lOMoARcPSD| 46342576
lOMoARcPSD| 46342576
Mục Lục
DANH SÁCH THÀNH VIÊN .................................................................................. 1
I. MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 2
II. NỘI DUNG ........................................................................................................... 2
GCCN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN ........................................................... 2
1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân ......................................................................... 2
1.2. Đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân.......................................................... 3
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân .......................................................................................................................... 3
nhân ................................................................................................................................. 4
CHƯƠNG 2: NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GCCN HIỆN NAY SO VỚI THỜI
ĐẠI C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN .......................................................................... 5
2.1. Sự phát triển của GCCN hiện nay .................................................................... 5
2.2. Những thay đổi của GCCN hiện nay ................................................................ 6
2.2.1. Thay đổi về cơ cấu .............................................................................................. 6
2.2.2. Thay đổi về số lượng ........................................................................................ 10
2.2.3. Thay đổi về trí tuệ ............................................................................................. 10
2.2.4. Trở thành giai cấp lãnh đạo .............................................................................. 11
2.3. Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi của GCCN thế giới ................................... 11
2.4. Tác động của sự biến đổi đến sự phát triển của GCCN việc thực hiện SMLS
của GCCN .............................................................................................................. 12
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ VỚI GCCN VIỆT NAM HIỆN
NAY...........................123.1. Những biến đổi tích cực của GCCN VN hiện nay ..... 13
3.2. Những hạn chế của GCCN Việt Nam hiện nay .............................................. 15
3.3. Giải pháp phát triển và bài học rút ra cho GCCN Việt Nam hiện nay ........... 17
III. KẾT LUẬN ....................................................................................................... 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 20
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨAC – LÊNIN VỀ
1.4. Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
lOMoARcPSD| 46342576
1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
lOMoARcPSD| 46342576
2
I. MỞ ĐẦU:
Giai cấp công nhân là một bộ phận đặc biệt trong lịch sử con người nói chung và
trong hội bản nói riêng. Trong những thập niên gần đây, dưới tác động của thành
tựu khoa học - công nghệ, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế tri thức hóa, giai
cấp công nhân có nhiều biến đổi so với thời kỳ C. Mác và Ph. Ăngghen.
Công nhân chính giai cấp lãnh đạo cách mạng, lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Để tiếp tục phát triển đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với việc phát
triển nền kinh tế tri thức thì sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với mỗi quốc
gia đều đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Quá trình đổi mới đất nước đã và đang động đến sự chuyển biến mọi mặt của đời
sống kinh tế hội ớc ta. Trong đó giai cấp công nhân sự biến đổi nhanh trên nhiều
phương diện cả tích cực lẫn tiêu cực làm bộc lộ những mặt mạnh cũng như hạn chế trong
quá trình hội nhập.
Sự biến đổi của giai cấp công nhân hiện đại nói chung cũng như giai cấp ng
nhân Việt Nam nói riêng đặt ra những vấn đề cần được làm rõ. Xuất phát từ yêu cầu đó,
bài thảo luận của nhóm 1 chúng em sẽ nghiên cứu về đề tài: “Những thay đổi của giai
cấp công nhân hiện nay so với thời đại của C. Mác Ph. Ăngghen. Liên hệ với giai cấp
công nhân Việt Nam hiện nay”.
II. NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨAC – LÊNIN VỀ GCCN
VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN:
1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân.
Theo chủ nghĩa Mác- Lênin: Giai cấp công nhân một tập đoàn hội, hình
thành phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại; họ lao
động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại gắn liền với quá trình sản
lOMoARcPSD| 46342576
3
xuất vật chất hiện đại, đại biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã hội hóa ngày
càng cao. Họ là người làm thuê do không liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động
để sống bị giai cấp bản bóc lột giá trị thặng ; vậy lợi ích bản của họ đối
lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chế độ tư
bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa hội chủ nghĩa cộng sản trên toàn
thế giới.
1.2. Đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân.
Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân lao động bằng phương thức công
nghiệp với đặc trưng công cụ lao động y móc, tạo ra năng suất lao động cao, quá
trình lao động mang tính chất xã hội hóa.
Giai cấp công nhân là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể của
quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Do đó, giai cấp công nhân là đại biểu cho lực lượng
sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất tiên tiến, quyết định sự tồn tại và phát triển
của xã hội hiện đại.
Nền sản xuất đại công nghiệp và phương thức sản xuất tiên tiến đã rèn luyện cho
giai cấp công nhân những phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần
hợp tác tâm lao động công nghiệp. Đó một giai cấp cách mạng tinh thần
cách mạng triệt để.
Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết để giai cấp ng nhân có
vai trò lãnh đạo cách mạng.
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
Theo chnghĩa Mác Lênin, sứ mệnh lịch sử tổng quát của giai cấp công nhân
là thông qua chính đảng tiền phong, giai cấp công nhân tổ chức, lãnh đạo nhân dân lao
động đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc lột người, xóa bỏ chủ nghĩa bản, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo n,
lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C. Mác đã viết: “Thực hiện sự nghiệp
giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”.
1.4. Những điều kiện quy định và thực hiện và mệnh lịch sử của giai cấp
lOMoARcPSD| 46342576
4
công nhân:
- Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân: Giai cấp công nhận là con đẻ,
sản phẩm của nền đại công nghiệp, có tính xã hội hóa ngày càng cao, là chủ thể của quá
trình sản xuất vật chất hiện đại. thế, giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản
xuất tiên tiến lực lượng sản xuất hiện đại. Do lao động bằng phương thúc công nghiệp
ngày càng hiện đại, giai cấp công nhân là người sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho
xã hội. làm giàu cho xã hội, có vai trò quyết định sự phát triển của xã hội hiện đại. Điều
kiện khách quan này là nhân tố kinh tế quy định giai cấp công nhân là lực lượng phá vỡ
quan hệ sản xuất bản chủ nghĩa, giành chính quyền về tay mình, chuyển từ giai cấp
“tự nổ" thành giai cấp "vì nó". Giai cấp công nhân trở thành đại biểu cho sự tiến hóa tất
yếu của lịch sử, là lực lượng duy nhất đủ điều kiện để tổ chức và lãnh đạo xã hội, xây
dựng và phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng
vững chắc để xây dựng chủ nghĩa hội với cách một chế độ hội kiểu mới,
không còn chế độ người áp bức, bóc lột người.
Thứ hai, do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định: Là giai cấp
sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho hội nhưng trong chủ nghĩa bản giai cấp
công nhân không sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, phải bán sức lao động để kiếm sống,
bị bóc lột nặng nề, vậy lợi ích bản của họ đối lập trực tiếp với lợi ích cơ bản của
giai cấp tư mẫn và thống nhất với lợi ích cơ bản của đa số nhân dân lao động.
- Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử:
Thứ nhất, sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng chất
lượng. Thông qua sự phát triển này có thể thấy sự lớn mạnh của giai cấp công nhân cùng
với quy mô phát triển của nền sản xuất vật chất hiện đại trên nền tảng của công nghiệp,
của kỹ thuật và công nghệ. Chỉ với sự phát triển về số lượng và chất lượng, đặc biệt về
chất lượng, giai cấp ng nhân mới thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của giai cấp
mình.
Thứ hai, Đảng Cộng sản nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công
nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng sản – đội tiên phong của
giai cấp công nhân ra đời đảm nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng dấu hiệu về
sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng.
lOMoARcPSD| 46342576
5
Ngoài hai điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan nêu trên, chủ nghĩa Mác - Lênin
còn chỉ rõ: để cuộc cách mạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đi tới
thắng lợi, phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và các tầng lớp lao động khác do giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của nó
là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây cũng là một điểu kiện quan trong không thể thiếu để
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
CHƯƠNG 2: NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GCCN HIỆN NAY SO VỚI THỜI ĐẠI
C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN.
2.1. Sự phát triển của GCCN hiện nay.
Khi Marx viết Tuyên ngôn năm 1848, GCCN chỉ tồn tại ở Tây Bắc Châu Âu (và
một chút Mỹ) với slượng khoảng 20 triệu người. Hiện nay GCCN đã số lượng
lên tới khoảng 1,5 tỷ, tồn tại trên mọi lục địa và có ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Nói cách khác, nó lớn hơn và có khả năng mạnh hơn bao giờ hết.
Sự chênh lệch về trình độ ng nghệ, phần được hưởng của công nhân từng
quốc gia khi hội nhập những khác biệt nhiều nghiên cứu đã nói tới. Điều đáng
quan tâm đây là nguyên nhân của những phân hóa, khác biệt ấy không phải chỉ do
khác biệt về trình độ công nghệ chủ yếu do tính ích kỷ của quan hệ sản xuất
bản chủ nghĩa; cùng với đó những điều kiện, ràng buộc trong bối cảnh toàn cầu hóa
mang đậm tính chất tư bản chủ nghĩa hiện nay.
Theo đó sự phát triển của giai cấp công nhân và tiến trình thực hiện sứ mệnh lịch
sử của nó đang diễn ra theo 2 xu hướng: vừa toàn cầu hóa lại vừa phân hóa và hiện nay
đang tương tác với nhau khá phức tạp.
Sau hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng lãnh đạo; tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp
công nhân Việt Nam phát triển mạnh về số lượng, không ngừng nâng cao về chất lượng,
đa dạng về cơ cấu và ngày càng có vai trò to lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Hiện nay với số công nhân lao động nước ta hiện nay có trên 11 triệu người đây
con số rất ấn tượng, chiếm khoảng 13,5% dân số, 26,46% lực lượng lao động
hội...Giai cấp công nhân Việt Nam chiếm tỷ lệ không lớn so với dân số cả nước nhưng
lOMoARcPSD| 46342576
6
hằng năm đóng góp trên 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn 60% ngân sách nhà
nước. Đó là những giá trị thực không thể phủ nhận.
2.2. Những thay đổi của GCCN hiện nay:
2.2.1. Thay đổi về cơ cấu.
cấu của GCCN hiện nay khá đa dạng, đang chuyển biến mạnh theo hướng
hiện đại hóa và được tiếp cận theo những tiêu chí đánh giá sau:
Một , cấu nghề nghiệp của công nhân hiện nay ng đa dạng chưa
dừng lại ở những nghề hiện có. Năm 1893, Ph. Ăngghen quan niệm: “Khi tôi nói “công
nhân”, tôi ý nói người lao động của tất cả mọi giai cấp. Người tiểu thương bị các
hãng buôn lớn lấn gạt, viên chức văn phòng, thợ thủ công, công nhân thành thị và công
nhân nông nghiệp bắt đầu cảm thấy ách áp bức của chế độ tư bản chủ nghĩa hiện nay
nước chúng tôi”. Như vậy, quan niệm “giai cấp công nhân” đã được lý luận mở rộng rất
nhiều, không chỉ có những người trực tiếp hoặc gián tiếp vận hành công cụ lao động có
tính chất công nghiệp nữa, mà còn là tất cả những người lao động trong chế độ tư bản.
