Bài tập vận dụng - Kinh tế vĩ mô | Đại học Tôn Đức Thắng

Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, hình thái kinh tế - xã hội là gì, kếtcấu của nó? Tại sao sự phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội lạibắt nguồn từ sự thay đổi, phát triển của lực lượng sản xuất? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

1. Theo quan điểm của Triết học Mác Lênin, hình thái kinh tế - hội gì, kết
cấu của nó? Tại sao sự phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội lại
bắt nguồn từ sự thay đổi, phát triển của lực lượng sản xuất?
- Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho
hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên quan hệ sản xuất đặc trưng ấy.
- Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định bao gồm ba yếu tốbản, phổ biến: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ
tầng), kiến trúc thượng tầng.
- Sự phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế - hội lại bắt nguồn từ sự thay
đổi, phát triển của lực lượng sản xuất vì: Sự vận động, phát triển của xã hội bắt đầu từ sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Mỗi sự phát triển của lực lượng sản xuất đều tạo ra khả
năng, điều kiện đặt ra yêu cầu khách quan cho sbiến đổi của quan hệ sản xuất. Sự
phù hợp biện chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
yêu cầu khác quan của nền sản xuất hội. Khi lực lượng sản xuất phát triển về chất,
đòi hỏi phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới về chất. Sự phát
triển về chất của quan hệ sản xuất tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất của cơ sở hạ tầng
xã hội. Khi sở hạ tầng hội biến đổi về chất dẫn đến sự biến đổi, phát triển căn bản
của kiến trúc thượng tầng hội. Hình thái kinh tế - hội mất đi, hình thái kinh tế -
xã hội mới, tiến bộ hơn ra đời. Cứ như vậy lịch sửhội loài người là một tiến trình nối
tiếp nhau từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội.
2. Phân tích nguồn gốc, đặc trưng của giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm
của Triết học Mác Lênin. Đấu tranh giai cấp phải động lực duy nhất của sự
vận động và phát triển của xã hội không, tại sao?
* Giai cấp:
Nguồn gốc của giai cấp
- Nguồn gốc sâu xa: Là sự phát triển của lực lượng sản xuất, năng suất lao động tăng lên,
xuất hiện “của dư”, tạo khả năng khách quan, tiền đề cho tập đoàn người này chiếm đoạt
lao động của người khác.
- Nguồn gốc trực tiếp: Do xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, đặc biệt là
những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
Đặc trưng của giai cấp:
- Giai cấp là những tập đoàn người có địa vị kinh tế - xã hội khác nhau.
- Phương thức sản xuất hội sở hiện thực đưa tới sự ra đời của các giai cấp.
Tuy nhiên, không phải bất cứ phương thức sản xuất nào trong lịch sử cũng sản sinh
ra giai cấp, chỉ những phương thức sản xuất chứa đựng những điều kiện vật
chất tạo ra sự đối lập về lợi ích giữa các tập đoàn người mới sản sinh ra giai cấp.
- Dấu hiệu chủ yếu quy định địa vị kinh tế - hội của các giai cấp các mối
quan hệ kinh tế - vật chất giữa các tập đoàn người trong phương thức sản xuất.
- Thực chất của quan hệ giai cấp tập đoàn người này chiếm đoạt lao động của
tập đoàn người khác do đối lập về địa vị trong một chế độ kinh tế - hội nhất
định.
* Đấu tranh giai cấp
Nguồn gốc của đấu tranh giai cấp:
- Đấu tranh giai cấp là tất yếu, do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều hòa
được giữa các giai cấp.
- Đấu tranh giai cấp cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi ích căn
bản đối lập nhau trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định.
- Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị áp
bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của
chúng.
Đặc trưng của đấu tranh giai cấp:
- Đấu tranh giai cấp không phải là hiện tượng vĩnh viễn. Cuộc đấu tranh giai cấp
giữa các giai cấp trong lịch sử tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử.
- Trong đấu tranh giai cấp, liên minh giai cấp là tất yếu.
* Đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất của sự vận động và phát triển của
xã hội vì: Trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất
để thúc đẩy xã hội phát triển, mặc dù nó là động lực rất quan trọng, là “đòn bẩy vĩ đại của
cuộc cách mạng hiện đại”. Bởi ngoài đấu tranh giai cấp ra còn nhiều động lực khác như:
đạo đức, tư tưởng, văn hóa, giáo dục… vị trí, vai trò của mỗi động lực là khác nhau. Vì
vậy, trong đấu tranh cách mạng cần phải xác định hệ thống các động lực của xã hội, có
nghệ thuật sử dụng những động lực đó để giải phóng giai cấp và thúc đẩy xã hội phát
triển.
3. Theo quan điểm của Triết học MácLênin, có mấy hình thức tổ chức cộng đồng
người trong lịch sử? Nêu khái niệm, đặc trưng của dân tộc? Phân tích tính phổ
biến và tính đặc thù của sự hình thành dân tộc trong lịch sử thế giới? Nêu mối quan
hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại.
- Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, có 4 hình thức tổ chức cộng đồng người ở
trong lịch sử bao gồm: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc và dân tộc.
- Dân tộc:
Khái niệm dân tộc
Dân tộc là hình thức cộng đồng người phát triển cao nhất từ trước đến nay. Khái niệm
dân tộc được sử dụng theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng (nation) dùng để chỉ quốc gia - các
quốc gia, dân tộc trên thế giới (như Việt Nam, Campuchia, Anh, Pháp...). Theo nghĩa hẹp
(ethnie, ethnic group) dùng để chỉ cộng đồng tộc người - các dân tộc đa số và thiểu số
trong một quốc gia (dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Mông, Vân Kiều, Êđê, Khmer...), trong đó,
cộng đồng tộc người là yếu tố cấu thành quốc gia, dân tộc.
Đặc trưng của dân tộc
- Dân tộc là một cộng đồng người ổn định trên một lãnh thổ thống nhất
- Dân tộc là một cộng đồng thống nhất về ngôn ngữ.
- Dân tộc là một cộng đồng thống nhất về kinh tế.
- Dân tộc là một cộng đồng bền vững về văn hóa, tâm lý và tính cách
- Dân tộc là một cộng đồng người có một nhà nước và pháp luật thống nhất.
- Tính phổ biến và tính đặc thù của sự hình thành dân tộc trong lịch sử thế giới
Tính phổ biến:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn
liền với xã hội có giai cấp, có nhà nước và các thể chế chính trị. Lịch sử cho thấy, dân
tộc có thể được hình thành từ một bộ tộc phát triển lên, song đa số trường hợp được
hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc người hợp nhất lại. Quá trình hình thành, phát
triển dân tộc diễn ra hết sức lâu dài, đa dạng và phức tạp.
Tính đặc thù:
- Ở châu Âu: Dân tộc hình thành theo hai phương thức chủ yếu gắn liền với sự hình
thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Phương thức thứ nhất, dân tộc hình thành từ
nhiều bộ tộc khác nhau trong một quốc gia. Phương thức thứ hai, do điều kiện chế độ
phong kiến chưa bị thủ tiêu, chủ nghĩa tư bản phát triển còn yếu, dân tộc được hình
thành từ một bộ tộc. Sự hình thành và phát triển của dân tộc trải qua các thời kỳ
chính: gắn liền với cuộc cách mạng tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo; gắn liền với
phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giải phóng dân tộc; và thời kỳ các dân
tộc xã hội chủ nghĩa ra đời.
- Ở phương Đông: Sự hình thành các quốc gia, dân tộc có tính đặc thù riêng. Thực
tiễn lịch sử cho thấy, ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam... dân tộc được hình thành rất
sớm, không gắn với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Lấy ví dụ từ dân tộc Việt Nam.
Được hình thành rất sớm trong lịch sử gắn liền với nhu cầu dựng nước và giữ nước,
với quá trình đấu tranh chống ngoại xâm và cải tạo thiên nhiên, bảo vệ nền văn hóa
dân tộc, điều này tạo nên nét độc đáo trong sự cố kết của cộng đồng dân tộc. Lịch sử
đã chứng minh rằng, từ hàng nghìn năm trước trên lãnh thổ Việt Nam đã có một
cộng đồng mang đầy đủ các đặc trưng của một dân tộc. Dân tộc Việt Nam đã có một
ngôn ngữ, một lãnh thổ, một nền kinh tế thống nhất; một nhà nước, luật pháp và một
nền văn hóa thống nhất. Khoa học lịch sử đã khẳng định, quá trình hình thành dân
tộc Việt Nam được bắt đầu từ khi nước Đại Việt giành được độc lập (cách đây trên
1.000 năm) cho đến thời Lý - Trần.
- Mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại.
Mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại là mối quan hệ biện chứng với nhau. Là
những cộng đồng và tập đoàn người tồn tại và phát triển không tách rời nhân loại, nên
giai cấp, dân tộc và nhân loại luôn có tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Quan hệ biện chứng
giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại được thể hiện trên các nội dung cơ bản sau:
- Trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại không tách rời với lợi ích giai cấp, lợi
ích dân tộc và bị chi phối bởi lợi ích giai cấp và dân tộc.
- Sự tồn tại của nhân loại là tiền đề, là điều kiện tất yếu, thường xuyên của sự tồn tại
dân tộc và giai cấp.
- Sự phát triển về mọi mặt của nhân loại tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp.
4. Nêu khái niệm, nguyên nhân và vai trò của cách mạng xã hội đối với xã hội có đối
kháng giai cấp theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin?
* Khái niệm: Cách mạng hội một hiện tượng lịch sử, nguồn gốc sâu xa từ mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến bộ đòi hỏi được giải phóng, phát triển với quan hệ sản
xuất đã lỗi thời, lạc hậu, đang là trở ngại cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
* Nguyên nhân:
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất biểu hiện dưới dạng hội
mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị, đại diện cho lực lượng sản xuất mới, tiến bộ với giai cấp
thống trị, đại diện cho quan hệ sản xuất đã lạc hậu so với sự phát triển của trình độ lực
lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn đó trở nên gay gắt, quyết liệt, đòi hỏi phải được giải
quyết, thì sẽ nổ ra cách mạng xã hội. Như vậy, trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp
là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cách mạng xã hội.
* Vai trò:
Cách mạng hội giữ vai trò một trong những phương thức, động lực của sự phát
triển xã hội. Không có những cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử thì không thể diễn ra
quá trình thay thể hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới
cao hơn. Với ý nghĩa đó C. Mác nhận định rằng: các cuộc cách mạng hội
những "đầu tầu của lịch sử", phương thức thực hiện sự phát triển, của các hình thái
kinh tế - xã hội. Mặt khác, chính nhờ những
cuộc cách mạng hộicác mâu thuẫn cơ bản của đời sốnghội trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, ... được giải quyết triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến
bộ phát triển của hội. Trong những thời kỳ cách mạng, năng lực sáng tạo của
quần chúng nhân dân được phát huy cao độ, thể sáng tạo ra lịch sử mới với một sức
mạnh phi thường: "một ngày bằng hai mươi năm".
Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ nét vai trò của các cuộc cách mạng
hội đã từng diễn ra trong lịch sử mấy nghìn năm qua. Đó là: cuộc cách mạng thực hiện
bước chuyển từ hình thái kinh tế - hội nguyên thủy lên hình thái kinh tế - hội
chiếm hữu nô lệ; cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ nô lệ và thay thế nó bằng chế độ phong
kiến; cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa;
cuộc cách mạng sản thực hiện việc xóa bỏ chế độ chuyên chính vô sản, xác lập chế
độ xã hội chủ nghĩa - đây là cuộc cách mạng vĩ đại nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử nhân
loại, làm thay đổi hoàn toàn bản chất chế độ chính trị hội cũ, xóa bỏ triệt để nguồn
gốc chế độ tư hữu sản sinh đối kháng giai cấp đã từng tồn lại hàng ngàn năm trong lịch
sử nhân loại.
5. Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, nêu khái niệm lấy ví dụ về tồn tại
xã hội và ý thức xã hội. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, lấy ví dụ?
* Khái niệm tồn tại xã hội:
- Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội. Tồn tại hội của con người thực tại hội khách quan, một kiểu vật chất
hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh. Trong các quan hệ xã hội
vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự nhiên quan hệ giữa con người với
con người là những quan hệ cơ bản nhất.
- Ví dụ: Thời tiền sử, các bộ lạc khi săn bắt, hái lượm, đã dùng đá cuội để chế tác công
cụ. Công cụ còn rất thô song đã những bước tiến lớn trong kỹ thuật chế tác,
nhiều loại hình ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời này con người nhận biết tận
dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đó điều
kiện khí hậu thuận lợi cộng với sự đa dạng của các loài động thực vật tạo nên nguồni
nguyên rất phong phú
* Khái niệm ý thức xã hội:
- Cùng với phạm trù tồn tại hội, ý thức hội phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch
sử được vận dụng để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Nếu “ý
thức... không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức” thì ý thức xã hội
chính là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội của mình và về hiện thực xung
quanh mình. Nói cách khác, ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận
hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội. Văn hóa tinh thần của xã hội mang nặng dấu
ấn đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.
