Bài tập tự luận môn Lịch sử Đảng | Đại học Nội Vụ Hà Nội
Nội dung 1 : Đảng Công sản Viê ̣ t Nam ra đời đã đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch ̣sử dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX. (Bài 1)* Phân tích tình hình trong nước để thấy rõ sự kiện ĐCSVN được thành lập là đáp ứngđúng đòi hỏi khách quan của lịch sử dân tộc.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45148588
Nội dung 1 : Đảng Công sản Việ t Nam ra đời đã đáp ứng yêu cầu khách quan của
lịcḥ sử dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX. (Bài 1) *
Phân tích tình hình trong nước để thấy rõ sự kiện ĐCSVN được thành lập là
đáp ứngđúng đòi hỏi khách quan của lịch sử dân tộc -
Nêu khái quát tình hình nước ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và các phong
tràoyêu nước trước khi có ĐCSVN:
+ Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nước ta rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp.
Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, vấn đề cứu nước, giải phóng dân tộc đặt ra cách cấp
thiết. + Trước tình hình đó, các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta
liên tiếp nổ ra theo khuynh hướng tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản ( như khởi
nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông
Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng
Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo). Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh
đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và lần lượt bị thất bại.
Nguyên nhân chính của sự thất bại đó là do thiếu lý luân tiên phong, thiếu đường lối và
một tổ chức lãnh đạọ đúng đắn -> đòi hỏi bức thiết đăt ra đối với dân tộ c là phải nhanh
chóng tìm ra một coṇ đường cứu nước đúng đắn và một tổ chức cách mạng có khả năng
đưa phong trào cứu nước đi đến thắng lợi, để giải phóng dân tộc, mang lại ấm no hạnh
phúc cho ND, đưa dân tộc tiến kịp với xu thế phát triển của thời đại. Đây là yêu cầu
khách quan, cấp thiết của dân tộc Việt Nam. -
Khái quát quá trình Nguyền Ái Quốc tìm đường cứu nước và truyền bá Chủ
nghĩaMác – Lênin, chuẩn bị những điều kiện thành lập Đảng:
+ Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc,
Hồ Chí Minh) ra nước ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người đã qua nhiều
nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc
cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội
Pháp. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng
của Nguyễn Ái Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục V.I.Lênin
và đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vệ cách mạng Nga; tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú đó đã giúp Người từng bước
rút ra những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình.
Trải qua quá trình bôn ba đến hàng loạt các nước, đến tháng 7/1920, Nguyễn Ái
Quốc đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về những vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Quốc tế cộng sản do Lênin soạn thảo đã giúp Nguyễn Ái Quốc sáng tỏ
nhiều điều về con đường GPDT -> Người kết luận: Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Đây là kết luận đánh dấu lOMoAR cPSD| 45148588
Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản.
+ Sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn và trở thành người cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa tích cực truyền
bá chủ nghĩa Mác – Lênin, chuẩn bị những điều kiện về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho
việc thành lập ĐCS ở nước ta. -
Phân tích những chuyển biến của phong trào cách mạng Việt Nam vào cuối
nhữngnăm 20 của thế kỷ XX: Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của
Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như''người
đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn''. Nó lôi cuốn những
người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên cao trào
đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân ngày càng trở
thành một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào công nhân chuyển từ tự phát sang tự
giác; trong phong trào yêu nước, hê tư tưởng vô sản dần chiếm ưụ thế. Sự truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào quần chúng và phong trào công nhân, làm cho phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi
hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được
thành lập. Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc kỳ,
Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở nam Kỳ, Ngày l-l-1930,
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản
tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng
ở Việt Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một
quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng đặt ra là cần
có một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân Việt Nam, phải thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập 1 chính
đảng của giai cấp vô sản để lãnh đạo phong trào cách mạng khi hệ tư tưởng vô sản đang chiếm ưu thế.
Sau một thời gian chuẩn bị, mùa xuân năm 1930 Hội nghị thành lập Đảng đã được
tổ chức. Từ ngày 6-l đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại
bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt
Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ
vắn tắt của Đảng. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch
sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả
của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ
XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch lOMoAR cPSD| 45148588
sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể
chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm
dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước.Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách
mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương
lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng
thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. chấm dứt thời kì khủng hoảng về vai trò lãnh đạo và
đường lối trong phong trào cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng đòi hỏi của dân tộc, là
sự lựa chọn khách quan của các mạng Việt Nam và phù hợp với xu thế của thời đại. *
Liên hệ thực tiễn việc giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong
tình hìnhhiện nay.
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt vô cùng
quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Trải qua hơn 90 năm xây dựng và trưởng
thành, lấy chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, Đảng
đã lãnh đạo nhân dân ta giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vượt
qua muôn ngàn khó khăn, thử thách, làm nên những thành tựu vĩ đại trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của
mình, 15 năm sau khi thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà nước công
nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt
Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược
Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của Bác Hồ, lên
đường kháng chiến và cuối cùng đã giành được thắng lợi to lớn, đánh thắng đế quốc
xâm lược và lập lại hoà bình ở miền Bắc Việt Nam. Trong hoàn cảnh đất nước tạm bị
chia làm hai miền, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai cuộc
cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam. Khi Mỹ đưa quân vào xâm lược ở miền Nam, tiến hành chiến tranh cục bộ
đánh phá các căn cứ cách mạng ở miền Nam và mở rộng chiến tranh xâm lược ra miền
Bắc (1964), Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân hai miền "đánh cho Mỹ cút,
đánh cho Ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc (1975), đưa cả nước đi lên CNXH.
Sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975, đất nước Việt
Nam thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Trước tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh tế, đời sống lOMoAR cPSD| 45148588
nhân dân còn thiếu thốn, Đảng ta đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo thành công công
cuộc đổi mới đất nước (1986). Những thành tựu to lớn trong 30 năm đổi mới trên các
lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh, quan hệ quốc tế... đã
khẳng định tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ một đất nước
bị tàn phá nặng nề bởi nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, bị các
thế lực thù địch điên cuồng chống phá, bị bao vây, cấm vận kinh tế, lại phải chịu nhiều
tổn thất do thiên tai khắc nghiệt gây ra, Việt Nam đã nhanh chóng khôi phục và phát
triển kinh tế - xã hội; đời sống của các tầng lớp nhân
dân lao động không ngừng được cải thiện; chính trị ổn định; lòng tin của quần chúng
nhân dân đối với Đảng được củng cố; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được
nâng cao. - Nêu những thuận lợi và khó khăn đang đặt ra đối với Đảng trong thực hiện
vai trò lãnh đạo đối với cách mạng nước ta hiện nay
+ Những thuận lợi
Các cơ hội mở ra trong quá trình hội nhập quốc tế và những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học 4.0.
Ngày nay, quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng nhanh hơn, mạnh
hơn dưới sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó kinh tế thị trường và sự phát triển như
vũ bão của khoa học công nghệ là động lực hàng đầu. Trong quá trình hội nhập, nhờ vào
sự chỉ đạo tài tình của Đảng và Nhà nước cùng với những nỗ lực không ngừng của toàn
dân, Việt Nam đã mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu tư
nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu
của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế.
Việt Nam, với tư cách là một nước đang phát triển, lại có quan hệ kinh tế đa dạng
với nhiều nước thuộc cả nhóm phát triển và đang phát triển, hoàn toàn có thể tận dụng
xu hướng này, tham gia vào các tập hợp lực lượng kinh tế mới để đẩy mạnh tăng trưởng
kinh tế quốc gia. Thông qua các thể chế này Việt Nam tiếp tục có phạm vi hoạt động đối
ngoại rộng. Cụ thể, việc tham gia vào các cơ chế đa phương trong khu vực đã giúp tiếng
nói của Việt Nam có trọng lượng hơn, đồng thời lợi ích quốc gia được đảm bảo tốt hơn
đặc biệt khi lợi ích đó gắn với lợi ích của khu vực. Nhờ hội nhập, Việt Nam đã mở rộng
thị trường cho xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài,
các nguồn vốn, thành tựu khoa học – công nghệ, để đạt được những thành tựu phát triển như những năm qua
Hiện nay, Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, nhất là cuộc Cách
mạng khoa học 4.0 tạo điều kiện hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở nhiều quốc
gia, khu vực; tạo cơ hội hợp tác, giao lưu trong tìm kiếm, tiếp thu những thành tựu khoa
học - công nghệ hiện đại, tạo nguồn lực phát triển kinh tế. Toàn cầu hóa làm cho thị
trường thế giới ngày nay càng rộng lớn về quy mô, hoàn thiện về cơ chế hoạt động. Qua
đó, Việt Nam có cơ hội mở rộng, phát triển tiến trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa. lOMoAR cPSD| 45148588
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới ở trong nước đang tạo niềm tin của
nhân dân với Đảng.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu và đạt được những thành tựu
to lớn. 35 năm đổi mới ở Việt Nam là giai đoạn lịch sử quan trọng đánh dấu sự trưởng
thành mọi mặt về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới mang
tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện và triệt để, là sự
nghiệp cách mạng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thực hiện thành công.
Việt Nam đã đạt được những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng. Kinh tế
tăng trưởng cao và ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có
bước phát triển mới; đời sống nhân dân từng bước được nâng lên; Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được củng cố; độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày
càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
ngày càng được nâng cao.
35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên
nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn
cầu của Việt Nam. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh
tế. Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, toàn
diện với nhiều nước, trong đó có tất cả các nước P5 (Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Anh)
và hầu hết các nước chủ chốt trong trong khu vực và trên thế giới;
Nhờ có nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu
đáng kể trong những giai đoạn khủng hoảng, mới đây là đại dịch Covid-19. Y tế đạt
nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5
năm 1990 lên 75,4 năm 2019, cao nhất giữa các quốc gia trong khu vực có mức thu nhập
tương đương. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là 73, cao hơn trung bình khu
vực và trung bình thế giới.
+ Những khó khăn, thách thức:
Tuy nhiên, một vấn để bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Bên cạnh những cơ hội
thuận lợi thì hội nhập quốc tế cũng đem lại cho Việt Nam những khó khăn, thách thức.
Đó là, tình hình thế giới có những diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, khó dự báo,
đặt ra yêu cầu đối với đảng cầm quyền là phải nắm bắt kịp thời những vấn đề của thời
đại như: vấn đề an ninh phi truyền thống, vấn đề biến đổi khí hậu, tác động đa chiều của
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thế giới đang có xu hướng chuyển sang đa cực, sự
tranh giành quyền lực giữa các nước lớn, v.v.. Công cuộc đổi mới đang đặt ra nhiều vấn
đề mới, đặc biệt là tác động bởi những mặt trái của cơ chế thị trường; Sự chống phá của
các thế lực thù địch và những hạn chế trong nội bộ Đảng lOMoAR cPSD| 45148588
Ở trong nước, nền kinh tế đang phục hồi nhưng vẫn còn nhiều vấn đề xã hội đặt
ra; vẫn còn những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, v.v.. Những vấn đề này đang đặt ra yêu
cầu mới đối với Đảng trong lãnh đạo.