Theo một nghiên cứu, hiện nay trên thế giới khoảng 23.000 nghề nghiệp liên
quan đến máy móc và phương thức lao động ng nghiệp; dự đoán rằng, đến giữa thế
kỷ XXI sẽ có thêm khoảng 10.000 nghề nghiệp mới, chủ yếu là ở lĩnh vực dịch vụ.
Một nghiên cứu gần đây của Ê-ríc Ô-lin Rai (Erik Olin Wright) một nhà hội học mác-
xít (1947-2019) đã lập một mô hình cơ cấu giai cấp theo nghề nghiệp, gồm 9 nhóm khác
nhau dựa vào trình độ, kỹ năng và thẩm quyền (Xem bảng 1).
BẢNG 1: CƠ CẤU GIAI CẤP THEO NGHỀ NGHIỆP THEO 9 NHÓM
KHÁC NHAU
Chuyên gia quản Quản lý có trình độ chuyên Quản lý không có trình độ chuyên
môn môn
Chuyên gia giám Giám sát có trình độ chuyên Giám sát không có trình độ
sát môn chuyên môn
Chuyên gia Lao động có tay nghề Lao động phổ thông
Hai , cấu công nhân theo lĩnh vực hoạt động. Giai cấp công nhân hiện nay
lao động trên 3 lĩnh vực bản nông nghiệp, công nghiệp dịch vụ. Mặc đang
lOMoARcPSD| 46342576
7
có sự dịch chuyển lao động giữa các lĩnh vực nhưng xu hướng chung là nhóm lao động
lĩnh vực dịch vụ tăng mạnh, số lượng lao động trong lĩnh vực công nghiệp nông
nghiệp giảm nhẹ. Số liệu của ILO về so sánh tỷ trọng lao động trong các ngành sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI
cho thấy rõ điều đó (Xem bảng 2).
BẢNG 2: TỶ TRỌNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC NGÀNH NG NGHIỆP,
CÔNG NGHIỆP, DỊCH VỤ (TRONG TỔNG SỐ TN BỘ LỰC LƯỢNG LAO
ĐỘNG CỦA MỖI KHU VỰC)
Cơ cấu công nhân lao động trong các ngành nghề tại các nước công nghiệp phát
triển (G7) trong những năm đầu thế kỷ XXI biến động chủ yếu cũng theo chiều hướng
tăng lao động nhóm dịch vụ, giảm lao động ở nhóm công nghiệp nông nghiệp (Xem
bảng 3).
BẢNG 3: CƠ CẤU NG NHÂN LAO ĐỘNG TRONG CÁC NGÀNH, NGHỀ
TẠI CÁC NƯỚC CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN (G7)
Trung, Đông Âu
và các quốc gia
độc lập
1
27
26
,
2
23
,
7
22
,
0
27
,
9
,
5
27
,
9
45
,
9
48
,
8
50
,
Quốc, Hàn Quốc,
Nhật Bản)
54
,
0
50
,
3
48
,
3
25
,
2
24
,
6
25
,
9
20
,
8
25
,
1
25
,
8
lOMoARcPSD| 46342576
8
các nước phát triển, chẳng hạn Bắc Âu, xu hướng này có nhỉnh hơn: Trong
cơ cấu kinh tế, tỷ trọng lao động dịch vụ chiếm khoảng 70%; công nghiệp khoảng 25%
nông nghiệp từ 3% đến 5% lao động. Cơ cấu lao động của Đan Mạch: 4% số dân làm
việc trong khu vực nông - lâm nghiệp, 24% trong công nghiệp và xây dựng, 72% số dân
làm việc trong lĩnh vực dịch vụ, trong đó 31% dịch vụ công 41% dịch vụ
nhân.
Ba là, cơ cấu của GCCN xét theo trình độ công nghệ hiện nay được nhìn nhận là
đa dạng không đồng đều. Các nghiên cứu về trình độ công nghệ của công nhân thường
xét theo khả năng tiếp cận các cuộc cách mạng công nghiệp, cách tính toán thường
công nghiệp 2.0; 3.0 hoặc tiệm cận 4.0. Cũng có những đánh giá trình độ công nghệ của
công nhân theo đặc tính của kỹ thuật của từng ngành công nghiệp họ đang hoạt động,
ví dụ: công nghệ in offset” “công nghệ in kỹ thuật số”. Nhìn chung, công nghệ
công nhân trên thế giới hiện đang sử dụng là một “dải khá rộng” được mô tả bằng “cây
phả hệ công nghệ đa tầng”, hàm ý nhiều trình độ, phát triển vốn theo quy luật không
đều và sự phát triển của GCCN hiện nay cũng vẫn tuân theo quy luật đó.
Bốn , cấu GCCN dựa theo trình độ phát triển kinh tế thường được giới nghiên
cứu phân tích theo 2 nhóm nước là nước phát triển và nước đang phát triển. Hiện có 408
triệu công nhân trong các nước phát triển và số còn lại (khoảng hơn 1.100 triệu) ở các
nước đang phát triển. Trình độ phát triển kinh tế, trình độ công nghệ thường tỷ lệ thuận
với năng suất lao động đạt được. Công nhân của các nước phát triển năng suất lao
động cao hơn so với c nước đang phát triển. Năm 2017, ILO xếp hạng năng suất lao
động thông qua so sánh việc tạo ra giá trị mới của 1 lao động/năm. Ở một số nước phát
NÔNG - LÂM
NGHIỆP
KHAI THÁC, CHẾ
TẠO
DỊCH VỤ, CÔNG NGHỆ
CAO
26
%
3
%
%
71
Mỹ
34
%
59
%
Nhật
7
%
38
%
58
%
Đức
4
%
29
69
%
%
Anh
2
%
Phá
p
66
%
29
%
5
%
lOMoARcPSD| 46342576
9
triển: Công nhân Mỹ tạo ra 63.885 USD/người/năm; công nhân Ai-len 55.986
USD/người/năm; công nhân Bỉ 55.235 USD/người/ năm; công nhân Pháp 54.609
USD/người/năm…
Năm là, cấu GCCN theo chế độ hội cách tiếp cận theo chế độ chính trị.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác, mối quan hệ biện chứng giữa công nhân, công
nghiệp và chủ nghĩa xã hội. Chế độ chính trị cũng có thể tác động đến sự phát triển của
công nhân công nghiệp. Lịch sử cận đại, hiện đại xác định điều đó. Thống về
GCCN các nước hội chủ nghĩa năm 2019 cho thấy: Việt Nam khoảng 15 triệu;
Lào khoảng gần 0,8 triệu; Cu-ba gần 3 triệu, Trung Quốc khoảng 300 triệu công
nhân và 270 triệu “nông dân - công” (nhóm xã hội tham gia hai phương thức và hai lĩnh
vực lao động, có hai nơi trú; là trung giới của quá trình chuyển biến từ nông dân sang
công nhân, nhưng chưa hoàn toàn sống bằng thu nhập từ lao động công nghiệp). Một
nghiên cứu cho biết: “Đến năm 2002, Trung Quốc số lượng nhân viên công nghiệp
gấp đôi tổng số lượng nhân viên công nghiệp các nước G7 cộng lại”.
Đặc thù của cấu công nhân các nước XHCN một bộ phận công nhân
thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Tính đến năm 2019, bộ phận công nhân thành phần
kinh tế nhà nước tất cả các nước XHCN đều tỷ lệ nhỏ hơn so với số lượng công
nhân ở những thành phần kinh tế khác; Trung Quốc hiện có 120 triệu, Việt Nam có hơn
2 triệu công nhân thuộc nhóm này. “Công nhân nhà nước” gắn liền với thực tiễn của chế
độ công hữu XHCN và trong thời gian gần đây, họ tương tác với nền kinh tế thị trường,
công nhân thành phần kinh tế khác. Theo J.M. Kên-nơ (Keynes) - c giả của thuyết
về vai trò của nhà nước - “bàn tay hữu hình”, họ (tức là công nhân nhà nước) góp phần
tạo ra cơ sở vật chất cho sự tăng cường can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để khắc
phục những “thất bại của kinh tế thị trường” cải thiện sự công bằng. Thực tiễn cải
cách, đổi mới còn phát hiện thêm trách nhiệm mới của “công nhân nhà nước” là bộ phận
tiền phong trong xây dựng CNXH, ng cụ điều tiết, can thiệp định hướng của n
nước XHCN với cả nền kinh tế.
Sáu , trình độ của GCCN còn được tính theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
Lênin là trình độ giác ngộ chính trị, ý thức về sứ mệnh lịch sử của nh. Cách tiếp cận
này khá phổ biến trong nhiều nghiên cứu của các nước phát triển theo định ớng XHCN
hiện nay. Nhận thức chung là, giác ngộ chính trị của công nhân không đồng đều, có biểu
lOMoARcPSD| 46342576
10
hiện bất cập so với yêu cầu của sứ mệnh lịch sử mà họ phải đảm trách. Điều đáng quan
tâm là hiện tượng suy giảm tính tích cực chính trị của một bộ phận công nhân trong
chế kinh tế thị trường hiện đại đang diễn ra ở nhiều quốc gia.
2.2.2. Thay đổi về số lượng.
Giai cấp công nhân hiện đại ngày nay không chỉ bao gồm những người lao động
chân tay trực tiếp điều khiển những máy móc khí, còn bao gồm một bộ phận
những người lao động sản xuất với trình độ trí tuệ cao đó những công nhân trí thức.
Họ những người vừa nghiên cứu, sáng chế, vừa áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất; các kỹ sư, cán bộ quản lý... trực tiếp lao động hoặc tham gia vào quá trình sản xuất
công nghiệp, sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất, thực hiện chức năng của người
công nhân lành nghề trong sản xuất. Nhìn chung trình độ học vấn, trí tuệ của giai cấp
công nhân ngày càng được nâng cao. Do vậy, một bộ phận trí thức gia nhập vào đội ngũ
giai cấp công nhân. Tất nhiên không phải tất cả trí thức đều là công nhân.
2.2.3. Thay đổi về trí tuệ.
Gắn liền với cách mạng khoa học công nghệ công nghệ hiện đại, với sự phát
triển kinh tế trí thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa. Tri thức hóa và trí thức
hóa công nhân là hai mặt của cùng một quá trình, của xu hướng trí tuệ hóa đối với công
nhân giai cấp công nhân. Xu thế hướng tới kinh tế tri thức xu thế chung của thế
giới để đổi mới cơ cấu kinh tế từ phát triển theo bề rộng sang phát triển theo chiều sâu.
