, phù hợp với
thực tế cuộc sống. Nhà làm luật không phát minh ra luật, mà chỉ ghi nhân các quy luật phát
triển của XH bằng QPPL, PL luôn là sự nhận thức chủ quan của con người đối với thế giới
khách quan, con người nhận thức tồn tại XH sau đó đưa ra các quy tắc cho hành vi của
mình. Do vậy, nội dung của PL phải phù hợp với các điều kiện hiện hữu của đất nước như
điều kiện KT-XH, phong tục, tập quán, nền đạo đức chính thống, truyền thống, đặc điểm
tâm lí dân tộc, trình độ dân trí, trình độ phát triển của nền dân chủ… Có như vậy, PL mới
có tính khả thi, mới được thực hiện trong thực tế, nếu ko thì PL chỉ tổn tại trên bàn giấy.
Quá trình XDPL phải phản ảnh được những yêu cầu khách quan về sự cần thiết phải điều
chỉnh bằng PL đối với các QHXH nhất định.
- Để bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quy luật khách quan trong XDPL thì trước khi bắt tayvào
XDPL cần nghiên cứu sâu sắc thực tiễn XH, các điều kiện kinh tế, chính trị, tư tưởng, tâm
lí XH; đặc điểm dân cư, nhu cầu của các tầng lớp, các nhóm nghề nghiệp; vấn đề dân tộc
và sắc tộc; khả năng thực hiện các quy định PL trên thực tế… thông tin từ việc nghiên cứu
này sẽ là cơ sở tốt để xây dựng các quy định PL phù hợp. Ngoài ra còn phải nghiên cứu
thực tiễn pháp lí trước đó như thực tiễn quản lí, thực hiện xét xử, hoạt động của các tổ chức và cá nhân trong XH…
- Các dự án luật phải được nhiều cơ quan; tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng, đặc biệt làcần
có nhiều phương án để cho các cơ quan có thẩm quyền lựa chọn. Sau khi đã có phương án
điều chỉnh cần phải có sự thẩm định, đánh giá về các mặt kinh tế, XH, KH… để PL mang lại hiệu quả cao. lOMoARc PSD|36215725
58.2.Trình bày ý nghĩa của nguyên tắc này trong xây dựng pháp luật
59.Phân tích khái niệm pháp điển hóa pháp luật. Trình bày mục đích, ý nghĩa củapháp
điển hóa pháp luật.
- Pháp điển hóa là một trong hai hình thức thực hiện của hệ thống hóa PL.
- Kn: Pháp điển hóa là hoạt động của CQNN có thẩm quyền nhằm tập hợp các quy định, các
nguồn PL hiện hành, có thể chỉnh sửa, loại bỏ hoặc sửa đổi bổ sung các quy định cần thiết và
sắp xếp chúng lại trong một chỉnh thể thống nhất, khoa học theo lĩnh vực hoặc theo chủ đề để
tạo thành một VBQPPL mới hoặc bộ pháp điển.
- Pháp điển hóa được tiến hành theo hai cách cơ bản là pháp điển hóa về nội dung và pháp
điển hóa về hình thức.
+ Pháp điển hóa về nội dung là việc tập hợp các quy định PL hiện hành, có thể sửa đổi hoặc
loại bỏ các quy định ko phù hợp, bổ sung thêm những quy định mới nhằm tạo ra một
VBQPPL mới (bộ luật) để đáp ứng sự điều chỉnh PL đối với các QHXH.
+ Pháp điển hóa về hình thức là tập hợp, sắp xếp các quy định PL, các nguồn PL đang có
hiệu lực PL thành các bộ pháp điển theo từng chủ đề, có thể có những sửa đổi, điều chỉnh
cần thiết (chủ yếu về mặt kĩ thuật) nhằm làm cho các quy định này hoàn chỉnh, phù hợp với
nhau hơn, nhưng vẫn bảo đảm nội dung, trật tự pháp lí của các quy định đó. Hay nói cách
khác, pháp điển hóa về mặt hình thức ko nhằm tạo ra các bộ luật đồ sộ mà là việc sắp xếp
các quy định PL, các nguồn PL theo các chủ đề phục vụ công tác tra cứu, tiện lợi cho việc
nhận thức và thưc hiện chúng. Bộ pháp điển chỉ chứa những quy định PL còn hiệu lực PL tại thời điểm đó.
- Quá trình pháp điển hóa, đặc biệt là việc pháp điển hóa PL về nội dung đòi hỏi phải tuân theo
những nguyên tắc nhất định, phải tiến hành phù hợp với các yêu cầu của kĩ thuật lập
pháp, bảo đảm tính khoa học và tính khách quan cũng như các nguyên tắc của hoạt động
XDPL. Hoạt động pháp điển hóa phải được tiến hành thường xuyên để cập nhật, bổ sung những 102 lOMoARc PSD|36215725
quy định mới, những quy định PL đã bị sửa đổi, đồng thời loại bỏ kịp thời những quy định PL ko còn hiệu lực PL.
- Mục đích pháp điển hóa:
+ Kết quả cuối cùng của pháp điển hóa là làm hình thành nên một bộ pháp điển hoặc một bộ
luật mới trên cơ sở kế thừa và phát triển các QPPL, các chế định PL và các VBQPPL cũ
nhằm làm cho PL thống nhất, hợp lí và phát triển hơn nên chủ thể tiến hành pháp điển hóa
chỉ có thể là CQNN có thẩm quyền theo quy định của PL. Ở VN, nếu pháp điển hóa về nội
dung thì chỉ có Quốc hội mới có thể tiến hành, còn pháp điển hóa về hình thức thì chủ thể
có thể tiến hành bao gồm Bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, VKSND, Kiểm
toán NN, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước.
- Ý nghĩa của pháp điển hóa:
+ Việc xây dựng Bộ pháp điển ở Việt Nam là hết sức cần thiết, góp phần tạo bước chuyển
biến mới về chất của hệ thống pháp luật, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới đất nước,
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng. Đồng thời, Bộ pháp điển góp phần nâng cao tính thống nhất, đồng bộ,
tính công khai, minh bạch cũng như nâng cao sự tin tưởng của người dân, doanh nghiệp đối
với hệ thống pháp luật. Cụ thể:
- Tiện lợi trong việc tìm kiếm, tra cứu, thỏa mãn nhu cầu sử dụng và tìm hiểu các quyđịnh của pháp luật
Hiện nay, Bộ pháp điển có 45 chủ đề được đánh số thứ tự từ số 1 đến số 45, trong đó, mỗi
chủ đề chứa đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội nhất định
được xác định theo lĩnh vực, ví dụ: Chủ đề số 1. An ninh quốc gia; chủ đề số 2. Bảo hiểm;
chủ đề số 3. Bưu chính, viễn thông; chủ đề số 4. Bổ trợ tư pháp …
- Bảo đảm tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật và góp phần nâng cao sựtin
tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật
Sau khi Chính phủ thông qua từng phần của Bộ pháp điển thì kết quả đó được đăng tải và
duy trì thường xuyên, liên tục trên Cổng thông tin điện tử pháp điển và được sử dụng miễn lOMoARc PSD|36215725
phí. Đây là Cổng thông tin độc lập, đăng tải Bộ pháp điển, do Nhà nước giữ bản quyền và
giao Bộ Tư pháp thống nhất quản lý, duy trì hoạt động. Bộ pháp điển sẽ góp phần nâng
cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật. Điều này xuất phát từ hai yếu tố
cơ bản: (1) Bộ pháp điển chỉ bao gồm các quy định do cơ quan nhà nước ở trung ương ban
hành đang có hiệu lực, do đó, người dân có thể tin tưởng rằng tất cả các quy định do cơ quan
nhà nước ở trung ương ban hành đang có hiệu lực đều nằm trong Bộ pháp điển; (2) khi cần
tìm hiểu để áp dụng pháp luật trong một lĩnh vực nhất định, về cơ bản, người dân chỉ cần tìm
hiểu các quy định trong các chủ đề, đề mục nhất định của Bộ pháp điển. Qua đó, Bộ pháp
điển góp phần bảo đảm tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật cũng như góp phần
nâng cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật. - Pháp điển góp phần nâng
cao tính thống nhất, tính đồng bộ của hệ thống quy phạm pháp luật
Các quy phạm pháp luật từ cấp Thông tư trở lên đang còn hiệu lực (trừ Hiến pháp và các quy
định thuộc về bí mật nhà nước) được thực hiện pháp điển theo một quy trình nhất định, bảo
đảm các quy phạm pháp luật đang có hiệu lực phải được tập hợp đầy đủ, bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp, thống nhất, phù hợp, từ đó phát hiện những quy định trái pháp luật, mâu
thuẫn, chồng chéo, không phù hợp để có các biện pháp xử lý kịp thời. Như vậy, có thể nói
rằng, kết quả pháp điển các đề mục, các chủ đề trong Bộ pháp điển giúp cơ quan lập pháp,
cơ quan soạn thảo có cái nhìn tổng thể, toàn diện về thực trạng hệ thống pháp luật hiện nay,
từ đó các điều luật được xây dựng sẽ phù hợp và thống nhất với các quy định trong hệ thống
pháp luật, hạn chế được trường hợp các văn bản hướng dẫn thi hành trái với quy định của
cấp trên, mâu thuẫn, chồng chéo với các quy định của pháp luật khác.