Do vậy, để tiếp tục giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách
mạng trong tình hình hiện nay Đảng ta phải : Nâng cao năng lực hoạch định đường lối;
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về phương thức lãnh đạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, đảng viên; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn,
đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực trong nội bộ Đảng và hệ thống chính trị;….
Thứ nhất, nâng cao năng lực ra quyết định, tức là năng lực xác định đúng đắn mục
tiêu, tầm nhìn, định hướng thể hiện trong chủ trương, đường lối, giữ vững vai trò lãnh
đạo chính quyền nhà nước và năng lực lãnh đạo Nhà nước trong việc thực hiện chủ
trương, đường lối mà Đảng đã đề ra.
Chủ trương, đường lối đúng đắn là phải phản ánh được quy luật vận động của thực tiễn
chính trị, thể hiện được lợi ích của nhân dân. Muốn vậy, phải thu hút được sự đóng góp
trí tuệ của toàn thể nhân dân, của các cơ quan nghiên cứu khoa học, đội ngũ các nhà lý
luận và hoạt động thực tiễn, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên.
Việc lãnh đạo Nhà nước phải dân chủ, khoa học, không làm thay Nhà nước, đồng
thời kiên quyết chống tình trạng lạm quyền, làm thay Nhà nước cũng như buông lỏng
sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng và trong
toàn xã hội. Cùng với việc từng bước hoàn thiện cơ chế cụ thể để mỗi đảng viên thực
hiện tốt các quyền bày tỏ quan điểm, ý kiến; quyền được thảo luận, trao đổi, chất vấn
lãnh đạo các cấp; quyền bảo lưu ý kiến; quyền được có thông tin liên quan đến thực hiện
nhiệm vụ của Đảng v.v.. thì phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng; xử lý nghiêm
những trường hợp vi phạm kỷ luật phát ngôn, vi phạm kỷ luật đảng.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về phương thức lãnh đạo và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi những hiện
tượng tiêu cực trong nội bộ Đảng và hệ thống chính trị
Trong điều kiện có chính quyền nhà nước, Đảng phải thông qua Nhà nước, lãnh
đạo Nhà nước để tổ chức lực lượng, xác lập bộ máy, cơ chế, chính sách tổ chức thực
hiện, đưa chủ trường, đường lối của Đảng vào cuộc sống.
Cùng với lãnh đạo Nhà nước tổ chức thực hiện chủ trường, đường lối, Đảng trực
tiếp tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân thông qua tổ chức đảng, đảng viên,
các cơ quan, tổ chức tuyên truyền, cổ động, vận động, thuyết phục các tầng lớp nhân
dân đồng lòng thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng trong thực tế.
Thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, nhất là cán
bộ cấp chiến lược có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực và uy tín, ngang tầm yêu cầu lOMoAR cPSD| 45148588
nhiệm vụ. Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người
đứng đầu cấp ủy, các cơ quan, đơn vị. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống các biểu hiện
chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái, những biểu hiện suy thoái, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”.
tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng
viên, quần chúng theo định hướng Đại hội XIII của Đảng; đồng thời, thường xuyên rà
soát, kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật và quy định của Đảng.
tiếp tục thực hiện nghiêm nguyên tắc, chế độ, quy định và đổi mới nội dung, hình thức
để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; xác định rõ vai trò và phát huy trách nhiệm của
người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị.
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ, nền tảng
tư tưởng của Đảng; chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống
phá của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị.
Thứ ba, nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát các cơ quan nhà nước trong việc tổ
chức thực hiện chủ trương, đường lối. Để thực hiện tốt chức năng này cần phát huy được
vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên. Đồng thời, phát huy vai trò của
nhân dân trong việc tham gia giám sát, phản biện các khâu trong tổ chức thực hiện, đưa
chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống.
Kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện những tình huống, những vấn đề nảy sinh
để có biện pháp xử lý ngay từ mầm mống. Các cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, tổ chức
có chức năng kiểm tra, giám sát thực hiện kiểm tra, giám sát phải phát hiện được thực
chất của vấn đề nảy sinh, kịp thời tháo gỡ để phục vụ việc lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
trong tổ chức thực hiện, đưa chủ trương, đường lối vào cuộc sống.
Để thực hiện tốt các giải pháp trên, toàn Đảng cần phải nâng cao trình độ tư duy
lý luận, trau dồi, rèn luyện phương pháp biện chứng duy vật cho cán bộ, đảng viên. Bởi
lẽ, phương pháp biện chứng duy vật với các nguyên tắc khách quan, phát triển, lịch sử
cụ thể, thống nhất giữa lý luận với thực tiễn sẽ giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng
có cơ sở, căn cứ để nâng cao năng lực giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện đối với chính
quyền nhà nước và năng lực lãnh đạo Nhà nước thực hiện mục tiêu, tầm nhìn, định
hướng phát triển mà Đảng đã xác định. Hai nhóm giải pháp cho việc giữ vững vai trò
lãnh đạo toàn diện đối với chính quyền nhà nước và năng lực lãnh đạo Nhà nước thực
hiện mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển mà Đảng đã xác định có mối quan hệ
biện chứng, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau.
Nâng cao được năng lực giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện đối với chính quyền
nhà nước là cơ sở tiền đề nâng cao năng lực lãnh đạo Nhà nước thực hiện mục tiêu, tầm
nhìn, định hướng phát triển mà Đảng đã xác định. củng cố, tăng cường năng lực giữ
vững vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước trong mọi thời kỳ cách mạng. lOMoAR cPSD| 45148588
Thực tiễn qua 93 năm xây dựng, phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã
khẳng định, nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao năng lực cầm quyền,
lãnh đạo và sự đổi mới, sáng tạo của Đảng trong hệ thống chính trị, nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nội dung 2: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt trọng đại đối
với cách mạng Việt Nam (Bài 1, bài 2)
* Chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt trọng đại
đối với cách mạng Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nước ta rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp.
Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, vấn đề cứu nước, giải phóng dân tộc đặt ra cách cấp
thiết. + Trước tình hình đó, các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta
liên tiếp nổ ra theo khuynh hướng tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản ( như khởi
nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông
Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng
Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo). Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh
đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và lần lượt bị thất bại.
Nguyên nhân chính của sự thất bại đó là do thiếu lý luân tiên phong, thiếu đường lối và
một tổ chức lãnh đạọ đúng đắn -> đòi hỏi bức thiết đăt ra đối với dân tộ c là phải nhanh
chóng tìm ra một coṇ đường cứu nước đúng đắn và một tổ chức cách mạng có khả năng
đưa phong trào cứu nước đi đến thắng lợi, để giải phóng dân tộc, mang lại ấm no hạnh
phúc cho ND, đưa dân tộc tiến kịp với xu thế phát triển của thời đại. Đây là yêu cầu
khách quan, cấp thiết của dân tộc Việt Nam.
- Khái quát quá trình Nguyền Ái Quốc tìm đường cứu nước và truyền bá Chủ
nghĩa Mác – Lênin, chuẩn bị những điều kiện thành lập Đảng:
+ Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc,
Hồ Chí Minh) ra nước ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người đã qua nhiều
nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc
cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội
Pháp. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng
của Nguyễn Ái Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục V.I.Lênin lOMoAR cPSD| 45148588
và đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vệ cách mạng Nga; tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú đó đã giúp Người từng bước
rút ra những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình.
Trải qua quá trình bôn ba đến hàng loạt các nước, đến tháng 7/1920, Nguyễn Ái
Quốc đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về những vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Quốc tế cộng sản do Lênin soạn thảo đã giúp Nguyễn Ái Quốc sáng tỏ
nhiều điều về con đường GPDT -> Người kết luận: Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Đây là kết luận đánh dấu
Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc - con đường cách mạng vô sản.
+ Sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn và trở thành người cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa tích cực truyền
bá chủ nghĩa Mác – Lênin, chuẩn bị những điều kiện về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho
việc thành lập ĐCS ở nước ta.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như''người đi đường đang khát mà có
nước uống, đang đói mà có cơm ăn''. Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi
theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp
cả nước, trong đó giai cấp công nhân ngày càng trở thành một lực lượng chính trị độc
lập. Phong trào công nhân chuyển từ tự phát sang tự giác; trong phong trào yêu nước, hê
tư tưởng vô sản dần chiếm ưu thế. Sự truyềṇ bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào
quần chúng và phong trào công nhân, làm cho phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính
trị lãnh đạo. Vì vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập. Ngày
17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc kỳ, Mùa Thu năm 1929,
An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở nam Kỳ, Ngày l-l-1930, Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản
tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng
ở Việt Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một
quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng đặt ra là cần
có một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân Việt Nam, phải thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập 1 chính
đảng của giai cấp vô sản để lãnh đạo phong trào cách mạng khi hệ tư tưởng vô sản đang chiếm ưu thế.
Sau một thời gian chuẩn bị, mùa xuân năm 1930 Hội nghị thành lập Đảng đã được
tổ chức. Từ ngày 6-l đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại
bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt lOMoAR cPSD| 45148588
Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ
vắn tắt của Đảng. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch
sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả
của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ
XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch
sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể
chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
ĐCSVN ra đời với Cương lĩnh chính trị đúng đắn đã chấm dứt sự khủng hoảng
về đường lối và để lại những thành tựu lý luận về con đường CMVN. Bởi vì:
+ Cương lĩnh thể hiện súc tích những vấn đề cơ bản của CMVN về đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; về nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng; về lực lượng
cách mạng; phương pháp cách mạng; về vấn đề đoàn kết quốc tế và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam -
Xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù trực tiếp của nhân dân các nước
thuộc địa. Khẳngđịnh “chỉ có giai cấp vô sản mới giải phóng được dân tộc” -
Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới. Cáchmạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng ở chính quốc có quan hệ khăng khít
Cương lĩnh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn
VN, giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong CMVN và chính sự sáng tạo của Cương
lĩnh là cơ sở để Đảng xác lập đường lối CMVN qua các thời kỳ.
ĐCSVN ra đời đã đưa CMVN vào quỹ đạo của cách mạng vô sản thế giới, cách
mạng Việt Nam chính thức trở thành một bộ phận của phong trào cách mạng trên thế
giới; tạo những tiền đề để đưa CMVN giành được những thắng lợi to lớn và đặt nền
móng cho việc xây dựng Đảng.
Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước. Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con
đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt
Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. chấm dứt thời kì khủng hoảng về vai
trò lãnh đạo và đường lối trong phong trào cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng đòi hỏi
của dân tộc, là sự lựa chọn khách quan của các mạng Việt Nam và phù hợp với xu thế của thời đại. lOMoAR cPSD| 45148588
* Liên hệ thực tiễn việc giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong tình
hình hình hiện nay
- Nêu khái quát những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt
Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước giải phóng dân tộc. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng nước ta đã giành được những
thắng lợi to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Trước hết, thắng lợi cách mạng tháng Tám năm 1945: Sau khi ra đời, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã sát cánh cùng dân tộc, lãnh đạo thắng lợi cao trào cách mạng 1930-
1931 và Xô Viết Nghệ tĩnh, Cao trào dân chủ 1936-1939 và cao trào giải phóng dân tộc
1939-1945, đỉnh cao là cách mạng tháng 8/1945. Cách mạng tháng 8/1945 là thắng lợi
của truyền thống quật cường, bất khuất, lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc Việt Nam
qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, quyết chiến đấu vì độc lập tự do,
không cam chịu nô lệ. Thắng lợi cách mạng tháng 8/1945 đã đập tan ách thống trị của
thực dân Pháp và phát xít Nhật, lật đổ chế độ quân chủ hàng nghìn năm, lập nên Nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ
đây dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội,
mở ra thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh quang vinh.
Hai là, chiến thắng Điện Biên Phủ 1954: Sau cách mạng tháng 8/1945, thực dân
Pháp quay lại xâm lược nước ta, nền độc lập của dân tộc chưa thực sự được bảo vệ vững
chắc. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện đường lối “vừa kháng chiến vừa kiến
quốc”, xác định thực dân Pháp là kẻ thù chính của dân tộc Việt Nam, với phương châm
“toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính” Đảng đã lãnh đạo đưa cuộc
kháng chiến từng bước thắng lợi, từ chiến dịch Thu Đông 1947, chiến dịch Biên giới
1950, đến chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 và đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ
1954. Thắng lợi Điện biên Phủ (1954) giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi Điện Biên Phủ đã báo hiệu sự sụp đổ chế độ thực
dân kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi toàn thế giới.
Ba là, đại thắng mùa xuân 1975: Sau chiến thắng Điện biên Phủ 1954, Mỹ thay
thế Pháp ở lập nên chế độ thuộc địa kiểu mới Đông Dương. Nước ta tạm thời chia cắt
làm hai miền với hai chiến lược cách mạng khác nhau. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, ở miền Bắc Đảng đề ra và lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng miền Bắc làm hậu phương cho công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước. Ở miền Nam, Đảng đề ra đường lối kháng chiến và lãnh đạo lần lượt đánh thắng
các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ: chiến lược “chiến tranh đặc biệt” (1961-
giữa 1965); chiến lược “chiến tranh cục bộ” (giữa 1965-1968) chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh” (1969-1973) và kết thúc bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân lOMoAR cPSD| 45148588
1975 lịch sử. Thắng lợi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước là thành quả vĩ
đại nhất của sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo,
kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Đại thắng mừa
xuân 1975 đã thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đánh dấu
một bước ngoặt quyết định mở đường cho dân tộc Việt Nam tiến hẳn vào kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, thắng lợi của công cuộc lối đổi mới đất nước: Sau năm 1975, đất nước có
nhiều thuận lợi song cũng gặp muôn vàn khó khăn thách thức. Đảng đã lãnh đạo tìm tòi
khảo nghiệm con đường xây dựng CNXH. Tháng 12/1986 Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ trên các lĩnh vực,
trọng tâm là đổi mới về kinh tế. Nhìn tổng thể, trải qua 35 năm đổi mới, đất nước ta đã
đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình,
đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng
khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát
triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội
có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền
và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng
lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều
sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Năm là, thắng lợi trên lĩnh vực đối ngoại: Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng (12/1986), Đảng đề ra và thực hiện đường lối đối ngoại mở cửa, quan hệ
hợp tác đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Hơn 30 năm thực hiện đường lối
đối ngoại, Đảng và Nhà nước Việt Nam thu được nhiều kết quả to lớn: -
Thứ nhất: Môi trường hòa bình thuận lợi cho phát triển; độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững. -
Thứ hai, quan hê đối ngoại được mở rộ ng và ngày càng đi vào chiều sâu; quan hệ
với các ̣ nước láng giềng và các nước trong ASEAN được củng cố;. -
Thứ ba, hôi nhậ p quốc tế được đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào việ c
tăng cường nguồṇ lực cho phát triển, thực hiên CNH, HĐH đất nước.̣ -
Thứ tư, chủ đông, tích cực tham gia các công việ c chung của cộ ng đồng quốc tế,
các diễṇ đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước. -
Thứ năm, đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển
khai đồng bô, hiệ u quả, có bước phát triển mới.̣ lOMoAR cPSD| 45148588 -
Nêu những thuận lợi và khó khăn, thách thức đang đặt ra đối với Đảng khi
thực hiệnvai trò lãnh đạo trong tình hình hiện nay Giống câu 1
+ Những thuận lợi
Các cơ hội mở ra trong quá trình hội nhập quốc tế và những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học 4.0.
Ngày nay, quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng nhanh hơn, mạnh
hơn dưới sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó kinh tế thị trường và sự phát triển như
vũ bão của khoa học công nghệ là động lực hàng đầu. Trong quá trình hội nhập, nhờ vào
sự chỉ đạo tài tình của Đảng và Nhà nước cùng với những nỗ lực không ngừng của toàn
dân, Việt Nam đã mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu tư
nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu
của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế.