Điều này đặc biệt rõ ở những nước phát triển, năng suất lao động phụ thuộc chủ yếu vào
công nghệ, tri thức, tay nghề của người lao động. Sản xuất dịch vụ hiện đại đòi hỏi
người lao động phải hiểu biết sâu rộng cvề tri thức kỹ năng nghề nghiệp. Theo
đó, tốc độ trí thức hóa công nhân đang diễn ra khá nhanh công nhân tri thức đã dần
chiếm tỷ lệ cao tới 40% trong tổng số lao động hội các nước phát triển. Công
nhân hiện đại với trình độ tri thức cao cùng với sự phát triển của năng lực trí tuệ đã trở
thành nguồn lực cơ bản, nguồn vốn xã hội quan trọng nhất trong các nguồn vốn của
hội hiện đại.
lOMoARcPSD| 46342576
11
2.2.4. Trở thành giai cấp lãnh đạo.
Giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ, con đẻ của
nền công nghiệp hiện đại, được rèn luyện trong nền sản xuất tiến bộ, đoàn kết. Đây cũng
là giai cấp sở hữu đặc tính cách mạng kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật.
Giai cấp công nhân hiện nay phát triển cả về số lượng và chất lượng kéo theo sự
phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu khách quan dẫn đến quan hsản xuất cũ phải
thay đổi để phù hợp với lực lượng sản xuất phát triển. Họ được thấm nhuần tưởng
cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, lại ảnh ởng giáo dục các tầng lớp khác.
Chính vậy giai cấp công nhân đủ điều kiện, khả năng trở thành giai cấp lãnh
đạo, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga là dấu mốc quan trọng, đánh dấu một
cột mốc mới trong lịch sử phát triển của nhân loại. Nó đã xóa bỏ các giai cấp bóc lột, tư
sản, địa chủ và chế độ người bóc lột người. Đặc biệt thắng lợi này đã đưa giai cấp công
nhân từng bị bóc lột nặng nề lên thành giai cấp đứng đầu và làm chủ xã hội.
Ngày này, Cách mạng Tháng Mười Nga đã cổ vũ và tạo tiền đề để giai cấp công
nhân trở thành giai cấp lãnh đạo trong nhiều nước hội chủ nghĩa, trong đó Việt
Nam. Đảng Cộng sản đội tiên phong của giai cấp công nhân ra đời đảm nhận vai
trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu về sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp công
nhân với cách giai cấp ch mạng. Đảng Cộng sản được trang bị Chủ nghĩa
MácLênin, đại biểu cho trí tuệ của giai cấp công nhân nhân dân lao động, có khả năng
đề ra đường lối chính trị đúng đắn đồng thời khả năng thuyết phục quần chúng theo
đường lối đó.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi của GCCN thế giới.
Giai cấp công nhân thời Mác giai cấp lao động, làm thuê, bị bóc lột xuất
thân chủ yếu từ nông dân nông thôn. Nhưng từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại
đây, xu thế đô thị hóa đông đảo dân đô thị đã bổ sung một ợng lớn vào nguồn
nhân lực của giai cấp công nhân.
Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ cùng với cách tổ chức xã hội hiện đại cũng
làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại đa dạng tới mức nội hàm của nó liên tục
lOMoARcPSD| 46342576
12
phải điều chỉnh theo hướng mở rộng: theo lĩnh vực (công nghiệp nông nghiệp - dịch
vụ) theo trình độ công nghệ.
Bên cạnh đó sự phân loại công nhân theo sở hữu (có cổ phần, có tư liệu sản xuất;
trực tiếp lao động tại nhà để sống không cổ phần), phân loại công nhân theo chế
độ chính trị (công nhân các nước phát triển theo định hướng hội chủ nghĩa, các
nước G7, ở các nước đang phát triển) … cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến
sự biến đổi của giai cấp công nhân thế giới.
2.4. Tác động của sự biến đổi đến sự phát triển của GCCN và việc thực hiện SMLS
của GCCN.
Xu hướng “trí tuệ hóa” tăng nhanh: Gắn liền với cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại, với sự phát triển kinh tế tri thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ
hóa. Trên thực tế đã có thêm nhiều khái niệm mới để chỉ công nhân theo xu hướng này,
đó là “công nhân tri thức”, “công nhân trí thức”, “công nhân áo trắng”… Lao động cần
trình độ cao đòi hỏi người lao động phải có hiểu biết sâu rộng tri thức và kỹ năng nghề
nghiệp. Ngày nay, công nhân được đào tạo chuẩn mực thường xuyên được đào tạo
lại, đáp ng sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ trong nền sản xuất. Hao plao
động hiện đại chủ yếu hao phí về trí lực chứ không còn thuần túy hao phí sức lực
bắp. Cùng với nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tinh thần văn hóa tinh thần của công
nhân ngày càng tăng, phong phú, đa dạng hơn và đòi hỏi chất lượng hưởng thụ tinh thần
cao hơn.
Xu hướng “trung lưu hóa” gia tăng: Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chủ nghĩa
bản đã một số điều chỉnh nhất định về phương thức quản lý, các biện pháp điều hòa
mâu thuẫn xã hội. Một bộ phận công nhân đã tham gia vào sở hữu một lượng tư liệu sản
xuất của hội thông qua chế độ cổ phần a. Về mặt nh thức, họ không còn “vô
sản” nữa và thể được “trung lưu hóa” về mức sống, nhưng về thực chất, các nước
bản, do không chiếm được tỷ lệ shữu cao nên quá trình sản xuất phân chia lợi
nhuận vẫn bị phụ thuộc vào những cổ đông lớn. Việc làm lao động vẫn nhân t
quyết định mức thu nhập, đời sống của công nhân hiện đại. Quyền định đoạt quá trình
sản xuất, quyền quyết định cơ chế phân phối lợi nhuận vẫn thuộc về giai cấp tư sản.
lOMoARcPSD| 46342576
13
giai cấp giữ vai trò lãnh đạo: Đảng Cộng sản đội tiên phong của giai cấp
công nhân, giữ vai trò cầm quyền trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội một số
quốc gia hội chủ nghĩa. Từ khi nhà ớc xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời – Nhà ớc
viết, giai cấp công nhân đội tiền phong của mình đã trở thành giai cấp lãnh đạo
giành chính quyềnxây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở các quốc gia đi lên xã hội
chủ nghĩa (Liên Xô, Đông Âu trước đây và các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay). Trong
bối cảnh mới của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
công nhân hiện đại cũng tăng nhanh về số lượng, thay đổi lớn về cấu trong nền sản
xuất hiện đại. Cơ cấu hội, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu thu nhập giữa các bộ phận công
nhân rất khác nhau trên phạm vi toàn cầu cũng như trong mỗi quốc gia.
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ VỚI GCCN VIỆT NAM HIỆN NAY.
3.1. Những biến đổi tích cực của GCCN VN hiện nay:
Phát triển về số lượng, đa dạng về cơ cấu ngành nghề, trong các thành phần kinh
tế: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hợp tác quốc tế cùng với sự phát triển không
ngừng của khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức đã xuất hiện nhiều ngành nghề mới
trong hội. Sự xuất hiện của những ngành nghề mới này thu hút một lực lượng lao
động nhất định. Bên cạnh đó, nhiều ngành dịch vụ phát triển đa dạng khả năng
phát triển ngày càng lớn mạnh, có nhu cầu lớn về nguồn nhân lực, mức thu nhập lại khá
cao đã tạo sự hấp dẫn nên bộ phận công nhân ở những ngành này ngày càng phát triển.
Sự gia tăng về số lượng của giai cấp công nhân nước ta trong những năm qua
chủ yếu nhờ vào sự phát triển ngành công nghiệp dịch vụ, du lịch… Trong đó sự
đóng góp lớn của thành phần kinh tế ngoài nnước, đây khu vực số lượng công
nhân tăng lên nhanh chóng, góp phần vào sự tăng trưởng nhanh về số lượng của giai cấp
công nhân nước ta. Nếu như trước những năm đổi mới, số lượng công nhân nước ta là 7
triệu, đến năm 2007 9.5 triệu năm 2013 tăng lên gần 11 triệu thì hiện nay đã
khoảng 16.5 triệu người.
Kết quả của việc thực hiện những chính sách phát triển nền kinh tế quá trình
mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng, Nhà nước trong những năm qua đã tạo thuận
lợi cho giai cấp công nhân tăng về số lượng và ngày càng phát triển đa dạng hơn.
lOMoARcPSD| 46342576
14
Trình độ chuyên môn nghề nghiệp ngày càng được nâng cao: Nâng cao trình độ
học vấn, chuyên môn trình độ tay nghề của công nhân xu ớng khách quan của
quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, quá trình hội nhập quốc tế và cũng
tất yếu của việc phát triển những ngành nghề sản xuất. Đồng thời đây chính là động lực
quan trọng thúc đẩy người lao động tự nguyện tự giác, không ngừng phấn đấu học tập
nâng cao trình độ mọi mặt, cả về văn hóa, chuyên môn tay nghề để thể đáp ứng
được yêu cầu đòi hỏi mà các ngành nghề sản xuất và xã hội đặt ra.
Kết quả thống kê cho thấy, nếu so với năm 2005, lao động qua đào tạo chỉ chiếm
12.5% tổng số lao động, thì đến năm 2010 tăng lên 14.6% và đến 2016 tăng lên
20.6%. Nếu phân theo ngành nghề, tỷ lệ công nhân được đào tạo chuyên môn, trong lĩnh
vực khai khoáng tăng t33.3% năm 2010 lên 50.4% năm 2016; nh vực công nghiệp
chế biến tăng từ 13.4% năm 2010 lên 18.5% m 2016; lĩnh vực xây dựng tăng từ 12.6%
năm 2010 lên 14.0% năm 2016; lĩnh vực dịch vụ vận tải tăng từ 33.6% năm 2010 lên
55.2% năm 2016; lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng từ 79.3% năm
2010 lên 83.1% năm 2016.
Ngày càng khẳng định địa vị chính trị, kinh tế, hội: Xét về cả mặt luận
thực tiễn, khi trình đcông nhân lao động được nâng lên thì ý thức, bản lĩnh chính trị,
tinh thần trách nhiệm trong lao động sản xuất của họ cũng ngày càng được nâng cao.
Đồng thời thông qua yêu cầu công việc cũng hình thành n luyện cho họ tác phong
công nghiệp, năng động hơn, sáng tạo hơn, cùng với ý thức xây dựng và tuân thủ kỷ luật
lao động theo hướng tự giác hơn, minh bạch hơn.
