Bài thi giữa kỳ an sinh xã hội | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Theo các anh chị hệ thống an sinh xã hội Việt Nam có đặc điểm nào? Báo chí viết  về An sinh xã hội thường viết về những đề tài gì? Anh chị hãy khái quát về quy  trình xây dựng một tác phẩm báo chí viết về an sinh xã hội? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
16 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài thi giữa kỳ an sinh xã hội | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Theo các anh chị hệ thống an sinh xã hội Việt Nam có đặc điểm nào? Báo chí viết  về An sinh xã hội thường viết về những đề tài gì? Anh chị hãy khái quát về quy  trình xây dựng một tác phẩm báo chí viết về an sinh xã hội? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

19 10 lượt tải Tải xuống
Họ và tên: Nguyễn Văn Đức
Lớp: Quay phim k40
Mã SV: 2056060005
Bài giữa kì
Câu 1: Theo các anh chị hệ thống an sinh hội Việt Nam đặc điểm
nào? Báo chí viết về An sinh xã hội thường viết về những đề tài gì?
Câu 2: Anh chị hãy khái quát về quy trình xây dựng một tác phẩm báo chí
viết về an sinh xã
hội?
Bài làm
Câu 1: Theo các anh chị hệ thống an sinh hội Việt Nam đặc điểm
nào? Báo chí viết về An sinh xã hội thường viết về những đề tài gì?
1. Tổng quát an sinh xã hội
Việt Nam
Không phải ai cũng hiểu rõ về an sinh xã hội (ASXH) và các chương
trình an sinh xã hội. Theo nghĩa rộng, an sinh xã hội có thể hiểu là sự bảo đảm
thực hiện các quyền để con người được an bình, bảo đảm an ninh, an toàn trong
hội. Như vậy, đây các chương trình hành động của chính phủ nhằm thúc
đẩy
phúc lợi của người dân thông qua các biện pháp hỗ trợ đảm bảo quyền tiếp cận
các nguồn lực đầy đủ về nhiều mặt.
Chính sách bảo đảm an sinh xã hội là hệ thống các chính sách
can thiệp của Nhà nước (bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội...) và sự hỗ trợ của
tổ chức hay tư nhân (các chế độ không theo luật định). Việc thiếu hiểu biết về
an sinh hội cùng những quan niệm sai lầm dẫn đến việc nhiều lao động gặp
khó
khăn khi về già, ốm đau hoặc khi mất đi khả năng lao động.
Trong hơn 35 năm qua, cùng với những thành tựu đổi mới kinh tế,
phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường
tiềm lực kinh tế quốc gia, Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn, đầu tư nguồn lực
và đổi mới cơ chế, chính sách để thực hiện an sinh xã hội, chăm lo cải thiện
không ngừng cuộc sống của người dân hiện nay. dụ như tính đến tháng 12-
2020,
tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều ước giảm còn khoảng 2,75%,
giảm 1% so với cuối năm 2019. Tỷ lệ giảm nghèo đa chiều nhanh đã giúp Việt
Nam
về đích trước 10 năm so với Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, là một trong 30
quốc gia áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
2.
Đặc điểm an sinh xã hội Việt Nam
Ở Việt Nam, nhận thức về an sinh xã hội và quyền an sinh xã hội
ngày càng được nâng cao cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. An sinh xã hội
được xác định một bộ phận quan trọng của chính sách hội, nằm trong
chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bảo đảm an sinh xã hội là điều
kiện để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế
thị trường, phản ánh bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Như vậy, mục tiêu của an sinh xã hội là xây dựng hệ thống an sinh
xã hội đa dạng, toàn diện, từng bước mở rộng diện bao phủ, có tính chia sẻ giữa
Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa
các thế hệ đang là đích đến của các quốc gia trên thế giới.
Về cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội: có nhiều quan điểm và
cách tiếp cận khác nhau. Theo quan điểm phổ biến của các tổ chức quốc tế, thì
một hệ thống an sinh xã hội phải có tối thiểu 3 hợp phần cơ bản tương ứng với 3
chức năng chính của an sinh xã hội, gồm: Thứ nhất, những chính sách, chương
trình phòng ngừa rủi ro; Thứ hai, những chính sách, chương trình giảm thiểu rủi
ro; Thứ ba, những chính sách, chương trình khắc phục rủi ro.