Việt Nam, với tư cách là một nước đang phát triển, lại có quan hệ kinh tế đa dạng
với nhiều nước thuộc cả nhóm phát triển và đang phát triển, hoàn toàn có thể tận dụng
xu hướng này, tham gia vào các tập hợp lực lượng kinh tế mới để đẩy mạnh tăng trưởng
kinh tế quốc gia. Thông qua các thể chế này Việt Nam tiếp tục có phạm vi hoạt động đối
ngoại rộng. Cụ thể, việc tham gia vào các cơ chế đa phương trong khu vực đã giúp tiếng
nói của Việt Nam có trọng lượng hơn, đồng thời lợi ích quốc gia được đảm bảo tốt hơn
đặc biệt khi lợi ích đó gắn với lợi ích của khu vực. Nhờ hội nhập, Việt Nam đã mở rộng
thị trường cho xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài,
các nguồn vốn, thành tựu khoa học – công nghệ, để đạt được những thành tựu phát triển như những năm qua
Hiện nay, Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, nhất là cuộc Cách
mạng khoa học 4.0 tạo điều kiện hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở nhiều quốc
gia, khu vực; tạo cơ hội hợp tác, giao lưu trong tìm kiếm, tiếp thu những thành tựu khoa
học - công nghệ hiện đại, tạo nguồn lực phát triển kinh tế. Toàn cầu hóa làm cho thị
trường thế giới ngày nay càng rộng lớn về quy mô, hoàn thiện về cơ chế hoạt động. Qua
đó, Việt Nam có cơ hội mở rộng, phát triển tiến trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới ở trong nước đang tạo niềm tin của
nhân dân với Đảng.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu và đạt được những thành tựu
to lớn. 35 năm đổi mới ở Việt Nam là giai đoạn lịch sử quan trọng đánh dấu sự trưởng
thành mọi mặt về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới mang
tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện và triệt để, là sự
nghiệp cách mạng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thực hiện thành công.
Việt Nam đã đạt được những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, đang đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng. Kinh tế
tăng trưởng cao và ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có lOMoAR cPSD| 45148588
bước phát triển mới; đời sống nhân dân từng bước được nâng lên; Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được củng cố; độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày
càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
ngày càng được nâng cao.
35 năm đổi mới cũng là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên
nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn
cầu của Việt Nam. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh
tế. Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, toàn
diện với nhiều nước, trong đó có tất cả các nước P5 (Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Anh)
và hầu hết các nước chủ chốt trong trong khu vực và trên thế giới;
Nhờ có nền tảng vững chắc, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu
đáng kể trong những giai đoạn khủng hoảng, mới đây là đại dịch Covid-19. Y tế đạt
nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5
năm 1990 lên 75,4 năm 2019, cao nhất giữa các quốc gia trong khu vực có mức thu nhập
tương đương. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân là 73, cao hơn trung bình khu
vực và trung bình thế giới.
+ Những khó khăn, thách thức:
Tuy nhiên, một vấn để bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Bên cạnh những cơ hội
thuận lợi thì hội nhập quốc tế cũng đem lại cho Việt Nam những khó khăn, thách thức.
Đó là, tình hình thế giới có những diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, khó dự báo,
đặt ra yêu cầu đối với đảng cầm quyền là phải nắm bắt kịp thời những vấn đề của thời
đại như: vấn đề an ninh phi truyền thống, vấn đề biến đổi khí hậu, tác động đa chiều của
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thế giới đang có xu hướng chuyển sang đa cực, sự
tranh giành quyền lực giữa các nước lớn, v.v.. Công cuộc đổi mới đang đặt ra nhiều vấn
đề mới, đặc biệt là tác động bởi những mặt trái của cơ chế thị trường; Sự chống phá của
các thế lực thù địch và những hạn chế trong nội bộ Đảng
Ở trong nước, nền kinh tế đang phục hồi nhưng vẫn còn nhiều vấn đề xã hội đặt
ra; vẫn còn những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, v.v.. Những vấn đề này đang đặt ra yêu
cầu mới đối với Đảng trong lãnh đạo.
Do vậy, để tiếp tục giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách
mạng trong tình hình hiện nay Đảng ta phải : Nâng cao năng lực hoạch định đường lối;
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về phương thức lãnh đạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, đảng viên; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn,
đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực trong nội bộ Đảng và hệ thống chính trị;….
Thứ nhất, nâng cao năng lực ra quyết định, tức là năng lực xác định đúng đắn mục
tiêu, tầm nhìn, định hướng thể hiện trong chủ trương, đường lối, giữ vững vai trò lãnh lOMoAR cPSD| 45148588
đạo chính quyền nhà nước và năng lực lãnh đạo Nhà nước trong việc thực hiện chủ
trương, đường lối mà Đảng đã đề ra.
Chủ trương, đường lối đúng đắn là phải phản ánh được quy luật vận động của thực tiễn
chính trị, thể hiện được lợi ích của nhân dân. Muốn vậy, phải thu hút được sự đóng góp
trí tuệ của toàn thể nhân dân, của các cơ quan nghiên cứu khoa học, đội ngũ các nhà lý
luận và hoạt động thực tiễn, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên.
Việc lãnh đạo Nhà nước phải dân chủ, khoa học, không làm thay Nhà nước, đồng
thời kiên quyết chống tình trạng lạm quyền, làm thay Nhà nước cũng như buông lỏng
sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng và trong
toàn xã hội. Cùng với việc từng bước hoàn thiện cơ chế cụ thể để mỗi đảng viên thực
hiện tốt các quyền bày tỏ quan điểm, ý kiến; quyền được thảo luận, trao đổi, chất vấn
lãnh đạo các cấp; quyền bảo lưu ý kiến; quyền được có thông tin liên quan đến thực hiện
nhiệm vụ của Đảng v.v.. thì phải tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng; xử lý nghiêm
những trường hợp vi phạm kỷ luật phát ngôn, vi phạm kỷ luật đảng.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về phương thức lãnh đạo và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi những hiện
tượng tiêu cực trong nội bộ Đảng và hệ thống chính trị
Trong điều kiện có chính quyền nhà nước, Đảng phải thông qua Nhà nước, lãnh
đạo Nhà nước để tổ chức lực lượng, xác lập bộ máy, cơ chế, chính sách tổ chức thực
hiện, đưa chủ trường, đường lối của Đảng vào cuộc sống.