Công nhân nên được nâng cao tay nghề, knăng lao động, rèn luyện tác phong
công nghiệp, phương pháp làm việc tiên tiến. Lớp công nhân trẻ được đào tạo nghề theo
chuẩn nghề nghiệp ngay từ đầu, tri thức, nắm vững khoa học - công nghệ tiên tiến,
được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất hiện đại… dần khẳng định lực lượng lao động
chủ đạo trong hội, tác động tích cực đến sản xuất ng nghiệp, giá trị sản phẩm
công nghiệp, gia tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong tương lai.
Trong công cuộc đổi mới, nhất là từ khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân vai trò đặc biệt quan trọng. Đảng đã
khẳng định, giai cấp công nhân nước ta “lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
lOMoARcPSD| 46342576
15
văn minh”. Tuy chỉ chiếm tỷ lệ trên 14% dân số, 27% lực lượng lao động hội, song
hằng năm giai cấp công nhân nước ta đã tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội và
hơn 70% ngân sách nhà nước.
Những biến đổi tích cực trong cơ cấu của giai cấp công nhân nước ta hiện nay
đã phản ánh giai cấp công nhân Việt Nam đang phát triển lớn mạnh cả về số lượng
chất lượng, đóng góp sức lực vào phát triển kinh tế - hội, xứng đáng giai cấp đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2. Những hạn chế của GCCN Việt Nam hiện nay.
Trước yêu cầu của sự phát triển, giai cấp công nhân nước ta còn nhiều hạn chế,
bất câp. Sự phát triển của giai cấp ng nhân chưa đáp ứng được u cầu về số lượng,
cấu trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ
thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp kỷ luật lao
động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo bản và
hệ thống. Chúng ta đang ở trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”. Tuy nhiên, quá trình
chuyển đổi cấu kinh tế lại không tương thích với quá trình chuyển dịch cấu lao
đông. Để hướng đến mt nền sản xuất công nghiệ p hiệ n đại, số lượng giai cấp
công
nhân lao đông công nghiệ p chỉ chiếm gần 22% lực lượng lao động hội hế sức
khiêm tốn.
Sự phân tầng hội, phân hóa giàu nghèo trong nội bộ ngày càng sâu sắc, ảnh
hưởng đến sự thống nhất, đoàn kết của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam
được tổ chức bởi đội tiền phong Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây giai cấp sự thống
nhất, đoàn kết cao. Nhưng trong điều kiện hội nhập quốc tế, dưới c động của kinh tế
thị trường, đang “có sự chênh lệch cao và phân hóa về thu nhập giữa các bộ phận công
nhân; số công nhân lao động tay chân đơn giản vị thế yếu trên thị trường lao động,
có thu nhập thấp và nhiều khó khăn trong đời sống, cần được quan tâm nhiều hơn”.
Công nhân làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau thì thu nhập của họ
cũng khác nhau. Theo kết quả thống kê về tiền lương bình quân trên cả nước năm 2015
cho thấy: Công nhân làm việc trong doanh nghiệp nhà nước là 9.509 nghìn đồng / người
/ tháng; doanh nghiệp ngoài nhà nước là 6.225 nghìn đồng/ người/ tháng; doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài 7.502 nghìn đồng/ người/ tháng. Cùng với sự phát triển mạnh
lOMoARcPSD| 46342576
16
mẽ của khoa học công nghệ, việc ứng dụng khoa học vào sản xuất ngày càng được
đẩy mạnh, dẫn đến sự phân tầng giữa công nhân thu nhập cao các ngành độc quyền,
những ngành nghề mới, lao động phức tạp với công nhân thu nhập thấp những
ngành nghề truyền thống, lao động giản đơn. Số liệu thống m 2016 cho thấy, thu
nhập bình quân của công nhân lao động trong các ngành: khai khoáng 10.202 nghìn
đồng/ tháng; lĩnh vực khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên là
41.010 nghìn đồng/ tháng; dịch vụ vận tải ng không 24.488 nghìn đồng/ tháng; dịch
vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm là 15.990 nghìn đồng/ tháng. Trong khi đó, trong lĩnh
vực công nghiệp chế biến, chế tạo thu nhập bình quân 6.346 nghìn đồng/ tháng; ngành
xây dựng là 6.214 nghìn đồng/ tháng; khai thác quặng kim loại thu nhập là 4.811 nghìn
đồng/ tháng; chế biến và sản xuất các sản phẩm từ gỗ là 4.937 nghìn đồng/ tháng... Với
xu hướng trí thức hóa công nhân do sự phát triển của khoa học ng nghệ, tsự phân
tầng, phân hóa trong nội bộ giai cấp công nhân nước ta sâu sắc hơn trong thời gian tới.
Trong hội nhập quốc tế, lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị, ởng cách
mạng của một bphận công nhân bị phai nhạt, ảnh ởng đến vai trò tiên phong của
giai cấp công nhân nước ta. Theo môt cuộ c khảo sát gần đây đối với công nhân bạ miền
(Bắc, Trung, Nam) cho thấy, hầu hết công nhân không nhân mình thuộ c giai cấp
nh
đạo xã hôi, họ chỉ nhậ n mình là những người làm công ăn lương, cố gắng làm tố công
viêc để tăng thêm thu nhậ p nhằm cải thiệ n cuộ c sống. Không ít công nhân việc
trong các doanh nghiệp có vốn đầunước ngoài có tâm làm thuê. Họ chỉ chú trọng
đến “công việc”, làm tròn phận sự, thụ động và ít chú trọng đến các lĩnh vực chính trị -
xã hội, coi những hoạt động đó của ban chuyên trách. Do nhân thức nhự vây, nên
“một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham giạ hoạt động trong
các tổ chức chính trị - xã hội”.
Hiện nay, mặt trái của hội nhập quốc tế đang làm cho “công nhân nước ta không
đồng đều về nhận thức xã hội, giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ chức và kỷ
luật lao động”. Không ít công nhân còn chưa nhận thức đầy đủ về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp mình; ý chí phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiên phong gương mẫu của
một bộ phận công nhân giảm sút. Chủ nghĩa nhân, thực dụng, hội điều kiện
phát triển nhanh chóng. Một bộ phận công nhân trẻ còn bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn
hội, sống buông thả, phai nhạt lý tưởng, suy thoái về đạo đức, lối sống, xa rời bản chất
lOMoARcPSD| 46342576
17
tốt đẹp của giai cấp công nhân, gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp hình ảnh người
công nhân Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế… Đây là một trong những nguyên
nhân chủ yếu làm cho tỷ lệ đảng viên cán bộ lãnh đạo xuất thân tcông nhân ngày
càng ít.
Kết quả môt cuộ c khảo sát về lối sống của giai cấp công nhân nước ta hiệ n
na cho thấy: Công nhân lối sống buông thả, thực dụng chiếm 27.9%; 22% ích kỷ,
chủ nghĩa cá nhân; 13.6% phai nhạt lý tưởng, giá trị sống; 18.7% có biểu hiên suy thoáị
đạo đức, lối sống; 12.9% thái đô bi quan, chán đời; 20.3% cảm trước bất công;
25.5% ứng xử, giao tiếp kém; 8.1% trụy lạc; 29.4% đua đòi, lãng phí. Những kết quả
khảo t ng chỉ ra, nhiều ng nhân vi phạm kỷ luât lao độ ng như: không sử dụng
thiết bị bảo lao độ ng 45.2%; đi muộ n, vsớm 24.8%; lấy đồ của công ty 11.8%;
nghỉ làm không xin phép 25.6%; không hoàn thành định mức công viêc 25.6%; không
chấp hành kỷ luât lao độ ng 19.3%.
3.3. Giải pháp phát triển và bài học rút ra cho GCCN Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế gắn với
phát triển kinh tế tri thức theo định hướng XHCN: Đẩy mạnh CNH, HĐH trong điều
kiện hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta cần phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất
nước, phát huy lợi thế so sánh, nhất là lợi thế về nguồn lực lao động trong quá trình hội
nhập. Do vậy cần phải “tiếp tục phát triển một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao
động”. Thực hiện nhiệm vụ này vừa giải quyết được việc làm cho lao động, vừa đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cấu lao động theo hướng hiện đại, sử dụng nguồn lực
lao động mọi trình độ, phân bổ hợp lao động giữa các vùng miền, thành phần, ngành
nghề kinh tế.
Cần nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trong quá trình tham gia vào
chuỗi sản xuất giá trị toàn cầu, nâng cao chất lượng tăng trưởng sức cạnh tranh trên
sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới,
sáng tạo và chủ động hội nhập quốc tế. Mặt khác, thu hút đầu tư nước ngoài vào những
ngành công nghệ cao, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Chủ động lựa chọn và có chính sách ưu đãi đối với các dự án
đầu nước ngoài trình độ quản và công nghệ hiện đại, vị trí hiệu quả trong
lOMoARcPSD| 46342576
18
chuỗi giá trị toàn cầu, liên kết với doanh nghiệp trong nước, là điều kiện để giai cấp
công nhân nước ta phát triển về chất lượng.
Phát huy nội lực và tranh thủ những điều kiện thuận lợi do ngoại lực mang lại để
đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng tiếp cận nhanh với sự tiến bộ của khoa học công nghệ
thế giới để sản xuất được những sản phẩm cạnh tranh trong điều kiện hội nhập là nhiệm
vụ quan trọng hiện nay. Điều này slàm biến đổi cơ cấu sản xuất theo hướng hiện đại,
qua đó ng làm cho giai cấp ng nhân điều kiện để phát triển vsố lượng chất
lượng, cơ cấu giai cấp công nhân cũng biến đổi theo hướng trí thức hóa công nhân. Bộ
phận công nhân lao động trí óc ngày càng tăng, lực lượng lao động chân tay giảm dần
trong cơ cấu giai cấp công nhân nước ta.
Thứ hai, hoàn thiện thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật nhằm
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của giai cấp công nhân trong quá trình
hội nhập quốc tế: Trong quá trình hội nhập quốc tế, cùng với việc hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường, thì hệ thống chính sách, pháp luật về lao động cũng cần được đổi mới,
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Những chính sách, pháp luật hiện hành đang bộc lộ nhiều
hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được những thay đổi của tình hình phát triển kinh tế,
hội trong ớc và quốc tế. Không ít địa phương mới chỉ coi trọng việc thu hút đầu tư,
tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách cho các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp,
mà chưa thực sự quan tâm thích đáng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của công nhân lao động.