Nước ta lựa chọn phát triển mô hình an sinh xã hội dựa trên quan
điểm của Tổ chức Lao động thế giới (ILO) với các bộ phận cấu thành bảo
hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, bảo trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Đây là mô hình phù hợp
với chủ trương, đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước ta, phát triển hệ
thống an sinh xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, coi con người là động lực, mục tiêu của sự phát triển.
Phát triển quan điểm và chủ trương của Đảng về vấn đề này, trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
1991 và bổ sung, phát triển năm 2011) và nghị quyết của các kỳ đại hội, đặc
biệt Nghị Quyết số 15-NQ/TW, ngày 1-6-2012, của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng
khóa XI, về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020” đã đặt
ra yêu cầu với một cấu trúc bao gồm: 1- Việc làm, thu nhập và giảm nghèo; 2-
Bảo hiểm hội; 3- Trợ giúp hội những người hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn;
4- Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục tối thiểu, y
tế tối thiểu, nhà ở tối thiểu, nước sạch và bảo đảm thông tin).
Theo đó, chính sách an sinh xã hội của Việt Nam tập trung vào 4
nội dung chính như sau: Một là, tăng cường hội việc làm, bảo đảm thu
nhập
tối thiểu giảm nghèo bền vững cho người lao động yếu thế thông qua các
hình
thức hỗ trợ, giải quyết việc làm và kết nối thông tin thị trường lao động; Hai
là, mở rộng hội cho người lao động tham gia hệ thống chính sách bảo hiểm
hội, bảo hiểm thất nghiệp để chủ động đối phó khi thu nhập bị suy giảm hoặc bị
mất do các rủi ro; Ba là, hỗ trợ thường xuyên đối với người có hoàn cảnh đặc
thù và hỗ trợ đột xuất cho người dân khi gặp các rủi ro không lường trước hoặc
vượt quá khả năng kiểm soát thông qua các khoản tiền mặt và hiện vật do ngân
sách nhà nước bảo đảm; Bốn là, tăng cường tiếp cận của người dân đến hệ
thống
dịch vụ xã hội cơ bản, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi
trường, thông tin.
Nước ta chú trọng phát triển hệ thống an sinh xã hội đối với khu
vực nông thôn, dân tộc thiểu số, các đối tượng bị tác động bởi cải cách kinh tế
và xã hội, như lao động di cư, người thuộc diện thu hồi đất, bị tác động bởi
khủng hoảng, người công, trẻ em, người già, người tàn tật... Không ngừng
đẩy
mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề, điều kiện vật chất, tài chính làm
bệ đỡ cho cho hệ thống an sinh xã hội. Trong đó, nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong việc tổ chức thực hiện an sinh xã hội, đồng thời mở rộng sự tham gia của
cộng đồng xã hội vào việc thực hiện chính sách an sinh xã hội dưới hình thức xã
hội hóa.
Từng bước phát triển các chính sách an sinh xã hội với nội dung,
cách tiếp cận và chuẩn mực quốc tế; huy động sự liên kết, hợp tác khu vực và
quốc tế thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người lao động trong bối
cảnh di chuyển lao động quốc tế ngày càng mạnh mẽ.
Để bảo đảm định hướng phát triển của xã hội, việc phát triển an
sinh xã hội phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của nó. Phát triển hệ thống an
sinh xã hội tại Việt Nam đã đưa đến nhiều biến đổi tích cực về mặt thể chế, hệ
thống bảo hiểm xã hội, hệ thống chính sách ưu đãi và các chính sách trợ giúp xã
hội.
An sinh xã hội đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo và
đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần hình thành xã hội không còn
nhóm xã hội bị loại trừ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát
triển đất nước.
3.
Báo chí viết về an sinh xã hội
An sinh xã hội là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển
bền vững, đồng thời là vấn đề mang tính cấp bách cho sự ổn định chính trị của
mỗi quốc gia, khu vực. Đối với lĩnh vực báo chí, dù thế giới đã có vô vàn các
hình thức truyền tải thông tin, liên kết xã hội thông minh, song sự nổi trội về
trách nhiệm xã hội, đạo đức nghề nghiệp và ý thức chính trị của đội ngũ nhà
báo, phóng viên, biên tập viên vẫn tạo cho báo chí vị thế vững chắc, bởi đó là
niềm tin, là sự gửi gắm trách nhiệm của cả cộng đồng.