Đồng thời, khi thực hiện pháp điển sẽ dễ nhận ra những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, không
còn phù hợp và thậm chí là trái pháp luật sẽ được sàng lọc và xử lý kịp thời.
- Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật tạo thuận lợi trong quá trình xây dựng,hoàn
thiện hệ thống pháp luật 104 lOMoARc PSD|36215725
Thông qua việc pháp điển, việc sắp xếp các quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến
nhau vào một chỗ góp phần chỉ ra những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp
để cơ quan nhà nước kịp thời ban hành văn bản quy phạm pháp luật khác để sửa đổi, bổ
sung, thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ cho phù hợp cũng như kịp thời ban hành văn bản mới để quy
định, điều chỉnh các quan hệ xã hội cần điều nhỉnh nhưng chưa có quy phạm pháp luật nào
quy định. Do đó, từ kết quả pháp điển các đề mục, các chủ đề trong Bộ pháp điển sẽ giúp
hoạt động lập quy được thực hiện nhanh chóng, kịp thời, đáp ứng yêu cầu điều chỉnh của các
quan hệ xã hội; đồng thời đảm bảo sự phù hợp với các văn bản của cấp trên và và các văn
bản của cơ quan quản lý về lĩnh vực đó.
Phân tích khái niệm quan hệ pháp luật. Việc một quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh có
ý nghĩa gì đối với sự vận động và phát triển của nó. 60.
Phân tích khái niệm quan hệ pháp luật. Việc một quan hệ xã hội được pháp
luậtđiều chỉnh có ý nghĩa gì đối với sự vận động và phát triển của nó. 60.1. Kn QHPL:
- QHPL là QHXH được PL điều chỉnh trong đó các bên tham gia QHPL có các quyền vànghĩa
vụ pháp lí được NN bảo đảm thực hiện. - Đặc điểm:
+ Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh: Trong đời sống con
người, mỗi loại quan hệ xã hội đều được điều chỉnh bởi 1 loại quy tắc xã hội. Nếu như quan
hệ đạo đức là do quy tắc đạo đức điều chỉnh, quan hệ tôn giáo do các tín điều tôn giáo điều
chỉnh thì quan hệ pháp luật phải do pháp luật điều chỉnh. Nhờ được pháp luật điều chỉnh nên
quan hệ pháp luật mang tính xác định, cụ thể cả về phương diện lẫn chủ thể, cơ cấu và nội
dung. Được pháp luật điều chỉnh ko có nghĩa là khi các quy định pháp luật được coi là cơ sở
pháp lý của quan hệ đó mất đi (tức là chấm dứt hiệu lực) thì chấm dứt luôn cả quan hệ pháp
luật cụ thể: chẳng hạn như các quan hệ hôn nhân gia đình, sở hữu tài sản thời hong kiến ngày
nay vẫn được thừa nhận giá trị pháp lý của nó, mặc dù các quy định pháp luật phong kiến
điều chỉnh các quan hệ lĩnh vực đó không còn trên thực tế.
+ Tính ý chí trong quan hệ pháp luật được thể hiện rõ ràng minh bạch: Đặc điểm chung
của quan hệ xã hội là mang tính ý chí bởi nó được hình thành trên nền tảng ý thức của con lOMoARc PSD|36215725
người. Tuy nhiên, so với quan hệ xã hội khác, tính ý chí trong quan hệ pháp luật được thể
hiện 1 cách rõ ràng và cụ thể, minh bạch hơn. Chẳng hạn: “ ý chí trong quan hệ tín ngưỡng
tôn giáo giữa các tín đồ với đấng tối cao của họ chủ yếu từ tâm linh, niềm tin thông qua sự
cầu nguyện mà thôi”. Nhưng với đối với quan hệ pháp luật ý chí thể hiện rất cụ thể, chi tiết
từ việc xác định mục đích thiết lập quan hệ pháp luật, lựa chọn phương thức thực hiện
quyền và nghĩa vụ một cách hợp lý tiết kiệm nhất.
(Lý do) Ý chí trong quan hệ pháp luật có thể là ý chí nhà nước buộc các chủ thể khác tham
gia quan hệ pháp luật cụ thể đó phải tuân thủ. Ví dụ “trong quan hệ pháp luật hình sự ý chí
của nhà nước được thể hiện thông qua bản án của tòa án buộc kẻ phạm tội phải chấp hành.
Đó có thể là sự thỏa thuận ý chí giữa các chủ thể tham gia tham gia quan hệ pháp luật cụ thể.
Chẳng hạn trong QHPL dân sự, hôn nhân gia đình, ý chí của quan hệ pháp luật là sự thỏa
thuận giữa các bên tham gia vào những quan hệ pháp luật cụ thể đó.
+ Quan hệ pháp luật có sự phù hợp giữa nội dung thực tế và hình thức pháp lý tương ứng:
Phương diện thực tế chính là nội dung thực tế, cụ thể của quan hệ đó. Chẳng hạn như việc mua
bán nhà, kết hôn, lập di chúc…vv.
Phương diện pháp lý là hình thức pháp lý của mỗi loại quan hệ pháp luật, hình thức pháp lý
này bị quy định bởi nội dung thực tế của quan hệ. “Rõ ràng chúng ta ko thể lấy mẫu hợp
đồng mua bán nhà, đất dùng để đăng ký kết hôn hoặc làm bản di chúc” .
=> Do đó mỗi nội dung thực tế của 1 loại quan hệ pháp luật phải được tồn tại dưới 1 hình thức pháp lý tương ứng
+ Quan hệ pháp luật có tính phổ biến trong đời sống pháp lý: quan hệ pháp luật hình
thành trên thực tế chính là sản phẩm của nhận thức xuất phát từ nhu cầu của các chủ thể cũng
như nhà nước và xã hội. Chính vì lẽ đó, quan hệ pháp luật có tính phổ biến trong đời sống
xã hội từ con đg hình thành, phương thức thực hiện quyền, nghĩa vụ đến cơ chế pháp lý bảo đảm.
+ Quan hệ pháp luật được bảo đảm bằng các biện pháp nhà nước: việc thực hiện pháp
luật dưới hình thức quan hệ pháp luật phải được bảo đảm bằng các biện pháp của nhà nước.
Các biện pháp bảo đảm của nhà nước đa dạng về hình thức, tính chất và phương diện tác
động như bắt buộc cưỡng chế, tùy nghi, cho phép. Đảm bảo bằng các biện pháp nhà nước 106 lOMoARc PSD|36215725
đối với quan hệ pháp luật gồm các lĩnh vực như: bảo đảm về mặt pháp lý, vật chất, tổ chức
kĩ thuật, tư tưởng .
60.2. Việc một quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh có ý nghĩa gì đối với sự vận động
và phát triển của nó.
- Khi ban hành PL, nhà làm luật luôn phải cân nhắc, tính toán bằng cách nào, tác động ở
mức độ nào… QHXH được PL tác động (điều chỉnh) trở thành QHPL. Khi đó, các bên tham
gia QHXH được PL điều chỉnh phải xử sự theo những cách thức mà PL đã xác định, họ có
thể hoặc cần phải hay ko được thực hiện những hành vi nhất định nhằm ko những đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình mà còn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ thể bên kia. Nếu một chủ thể ko thực hiện đúng đắn, đầy đủ cách thức ứng xử của mình,
bên chủ thể kia có quyền yêu cầu nhà nước can thiệp. Trong trường hợp này, bằng nhiều biện
pháp khác nhau, trong đó quan trọng là biện pháp cưỡng chế, NN buộc các chủ thể phải thực
hiện nghiêm chỉnh các hành vi đã được xác định.
- PL ko điều chỉnh tất cả các QHXH, nó chỉ điều chỉnh những QHXH cơ bản, đã trở thànhphổ
biến trong đời sống. Việc PL điều chỉnh QHXH nào đó dựa trên sự nhận thức của NN về vai
trò của PL, nhu cầu của đời sống XH, khả năng điều chỉnh của PL, ý chí của NN… 61. Phân
tích khái niệm quan hệ pháp luật, cho ví dụ về quan hệ pháp luật cụ thể mà anh/chị tham gia hàng ngày.
VD: QHPL giữa cha mẹ và con cái, cha mẹ thực hiện việc nuôi dưỡng con của mình thành
người có ích cho XH phù hợp với điều kiện gia đình. Như vậy, cha mẹ tiến hành các hoạt
động theo đúng cách xử sự mà PL đã nêu, họ bày tỏ ý chí của mình phù hợp với ý chí của NN.