Để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế đến
sự biến đổi của giai cấp công nhân nước ta, bên cạnh việc coi trọng phát triển kinh tế
cần quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho giai cấp công nhân. Trước mắt
cần hoàn thiện thực hiện hiệu quả chính sách việc làm cho công nhân; hoàn thiện
chính sách tiền lương phù hợp, đảm bảo sự công bằng trong phân phối thu nhập cho
công nhân - lao động; đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong doanh nghiệp,
nhất trong các doanh nghiệp ngoài nớc doanh nghiệp vốn đầu nước
ngoài; hoàn thiện và phát triển hệ thống an sinh hội, mở rộng phúc lợi hội cho
công nhân; hoàn thiện hệ thống bảo hiểm hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp;
xây dựng, ban hành và thực hiện hiệu quả quy định về xây dựng thiết chế n hoá -
hội cho công nhân trong doanh nghiệp.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46342576 lOMoAR cPSD| 46342576 Mục Lục
DANH SÁCH THÀNH VIÊN .................................................................................. 1
I. MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 2
II. NỘI DUNG ........................................................................................................... 2
GCCN VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN ........................................................... 2
1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân ......................................................................... 2
1.2. Đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân.......................................................... 3
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân .......................................................................................................................... 3
nhân ................................................................................................................................. 4
CHƯƠNG 2: NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GCCN HIỆN NAY SO VỚI THỜI
ĐẠI C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN .......................................................................... 5
2.1. Sự phát triển của GCCN hiện nay .................................................................... 5
2.2. Những thay đổi của GCCN hiện nay ................................................................ 6
2.2.1. Thay đổi về cơ cấu .............................................................................................. 6
2.2.2. Thay đổi về số lượng ........................................................................................ 10
2.2.3. Thay đổi về trí tuệ ............................................................................................. 10
2.2.4. Trở thành giai cấp lãnh đạo .............................................................................. 11
2.3. Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi của GCCN thế giới ................................... 11
2.4. Tác động của sự biến đổi đến sự phát triển của GCCN và việc thực hiện SMLS
của GCCN .............................................................................................................. 12
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ VỚI GCCN VIỆT NAM HIỆN
NAY...........................123.1. Những biến đổi tích cực của GCCN VN hiện nay ..... 13
3.2. Những hạn chế của GCCN Việt Nam hiện nay .............................................. 15
3.3. Giải pháp phát triển và bài học rút ra cho GCCN Việt Nam hiện nay ........... 17
III. KẾT LUẬN ....................................................................................................... 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 20
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
1.4. Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công lOMoAR cPSD| 46342576
DANH SÁCH THÀNH VIÊN 1 lOMoAR cPSD| 46342576 I. MỞ ĐẦU:
Giai cấp công nhân là một bộ phận đặc biệt trong lịch sử con người nói chung và
trong xã hội tư bản nói riêng. Trong những thập niên gần đây, dưới tác động của thành
tựu khoa học - công nghệ, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và tri thức hóa, giai
cấp công nhân có nhiều biến đổi so với thời kỳ C. Mác và Ph. Ăngghen.
Công nhân chính là giai cấp lãnh đạo cách mạng, là lực lượng đi đầu trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”, là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Để tiếp tục phát triển đất nước theo hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với việc phát
triển nền kinh tế tri thức thì sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với mỗi quốc
gia đều đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Quá trình đổi mới đất nước đã và đang động đến sự chuyển biến mọi mặt của đời
sống kinh tế xã hội nước ta. Trong đó giai cấp công nhân có sự biến đổi nhanh trên nhiều
phương diện cả tích cực lẫn tiêu cực làm bộc lộ những mặt mạnh cũng như hạn chế trong quá trình hội nhập.
Sự biến đổi của giai cấp công nhân hiện đại nói chung cũng như giai cấp công
nhân Việt Nam nói riêng đặt ra những vấn đề cần được làm rõ. Xuất phát từ yêu cầu đó,
bài thảo luận của nhóm 1 chúng em sẽ nghiên cứu về đề tài: “Những thay đổi của giai
cấp công nhân hiện nay so với thời đại của C. Mác và Ph. Ăngghen. Liên hệ với giai cấp
công nhân Việt Nam hiện nay”. II. NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ GCCN
VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN:
1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân.
Theo chủ nghĩa Mác- Lênin: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội, hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại; họ lao
động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại và gắn liền với quá trình sản 2 lOMoAR cPSD| 46342576
xuất vật chất hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã hội hóa ngày
càng cao. Họ là người làm thuê do không có tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động
để sống và bị giai cấp tư bản bóc lột giá trị thặng dư; vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối
lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chế độ tư
bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
1.2. Đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân.
Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân là lao động bằng phương thức công
nghiệp với đặc trưng công cụ lao động là máy móc, tạo ra năng suất lao động cao, quá
trình lao động mang tính chất xã hội hóa.
Giai cấp công nhân là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể của
quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Do đó, giai cấp công nhân là đại biểu cho lực lượng
sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất tiên tiến, quyết định sự tồn tại và phát triển
của xã hội hiện đại.
Nền sản xuất đại công nghiệp và phương thức sản xuất tiên tiến đã rèn luyện cho
giai cấp công nhân những phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần
hợp tác và tâm lý lao động công nghiệp. Đó là một giai cấp cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để.
Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết để giai cấp công nhân có
vai trò lãnh đạo cách mạng.
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, sứ mệnh lịch sử tổng quát của giai cấp công nhân
là thông qua chính đảng tiền phong, giai cấp công nhân tổ chức, lãnh đạo nhân dân lao
động đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc lột người, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn,
lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C. Mác đã viết: “Thực hiện sự nghiệp
giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”.
1.4. Những điều kiện quy định và thực hiện và mệnh lịch sử của giai cấp 3 lOMoAR cPSD| 46342576
công nhân:
- Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân: Giai cấp công nhận là con đẻ,
sản phẩm của nền đại công nghiệp, có tính xã hội hóa ngày càng cao, là chủ thể của quá
trình sản xuất vật chất hiện đại. Vì thế, giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản
xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại. Do lao động bằng phương thúc công nghiệp
ngày càng hiện đại, giai cấp công nhân là người sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho
xã hội. làm giàu cho xã hội, có vai trò quyết định sự phát triển của xã hội hiện đại. Điều
kiện khách quan này là nhân tố kinh tế quy định giai cấp công nhân là lực lượng phá vỡ
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giành chính quyền về tay mình, chuyển từ giai cấp
“tự nổ" thành giai cấp "vì nó". Giai cấp công nhân trở thành đại biểu cho sự tiến hóa tất
yếu của lịch sử, là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện để tổ chức và lãnh đạo xã hội, xây
dựng và phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng
vững chắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội kiểu mới,
không còn chế độ người áp bức, bóc lột người.
Thứ hai, do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định: Là giai cấp
sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội nhưng trong chủ nghĩa tư bản giai cấp
công nhân không sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu, phải bán sức lao động để kiếm sống,
bị bóc lột nặng nề, vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập trực tiếp với lợi ích cơ bản của
giai cấp tư mẫn và thống nhất với lợi ích cơ bản của đa số nhân dân lao động.
- Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử:
Thứ nhất, sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất
lượng. Thông qua sự phát triển này có thể thấy sự lớn mạnh của giai cấp công nhân cùng
với quy mô phát triển của nền sản xuất vật chất hiện đại trên nền tảng của công nghiệp,
của kỹ thuật và công nghệ. Chỉ với sự phát triển về số lượng và chất lượng, đặc biệt về
chất lượng, giai cấp công nhân mới có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình.
Thứ hai, Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công
nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng sản – đội tiên phong của
giai cấp công nhân ra đời và đảm nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu về
sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng. 4 lOMoAR cPSD| 46342576
Ngoài hai điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan nêu trên, chủ nghĩa Mác - Lênin
còn chỉ rõ: để cuộc cách mạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đi tới
thắng lợi, phải có sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và các tầng lớp lao động khác do giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của nó
là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây cũng là một điểu kiện quan trong không thể thiếu để
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
CHƯƠNG 2: NHỮNG THAY ĐỔI CỦA GCCN HIỆN NAY SO VỚI THỜI ĐẠI
C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN.
2.1. Sự phát triển của GCCN hiện nay.
Khi Marx viết Tuyên ngôn năm 1848, GCCN chỉ tồn tại ở Tây Bắc Châu Âu (và
một chút ở Mỹ) với số lượng khoảng 20 triệu người. Hiện nay GCCN đã có số lượng
lên tới khoảng 1,5 tỷ, tồn tại trên mọi lục địa và có ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Nói cách khác, nó lớn hơn và có khả năng mạnh hơn bao giờ hết.
Sự chênh lệch về trình độ công nghệ, phần được hưởng của công nhân ở từng
quốc gia khi hội nhập là những khác biệt mà nhiều nghiên cứu đã nói tới. Điều đáng
quan tâm ở đây là nguyên nhân của những phân hóa, khác biệt ấy không phải chỉ là do
khác biệt về trình độ công nghệ mà chủ yếu là do tính ích kỷ của quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa; cùng với đó là những điều kiện, ràng buộc trong bối cảnh toàn cầu hóa
mang đậm tính chất tư bản chủ nghĩa hiện nay.
Theo đó sự phát triển của giai cấp công nhân và tiến trình thực hiện sứ mệnh lịch
sử của nó đang diễn ra theo 2 xu hướng: vừa toàn cầu hóa lại vừa phân hóa và hiện nay
đang tương tác với nhau khá phức tạp.
Sau hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo; tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp
công nhân Việt Nam phát triển mạnh về số lượng, không ngừng nâng cao về chất lượng,
đa dạng về cơ cấu và ngày càng có vai trò to lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Hiện nay với số công nhân lao động nước ta hiện nay có trên 11 triệu người đây
là con số rất ấn tượng, chiếm khoảng 13,5% dân số, 26,46% lực lượng lao động xã
hội...Giai cấp công nhân Việt Nam chiếm tỷ lệ không lớn so với dân số cả nước nhưng 5 lOMoAR cPSD| 46342576
hằng năm đóng góp trên 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn 60% ngân sách nhà
nước. Đó là những giá trị thực không thể phủ nhận.
2.2. Những thay đổi của GCCN hiện nay:
2.2.1. Thay đổi về cơ cấu.
Cơ cấu của GCCN hiện nay khá đa dạng, đang chuyển biến mạnh theo hướng
hiện đại hóa và được tiếp cận theo những tiêu chí đánh giá sau:
Một là, cơ cấu nghề nghiệp của công nhân hiện nay vô cùng đa dạng và chưa
dừng lại ở những nghề hiện có. Năm 1893, Ph. Ăngghen quan niệm: “Khi tôi nói “công
nhân”, tôi có ý nói người lao động của tất cả mọi giai cấp. Người tiểu thương bị các
hãng buôn lớn lấn gạt, viên chức văn phòng, thợ thủ công, công nhân thành thị và công
nhân nông nghiệp bắt đầu cảm thấy ách áp bức của chế độ tư bản chủ nghĩa hiện nay ở
nước chúng tôi”. Như vậy, quan niệm “giai cấp công nhân” đã được lý luận mở rộng rất
nhiều, không chỉ có những người trực tiếp hoặc gián tiếp vận hành công cụ lao động có
tính chất công nghiệp nữa, mà còn là tất cả những người lao động trong chế độ tư bản.