- Ví dụ: Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa, truyền thống
hiếu học được truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra Việt Nam còn hệ thống
tưởng Nho giáo lớn chi phối dân tộc Việt trong nhiều thế kỷ, nhất trong thời đại
phong kiến.
* Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, sinh ra quyết định ý
thức. Trong lĩnh vực Xã hội thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó
sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:
– Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm nguồn gốc
tưởng trong đầu óc con người, phải tìm trong chính tồn tại hội. Do đó phải
tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.
– Khi tồn tại hội thay đổi một cách căn bản, nhất khi phương thức sản xuất đã thay
đổi thì sớm hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
dụ: Sự phát triển của công nghệ thông tin truyền thông đã tạo ra một cuộc cách
mạng về cách mà chúng ta giao tiếp và tương tác với nhau. Việc sử dụng các mạng xã hội
như Facebook, Instagram, Twitter, TikTok... đã thay đổi cách chúng ta kết nối tương
tác với nhau.
Thứ hai: Ý thức xã hội thường lac hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khihội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã hội
cũ đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biệttrong
lĩnh vực tâm lý xã hội như trong truyền thống, tập quán, thói quen.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội là do những nguyên nhân về:
Sự biến đổi của tồn tại hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên trực tiếp của
những hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ nhanh ý thức
hội có thể không phản ánh kịptrở nên lạc hậu. Hơn nữa ý thức xã hội là cái phản ánh
tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ
của một số hình thái xã hội.
– Ý thứchội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai
cấp nhất định trong xã hội.
dụ: Như ý thức tưởng phong kiến, phản ánh hội phong kiến, nhưng khi hội
phong kiến đã thay đổi thì ý thức vẫn chưa thay đổi kịp về các tưởng như: trọng nam
khinh nữ, ép duyên, gia trưởng. Cho đến tận giai đoạn ngày nay thì cáctưởng này vẫn
còn xuất hiện trong nhận thức của nhiều người.
Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tưởng của con người đặc biệt những tưởng
khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai
tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt đông thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó
vào hướng giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật
chất của xã hội đặt ra.
Ví dụ: Ngay từ khi quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa vẫn còn đang ở trong thời kỳ phát
triển tự do cạnh tranh thì Các Mác đã đưa ra dự báo rằng quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ
bị một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế trong thời gian tới.
Thứ tư: Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa vai
trò của ý thức hội, còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường hay chủ nghĩa duy
vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
Ví dụ : Hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội của các nước Tây Âu vào thế
kỷ XVII, XVIII. Hệ tưởng vô sản đã trở thành vũ khí về mặt tư tưởng cho giai cấp
sản đứng lên đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.
6. Theo quan điểm của Triết học Mác Lênin, bản chất của con người như thế
nào, bản chất con người có thay đổi không, vì sao? Hãy giải thích: con người là một
thực thể tự nhiên mang bản chất xã hội?
* Bản chất của con người:
- Con người là thực thể sinh học - xã hội.
- Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình.
- Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người.
- Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử.
- Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội.
* Bản chất của con người có thể thay đổi được vì: Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở
những điều kiện lịch sử nhất định con người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển.
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Bản
chất của con người luôn được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể
trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người,
nhưng không phải sự kết hợp giản đơn hoặc tổng cộng chúng lại với nhau sự
tổng hòa chúng; mỗi quan hệ hội vị trí, vai trò khác nhau, tác động qua lại,
không tách rời nhau. Các quan hệ xã hội có nhiều loại: quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại,
quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, quan hệ gián tiếp, quan hệ tất nhiên
hoặc ngẫu nhiên, quan hệ bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh
tế, ... Tất cả các quan hệ đó đều góp phần hình thành nên bản chất của con người. Các
quan hệ hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất con người cũng sẽ
thay đổi theo.