VD: QHPL giữa người bán và người mua.
62. Phân tích những yếu tố bảo đảm việc thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý của chủ thể
quan hệ pháp luật, cho ví dụ minh hoạ.
- Quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể được xem xét dưới hai góc độ: lOMoARc PSD|36215725
* Thứ nhất, quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể với tư cách là chủ thể của pháp luật
nóichung. Ở góc độ này nó bao gồm tất cả những quyền và nghĩa vụ tạo nên địa vị pháp lí của
chủ thể. Ví dụ: tổng thể các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong hiến
pháp tạo nên địa vị pháp lí của CD trong mối quan hệ với NN.
* Thứ hai, quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể với tư cách là chủ thể của một QHPL cụthể.
- Quyền chủ thể là khả năng chủ thể được xử sự theo những cách thức nhất định mà PL cho
phép, bao gồm những khả năng sau:
+ Khả năng tự xử sự theo những cách thức nhất định mà PL cho phép. VD: Lan mua một cái áo
thì Lan có quyền đem cho, bán lại …
+ Khả năng yêu cầu các chủ thể khác phải chấm dứt hành vi cản trở việc thực hiện quyền của
mình hoặc phải thực hiên những nghĩa vụ tương ứng phát sinh từ quyền của mình. VD:
A cho B mượn sách, yêu cầu B phải trả sách đúng thời hạn…
+ Khả năng được bảo vệ, tức là được yêu cầu các CQNN có thẩm quyền bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của mình khi nó bị xâm hại. VD: A cho B mượn tiền nh lần B ko trả, A
có quyền kiện B ra tòa…
- Nghĩa vụ của chủ thể là cách xử sự mà chủ thể buộc phải thực hiện theo quy định của PL
nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác, bao gồm các xử sự bắt buộc sau: +
Chủ thể phải thực hiện những hành vi nhất định. VD: cha mẹ sinh ra con cái, có trách nhiệm
nuôi dưỡng, dạy dỗ con thành người…
+ Chủ thể phải kiềm chế, ko thực hiện những hành vi nhất định .VD: trong phòng thi ko được
sử dụng tài liệu khi ko được sự cho phép…
+ Chủ thể phải chịu trách nhiệm pháp lí khi ko thực hiện hoặc thực hiện ko đúng, ko đầy đủ
các nghĩa vụ pháp lí của mình. VD: sử dụng tài liệu bị phát hiện sẽ bị đình chỉ thi … Bảo đảm
pháp lý có thể được hiểu là các quy định của pháp luật trực tiếp liên quan đến việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân.
Chẳng hạn, ở nước ta, quyền bầu cử, ứng cử của công dân phải được cụ thể hóa trong 108 lOMoARc PSD|36215725
các luật bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, quyền tự do ngôn luận được cụ thể hóa
trong luật báo chí, luật về tiếp cận thông tin..., quyền tự do kinh doanh phải được quy định
trong các luật về doanh nghiệp, hợp tác xã, luật thương mại..., quyền tự do cá nhân của công
dân được quy định trong các luật hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự, hành
chính..., nghĩa vụ đóng thuế được quy định trong các luật thuế..., nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc
được thể hiện trong luật về nghĩa vụ quân sự, dân quân tự vệ.... Quy định trách nhiệm của
nhà nước, cán bộ công chức trong việc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân.
Quy định thủ tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân. Thủ tục thực hiện quyền và
nghĩa vụ công dân trong hệ thống pháp luật bao gồm rất nhiều các thủ tục khác nhau như thủ
tục bầu cử, thủ tục tư pháp áp dụng trong tòa án xét xử các vụ việc hành chính,
hình sự, dân sự. Quy định chế tài bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ. Chế tài bao
gồm các chế tài hành chính, hình sự, dân sự, kỷ luật hành chính và cả chế tài hiến pháp áp
dụng đối với người thực hiện quyền hay nghĩa vụ và đối với cán bộ, công chức liên quan.
Qua chức năng trừng trị, giáo dục, phòng ngừa và khôi phục quan hệ xã hội bị vi phạm, chế
tài bảo đảm cho quyền hay nghĩa vụ của công dân được thực hiện. Chế tài có thể được áp
dụng bởi tòa án hay cơ quan hành chính nhà nước. Quy định về giải quyết tranh chấp pháp
luật về quyền và nghĩa vụ. Các tranh chấp pháp luật này có thể là tranh chấp pháp luật giữa
các cá nhân, tổ chức, cơ quan và giữa nhà nước với các chủ thể này liên quan đến việc thực
hiện quyền hay nghĩa vụ của công dân. Các tranh chấp được giải quyết dưới nhiều hình thức
khác nhau theo các thủ tục nhất định do các cơ quan, tổ chức (tòa án, trọng tài phi chính phủ,
cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức hòa giải...) thực hiện.
Giải thích chính thức quy định về quyền và nghĩa vụ trong hiến pháp. Giải thích quy
định đó có thể được thực hiện bởi cơ quan tài phán trong quá trình xét xử các tranh chấp hay
vi phạm quyền và nghĩa vụ hiến pháp. Việc giải thích này có thể do tòa án, cơ quan thường
trực của nghị viện thực hiện. Giám sát, kiểm tra việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
công dân. Hoạt động giám sát, kiểm tra do nhiều chủ thể khác nhau thực hiện, có thể chia
thành các hoạt động giám sát, kiểm tra của nhà nước (nghị viện, cơ quan hành chính cấp lOMoARc PSD|36215725
trên...) và giám sát do xã hội (các tổ chức xã hội, hội đoàn, công dân) thực hiện. Giám sát,
kiểm tra là hoạt động đặc biệt quan trọng trong việc thu thập và đánh giá thông tin
về thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân, từ đó, có các phương án xử lý để bảo đảm
thực hiện thực tế các quyền và nghĩa vụ đó. 63.
Cho ví dụ về một quan hệ pháp luật cụ thể và xác định chủ thể, khách thể,
nộidung của quan hệ pháp luật đó. A mua chiếc xe mô tô của hãng Honda. Quan hệ pháp
luật ở đây là "Mua bán tài sản"' Chủ thể: A và hãng Honda.
Khách thể: Quyền sở hữu tài sản (chuyễn giao quyền sở hữu).
Nội dung: Theo luật dân sự
Điều 428. Hợp đồng mua bán tài sản
Hợp đồng mua bán tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài
sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán. 64.
Phân tích khái niệm thực hiện pháp luật. Trình bày mục đích, ý nghĩa của
việcthực hiện pháp luật.
64.1.Khái niệm: Thực hiện pháp luật là hành vi thực tế hợp pháp, có mục đích của các chủ
thế được hình thành trong quá trình thực hóa các quy định của PL.
VD: Hành vi đội mũ bảo hiểm khi đi xe gắn máy, hành vi đi bên phải khi tham gia giao thông. Đặc điểm:
- Thứ nhất thực hiện pháp luật là hành vi xác định hay xử sự thực tế của con người:
Nhà nước đặt ra pháp luật là để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo chiều hướng
mà nó mong muốn. Tất cả các quan hệ xã hội đều được thể hiện thông quan cách
xử sự của mọi người với nhau, vì thế, bằng cách quy định quyền và nghĩa vụ pháp
lý cho các chủ thể tham gia vào một quan hệ xã hội nhất định, nhà nước có thể tác
động lên các quan hệ xã hội, điều chỉnh chúng theo chiều hướng nhà nước mong
muốn. Pháp luật chỉ điều chỉnh hành vi hay xử sự của con người mà không thể điều 110 lOMoARc PSD|36215725
chỉnh suy nghĩ hay tư tưởng của họ, do vậy, chỉ có thể căn cứ vào xử sự thực tế của
các chủ thể thì mới có thể xác định được họ có thực hiện pháp luật hay không.
Hành vi thực hiện pháp luật của các chủ thể có thể được thể hiện dưới dạng hành động,
tức là thể hiện qua những lời nói, cử chỉ, động tác nhất định, ví dụ, đội mũ bảo hiểm khi
tham gia giao thông bằng xe máy, thỏa thuận, ký kết hợp đồng mua bán…; song cũng có thể
được thể hiện dưới dạng không hành động, tức là không thực hiện những cử chỉ, động tác,
lời nói nhất định, ví dụ, không vượt đèn đỏ, không đi vào đường ngược chiều khi tham gia giao thông.
- Thứ hai, thực hiện pháp luật phải là hành vi hợp pháp, tức là hành vi hoàn toàn
phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật: Đây là lẽ đương nhiên vì thực hiện
pháp luật là sự hiện thực hóa các quy định của pháp luật hay làm cho các yêu cầu,
đòi hỏi của nhà nước đối với các chủ thể khác trở thành hiện thực, tức là biến các
quy định của pháp luật từ trong văn bản thành cách xử sự thực tế của các chủ thể
khi tham gia vao các quan hệ pháp luật. Vì vậy, những hành vi trái pháp luật không
bao giờ được coi là thực hiện pháp luật .