Theo một nghiên cứu, hiện nay trên thế giới có khoảng 23.000 nghề nghiệp liên
quan đến máy móc và phương thức lao động công nghiệp; và dự đoán rằng, đến giữa thế
kỷ XXI sẽ có thêm khoảng 10.000 nghề nghiệp mới, chủ yếu là ở lĩnh vực dịch vụ.
Một nghiên cứu gần đây của Ê-ríc Ô-lin Rai (Erik Olin Wright) một nhà xã hội học mác-
xít (1947-2019) đã lập một mô hình cơ cấu giai cấp theo nghề nghiệp, gồm 9 nhóm khác
nhau dựa vào trình độ, kỹ năng và thẩm quyền (Xem bảng 1).
BẢNG 1: CƠ CẤU GIAI CẤP THEO NGHỀ NGHIỆP THEO 9 NHÓM KHÁC NHAU Chuyên gia quản
Quản lý có trình độ chuyên
Quản lý không có trình độ chuyên lý môn môn
Chuyên gia giám Giám sát có trình độ chuyên Giám sát không có trình độ sát môn chuyên môn Chuyên gia Lao động có tay nghề Lao động phổ thông
Hai là, cơ cấu công nhân theo lĩnh vực hoạt động. Giai cấp công nhân hiện nay
lao động trên 3 lĩnh vực cơ bản là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Mặc dù đang 6 lOMoAR cPSD| 46342576
có sự dịch chuyển lao động giữa các lĩnh vực nhưng xu hướng chung là nhóm lao động
ở lĩnh vực dịch vụ tăng mạnh, số lượng lao động trong lĩnh vực công nghiệp và nông
nghiệp giảm nhẹ. Số liệu của ILO về so sánh tỷ trọng lao động trong các ngành sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI
cho thấy rõ điều đó (Xem bảng 2).
BẢNG 2: TỶ TRỌNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC NGÀNH NÔNG NGHIỆP,
CÔNG NGHIỆP, DỊCH VỤ (TRONG TỔNG SỐ TOÀN BỘ LỰC LƯỢNG LAO
ĐỘNG CỦA MỖI KHU VỰC)
Trung, Đông Âu 26 , 2 23 , 7 22 , 0 27 , 9 27 , 5 27 , 9 45 , 9 48 , 8 50 1 , và các quốc gia độc lập Đông Á (Trung
54 , 0 50 , 3 48 , 3 25 , 2 24 , 6 25 , 9 20 , 8 25 , 1 25 , 8 Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản)
Cơ cấu công nhân lao động trong các ngành nghề tại các nước công nghiệp phát
triển (G7) trong những năm đầu thế kỷ XXI biến động chủ yếu cũng theo chiều hướng
tăng lao động ở nhóm dịch vụ, giảm lao động ở nhóm công nghiệp và nông nghiệp (Xem bảng 3).
BẢNG 3: CƠ CẤU CÔNG NHÂN LAO ĐỘNG TRONG CÁC NGÀNH, NGHỀ
TẠI CÁC NƯỚC CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN (G7) 7 lOMoAR cPSD| 46342576 NÔNG - LÂM KHAI THÁC, CHẾ DỊCH VỤ, CÔNG NGHỆ NGHIỆP TẠO CAO Mỹ 3 % 26 % % 71 Nhật 7 % 34 % 59 % Đức 4 % 38 % 58 % Anh 2 % 29 % 69 % Phá 5 % 29 % 66 % p
Ở các nước phát triển, chẳng hạn ở Bắc Âu, xu hướng này có nhỉnh hơn: Trong
cơ cấu kinh tế, tỷ trọng lao động dịch vụ chiếm khoảng 70%; công nghiệp khoảng 25%
và nông nghiệp từ 3% đến 5% lao động. Cơ cấu lao động của Đan Mạch: 4% số dân làm
việc trong khu vực nông - lâm nghiệp, 24% trong công nghiệp và xây dựng, 72% số dân
làm việc trong lĩnh vực dịch vụ, trong đó 31% là dịch vụ công và 41% là dịch vụ tư nhân.
Ba là, cơ cấu của GCCN xét theo trình độ công nghệ hiện nay được nhìn nhận là
đa dạng và không đồng đều. Các nghiên cứu về trình độ công nghệ của công nhân thường
xét theo khả năng tiếp cận các cuộc cách mạng công nghiệp, cách tính toán thường là
công nghiệp 2.0; 3.0 hoặc tiệm cận 4.0. Cũng có những đánh giá trình độ công nghệ của
công nhân theo đặc tính của kỹ thuật của từng ngành công nghiệp mà họ đang hoạt động,
ví dụ: “công nghệ in offset” và “công nghệ in kỹ thuật số”. Nhìn chung, công nghệ mà
công nhân trên thế giới hiện đang sử dụng là một “dải khá rộng” được mô tả bằng “cây
phả hệ công nghệ đa tầng”, hàm ý là ở nhiều trình độ, phát triển vốn theo quy luật không
đều và sự phát triển của GCCN hiện nay cũng vẫn tuân theo quy luật đó.
Bốn là, cơ cấu GCCN dựa theo trình độ phát triển kinh tế thường được giới nghiên
cứu phân tích theo 2 nhóm nước là nước phát triển và nước đang phát triển. Hiện có 408
triệu công nhân trong các nước phát triển và số còn lại (khoảng hơn 1.100 triệu) là ở các
nước đang phát triển. Trình độ phát triển kinh tế, trình độ công nghệ thường tỷ lệ thuận
với năng suất lao động đạt được. Công nhân của các nước phát triển có năng suất lao
động cao hơn so với các nước đang phát triển. Năm 2017, ILO xếp hạng năng suất lao
động thông qua so sánh việc tạo ra giá trị mới của 1 lao động/năm. Ở một số nước phát 8 lOMoAR cPSD| 46342576
triển: Công nhân Mỹ tạo ra 63.885 USD/người/năm; công nhân Ai-len là 55.986
USD/người/năm; công nhân Bỉ là 55.235 USD/người/ năm; công nhân Pháp là 54.609 USD/người/năm…
Năm là, cơ cấu GCCN theo chế độ xã hội là cách tiếp cận theo chế độ chính trị.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác, có mối quan hệ biện chứng giữa công nhân, công
nghiệp và chủ nghĩa xã hội. Chế độ chính trị cũng có thể tác động đến sự phát triển của
công nhân và công nghiệp. Lịch sử cận đại, hiện đại xác định điều đó. Thống kê về
GCCN các nước xã hội chủ nghĩa năm 2019 cho thấy: Việt Nam có khoảng 15 triệu;
Lào có khoảng gần 0,8 triệu; Cu-ba có gần 3 triệu, Trung Quốc có khoảng 300 triệu công
nhân và 270 triệu “nông dân - công” (nhóm xã hội tham gia hai phương thức và hai lĩnh
vực lao động, có hai nơi cư trú; là trung giới của quá trình chuyển biến từ nông dân sang
công nhân, nhưng chưa hoàn toàn sống bằng thu nhập từ lao động công nghiệp). Một
nghiên cứu cho biết: “Đến năm 2002, Trung Quốc có số lượng nhân viên công nghiệp
gấp đôi tổng số lượng nhân viên công nghiệp các nước G7 cộng lại”.
Đặc thù của cơ cấu công nhân ở các nước XHCN là có một bộ phận công nhân
thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Tính đến năm 2019, bộ phận công nhân ở thành phần
kinh tế nhà nước ở tất cả các nước XHCN đều có tỷ lệ nhỏ hơn so với số lượng công
nhân ở những thành phần kinh tế khác; Trung Quốc hiện có 120 triệu, Việt Nam có hơn
2 triệu công nhân thuộc nhóm này. “Công nhân nhà nước” gắn liền với thực tiễn của chế
độ công hữu XHCN và trong thời gian gần đây, họ tương tác với nền kinh tế thị trường,
công nhân ở thành phần kinh tế khác. Theo J.M. Kên-nơ (Keynes) - tác giả của lý thuyết
về vai trò của nhà nước - “bàn tay hữu hình”, họ (tức là công nhân nhà nước) góp phần
tạo ra cơ sở vật chất cho sự tăng cường can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để khắc
phục những “thất bại của kinh tế thị trường” và cải thiện sự công bằng. Thực tiễn cải
cách, đổi mới còn phát hiện thêm trách nhiệm mới của “công nhân nhà nước” là bộ phận
tiền phong trong xây dựng CNXH, công cụ điều tiết, can thiệp và định hướng của nhà
nước XHCN với cả nền kinh tế.
Sáu là, trình độ của GCCN còn được tính theo quan điểm của chủ nghĩa Mác
Lênin là trình độ giác ngộ chính trị, ý thức về sứ mệnh lịch sử của mình. Cách tiếp cận
này khá phổ biến trong nhiều nghiên cứu của các nước phát triển theo định hướng XHCN
hiện nay. Nhận thức chung là, giác ngộ chính trị của công nhân không đồng đều, có biểu 9 lOMoAR cPSD| 46342576
hiện bất cập so với yêu cầu của sứ mệnh lịch sử mà họ phải đảm trách. Điều đáng quan
tâm là hiện tượng suy giảm tính tích cực chính trị của một bộ phận công nhân trong cơ
chế kinh tế thị trường hiện đại đang diễn ra ở nhiều quốc gia.
2.2.2. Thay đổi về số lượng.
Giai cấp công nhân hiện đại ngày nay không chỉ bao gồm những người lao động
chân tay trực tiếp điều khiển những máy móc cơ khí, mà còn bao gồm một bộ phận
những người lao động sản xuất với trình độ trí tuệ cao đó là những công nhân trí thức.
Họ là những người vừa nghiên cứu, sáng chế, vừa áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất; các kỹ sư, cán bộ quản lý... trực tiếp lao động hoặc tham gia vào quá trình sản xuất
công nghiệp, sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất, thực hiện chức năng của người
công nhân lành nghề trong sản xuất. Nhìn chung trình độ học vấn, trí tuệ của giai cấp
công nhân ngày càng được nâng cao. Do vậy, một bộ phận trí thức gia nhập vào đội ngũ
giai cấp công nhân. Tất nhiên không phải tất cả trí thức đều là công nhân.
2.2.3. Thay đổi về trí tuệ.
Gắn liền với cách mạng khoa học công nghệ và công nghệ hiện đại, với sự phát
triển kinh tế trí thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ hóa. Tri thức hóa và trí thức
hóa công nhân là hai mặt của cùng một quá trình, của xu hướng trí tuệ hóa đối với công
nhân và giai cấp công nhân. Xu thế hướng tới kinh tế tri thức là xu thế chung của thế
giới để đổi mới cơ cấu kinh tế từ phát triển theo bề rộng sang phát triển theo chiều sâu.