* Con người Về phương diện sinh một thực thể tự nhiên mang bản chất hội vì: Xét
học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã
hội. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa điều đó, không phải đặc tính sinh học, bản năng
sinh học, sự sinh tồn thể xác là cái duy nhất tạo nên bản chất của con người. Mà bản chất
của con người còn tổng hòa các quan hệ hội. Các quan hệ hội tạo nên bản chất
của con người vai trò chi phối quyết định các phương diện khác của đời sống con
người khiến cho con người không còn thuần túy một động vật một động vật
hội. Con người “bẩm sinh đã sinh vật tính hội”. Khía cạnh thực thể sinh vật
tiền đề trên đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.
| 1/11

Preview text:

1. Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, hình thái kinh tế - xã hội là gì, kết
cấu của nó? Tại sao sự phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội lại
bắt nguồn từ sự thay đổi, phát triển của lực lượng sản xuất?
- Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho
xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên quan hệ sản xuất đặc trưng ấy.
- Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ
tầng), kiến trúc thượng tầng.
- Sự phát triển, thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội lại bắt nguồn từ sự thay
đổi, phát triển của lực lượng sản xuất vì: Sự vận động, phát triển của xã hội bắt đầu từ sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Mỗi sự phát triển của lực lượng sản xuất đều tạo ra khả
năng, điều kiện và đặt ra yêu cầu khách quan cho sự biến đổi của quan hệ sản xuất. Sự
phù hợp biện chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là yêu cầu khác quan của nền sản xuất xã hội. Khi lực lượng sản xuất phát triển về chất,
đòi hỏi phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới về chất. Sự phát
triển về chất của quan hệ sản xuất tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chất của cơ sở hạ tầng
xã hội. Khi cơ sở hạ tầng xã hội biến đổi về chất dẫn đến sự biến đổi, phát triển căn bản
của kiến trúc thượng tầng xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội cũ mất đi, hình thái kinh tế -
xã hội mới, tiến bộ hơn ra đời. Cứ như vậy lịch sử xã hội loài người là một tiến trình nối
tiếp nhau từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội.
2. Phân tích nguồn gốc, đặc trưng của giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm
của Triết học Mác – Lênin. Đấu tranh giai cấp có phải là động lực duy nhất của sự
vận động và phát triển của xã hội không, tại sao?
* Giai cấp:
 Nguồn gốc của giai cấp
- Nguồn gốc sâu xa: Là sự phát triển của lực lượng sản xuất, năng suất lao động tăng lên,
xuất hiện “của dư”, tạo khả năng khách quan, tiền đề cho tập đoàn người này chiếm đoạt
lao động của người khác.
- Nguồn gốc trực tiếp: Do xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, đặc biệt là
những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
 Đặc trưng của giai cấp:
- Giai cấp là những tập đoàn người có địa vị kinh tế - xã hội khác nhau.
- Phương thức sản xuất xã hội là cơ sở hiện thực đưa tới sự ra đời của các giai cấp.
Tuy nhiên, không phải bất cứ phương thức sản xuất nào trong lịch sử cũng sản sinh
ra giai cấp, mà chỉ có những phương thức sản xuất chứa đựng những điều kiện vật
chất tạo ra sự đối lập về lợi ích giữa các tập đoàn người mới sản sinh ra giai cấp.
- Dấu hiệu chủ yếu quy định địa vị kinh tế - xã hội của các giai cấp là các mối
quan hệ kinh tế - vật chất giữa các tập đoàn người trong phương thức sản xuất.
- Thực chất của quan hệ giai cấp là tập đoàn người này chiếm đoạt lao động của
tập đoàn người khác do đối lập về địa vị trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định. * Đấu tranh giai cấp
 Nguồn gốc của đấu tranh giai cấp:
- Đấu tranh giai cấp là tất yếu, do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều hòa
được giữa các giai cấp.
- Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi ích căn
bản đối lập nhau trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định.
- Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị áp
bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của chúng.
 Đặc trưng của đấu tranh giai cấp:
- Đấu tranh giai cấp không phải là hiện tượng vĩnh viễn. Cuộc đấu tranh giai cấp
giữa các giai cấp trong lịch sử tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử.
- Trong đấu tranh giai cấp, liên minh giai cấp là tất yếu.
* Đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất của sự vận động và phát triển của
xã hội vì: Trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất
để thúc đẩy xã hội phát triển, mặc dù nó là động lực rất quan trọng, là “đòn bẩy vĩ đại của
cuộc cách mạng hiện đại”. Bởi ngoài đấu tranh giai cấp ra còn nhiều động lực khác như:
đạo đức, tư tưởng, văn hóa, giáo dục… vị trí, vai trò của mỗi động lực là khác nhau. Vì
vậy, trong đấu tranh cách mạng cần phải xác định hệ thống các động lực của xã hội, có
nghệ thuật sử dụng những động lực đó để giải phóng giai cấp và thúc đẩy xã hội phát triển.
3. Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, có mấy hình thức tổ chức cộng đồng
người ở trong lịch sử? Nêu khái niệm, đặc trưng của dân tộc? Phân tích tính phổ
biến và tính đặc thù của sự hình thành dân tộc trong lịch sử thế giới? Nêu mối quan
hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại.

- Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, có 4 hình thức tổ chức cộng đồng người ở
trong lịch sử bao gồm: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc và dân tộc. - Dân tộc:  Khái niệm dân tộc
Dân tộc là hình thức cộng đồng người phát triển cao nhất từ trước đến nay. Khái niệm
dân tộc được sử dụng theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng (nation) dùng để chỉ quốc gia - các
quốc gia, dân tộc trên thế giới (như Việt Nam, Campuchia, Anh, Pháp...). Theo nghĩa hẹp
(ethnie, ethnic group) dùng để chỉ cộng đồng tộc người - các dân tộc đa số và thiểu số
trong một quốc gia (dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Mông, Vân Kiều, Êđê, Khmer...), trong đó,
cộng đồng tộc người là yếu tố cấu thành quốc gia, dân tộc.
 Đặc trưng của dân tộc
- Dân tộc là một cộng đồng người ổn định trên một lãnh thổ thống nhất
- Dân tộc là một cộng đồng thống nhất về ngôn ngữ.
- Dân tộc là một cộng đồng thống nhất về kinh tế.
- Dân tộc là một cộng đồng bền vững về văn hóa, tâm lý và tính cách
- Dân tộc là một cộng đồng người có một nhà nước và pháp luật thống nhất.
- Tính phổ biến và tính đặc thù của sự hình thành dân tộc trong lịch sử thế giới  Tính phổ biến:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn
liền với xã hội có giai cấp, có nhà nước và các thể chế chính trị. Lịch sử cho thấy, dân
tộc có thể được hình thành từ một bộ tộc phát triển lên, song đa số trường hợp được
hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc người hợp nhất lại. Quá trình hình thành, phát
triển dân tộc diễn ra hết sức lâu dài, đa dạng và phức tạp.  Tính đặc thù:
- Ở châu Âu: Dân tộc hình thành theo hai phương thức chủ yếu gắn liền với sự hình
thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Phương thức thứ nhất, dân tộc hình thành từ
nhiều bộ tộc khác nhau trong một quốc gia. Phương thức thứ hai, do điều kiện chế độ
phong kiến chưa bị thủ tiêu, chủ nghĩa tư bản phát triển còn yếu, dân tộc được hình
thành từ một bộ tộc. Sự hình thành và phát triển của dân tộc trải qua các thời kỳ
chính: gắn liền với cuộc cách mạng tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo; gắn liền với
phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giải phóng dân tộc; và thời kỳ các dân
tộc xã hội chủ nghĩa ra đời.
- Ở phương Đông: Sự hình thành các quốc gia, dân tộc có tính đặc thù riêng. Thực
tiễn lịch sử cho thấy, ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam... dân tộc được hình thành rất
sớm, không gắn với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Lấy ví dụ từ dân tộc Việt Nam.
Được hình thành rất sớm trong lịch sử gắn liền với nhu cầu dựng nước và giữ nước,
với quá trình đấu tranh chống ngoại xâm và cải tạo thiên nhiên, bảo vệ nền văn hóa
dân tộc, điều này tạo nên nét độc đáo trong sự cố kết của cộng đồng dân tộc. Lịch sử
đã chứng minh rằng, từ hàng nghìn năm trước trên lãnh thổ Việt Nam đã có một
cộng đồng mang đầy đủ các đặc trưng của một dân tộc. Dân tộc Việt Nam đã có một
ngôn ngữ, một lãnh thổ, một nền kinh tế thống nhất; một nhà nước, luật pháp và một
nền văn hóa thống nhất. Khoa học lịch sử đã khẳng định, quá trình hình thành dân
tộc Việt Nam được bắt đầu từ khi nước Đại Việt giành được độc lập (cách đây trên
1.000 năm) cho đến thời Lý - Trần.
- Mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại.
Mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại là mối quan hệ biện chứng với nhau. Là
những cộng đồng và tập đoàn người tồn tại và phát triển không tách rời nhân loại, nên
giai cấp, dân tộc và nhân loại luôn có tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Quan hệ biện chứng
giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại được thể hiện trên các nội dung cơ bản sau:
- Trong xã hội có giai cấp, lợi ích nhân loại không tách rời với lợi ích giai cấp, lợi
ích dân tộc và bị chi phối bởi lợi ích giai cấp và dân tộc.
- Sự tồn tại của nhân loại là tiền đề, là điều kiện tất yếu, thường xuyên của sự tồn tại dân tộc và giai cấp.
- Sự phát triển về mọi mặt của nhân loại tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp.
4. Nêu khái niệm, nguyên nhân và vai trò của cách mạng xã hội đối với xã hội có đối
kháng giai cấp theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin?
* Khái niệm: Cách mạng xã hội là một hiện tượng lịch sử, có nguồn gốc sâu xa từ mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiến bộ đòi hỏi được giải phóng, phát triển với quan hệ sản
xuất đã lỗi thời, lạc hậu, đang là trở ngại cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. * Nguyên nhân:
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện dưới dạng xã hội là
mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị, đại diện cho lực lượng sản xuất mới, tiến bộ với giai cấp
thống trị, đại diện cho quan hệ sản xuất đã lạc hậu so với sự phát triển của trình độ lực
lượng sản xuất. Khi mâu thuẫn đó trở nên gay gắt, quyết liệt, đòi hỏi phải được giải
quyết, thì sẽ nổ ra cách mạng xã hội. Như vậy, trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp
là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cách mạng xã hội. * Vai trò:
Cách mạng xã hội giữ vai trò là một trong những phương thức, động lực của sự phát
triển xã hội. Không có những cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử thì không thể diễn ra
quá trình thay thể hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế - xã hội mới
cao hơn. Với ý nghĩa đó mà C. Mác nhận định rằng: các cuộc cách mạng xã hội là
những "đầu tầu của lịch sử", là phương thức thực hiện sự phát triển, của các hình thái
kinh tế - xã hội. Mặt khác, chính nhờ những
cuộc cách mạng xã hội mà các mâu thuẫn cơ bản của đời sống xã hội trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, ... được giải quyết triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến
bộ và phát triển của xã hội. Trong những thời kỳ cách mạng, năng lực sáng tạo của
quần chúng nhân dân được phát huy cao độ, có thể sáng tạo ra lịch sử mới với một sức
mạnh phi thường: "một ngày bằng hai mươi năm".
Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ và rõ nét vai trò của các cuộc cách mạng xã
hội đã từng diễn ra trong lịch sử mấy nghìn năm qua. Đó là: cuộc cách mạng thực hiện
bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy lên hình thái kinh tế - xã hội
chiếm hữu nô lệ; cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ nô lệ và thay thế nó bằng chế độ phong
kiến; cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa;
cuộc cách mạng vô sản thực hiện việc xóa bỏ chế độ chuyên chính vô sản, xác lập chế
độ xã hội chủ nghĩa - đây là cuộc cách mạng vĩ đại nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử nhân
loại, làm thay đổi hoàn toàn bản chất chế độ chính trị xã hội cũ, xóa bỏ triệt để nguồn
gốc chế độ tư hữu sản sinh đối kháng giai cấp đã từng tồn lại hàng ngàn năm trong lịch sử nhân loại.
5. Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, nêu khái niệm và lấy ví dụ về tồn tại
xã hội và ý thức xã hội. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, lấy ví dụ?

* Khái niệm tồn tại xã hội:
- Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là một kiểu vật chất xã
hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh. Trong các quan hệ xã hội
vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ giữa con người với
con người là những quan hệ cơ bản nhất.