- Thứ ba, thực hiện pháp luật phải là xử sự của các chủ thể có năng lực hành vi
pháp luật, tức là xử sự của chủ thể có khả năng bằng hành vi của chính mình xác
lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình.
Các hình thức thực hiện pháp luật
+ Tuân thủ pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp
luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Các quy phạm pháp luật
cấm được thực hiện ở hình thức này.
VD: một công dân không thực hiện những hành vi tội phạm được qui định trong bộ luật
hình sự, tức là công dân đó tuân thủ những qui định của bộ luật này.
+ Thi hành pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp
luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hoạt động tích cực. Các quy phạm pháp luật lOMoARc PSD|36215725
bắt buộc (các quy phạm quy định nghĩa vụ chủ thể phải tiến hành những hành vi tích cực
nhất định) được thực hiện ở hình thức này.
VD: một người thấy người khác đang lâm vào tình trạng có thể nguy hiểm đến tính mạng và
người đó cứu giúp, tức là người đó đã bằng hành động tích cực thi hành qui định về nghĩa
vụ công dân của pháp luật nói chung và của luật hình sự nói riêng.
+ Sử dụng pháp luật: là hình thức thực hiện những qui định về quyền chủ thể của
pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật chủ động, tự mình quyết định việc thực hiện hay
không thực hiện điều mà pháp luật cho phép.
Như vậy hình thức này khác với 2 hình thức trên ở chỗ chủ thể không bị buộc không
được làm hoặc phải làm một việc nào đó mà được tự do lựa chọn theo ý chí của mình.
VD: việc thực hiện các quyền bầu cử và ứng cử, quyền khiếu nại và tố cáo…
+ Áp dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua
cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện
những qui định pháp luật hoặc chính hành vi của mình căn cứ vào những qui định của pháp
luật để ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp luật.
VD: cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật tuyên phạt
64.2. Mục đích, ý nghĩa của thực hiện PL:
Việc thực hiện PL có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đời sống. Bằng việc thực hiện PL, các quy
định của PL từ trong nguồn luật khác nhau đã đi vào đời sống, trở thành hành vi thực tế của
các chủ thể. Nhờ đó, PL phát huy vai trò của nó trên thực tế, làm cho đời sống XH ổn định,
trật tự và có điều kiện phát triển mạnh mẽ, các quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ
chức được đảm bảo, bảo vệ, đời sống XH được an toàn. Thông qua việc thực hiện PL, những
hạn chế khiếm khuyết (nếu có) của PL sẽ được bộc lộ, nhờ đó, PL có thể được hoàn thiện một cách kịp thời. 112 lOMoARc PSD|36215725
65. Phân tích khái niệm thực hiện pháp luật. Trình bày các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực
hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Thực hiện PL diễn ra phổ biến trong đời sống hàng ngày, vậy nên những yếu tố ảnh hưởng
cũng rất phong phú, đa dạng 1.Sự phát triển kinh tế xã hội
Yếu tố kinh tế bao gồm tổng thể các điều kiện, hoàn cảnh về kinh tế - xã hội, hệ thống các
chính sách kinh tế, chính sách xã hội và việc triển khai thực hiện, áp dụng chúng trong thực
tế xã hội. Nền kinh tế - xã hội phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi
cho hoạt động thực hiện pháp luật, tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý
thức pháp luật của các tầng lớp xã hội. Ngược lại, nền kinh tế - xã hội chậm phát triển, kém
năng động và hiệu quả sẽ có thể ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật của các
chủ thể pháp luật. Yếu tố kinh tế là nền tảng của sự nhận thức, hiểu biết pháp luật và thực
hiện pháp luật nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật.
Nước ta là một nước đang phát triển, trình độ kinh tế xã hội ở mỗi vùng miền là khác
nhau, do đó nó cũng ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện pháp luật ở nước ta. Kinh tế
có phát triển, đời sống vật chất của các tầng lớp dân cư được cải thiện, lợi ích kinh tế được
đảm bảo thì nhân dân sẽ phấn khởi, tin tưởng vào đường lối kinh tế, chính sách pháp luật, sự
lãnh đạo của Đảng và hoạt động điều hành, quản lý của Nhà nước. Khi đó, niềm tin của các
chủ thể đối với pháp luật được củng cố, hoạt động thực hiện pháp luật sẽ mang tính tích cực,
thuận chiều, phù hơp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật hiện hành.
2. Yếu tố chính trị.
Yếu tố chính trị là toàn bộ yếu tố tạo nên đời sống chính trị của xã hội ở từng giai đoạn
lịch sử nhất định, bao gồm môi trường chính trị, hệ thống các chuẩn mực chính trị, chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và quá trình tổ chức, thực hiện chúng; các quan hệ
chính trị và ý thức chính trị, hoạt động của hệ thống chính trị. Cùng với đó là nền dân chủ
xã hội và bầu không khí chính trị - xã hội. Yếu tố chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu
quae của hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật, đặc biệt là các cá nhân, cơ lOMoARc PSD|36215725
quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Một đất nước có môi trường chính trị
ổn định là điều kiện thuận lợi đối với hoạt động thực hiện pháp luật, bởi nó củng cố
niềm tin của người dân, để họ tin và đi theo Đảng. Một đất nước bất ổn về chính trị sẽ
luôn khiến người dân hoang mang, lo lắng, dao động…và dẫn đến việc thực hiện pháp luật
không tốt. Nhận thấy đây là một trong những yếu tố quan trọng cho việc thực hiện pháp luật
hiệu quả, chính xác. Hiện nay Đảng ta luôn quan tâm chỉ đạo sâu sát đối với việc tuyên
truyền và phổ biến kiến thức nhằm nâng cao ý thức chính trị cũng như hiểu biết pháp luật
cho các Đảng viên và đã đạt được kết quả tốt đẹp, để các Đảng viên luôn là những người đi
trước, gương mẫu thực hiện pháp luật, từ đó tăng được lòng tin của quần chúng nhân dân.
3. Yếu tố văn hóa - đời sống.
Các phong tục tập quán trong cộng đồng xã hội có ảnh hưởng nhất định tới hoạt động thực
hiện pháp luật của các tầng lớp nhân dân, thể hiện đặc biệt rõ nét ở khu vực nông thôn.
Lối sống đô thị và lối sống nông thôn có ảnh hưởng khác nhau tới hoạt động thực hiện
pháp luật. Đặc trưng nổi bật của lối sống đô thị là tích cực chính trị - xã hội ở đo thị cao. Cư
dân đô thị có nhiều điều kiện tiếp xúc với các thông tin chính trị - xã hội và tích cực tham
gia vào các hoạt động xã hội lớn mà phần nhiều được tổ chức tại các đô thị. Các phong trào
có sức huy động quần chúng ở các đô thị thường diễn ra nhanh hơn so với ở nông thôn. Đây
cũng là điều dễ hiểu vì đô thị thường là nơi tập trung nhiều thành phần xã hội có trình độ học
vấn tương đối cao. Tại các thành phố, phạm vi giao tiếp về xã hội cơ bản tương đối rộng,
cường độ giao tiếp cao và mang tính ẩn danh trong giao tiếp. Đây là điều kiện thuận lợi cho
sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật và các hình thức thực hiện pháp luật. Mặt khác,
đô thị là nơi tập trung phần lớn bộ phận không thể thiếu trong dân cư đô thị thường được
gọi dưới cái tên “những phần tử ngoài lề xã hội”. Về phương diện xã hội, đây là môi trường
phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm nhiều tới mức đáng báo động, gây khó khăn
cho công tác quản lý xã hội và hoạt động thực thi, bảo vệ pháp luât. 114 lOMoARc PSD|36215725
Lối sống nông thôn là lối sống mang tính cộng đồng rất cao và rất chặt chẽ, liên kết cả
thành viên trong làng xã lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác . Điều đó
thể hiện ở mối quan hệ gắn bó, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia
đình, dòng họ, lối xóm ở nông thôn. Người dân nông thôn thường sống đoàn kết gắn bó với
quê hương làng xóm, rất coi trọng tình làng nghĩa xóm. Đây là một biểu hiện rất riêng, rất
đặc thù của lối sống nông thôn Việt.
Các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên đăng tải các thông tin về các sự
kiện pháp luật hiện tượng xảy ra trong xã hội, hoạt động thực hiện pháp luật của các tầng lớp
xã hội. và của các cơ quan chức năng, nêu lên những tấm gương điển hình người tốt việc tốt
trong việc thực hiện pháp luật… Những thông tin đó ở chừng mực khác nhau tác động đến
suy nghĩ, nhận thức và hành vi của mỗi con người, khiến cho họ thực hiện pháp luật tốt hơn.