Điều này đặc biệt rõ ở những nước phát triển, năng suất lao động phụ thuộc chủ yếu vào
công nghệ, tri thức, tay nghề của người lao động. Sản xuất và dịch vụ hiện đại đòi hỏi
người lao động phải có hiểu biết sâu rộng cả về tri thức và kỹ năng nghề nghiệp. Theo
đó, tốc độ trí thức hóa công nhân đang diễn ra khá nhanh và công nhân tri thức đã dần
chiếm tỷ lệ cao – tới 40% trong tổng số lao động xã hội ở các nước phát triển. Công
nhân hiện đại với trình độ tri thức cao cùng với sự phát triển của năng lực trí tuệ đã trở
thành nguồn lực cơ bản, nguồn vốn xã hội quan trọng nhất trong các nguồn vốn của xã hội hiện đại. 10 lOMoAR cPSD| 46342576
2.2.4. Trở thành giai cấp lãnh đạo.
Giai cấp công nhân là đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ, là con đẻ của
nền công nghiệp hiện đại, được rèn luyện trong nền sản xuất tiến bộ, đoàn kết. Đây cũng
là giai cấp sở hữu đặc tính cách mạng kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật.
Giai cấp công nhân hiện nay phát triển cả về số lượng và chất lượng kéo theo sự
phát triển của lực lượng sản xuất và tất yếu khách quan dẫn đến quan hệ sản xuất cũ phải
thay đổi để phù hợp với lực lượng sản xuất phát triển. Họ được thấm nhuần tư tưởng
cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, lại ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác.
Chính vì vậy mà giai cấp công nhân có đủ điều kiện, khả năng trở thành giai cấp lãnh
đạo, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga là dấu mốc quan trọng, đánh dấu một
cột mốc mới trong lịch sử phát triển của nhân loại. Nó đã xóa bỏ các giai cấp bóc lột, tư
sản, địa chủ và chế độ người bóc lột người. Đặc biệt thắng lợi này đã đưa giai cấp công
nhân từng bị bóc lột nặng nề lên thành giai cấp đứng đầu và làm chủ xã hội.
Ngày này, Cách mạng Tháng Mười Nga đã cổ vũ và tạo tiền đề để giai cấp công
nhân trở thành giai cấp lãnh đạo trong nhiều nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt
Nam. Đảng Cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công nhân ra đời và đảm nhận vai
trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu về sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp công
nhân với tư cách là giai cấp cách mạng. Đảng Cộng sản được trang bị Chủ nghĩa
MácLênin, đại biểu cho trí tuệ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, có khả năng
đề ra đường lối chính trị đúng đắn đồng thời có khả năng thuyết phục quần chúng theo đường lối đó.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi của GCCN thế giới.
Giai cấp công nhân thời Mác là giai cấp lao động, làm thuê, bị bóc lột và xuất
thân chủ yếu từ nông dân và nông thôn. Nhưng từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại
đây, xu thế đô thị hóa và đông đảo cư dân đô thị đã bổ sung một lượng lớn vào nguồn
nhân lực của giai cấp công nhân.
Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ cùng với cách tổ chức xã hội hiện đại cũng
làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại đa dạng tới mức nội hàm của nó liên tục 11 lOMoAR cPSD| 46342576
phải điều chỉnh theo hướng mở rộng: theo lĩnh vực (công nghiệp – nông nghiệp - dịch
vụ) theo trình độ công nghệ.
Bên cạnh đó sự phân loại công nhân theo sở hữu (có cổ phần, có tư liệu sản xuất;
trực tiếp lao động tại nhà để sống và không có cổ phần), phân loại công nhân theo chế
độ chính trị (công nhân ở các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ở các
nước G7, ở các nước đang phát triển) … cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến
sự biến đổi của giai cấp công nhân thế giới.
2.4. Tác động của sự biến đổi đến sự phát triển của GCCN và việc thực hiện SMLS của GCCN.
Xu hướng “trí tuệ hóa” tăng nhanh: Gắn liền với cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, với sự phát triển kinh tế tri thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí tuệ
hóa. Trên thực tế đã có thêm nhiều khái niệm mới để chỉ công nhân theo xu hướng này,
đó là “công nhân tri thức”, “công nhân trí thức”, “công nhân áo trắng”… Lao động cần
trình độ cao đòi hỏi người lao động phải có hiểu biết sâu rộng tri thức và kỹ năng nghề
nghiệp. Ngày nay, công nhân được đào tạo chuẩn mực và thường xuyên được đào tạo
lại, đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ trong nền sản xuất. Hao phí lao
động hiện đại chủ yếu là hao phí về trí lực chứ không còn thuần túy là hao phí sức lực
cơ bắp. Cùng với nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tinh thần và văn hóa tinh thần của công
nhân ngày càng tăng, phong phú, đa dạng hơn và đòi hỏi chất lượng hưởng thụ tinh thần cao hơn.
Xu hướng “trung lưu hóa” gia tăng: Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chủ nghĩa tư
bản đã có một số điều chỉnh nhất định về phương thức quản lý, các biện pháp điều hòa
mâu thuẫn xã hội. Một bộ phận công nhân đã tham gia vào sở hữu một lượng tư liệu sản
xuất của xã hội thông qua chế độ cổ phần hóa. Về mặt hình thức, họ không còn là “vô
sản” nữa và có thể được “trung lưu hóa” về mức sống, nhưng về thực chất, ở các nước
tư bản, do không chiếm được tỷ lệ sở hữu cao nên quá trình sản xuất và phân chia lợi
nhuận vẫn bị phụ thuộc vào những cổ đông lớn. Việc làm và lao động vẫn là nhân tố
quyết định mức thu nhập, đời sống của công nhân hiện đại. Quyền định đoạt quá trình
sản xuất, quyền quyết định cơ chế phân phối lợi nhuận vẫn thuộc về giai cấp tư sản. 12 lOMoAR cPSD| 46342576
Là giai cấp giữ vai trò lãnh đạo: Đảng Cộng sản – đội tiên phong của giai cấp
công nhân, giữ vai trò cầm quyền trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số
quốc gia xã hội chủ nghĩa. Từ khi nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời – Nhà nước
Xô viết, giai cấp công nhân và đội tiền phong của mình đã trở thành giai cấp lãnh đạo
giành chính quyền và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở các quốc gia đi lên xã hội
chủ nghĩa (Liên Xô, Đông Âu trước đây và các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay). Trong
bối cảnh mới của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
công nhân hiện đại cũng tăng nhanh về số lượng, thay đổi lớn về cơ cấu trong nền sản
xuất hiện đại. Cơ cấu xã hội, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu thu nhập giữa các bộ phận công
nhân rất khác nhau trên phạm vi toàn cầu cũng như trong mỗi quốc gia.
CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ VỚI GCCN VIỆT NAM HIỆN NAY.
3.1. Những biến đổi tích cực của GCCN VN hiện nay:
Phát triển về số lượng, đa dạng về cơ cấu ngành nghề, trong các thành phần kinh
tế: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hợp tác quốc tế cùng với sự phát triển không
ngừng của khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức đã xuất hiện nhiều ngành nghề mới
trong xã hội. Sự xuất hiện của những ngành nghề mới này thu hút một lực lượng lao
động nhất định. Bên cạnh đó, nhiều ngành dịch vụ phát triển đa dạng và có khả năng
phát triển ngày càng lớn mạnh, có nhu cầu lớn về nguồn nhân lực, mức thu nhập lại khá
cao đã tạo sự hấp dẫn nên bộ phận công nhân ở những ngành này ngày càng phát triển.
Sự gia tăng về số lượng của giai cấp công nhân ở nước ta trong những năm qua
chủ yếu là nhờ vào sự phát triển ngành công nghiệp dịch vụ, du lịch… Trong đó có sự
đóng góp lớn của thành phần kinh tế ngoài nhà nước, đây là khu vực có số lượng công
nhân tăng lên nhanh chóng, góp phần vào sự tăng trưởng nhanh về số lượng của giai cấp
công nhân nước ta. Nếu như trước những năm đổi mới, số lượng công nhân nước ta là 7
triệu, đến năm 2007 là 9.5 triệu và năm 2013 tăng lên gần 11 triệu thì hiện nay đã có
khoảng 16.5 triệu người.
Kết quả của việc thực hiện những chính sách phát triển nền kinh tế và quá trình
mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng, Nhà nước trong những năm qua đã tạo thuận
lợi cho giai cấp công nhân tăng về số lượng và ngày càng phát triển đa dạng hơn. 13 lOMoAR cPSD| 46342576
Trình độ chuyên môn nghề nghiệp ngày càng được nâng cao: Nâng cao trình độ
học vấn, chuyên môn và trình độ tay nghề của công nhân là xu hướng khách quan của
quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, quá trình hội nhập quốc tế và cũng là
tất yếu của việc phát triển những ngành nghề sản xuất. Đồng thời đây chính là động lực
quan trọng thúc đẩy người lao động tự nguyện tự giác, không ngừng phấn đấu học tập
nâng cao trình độ mọi mặt, cả về văn hóa, chuyên môn và tay nghề để có thể đáp ứng
được yêu cầu đòi hỏi mà các ngành nghề sản xuất và xã hội đặt ra.
Kết quả thống kê cho thấy, nếu so với năm 2005, lao động qua đào tạo chỉ chiếm
12.5% tổng số lao động, thì đến năm 2010 tăng lên 14.6% và đến 2016 tăng lên
20.6%. Nếu phân theo ngành nghề, tỷ lệ công nhân được đào tạo chuyên môn, trong lĩnh
vực khai khoáng tăng từ 33.3% năm 2010 lên 50.4% năm 2016; lĩnh vực công nghiệp
chế biến tăng từ 13.4% năm 2010 lên 18.5% năm 2016; lĩnh vực xây dựng tăng từ 12.6%
năm 2010 lên 14.0% năm 2016; lĩnh vực dịch vụ vận tải tăng từ 33.6% năm 2010 lên
55.2% năm 2016; lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng từ 79.3% năm 2010 lên 83.1% năm 2016.
Ngày càng khẳng định địa vị chính trị, kinh tế, xã hội: Xét về cả mặt lý luận và
thực tiễn, khi trình độ công nhân lao động được nâng lên thì ý thức, bản lĩnh chính trị,
tinh thần trách nhiệm trong lao động sản xuất của họ cũng ngày càng được nâng cao.
Đồng thời thông qua yêu cầu công việc cũng hình thành và rèn luyện cho họ tác phong
công nghiệp, năng động hơn, sáng tạo hơn, cùng với ý thức xây dựng và tuân thủ kỷ luật
lao động theo hướng tự giác hơn, minh bạch hơn.