- Ví dụ: Thời tiền sử, các bộ lạc khi săn bắt, hái lượm, đã dùng đá cuội để chế tác công
cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kỹ thuật chế tác, có
nhiều loại hình ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời kì này con người nhận biết và tận
dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đó điều
kiện khí hậu thuận lợi cộng với sự đa dạng của các loài động thực vật tạo nên nguồn tài nguyên rất phong phú
* Khái niệm ý thức xã hội:
- Cùng với phạm trù tồn tại xã hội, ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch
sử được vận dụng để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Nếu “ý
thức... không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức” thì ý thức xã hội
chính là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội của mình và về hiện thực xung
quanh mình. Nói cách khác, ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, là bộ phận
hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội. Văn hóa tinh thần của xã hội mang nặng dấu
ấn đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội, của các giai cấp đã tạo ra nó.
- Ví dụ: Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa, truyền thống
hiếu học được truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra Việt Nam còn có hệ thống tư
tưởng Nho giáo lớn và chi phối dân tộc Việt trong nhiều thế kỷ, nhất là trong thời đại phong kiến.
* Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý
thức. Trong lĩnh vực Xã hội thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó
sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:
– Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm nguồn gốc
tư tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội. Do đó phải
tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.
– Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức sản xuất đã thay
đổi thì sớm hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
Ví dụ: Sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo ra một cuộc cách
mạng về cách mà chúng ta giao tiếp và tương tác với nhau. Việc sử dụng các mạng xã hội
như Facebook, Instagram, Twitter, TikTok... đã thay đổi cách chúng ta kết nối và tương tác với nhau.
Thứ hai: Ý thức xã hội thường lac hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã hội
cũ đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong
lĩnh vực tâm lý xã hội như trong truyền thống, tập quán, thói quen.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội là do những nguyên nhân về:
– Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của
những hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã
hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa ý thức xã hội là cái phản ánh
tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
– Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ
của một số hình thái xã hội.
– Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai
cấp nhất định trong xã hội.
Ví dụ: Như ý thức tư tưởng phong kiến, phản ánh xã hội phong kiến, nhưng khi xã hội
phong kiến đã thay đổi thì ý thức vẫn chưa thay đổi kịp về các tư tưởng như: trọng nam
khinh nữ, ép duyên, gia trưởng. Cho đến tận giai đoạn ngày nay thì các tư tưởng này vẫn
còn xuất hiện trong nhận thức của nhiều người.
Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những tư tưởng
khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai
và có tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt đông thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó
vào hướng giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật
chất của xã hội đặt ra.
Ví dụ: Ngay từ khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn còn đang ở trong thời kỳ phát
triển tự do cạnh tranh thì Các Mác đã đưa ra dự báo rằng quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ
bị một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế trong thời gian tới.
Thứ tư: Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa vai
trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường hay chủ nghĩa duy
vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
Ví dụ : Hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội của các nước Tây Âu vào thế
kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản đã trở thành vũ khí về mặt tư tưởng cho giai cấp vô
sản đứng lên đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.
6. Theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, bản chất của con người là như thế
nào, bản chất con người có thay đổi không, vì sao? Hãy giải thích: con người là một
thực thể tự nhiên mang bản chất xã hội?

* Bản chất của con người:
- Con người là thực thể sinh học - xã hội.
- Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình.
- Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người.
- Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử.
- Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội.
* Bản chất của con người có thể thay đổi được vì: Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở
những điều kiện lịch sử nhất định con người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển.
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Bản
chất của con người luôn được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể
trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất của con người,
nhưng không phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự
tổng hòa chúng; mỗi quan hệ xã hội có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại,
không tách rời nhau. Các quan hệ xã hội có nhiều loại: quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại,
quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, quan hệ gián tiếp, quan hệ tất nhiên
hoặc ngẫu nhiên, quan hệ bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ kinh tế, quan hệ phi kinh
tế, ... Tất cả các quan hệ đó đều góp phần hình thành nên bản chất của con người. Các
quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất con người cũng sẽ thay đổi theo.
* Con người là một thực thể tự nhiên mang bản chất xã hội vì: Xét Về phương diện sinh
học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã
hội. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa điều đó, không phải đặc tính sinh học, bản năng
sinh học, sự sinh tồn thể xác là cái duy nhất tạo nên bản chất của con người. Mà bản chất
của con người còn là tổng hòa các quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất
của con người có vai trò chi phối và quyết định các phương diện khác của đời sống con
người khiến cho con người không còn thuần túy là một động vật mà là một động vật xã
hội. Con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội”. Khía cạnh thực thể sinh vật là
tiền đề trên đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.