4. Yếu tố pháp luật
Bản thân pháp luật được sinh ra là để điều chỉnh các quan hệ xã hội là cơ sở để các chủ thể
thực hiện pháp luật. Song chính các mặt, khía cạnh khác nhau của các chuẩn mực pháp luật
cũng có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động thực hiện pháp luật.
Các yếu tố truyền thống cũng có ảnh hưởng không nhỏ đối với hoạt động thực hiện
pháp luật trong giai đoạn hiện tại. Sự quản lý Nhà nước bằng pháp luật là nhằm khắc phục
tính thiển cận, cục bộ trong quá trình phát triển, sản xuất, xây dựng làng xã trên các lĩnh vực
kinh tế - xã hội. Thông qua pháp luật, Nhà nước nhắc nhở, duy trì mọi nghĩa vụ của người
dân và làng xã đối với Nhà nước và xã hội. Trong quá trình phát triển Nhà nước thừa nhận
làng có lệ riêng của mình sao cho không trái với nguyên tắc quy định của pháp luật. Hệ thống
tự quản chủ yếu dựa vào dư luận xã hội, uy tín của các vị chức sắc và đặc biệt vai trò của lệ
làng. Cần kết hợp cả hai hình thức quản lý này trong hoạt động thực hiện pháp luật.
66. Phân tích khái niệm áp dụng pháp luật. Trình bày mục đích, ý nghĩa của hoạt động
áp dụng pháp luật. 66.1. Khái niệm áp dụng PL:
Định nghĩa: Áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước, do các
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành, thông lOMoARc PSD|36215725
qua những trình tự thủ tục chặt chẽ mà PL quy định, nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp
luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể. Đặc điểm:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước: Hoạt
động áp dụng pháp luật chỉ các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật tiến hành và mỗi chủ thể đó cũng chỉ được phép áp dụng pháp luật trong một
phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật. Chẳng hạn, trong hệ thống các cơ quan, tổ
chức nhà nước thì chỉ có tòa án mới có quyền xét xử để định tội và định hình hình phạt cho
người phạm tội cũng như để giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình…; chỉ ủy
ban nhân dân mới có quyền xem xét để cấp giấy khai sinh cho trẻ em, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho người sử dụng.
- Khi ADPL, chủ thể có thẩm quyền có thể nhân danh quyền lực NN, sử dụng quyền lực
NN để ban hành ra những mệnh lệnh, quyết định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực
hiện đối với các tổ chức và cá nhân có liên quan. Các mệnh lệnh, quyết định này luôn thể hiện
ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm quyền AD mà không phụ thuộc vào ý chí của đối tượng
áp dụng và được NN bảo đảm thực hiện. Tuy nhiên ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm
quyền ko thể là ý chí cá nhân, tùy tiện của người áp dụng mà phải là ý chí được xây dựng trên
cơ sở pháp luật, căn cứ vào pháp luật và phù hợp với pháp luật. VD: Các thí sinh khi tham dự
kì thi tuyển sinh ai cũng muốn trúng tuyển và được gọi nhập học, song cơ sở đào tạo phải căn
cứ vào quy định của pháp luật để quyết định những người trúng tuyển và gọi nhập học
+ Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng
các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước.
- ADPL có tính tổ chức rất cao vì nó vừa là hình thức thực hiện PL vừa là hình thức NN tổ
chức cho các chủ thể thực hiện các quy định của PL vì vậy hoạt động này phải được tiến
hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ do PL. Vì thế những hoạt động này
phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy định. 116 lOMoARc PSD|36215725
Trình tự thủ tục này thường khác nhau trong các trường hợp áp dụng pháp luật khác nhau
tùy theo quy định cụ thể của pháp luật. VD: Trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho các chủ thể khác với trình tự, thủ tục cấp giấy chứng kết hôn hoặc khác trình
tự, thủ tục tuyển sinh, đào tạo, công nhận tốt nghiệp..
Thứ hai, ADPL là hoạt động phải tuân theo những hình thức và thủ tục chặt chẽ do PL
quy định. (mục đích: nhằm tránh sự lạm quyền của các cơ quan nhà nước, nếu quá trình áp
dụng sai thì kết quả cũng sẽ sai)
Nói chung, các quyết định do các chủ thể có thẩm quyền ban hành ra trong quá trình
áp dụng pháp luật, có ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của đối tượng áp dụng, nó có thể mang
lại cho người ta lợi ích rất lớn (ví dụ, quyết định giao quyền sử dụng đẩt, quyết định tăng
lương, quyết định công nhận tốt nghiệp,,,) song nó cũng có thể bắt người ta phải gánh chịu
những hậu quả rất nặng nề ( ví dụ, quyết định xử phạt hành chính, bản án hình sự…). Do
vậy, để đảm bảo tính đúng đắn, chính xác của quá trình áp dụng pháp luật, hoạt động này
không thể được tiến hành một cách tùy tiện mà phải tuân theo những trình tự, thủ tục và trên
cơ sở những điều kiện rất chặt chẽ do pháp luật quy định. Đương nhiên, trình tự, thủ tục đó
không thể như nhau trong tất cả các vụ việc mà nó sẽ khác nhau từ vụ việc này sang vụ việc
khác tùy theo tính chất của vụ việc. Vi dụ, trình tự, thủ tục xem xét để cấp giấy chứng nhận
kết hôn sẽ khác với trình tự , thủ tục công nhận tốt nghiệp cho người học, càng khác với trình
tự, thủ tục xử phạt người vi phạm hành chính.
Thứ ba, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh mang tính cá biệt, cụ thể đối với
các quan hệ xã hội nhất định.
Các quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung nên không chỉ rõ chủ thể cụ
thể và trường hợp cụ thể cần áp dụng. Khi một quy phạm nào đó được áp dụngvào việc giải
quyết một vụ việc thực tế của chủ thể cụ thể thì có nghĩa là quy phạm đó đã được cá biết hóa lOMoARc PSD|36215725
vào trường hợp của chủ thể đó. Ví dụ, quyết định tuyển dụng một người nào đó làm giảng
viên của Trường Đại học Luật Hà Nội là sự cá biệt hóa về quy phạm về quyền và nghĩa vụ
lao động của công dân vào trường hợp của người được tuyển dụng. Tuy nhiên, cần lưu ý
rằng, các quy phạm được áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc thực tế, cụ thể hay được
cá biệt hóa phải là các quy phạm pháp luật hiện hành hay các quy phạm pháp luật đang còn
hiệu lực pháp lí. Vì vậy, khi tiến hành áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền không thể
lựa chọn và áp dụng các quy phạm đã hết hiệu lực.
Thứ tư, ADPL là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo (sự sáng tạo trong phạm vi quy định của PL)
Có 1 số vụ việc khi xét đến, mà trong PL chưa quy định hoặc quy định chưa rõ ràng
thì các chủ thể có thẩm quyền phải vận dụng sáng tạo việc áp dụng tập quán hoặc áp dụng pháp
luật tương tự để giải quyết vụ việc. (Để t/h nhà chức trách phải có ý thức Pl cao, tri thức tổng
hợp, có kinh nghiệm phong phú, có đạo đức, và có tay nghề cao).
Có thể nói, áp dụng pháp luật bao hàm cả ba hình thức tuân theo, thi hành và sử dụng
pháp luật, bởi vì, trong quá trình áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền cũng có thể bị
cấm thực hiện những hành vi nhất định, và họ phải tuân theo pháp luật, họ cũng phải thực
hiện những nghĩa vụ pháp lý nhất định, tức là phải thi hành pháp luật, đồng thời có những
quyền hạn nhất định tức là có thể sử dụng pháp luật.
66.2. Mục đích, ý nghĩa của việc áp dụng PL:
- PL sau khi được ban hành và có hiệu lực phải được các chủ thể thực hiện một cách nghiêm
chỉnh. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều trường hợp các quy định của PL ko được thực hiện, thực
hiện ko nghiêm chỉnh bởi những nguyên nhân từ phía các cá nhân, tổ chức trong XH; nhiều
trường hợp quy định của PL ko được thực hiện bởi thiếu tác động từ phía các cơ quan, nhà
chức trách có thẩm quyền. Trong tất cả các trường hợp đó đều đòi hỏi sự can thiệp của các
chủ thể có thẩm quyền nhằm làm cho các chủ thể khác trong XH thực hiện đầy đủ, đúng đắn, 118 lOMoARc PSD|36215725
nghiêm chỉnh các quy định của PL. Hoạt động áp dụng PL luôn được tiến hành thông qua
những quan hệ PL cụ thể, trong đó, một bên chủ thể là cơ quan, nhà chức trách tiến hành
ADPL, một bên chủ thể là cá nhân, tổ chức được (bị) ADPL. Đây là hình thức thực hiện PL vô cùng quan trọng. 67.
Phân tích khái niệm áp dụng pháp luật. Trình bày các bảo đảm của hoạt động
ápdụng pháp luật. ( đặc điểm) 68.