Cùng với lãnh đạo Nhà nước tổ chức thực hiện chủ trường, đường lối, Đảng trực
tiếp tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân thông qua tổ chức đảng, đảng viên,
các cơ quan, tổ chức tuyên truyền, cổ động, vận động, thuyết phục các tầng lớp nhân
dân đồng lòng thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng trong thực tế.
Thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, nhất là cán
bộ cấp chiến lược có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực và uy tín, ngang tầm yêu cầu
nhiệm vụ. Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người
đứng đầu cấp ủy, các cơ quan, đơn vị. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống các biểu hiện
chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái, những biểu hiện suy thoái, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”.
tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng
viên, quần chúng theo định hướng Đại hội XIII của Đảng; đồng thời, thường xuyên rà
soát, kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật và quy định của Đảng.
tiếp tục thực hiện nghiêm nguyên tắc, chế độ, quy định và đổi mới nội dung, hình thức
để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; xác định rõ vai trò và phát huy trách nhiệm của
người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị. lOMoAR cPSD| 45148588
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ, nền tảng
tư tưởng của Đảng; chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống
phá của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị.
Thứ ba, nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát các cơ quan nhà nước trong việc tổ
chức thực hiện chủ trương, đường lối. Để thực hiện tốt chức năng này cần phát huy được
vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên. Đồng thời, phát huy vai trò của
nhân dân trong việc tham gia giám sát, phản biện các khâu trong tổ chức thực hiện, đưa
chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống.
Kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện những tình huống, những vấn đề nảy sinh
để có biện pháp xử lý ngay từ mầm mống. Các cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, tổ chức
có chức năng kiểm tra, giám sát thực hiện kiểm tra, giám sát phải phát hiện được thực
chất của vấn đề nảy sinh, kịp thời tháo gỡ để phục vụ việc lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
trong tổ chức thực hiện, đưa chủ trương, đường lối vào cuộc sống.
Để thực hiện tốt các giải pháp trên, toàn Đảng cần phải nâng cao trình độ tư duy
lý luận, trau dồi, rèn luyện phương pháp biện chứng duy vật cho cán bộ, đảng viên. Bởi
lẽ, phương pháp biện chứng duy vật với các nguyên tắc khách quan, phát triển, lịch sử
cụ thể, thống nhất giữa lý luận với thực tiễn sẽ giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng
có cơ sở, căn cứ để nâng cao năng lực giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện đối với chính
quyền nhà nước và năng lực lãnh đạo Nhà nước thực hiện mục tiêu, tầm nhìn, định
hướng phát triển mà Đảng đã xác định. Hai nhóm giải pháp cho việc giữ vững vai trò
lãnh đạo toàn diện đối với chính quyền nhà nước và năng lực lãnh đạo Nhà nước thực
hiện mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển mà Đảng đã xác định có mối quan hệ
biện chứng, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau.
Nâng cao được năng lực giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện đối với chính quyền
nhà nước là cơ sở tiền đề nâng cao năng lực lãnh đạo Nhà nước thực hiện mục tiêu, tầm
nhìn, định hướng phát triển mà Đảng đã xác định. củng cố, tăng cường năng lực giữ
vững vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước trong mọi thời kỳ cách mạng.
Thực tiễn qua 93 năm xây dựng, phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã
khẳng định, nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao năng lực cầm quyền,
lãnh đạo và sự đổi mới, sáng tạo của Đảng trong hệ thống chính trị, nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nội dung 3: Bài học kinh nghiệm xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ 1975 đến nay (Bài 3, bài 4)
* Phân tích bài học kinh nghiệm xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng từ 1975 đến nay lOMoAR cPSD| 45148588
Tư tưởng đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân tộc giữ vị trí đặc biệt quan trọng, nhất
quán và xuyên suốt trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước Việt Nam. Trải qua các thời kỳ cách mạng, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện, phát
triển. Đảng luôn xác định, “đoàn kết” là giá trị cốt lõi, “đại đoàn kết toàn dân tộc” là
đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt
Nam, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Khái quát cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết toàn dân
tộc. Trong hệ thống tư tưởng của Người, đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung cốt
lõi, làm nên dấu ấn quan trọng của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng thành công trong quá trình lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng của Người về đại đoàn kết toàn dân tộc thể hiện rõ quan điểm, lập
trường, thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của
chủ nghĩa Mác-Lênin, được cụ thể hóa thành những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp
tập hợp, quy tụ và phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, tổ chức lực lượng cách
mạng, đoàn kết quốc tế nhằm phát huy cao nhất sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Người chỉ rõ, sức mạnh lớn nhất là ở Nhân dân, “Trong bầu trời không gì
quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân”, đoàn kết được Nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh to lớn nhất. Người khẳng định: “Đại
đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là
công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại
đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt,
còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ
chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người căn dặn: Đại đoàn kết dân tộc không chỉ
là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cả dân tộc. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”.
Phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập
hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, kiên trì và nhất quán quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong
lịch sử, khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra chế độ xã hội mới, là chủ
nhân của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam và rút kinh
nghiệm từ thực tiễn các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, đồng thời từ cả chính thực tiễn quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ lOMoAR cPSD| 45148588
năm 1930 đến nay đã giúp cho Đảng không ngừng bổ sung, phát triển những chủ trương,
quan điểm và có cách thức linh hoạt trong phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Nêu khái quát quan điểm của Đảng về thực hiện đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ từ năm 1975 đến nay
Ngay sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, quan điểm đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng Cộng sản
Việt Nam chú trọng, đưa lên nhiệm vụ hàng đầu. Cùng với việc thống nhất nước nhà về
mặt Nhà nước, ngày 24/5/1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định thống nhất
các đoàn thể nhân dân và các tổ chức Mặt trận dân tộc trong cả nước (Các tổ chức Mặt
trận là: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam). Đại hội thống nhất
các tổ chức Mặt trận cả nước được tổ chức trọng thể tại Thành phố Hồ Chí Minh, từ
ngày 31/1 đến ngày 4/2/1977, quyết định lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đánh
dấu bước phát triển lớn mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trên phạm vi cả nước, mở
ra một thời kỳ hoạt động mới của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, góp phần tích
cực vào công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của dân tộc.
Đại hội IV của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Nắm vững chuyên chính
vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Muốn đưa sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, điều kiện quyết định trước tiên là phải thiết
lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, xây dựng chế độ làm chủ tập thể là
xây dựng một xã hội trong đó người làm chủ là nhân dân lao động, có tổ chức mà nòng
cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Quan điểm này đã được Đại
hội V của Đảng khẳng định: Thành công rực rỡ của Đảng và nhân dân ta đã nhanh chóng
thống nhất đất nước về mặt nhà nước, triển khai thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy
quá trình thống nhất về mọi mặt, tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội xác
định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là Nhân dân lao động thực hiện quyền làm
chủ tập thể của mình chủ yếu bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo cuả Đảng. Tăng cường
Nhà nước là vấn đề cấp bách để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân.
Tại Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn
diện, có nhiều quan điểm, chủ trương đổi mới đề cập trực tiếp đến vấn đề đại đoàn kết
toàn dân tộc như: “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy
dân làm gốc” xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”.
Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước, trong đó nhấn
mạnh hai bài học kinh nghiệm về đoàn kết dân tộc: (1) Sự nghiệp cách mạng là của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân…; (2) Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết:
đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đến Đại hội VIII, Văn kiện Đại hội một lần nữa khẳng định: “Chính những ý
kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi lOMoAR cPSD| 45148588
mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu,
vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”.
Đại hội IX nhấn mạnh: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết
toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo,
kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn
lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Đại hội X chỉ rõ, nhiệm vụ phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy
sức mạnh toàn dân tộc là một trong bốn thành tố của chủ đề Đại hội; coi đó là “nguồn
sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Tiếp tục khẳng định quan điểm của các nhiệm kỳ đại hội trước, Đại hội XI chỉ rõ:
Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các
thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã
khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân...”3.
Đại hội XII nhấn mạnh yêu cầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay là phải “tạo
sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các
quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và
thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc
quyết định những vấn đề lớn của đất nước; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi
ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân.
Đặc biệt, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Khơi dậy
mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của cả nền văn hóa, con người
Việt Nam”2. Đại hội chủ trương tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các
chính sách dân tộc trên tất cả các lĩnh vực, nhất là các chính sách đặc thù giải quyết
những khó khăn của đồng bào dân tộc thiểu số; giải quyết hợp lý các nhu cầu hoạt động
tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên
quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. lOMoAR cPSD| 45148588
- Đảng thực hiện xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong
thực tiễn trong thời kỳ từ 1975 đến 1986
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến
lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh của mọi thành công,
chiến thắng. Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc đã đem lại những thành tựu to lớn.
+ Thành tựu: Đảng lãnh đạo thực hiện thống nhất các hình thức Mặt trận thống nhất ở
cả hai miền Nam, Bắc thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đẩy mạnh phát động phong trào quần chúng trong lao động
sản xuất và chiến đấu để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng CNXH và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
+ Hạn chế: Tình trạng đất nước bị lâm vào khủng hoảng và cơ chế quản lý cũ đã
ảnh hưởng đến niềm tin của người dân, đến hiệu quả việc huy động sức mạnh của toàn
dân. - Đảng lãnh đạo thực hiện phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc thời kỳ từ 1986 đến nay
Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1986 đến nay, Đảng đã có nhiều chủ trương, quyết sách và
biện pháp quan trọng để tiếp tục củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, chăm lo đời sống Nhân dân; động viên
Nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, hăng hái tham gia các phong trào thi
đua yêu nước, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền.
Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện có hiệu quả nhiều chủ trương, chính
sách, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở (……); đồng thời có nhiều chủ trương,
chính sách cụ thể đối với các giai cấp, tầng lớp, các dân tộc, tôn giáo, Việt kiều ở nước
ngoài. Nhất là những chủ trương, chính sách nhằm không ngừng nâng cao đời sống của
nhân dân, khuyến khích mọi người dân được làm giàu chính đáng theo đúng quy định
của pháp luật, giải quyết hài hòa lợi ích của các giai cấp, tầng lớp với phương châm
không ai bị bỏ lại phía sau,…đang góp phần ngày càng củng cố niềm tin của nhân dân
vào Đảng, Nhà nước dể từ đó tạo thuận lợi cho việc Đảng phát huy sức mạnh đoàn kết
toàn dân tộc trong thực hiện công cuộc đổi mới, CNH, HĐH và hội nhập quố tế.
Đảng lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể không ngừng đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động trong phát động và tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các phong
trào thi đua (Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh”, Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, phong trào
“Đoàn kết, sáng tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả, hội nhập quốc tế”, phong trào thi
đua “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, phong trào
“Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, công tác phòng, chống đại dịch Covid-19,...); trong
đại diện quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; trong xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.