Công nhân nên được nâng cao tay nghề, kỹ năng lao động, rèn luyện tác phong
công nghiệp, phương pháp làm việc tiên tiến. Lớp công nhân trẻ được đào tạo nghề theo
chuẩn nghề nghiệp ngay từ đầu, có tri thức, nắm vững khoa học - công nghệ tiên tiến,
được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất hiện đại… dần khẳng định là lực lượng lao động
chủ đạo trong xã hội, có tác động tích cực đến sản xuất công nghiệp, giá trị sản phẩm
công nghiệp, gia tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong tương lai.
Trong công cuộc đổi mới, nhất là từ khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân có vai trò đặc biệt quan trọng. Đảng đã
khẳng định, giai cấp công nhân nước ta là “lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, 14 lOMoAR cPSD| 46342576
văn minh”. Tuy chỉ chiếm tỷ lệ trên 14% dân số, 27% lực lượng lao động xã hội, song
hằng năm giai cấp công nhân nước ta đã tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội và
hơn 70% ngân sách nhà nước.
Những biến đổi tích cực trong cơ cấu của giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay
đã phản ánh giai cấp công nhân Việt Nam đang phát triển lớn mạnh cả về số lượng và
chất lượng, đóng góp sức lực vào phát triển kinh tế - xã hội, xứng đáng là giai cấp đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2. Những hạn chế của GCCN Việt Nam hiện nay.
Trước yêu cầu của sự phát triển, giai cấp công nhân nước ta còn nhiều hạn chế,
bất câp. Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng,̣
cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ
thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao
động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và
có hệ thống. Chúng ta đang ở trong giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”. Tuy nhiên, quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế lại không tương thích với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
đông. Để hướng đến mộ t nền sản xuất công nghiệ p hiệ n đại, số lượng giai cấp ̣ công
nhân lao đông công nghiệ p chỉ chiếm gần 22% lực lượng lao động xã hội là hếṭ sức khiêm tốn.
Sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong nội bộ ngày càng sâu sắc, ảnh
hưởng đến sự thống nhất, đoàn kết của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam
được tổ chức bởi đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là giai cấp có sự thống
nhất, đoàn kết cao. Nhưng trong điều kiện hội nhập quốc tế, dưới tác động của kinh tế
thị trường, đang “có sự chênh lệch cao và phân hóa về thu nhập giữa các bộ phận công
nhân; số công nhân lao động tay chân đơn giản có vị thế yếu trên thị trường lao động,
có thu nhập thấp và nhiều khó khăn trong đời sống, cần được quan tâm nhiều hơn”.
Công nhân làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau thì thu nhập của họ
cũng khác nhau. Theo kết quả thống kê về tiền lương bình quân trên cả nước năm 2015
cho thấy: Công nhân làm việc trong doanh nghiệp nhà nước là 9.509 nghìn đồng / người
/ tháng; doanh nghiệp ngoài nhà nước là 6.225 nghìn đồng/ người/ tháng; doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài 7.502 nghìn đồng/ người/ tháng. Cùng với sự phát triển mạnh 15 lOMoAR cPSD| 46342576
mẽ của khoa học và công nghệ, việc ứng dụng khoa học vào sản xuất ngày càng được
đẩy mạnh, dẫn đến sự phân tầng giữa công nhân có thu nhập cao ở các ngành độc quyền,
những ngành nghề mới, lao động phức tạp với công nhân có thu nhập thấp ở những
ngành nghề truyền thống, lao động giản đơn. Số liệu thống kê năm 2016 cho thấy, thu
nhập bình quân của công nhân lao động trong các ngành: khai khoáng là 10.202 nghìn
đồng/ tháng; lĩnh vực khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên là
41.010 nghìn đồng/ tháng; dịch vụ vận tải hàng không là 24.488 nghìn đồng/ tháng; dịch
vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm là 15.990 nghìn đồng/ tháng. Trong khi đó, trong lĩnh
vực công nghiệp chế biến, chế tạo thu nhập bình quân là 6.346 nghìn đồng/ tháng; ngành
xây dựng là 6.214 nghìn đồng/ tháng; khai thác quặng kim loại thu nhập là 4.811 nghìn
đồng/ tháng; chế biến và sản xuất các sản phẩm từ gỗ là 4.937 nghìn đồng/ tháng... Với
xu hướng trí thức hóa công nhân do sự phát triển của khoa học và công nghệ, thì sự phân
tầng, phân hóa trong nội bộ giai cấp công nhân nước ta sâu sắc hơn trong thời gian tới.
Trong hội nhập quốc tế, lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị, lý tưởng cách
mạng của một bộ phận công nhân bị phai nhạt, ảnh hưởng đến vai trò tiên phong của
giai cấp công nhân nước ta. Theo môt cuộ c khảo sát gần đây đối với công nhân bạ miền
(Bắc, Trung, Nam) cho thấy, hầu hết công nhân không nhân mình thuộ c giai cấp ̣ lãnh
đạo xã hôi, họ chỉ nhậ n mình là những người làm công ăn lương, cố gắng làm tốṭ công
viêc để tăng thêm thu nhậ p nhằm cải thiệ n cuộ c sống. Không ít công nhân làṃ việc
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tâm lý làm thuê. Họ chỉ chú trọng
đến “công việc”, làm tròn phận sự, thụ động và ít chú trọng đến các lĩnh vực chính trị -
xã hội, coi những hoạt động đó là của ban chuyên trách. Do nhân thức nhự vây, nên có
“một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham giạ hoạt động trong
các tổ chức chính trị - xã hội”.
Hiện nay, mặt trái của hội nhập quốc tế đang làm cho “công nhân nước ta không
đồng đều về nhận thức xã hội, giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tổ chức và kỷ
luật lao động”. Không ít công nhân còn chưa nhận thức đầy đủ về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp mình; ý chí phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiên phong gương mẫu của
một bộ phận công nhân giảm sút. Chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, cơ hội có điều kiện
phát triển nhanh chóng. Một bộ phận công nhân trẻ còn bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã
hội, sống buông thả, phai nhạt lý tưởng, suy thoái về đạo đức, lối sống, xa rời bản chất 16 lOMoAR cPSD| 46342576
tốt đẹp của giai cấp công nhân, gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp và hình ảnh người
công nhân Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế… Đây là một trong những nguyên
nhân chủ yếu làm cho tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân ngày càng ít.
Kết quả môt cuộ c khảo sát về lối sống của giai cấp công nhân nước ta hiệ n
naỵ cho thấy: Công nhân có lối sống buông thả, thực dụng chiếm 27.9%; 22% ích kỷ,
chủ nghĩa cá nhân; 13.6% phai nhạt lý tưởng, giá trị sống; 18.7% có biểu hiên suy thoáị
đạo đức, lối sống; 12.9% có thái đô bi quan, chán đời; 20.3% vô cảm trước bất công;̣
25.5% ứng xử, giao tiếp kém; 8.1% trụy lạc; 29.4% đua đòi, lãng phí. Những kết quả
khảo sát cũng chỉ ra, nhiều công nhân vi phạm kỷ luât lao độ ng như: không sử dụng ̣
thiết bị bảo hô lao độ ng 45.2%; đi muộ n, về sớm 24.8%; lấy đồ của công ty 11.8%;̣
nghỉ làm không xin phép 25.6%; không hoàn thành định mức công viêc 25.6%; không ̣
chấp hành kỷ luât lao độ ng 19.3%.̣
3.3. Giải pháp phát triển và bài học rút ra cho GCCN Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế gắn với
phát triển kinh tế tri thức theo định hướng XHCN: Đẩy mạnh CNH, HĐH trong điều
kiện hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta cần phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của đất
nước, phát huy lợi thế so sánh, nhất là lợi thế về nguồn lực lao động trong quá trình hội
nhập. Do vậy cần phải “tiếp tục phát triển một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao
động”. Thực hiện nhiệm vụ này vừa giải quyết được việc làm cho lao động, vừa đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, sử dụng nguồn lực
lao động ở mọi trình độ, phân bổ hợp lý lao động giữa các vùng miền, thành phần, ngành nghề kinh tế.
Cần nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trong quá trình tham gia vào
chuỗi sản xuất giá trị toàn cầu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên
cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới,
sáng tạo và chủ động hội nhập quốc tế. Mặt khác, thu hút đầu tư nước ngoài vào những
ngành công nghệ cao, chú trọng chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Chủ động lựa chọn và có chính sách ưu đãi đối với các dự án
đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong 17 lOMoAR cPSD| 46342576
chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh nghiệp trong nước, là điều kiện để giai cấp
công nhân nước ta phát triển về chất lượng.
Phát huy nội lực và tranh thủ những điều kiện thuận lợi do ngoại lực mang lại để
đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng và tiếp cận nhanh với sự tiến bộ của khoa học công nghệ
thế giới để sản xuất được những sản phẩm cạnh tranh trong điều kiện hội nhập là nhiệm
vụ quan trọng hiện nay. Điều này sẽ làm biến đổi cơ cấu sản xuất theo hướng hiện đại,
qua đó cũng làm cho giai cấp công nhân có điều kiện để phát triển về số lượng và chất
lượng, cơ cấu giai cấp công nhân cũng biến đổi theo hướng trí thức hóa công nhân. Bộ
phận công nhân lao động trí óc ngày càng tăng, lực lượng lao động chân tay giảm dần
trong cơ cấu giai cấp công nhân nước ta.
Thứ hai, hoàn thiện và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật nhằm
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của giai cấp công nhân trong quá trình
hội nhập quốc tế: Trong quá trình hội nhập quốc tế, cùng với việc hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường, thì hệ thống chính sách, pháp luật về lao động cũng cần được đổi mới,
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Những chính sách, pháp luật hiện hành đang bộc lộ nhiều
hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được những thay đổi của tình hình phát triển kinh tế, xã
hội trong nước và quốc tế. Không ít địa phương mới chỉ coi trọng việc thu hút đầu tư,
tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách cho các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp,
mà chưa thực sự quan tâm thích đáng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của công nhân lao động.
Để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế đến
sự biến đổi của giai cấp công nhân nước ta, bên cạnh việc coi trọng phát triển kinh tế
cần quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho giai cấp công nhân. Trước mắt
cần hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách việc làm cho công nhân; hoàn thiện
chính sách tiền lương phù hợp, đảm bảo sự công bằng trong phân phối thu nhập cho
công nhân - lao động; đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong doanh nghiệp,
nhất là trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài; hoàn thiện và phát triển hệ thống an sinh xã hội, mở rộng phúc lợi xã hội cho
công nhân; hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp;
xây dựng, ban hành và thực hiện hiệu quả quy định về xây dựng thiết chế văn hoá - xã
hội cho công nhân trong doanh nghiệp. 18