Phân tích khái niệm áp dụng pháp luật. Trình bày các biện pháp khắc phục hạnchế
(nếu có) trong hoạt động áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay. 69.
Phân tích khái niệm giải thích pháp luật. Trình bày sự cần thiết của việc giải thíchpháp luật.
69.1. Giải thích PL:
- Giải thích PL là làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng, ý nghĩa của QPPL; bảo đảm cho PL được
nhận thức và thực hiện đúng đắn, thống nhất.
- Giải thích PL là hoạt động được tiến hành thường xuyên. Nó được chia thành hai hình thức sau:
a. Giải thích PL chính thức:
- Đây là hoạt động giải thích PL của các chủ thể có thẩm quyền. Chủ thể có thẩm quyền là
các cá nhân, tổ chức, cơ quan NN được PL trao quyền giải thích. Giải thích PL chính thức
có thể được tiến hành bởi chính CQ đã ban hành ra VBPL cũng có thể trao quyền giải thích cho những CQ khác…
- Giải thích PL chính thức được thể hiện dưới hình thức VB và gọi là VB giải thích PL.
Khigiải thích chính thức, các chủ thể có thẩm quyền phải tuân theo những trình tự, thủ tục
chặt chẽ do luật quy định.
- Nội dung giải thích PL chính thức có thể có tính quy phạm hoặc có tính cụ thể. Trong
giải thích có tính quy phạm, nội dung lời giải thích là khuôn mẫu để thực hiện nhiều lần
trong thực tế. Giải thích có tính cụ thể chỉ được áp dụng một lần trong một vụ việc cụ thể.
Khi giải thích về một quy định nào đó, chủ thể giải thích chính thức đưa ra các tình huống lOMoARc PSD|36215725
thực tế có thể xảy ra và hướng dẫn giải quyết sự việc theo quy phạm cụ thể nào trong VB.
Nội dung giải thích PL chính thức có giá trị bắt buộc phải thực hiện như chính quy định được
giải thích. Đương nhiên VB giải thích chính thức sẽ hết hiệu lực khi VB được giải thích hết
hiệu lực trong thực tế.
b. Giải thích PL ko chính thức:
- Đây là hoạt động giải thích PL của tất cả các cá nhân, tổ chức nào trong XH. Hình thức
giải thích PL này rất phổ biến trong thực tế, mang tính quảng đại quần chúng. Giải thích PL
ko chính thức thường được thể hiện trong các bài viết, bài bình luận hay bài phân tích về PL
trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Vì thế giải thích ko chính thức thường mang
tính chủ quan, có thể ko chính xác và chỉ có ý nghĩa tham khảo đối với người được giải thích.
Mặc dù vậy, giải thích PL của các nhà nghiên cứu khoa học pháp lí, các luật gia có uy tín…
có ảnh hưởng lớn tới nhận thức và hành vi của người dân.
69.2. Trình bày sự cần thiết của việc giải thích pháp luật.
- Để việc quản lí XH đạt hiệu quả cao nhất thì PL phải phát huy hết vai trò tác động vàocác
QHXH. Muốn vậy khi ban hành PL, các chủ thể có thẩm quyền phải xem xét để đảm bảo
tạo ra được hệ thống quy tắc xử xự thể hiện được đúng ý chí của NN, đồng thời PL phải
được thực hiện đúng, thống nhất trong phạm vi cả nước. Thực tiến cho thấy, việc ban hành
PL được tiến hành bởi nhiều chủ thể có thẩm quyền khác nhau. Tình trạng mâu thuẫn, chồng
chéo, trùng lặp giữa các VBQPPL đã xảy ra, nhiều trường hợp có những quy định PL trìu
tượng, chung chung, mập mờ, ko rõ nghĩa, gây khó khăn cho các chủ thể trong việc thực
hiện, nhất là trong hoạt động áp dụng PL.
- Khắc phục tình trạng trên, cần thiết phải có hoạt động giải thích PL, nhằm làm sáng tỏ về
nội dung, tư tưởng, mục đích, hoàn cảnh, ý nghĩa của các quy định trong PL, làm rõ
mqh giữa các QPPL trong cùng một VB cũng như trong các VB khác nhau, đảm bảo cho
việc thực hiện và áp dụng PL được đúng đắn, chính xác, thống nhất trong cả nước. 70. Phân 120 lOMoARc PSD|36215725
biệt vi phạm pháp luật với các vi phạm khác trong xã hội. Cho ví dụ. Căn cứ để phân
VPPL Vi phạm khác trong XH biệt Khái niệm
Là hành vi trái PL, có lỗi, do chủ
Là những hành vi trái đạo đức
thể có năng lực trách nhiệm pháp
XH, trái với quy định của các
tổ lí thực hiện, xâm hại các QHXH chức trong XH, trái phong tục tập được PL bảo vệ.
quán… nhưng ko trái với PL. Đặc điểm
- Là hành vi trái PL, b PL câốm, ị
- Ko trái v i PL, nh ng hành vi vi ớ ữ
hành vi vượt quá s cho phép ự ph m ko gây ra ho c đe d a gây ạ ặ ọ c
a PL, hành vi ko th c hi n s ủ ự ệ ự thi t h i cho XH và ệ ạ ch a đư ược
PL bắốt bu c c a PL hay hành vi th cộ ủ ự quy đ nh đềốn.ị hi n ko đúng
cách th c mà PL ệ ứ yều câều. Hành vi đó có th gây raể ho c đe d a
gây thi t h i cho XHặ ọ ệ ạ và ph i đả ược PL quy đ nh.ị Chế tài
- Một ng được cho là có năng lực - Hình phạt theo quy định mà tổ
trách nhiệm pháp lí khi họ đạt
chức XH đặt ra - Với hành vi vi
đến một độ tuổi do PL quy định phạm đạo đức, tôn giáo… nhận
- Chịu trách nhiệm hành vi của
sự chỉ trích, lên án từ XH.
mình theo độ tuổi quy định
trong PL, chế tài nghiêm khắc
được thể hiện bằng VBPL cụ thể.
71. Cho một ví dụ về vi phạm pháp luật cụ thể và phân tích các dấu hiệu của vi phạm pháp luật đó.
A (29 tuổi) yêu B (27 tuổi), hai người đã đến tuổi kết hôn nhưng A ko có tiền để lo cưới B,
trên đường A về nhà B ra mắt bố mẹ, A đã nảy sinh ý định trộm cắp. Khoảng 12h trưa, khi
A đi qua đồng, A thấy C đang nghe điện thoại mà ko để ý đến túi xách, nhân lúc đường vắng lOMoARc PSD|36215725
người , A đi xe máy phóng qua và dùng tay phải cướp cả ví và điện thoại của C, trong ví C
có 10 triệu và thẻ khác. Ngay sau đó C đi báo công an địa phương và A bị bắt. Đây là một VPPL vì: -
VPPL là hành vi thực tế của con người: A do ko có tiền nên nảy sinh ý định trộm
cắp và đã cướp của C -
VPPL là hành vi trái PL: A đã cướp túi xách và điện thoại của C. Hành vi của A
được quy định trong điều 173 BLHS 2015. -
VPPL do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện : A đã ở độ tuổi trưởng
thành có thể tự nhận thức và chịu trách nhiệm về hành vi VPPL của mình. -
VPPL luôn chứa đựng lỗi của chủ thể: A hoàn toàn tỉnh táo và bình thường, A lựa
chọn trộm cắp để có tiền cho bản thân.
72. Cho một ví dụ về vi phạm pháp luật cụ thể và phân tích cấu thành của vi phạm pháp luật đó. a. Mặt khách quan:
- Hành vi trái PL: Khoảng 12h trưa nhân lúc đường vắng người, A thấy C đang nghe
điệnthoại mà ko để ý đến túi xách, A đã cướp cả ví và điện thoại của C, trong ví C có 10 triệu và thẻ khác.
- Hậu quả: C bị mất cả ví và điện thoại
- Thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện vi phạm:
+ Thời gian: khoảng 12h trưa
+ Địa điểm : bên cánh đồng
+ Công cụ: A dùng xe máy đi qua và cướp đồ bằng tay phải b. Mặt chủ quan:
- Lỗi của chủ thể gây VPPL: trong trường hợp này A mắc lỗi cố ý, nghĩa là A hoàn toàntỉnh
táo và nhận thức được hành vi vi phạm của mình.
- Động cơ vi phạm: do ko có tiền để hỏi cưới B 122 lOMoARc PSD|36215725
- Mục đích của vi phạm: chiếm đoạt tài sản cá nhân của C, bao gồm túi xách và điện thoại
c. Chủ thể của VPPL: anh A ở độ tuổi trưởng thành có đủ năng lực pháp lí chịu trách nhiệm
với hành vi mà mình gây ra.
d. Khách thể của VPPL: đối tượng là C và khách thể là tài sản cá nhân của C
73. Phân tích khái niệm truy cứu trách nhiệm pháp lý. Trình bày mục đích, ý
nghĩacủa hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý. 73.1. Khái niệm:
- Trách nhiệm pháp lý của chủ thể VPPL là sự bắt buộc chủ thể VPPL phải gánh chịu những
hậu quả pháp lí bất lợi, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa NN với chủ thể VPPL, được
pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể VPPL bị áp dụng những biện pháp cưỡng
chế được pháp luật quy định
- Truy cứu trách nhiệm pháp lí là hoạt động thể hiện quyền lực của NN do CQNN hay nhà
chức trách có thẩm quyền tiến hành nhằm cá biệt hóa bộ phận chế tài của QPPL đối với các chủ thể VPPL. - ĐẶC ĐIỂM:
+) Chỉ được áp dụng khi có vi phạm pháp luật xảy ra. Vi phạm pháp luật là cơ sở thực tế
của trách nhiệm pháp lý. Không có vi phạm pháp luật sẽ không có trách nhiệm pháp lý. Như
vậy, trách nhiệm pháp lý chỉ được áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật ( chủ thể có
khả năng trách nhiệm pháp lý )
+) Chủ thể tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lý chủ yếu là các cơ quan, tổ chức
hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và mỗi chủ thể đó cũng chỉ được
truy cứu trách nhiệm pháp lý trong 1 phạm vi nhất định theo quy định của pháp lý. Chủ thể
bị truy cứu trách nhiệm pháp lý là chủ thể vi phạm pháp luật
VD: toà án hình sự truy cứu trách nhiệm hình sự, toà án nhân sự truy cứu trách nhiệm dân
sự, cơ quan quản lý hành chính có thẩm quyền và nhà chức trách truy cứu trách nhiệm hành
chinh của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị truy cứu trách nhiệm
+) Được áp dụng theo thủ tục, trình tự do pháp luật quy định. Việc truy cứu trách nhiệm
hình sự , trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chinh, trách nhiệm kỷ luật phải được tiến lOMoARc PSD|36215725
hành theo những quy định pháp luật về tố tụng hình sự , dân sự, thủ tục và trình tự xử phạt
hành chinh, thủ tục và trình tự xét, quyết định kỷ luật.
+) Luôn gắn liền với biện pháp cưỡng chế có tích chất trừng phạt. các biện pháp cưỡng
chế của nhà nước được quy định trong phần chế tài của quy phạm pháp luật ( chế tài hình
sự, chế tài kỷ luật, chế tài hành chính ). VD: cưỡng chế hành chính nhằm ngăn chặn dịch
bệnh, trưng thu có bồi hoàn hặc không có bồi hoàn,…
73.2. Phân tích MỤC ĐÍCH, ý nghĩa của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể VPPL -
Truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật là nhằm bảo vệ
chế độ xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích của nhân dân, của tổ chức, bảo
vệ trật tự pháp luật, tạo điều kiện cho những quan hệ xã hội phát triển đúng hướng, đảm bảo
cho quá trình điều chỉnh pháp luật được tiến hành bình thường và có hiệu quả -
Truy cứu trách nhiệm pháp lý nhằm mục đích trừng phạt đối với chủ thể vi phạm
pháp luật, buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được
quy định trong các quy phạm pháp luật. ngoài ra còn có ý nghĩa lớn trong việc phòng ngừa,
cải tạo và giáo dục những chủ thể vi phạm pháp luật -
Truy cứu trách nhiệm pháp lý còn có tác dụng răn đe những chủ thể khác khiến họ
phải kiềm chế, giữ mình không vi phạm pháp luật, giaó dục các tổ chức và các cá nhân ý
thức tôn trọng và thực hiện nghiêm minh pháp luật và các quy tắc của cuộc sống cộng đồng,
làm cho mọi người tin tưởng vào công lý, tích cực đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp
luật, từng bước hạn chế và tiến tới loại trừ hiện tượng vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã hội.
Ý NGHĨA: bao trùm, xuyên suốt hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí là nhằm bảo vệ
trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức trong xã
hội, đảm bảo cho các quan hệ xã hội diễn ra trong ổn định, trật tự, phát triển một cách bình
thường. Đồng thời, truy cứu trách nhiệm pháp lý nhằm xử lí người vi phạm pháp luật, trừng
phạt họ, qua đó cải tạo, giáo dục, ngăn ngừa sự tiếp tục vi phạm pháp luật của họ. Bên cạnh 124 lOMoARc PSD|36215725
đấy truy cứu trách nhiệm pháp lý cũng nhằm răn đe, phòng ngừa đối với những chủ thể
khác trong xã hội, làm cho họ nhận thức được tính nghiêm minh của luật pháp mà không
dám vi phạm pháp luật, ngoài ra, trong một số trường hợp, truy cứu trách nhiệm pháp lí còn
nhằm khôi phục trạng thái ban đầu của các quan hệ xã hội trước khi bị xâm hại.
74. Phân tích yêu cầu, đòi hỏi đối với hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
+ Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí. Nghĩa là,
hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí phải được tiến hành đúng thẩm quyền, theo đúng
trình tự, thủ tục mà PL quy định, có căn cứ pháp lí vững chắc, đúng người, đúng vi phạm,
đúng Pl, tránh oan sau nhưng ko bỏ lọt vi phạm.
+ Bảo đảm tính hợp lí trong hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí, nghĩa là quyết định
áp dụng PL được ban hành khi truy cứu trách nhiệm pháp lí phải phù hợp với các điều kiện
hiện thức để có thể thi hành được đồng thời phải đảm bảo tính có lợi nhất về tất cả các mặt KT, chính trị, VH-XH.
+ Việc truy cứu trách nhiệm pháp lí phải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng, bảo đảm,
bảo vệ các quyền, các giá trị con người. Ko áp dụng những biện pháp cưỡng chế có tính chất
làm nhục con người. Nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố, chống đối, lưu
manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm và VPPL có tính chuyên nghiệp. Khoan hồng đối với
người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, ăn năn hối cải, lập công, tự
nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
+ Hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lí phải được tiến hành kịp thời, nhanh chóng,
nhằm bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm pháp lí được thuận lợi, ngăn chặn kịp thời các
VPPL tương tự có thể xảy ra cũng như ngăn ngừa hiện tượng tiêu cực trong quá trình truy
cứu trách nhiệm pháp lí.
+ Bảo đảm nguyên tắc công bằng trong truy cứu trách nhiệm pháp lí. lOMoARc PSD|36215725
75. Phân tích ý nghĩa của từng yếu tố trong cấu thành vi phạm pháp luật đối với việc
truy cứu trách nhiệm pháp lý. 1. Khái niệm :
VPPL, truy cứu trách nhiệm pháp lí 2. Ý nghĩa:
a. Ý nghĩa của yếu tố khách quan đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lí: -
Hành vi VPPL chính là yếu tố bắt buộc trong VPPL vì đây là yếu tố xác định chủ thể
cóVPPL hay ko, hay chủ thể có tội hay ko. Từ đây các cơ quan có thẩm quyền mới tiếp tục
tìm hiểu về VPPL và truy cứu trách nhiệm pháp ló mà chủ thể phải gánh chịu với hành vi của mình. -
Dựa vào mức độ hậu quả mà hành vi VPPL gây ra mà cơ quan có chức năng quyết
địnhtới hình thức trách nhiệm của chủ thể vi phạm là nặng hay nhẹ, bị phạt án tù hay hưởng án treo… -
Viêc xác định công cụ, thời gian, địa điểm thực hiện hành vi trái PL là căn cứ để
chứngminh rằng chủ thể đó có VPPL và phải chịu trách nhiệm pháp lí về hành vi của mình hay ko.
b. Ý nghĩa của các yếu tố về mặt chủ quan đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lí: - Lỗi
là yếu tố bắt buộc phải có của mặt chủ quan hay trong một VPPL. Cũng như hành cvi trái
PL của mặt khách quan thì việc xác định lỗi của chủ thể cũng là việc xác định chủ thể có
VPPL hay ko và từ đó các cơ quan chức năng quyết định có truy cứu trách nhiệm pháp lí
của chủ thể hay ko. Lỗi được chia thành 4 loại: lỗi cố ý trực tiếp, lỗi cố ý gián tiếp, lỗi vô ý
vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả. -
Động cơ tuy kp là yếu tố bắt buộc trong mặt chủ quan của VPPL, tuy nhiên yếu tố này
cóý nghĩa trong việc xác định tính chất hành vi đó là việc tăng nặng hay giảm nhẹ tội mà
chủ thể phải gánh chịu. 126 lOMoARc PSD|36215725 -
Mục đích gắn liền với lỗi cố ý trực tiếp nên việc xem xét mục đích cũng có ý nghĩa
trongviệc tăng năng hay giảm nhẹ tội do chủ thể gây nên.
c. Ý nghĩa của yếu tố chủ thể đối với việc truy cứu trách nhiệm pháp lí:
- Việc xem xét tới chủ thể của VPPL có ý nghĩa trong việc cấu thành nên tội danh của chủ
thể VPPL hay có truy cứu trách nhiệm pháp lí với chủ thể đó hay ko. Chủ thể phải được xem
xét trên hai phương diện là người có năng lực trách nhiệm pháp lí và đạt độ tuổi theo quy định của PL
d. Ý nghĩa của yếu tố khách thể :
Tùy vào từng QHPL mà khách thể là yếu tố có ý nghĩa để xác định mức độ nguy hiểm của hành vi VPPL.
76. Phân tích căn cứ đánh giá ý thức pháp luật của một cá nhân, liên hệ bản thân. 1. Khái niệm: -
Ý thức PL: là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm, thái độ,
tìnhcảm của con người đối với PL và các hiện tượng pháp lí khác, thể hiện mối quan hệ giữa
con người đối với PL và sự đánh giá về mức độ công bằng, bình đẳng; tính hợp pháp hay ko
hợp pháp…đối với các hành vi, lợi ích hoặc quan hệ từ thực tiễn đời sống pháp lí và XH. -
Ý thức PL cá nhân: là quan niệm, sự hiểu biết và tình cảm, thái độ của cá nhân con
ngườiđối với PL và các hoạt động thực tiến pháp lí. -
Ý thức PL cá nhân phản ánh đặc điểm nhân cách cá nhân và điều kiện tồn tại của mỗi
.Điều này cũng có nghĩa là khoảng cách và sự khác biệt nhất định về ý thức PL giwuax các
cá nhân CD trong XH luôn tồn tại và rất khó đem lại sự tương đồng. -
Tuy nhiên, ý thức PL cá nhân là cơ sở tạo lập ý thức PL XH. Việc giáo dục PL, nâng
ýthức PL nói chung chỉ có hiệu quả thực sự khi giải quyết được một cách căn bản những vấn
đề thuộc về điều kiện tồn tại và ý thức của mỗi cá nhân.
77. Phân tích vai trò của ý thức pháp luật đối với việc xây dựng pháp luật, liên hệ thực tiễn Việt Nam. lOMoARc PSD|36215725 -
Quản lí XH bằng PL đòi hỏi phải quan tâm công tác XDPL. Hoạt động XDPL là một
trong những hoạt động cơ bản của NN nhằm “đưa” ý chí của lực lượng cầm quyền lên
thành PL. Do đó, XDPL là quá trình dựa trên sự nhận thức đầy đủ về nhu cầu của đời sống
thực tiến, đặc điểm của QHXH và mục đích điều chỉnh đối vs QHXH đó. -
Ý thức pháp luật là tiền đề trực tiếp cho hoạt động xây dựng pháp luật, cụ thể là
cho hoạt động soạn thảo, xây dựng đề án, dự thảo văn bản pháp luật; là yếu tố chủ quan có
ý nghĩa quyết định đối với nội dung của văn bản pháp luật. Vai trò của ý thức PL: *
Góp phần nhận thức thấu đáo, đầy đủ đối với chính sách PL và các yêu cầu của việc điều chính PL. *
Nâng cao khả năng thực hiện việc quy phạm hóa các nội dung điều chỉnh PL và
xác định các chuẩn mực pháp lí phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế. *
Bảo đảm cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống PL đúng quy trình kĩ thuật pháp
lí, hạn chế được tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau trên thực tế. *
Bảo đảm hiệu quả, chất lượng hoạt động hệ thống hóa PL đặc biệt hoạt động pháp
điển QPPL trên thực tế.
Ví dụ, nếu ý thức pháp luật của các nhà làm luật - những người trực tiếp soạn thảo
ban hành pháp luật đúng đắn thì họ sẽ cho ra đời những văn bản pháp luật có chất lượng,
phù hợp cuộc sống. Trong trường hợp ngược lại - sẽ cho ra đời văn bản pháp luật sai, không
khách quan, không phù hợp cuộc sống, không khả thi... Những năm gần đây, do ý thức pháp
luật của các nhà làm luật được nâng cao (thể hiện ở trình độ lý luận, tư duy pháp lý và tình
cảm thái độ của họ về pháp luật) nên nhìn chung đã cho ra đời những văn bản pháp luật có
chất lượng, đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống; tiêu biểu như Bộ luật Dân sự, Bộ luật
Hình sự mới năm 1999, Luật Doanh nghiệp.....
Tuy vậy, vẫn còn nhiều quy định pháp luật bất cập, lạc hậu, chưa phù hợp với sự
phát triển nhanh chóng của các quan hệ xã hội. Như trong lĩnh vực kinh doanh, pháp luật
về cạnh tranh còn thiếu; pháp luật về giáo dục, đào tạo còn nhiều bất cập, thường xuyên 128 lOMoARc PSD|36215725
thay đổi....nhiều khi rơi vào tình trạng: vừa thừa, vừa thiếu pháp luật; hoặc luật khó hiểu,
hiểu thế nào cũng được, hoặc quy định quá chung chung....
Trong xây dựng pháp luật, ý thức pháp luật của người dân cũng có ý nghĩa quan
trọng, bởi vì họ là những người được tham gia góp ý kiến xây dựng pháp luật. Nếu ý thức
pháp luật của họ tốt họ sẽ có những đóng góp ý kiến đúng đắn, có chất lượng hoặc ngược
lại, nếu ý thức pháp luật của họ thấp, sai lệch..., việc góp ý kiến của họ sẽ không có chất
lượng, thậm chí có khi phản tác dụng.
78. Phân tích vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật, liên hệ bản thân. -
Việc thực hiện PL một cách chủ động, đúng đắn trước hết phụ thuộc vào sự hiểu biế
PLvà thái độ pháp lí của chủ thế. Khi chủ thể hiểu được nội dung của các QPPL tức là thấy
được những điều mà PL cho phép, bắt buộc hoặc ngăn cấm gắn kiền với những điều kiện,
hoàn cảnh nhất định. Muốn thực hiện PL tốt cần phải hiểu biết PL, đòi hỏi chủ thể phải tự
tạo lập tiền đề, nền tảng ý thức PL đúng đắn, tích cực để chủ động xác lập những hành vi
trong giới hạn được PL quy định. -
Hình thành một lối sống theo PL trước hết và quan trọng nhất là ý thức PL của mỗi
người.Vai trò của ý thức PL trong việc xây dựng lối sống theo PL thể hiện thông qua việc: +
Tiếp nhận chọn lọc lối sống công nghiệp, hiện đại phù hợp với bản sắc dân tộc; hiểu biết tôn
trong và sử dụng PL làm thước đo khi tham gia QH và các hoạt động pháp lí.
+ Loại trừ lối sống theo đại đức, phong tục tập quán… Hạn chế, xóa bỏ các quan niệm,
phong tục, tập quán lạc hậu cản trở, làm giảm thiểu tính hiệu quả thực thi PL, phủ nhận các
giá trị pháp lí tích cực.
+ Ko khoan nhượng đối với hiện tượng VPPL; tích cực đấu tranh chống VPPL dựa trên
nguyên tắc pháp chế thống nhất và sự công bằng, bình đẳng về trách nhiệm đối với XH.
79. Phân tích khái niệm giáo dục pháp luật. Trình bày mục đích, ý nghĩa của việc giáo dục pháp luật. lOMoARc PSD|36215725 1. Khái niệm:
- GDPL là quá trình tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường xuyên tới nhận
thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người trình độ pháp lí nhất định để từ đó có ý
thức đúng đắn về PL, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của PL. 2. Mục đích:
Có ba mục đích chính: a.
GDPL nhằm nâng cao khả năng nhận thức pháp lí, sự hiểu biết PL, hình thành
tri thức PL cần thiết cho các chủ thể (với tính cách là đối tượng nhận thức hay là đối tượng
giáo dục). Đây là mục đích hàng đầu của GDPL bởi lẽ sự hiểu biết PL có vai trò quan trọng
trong việc bảo đảm sự phát triển của tư duy pháp lí, định hướng các hành vi của chủ thể trên thực tế. b.
GDPL nhằm khơi dậy tình cảm, lòng tin và thái độ đúng đắn đối với PL. Để hình
hành lòng tin và đem lại thái độ đúng đắn, tích cực đối với PL ở mỗi người cần phải giải
quyết nhiều vấn đề có liên quan, trong đó GDPL là hoạt động cơ bản. Cần GD tình cảm công
bằng, khoan dung, ý thức trách nhiệm, thái độ ko khoan nhượng trước các hành vi VPPL và
thái độ tôn trọng pháp luật, pháp chế. c.
GDPL nhằm hình thành thói quen xử sự theo PL với động cơ tích cực. Mục đích
của GDPL ko chỉ cung cấp những kiến thức lí luận hoặc các quy định PL cụ thể mà quan
trọng hơn là tạo lập được thói quen xử sự theo PL ở mỗi loại chủ thể trong XH.
80. Phân tích các biện pháp cơ bản để nâng cao ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay. 130