Nhờ vào sức mạnh của sự thật, báo chí có uy lực và cũng đòi hỏi
trách nhiệm luôn gắn bó, đồng hành và phục vụ mọi mục tiêu phát triển của đất
nước nói chung và vì con người nói riêng, trong đó có lĩnh vực an sinh xã hội.
An sinh xã hội là lĩnh vực thông tin quan trọng trên báo chí.
Thông tin báo chí về an sinh xã hội bao gồm hầu hết toàn bộ thông tin liên quan
đến những nhu cầu đời sống bản của nhân dân như bảo hiểm (bảo hiểm
hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp...), lương tối thiểu, lương hưu, trợ cấp
(thai sản, ốm đau, tai nạn lao động...), ưu đãi xã hội đối với người và gia
đình có công với nước, trợ cấp đột xuất cho người gặp nạn do thiên tai, địch
họa..., trợ cấp hàng tháng cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các chính
sách hỗ trợ việc làm, dạy nghề cho người lao động thất nghiệp, người có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa, người khuyết tật,
đối tượng hội (mại dâm, ma túy)... để hòa nhập cộng đồng và đảm bảo mức
sống
tối thiểu cho họ.
Trong đó, đặc biệt cần chú ý là các đề tài xoay quanh mô hình an
sinh xã hội của Việt Nam, đó là các vấn đề thuộc các đề tài bảo hiểm xã hội
(BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo trợ xã hội và ưu đãi xã hội.
·
Vấn đề bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế:
Trên các phương tiện truyền thông đại chúng, xuất hiện nhiều bài
báo, phóng sự phát thanh, truyền hình… về BHXH, BHYT được thể hiện một
cách
chân thực, sinh động, lối cuốn người đọc, người xem, phản ánh những khó khăn
trở ngại, những cách làm hay, điển hình tốt cũng như những tâm tư, nguyện
vọng
của nhân dân… Điều này đã mang lại hiệu ứng tích cực trong việc tổ chức thực
hiện Luật BHXH, Luật BHYT. Mặt khác, báo chí cũng chínhmột kênh tham
mưu
cho các nhà hoạch định chính sách, đóng góp quan trọng cho hệ thống chính
sách,
pháp luật BHXH, BHYT được vận hành một cách minh bạch, rõ ràng.
Với độ bao phủ rộng, cập nhật liên tục, không giới hạn, báo chí là
phương tiện chuyển tải thông tin BHXH, BHYT nhanh chóng và hữu hiệu nhất.
·
Vấn đề bảo trợ và ưu đãi xã hội:
Cũng tương tự như bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, báo chí là
phương tiện chuyển tải thông tin bảo trợ xã hội và ưu đãi xã hội nhanh chóng,
hữu hiệu.
Báo chí đăng tải các bài viết về cập nhật chính sách của Nhà nước,
các phương án hỗ trợ cho người dân và cả những câu chuyện về kết quả bảo tr
ưu đãi của người dân sau khi được hưởng chính sách. Điều này giúp công tác
mở
rộng pháp luật đến với người dân diễn ra tốt hơn.
Báo chí Việt Nam viết và đăng tải rất nhiều các bài viết thuộc về
an sinh xã hội, chủ yếu là cập nhật luật pháp và câu chuyện đời sống để mọi
người có cái nhìn tổng quan. Thế nhưng vẫn có những kẻ cố tình đưa ra những
nguồn tin sai lệch, cần phải lưu ý và xử trí.
Câu 2: Anh chị hãy khái quát về quy trình xây dựng một tác phẩm báo chí
viết về an sinh xã hội?
tải thông tin liên quan đến An sinh hội một cách chân thực giàu hình
ảnh, tạo đồng cảm trong lòng người đọc.
2.1. Quá trình tìm đề tài cho tác phẩm
“Săn đề tài” là bước quan trọng hàng đầu trong quá trình sáng tạo một tác phẩm
báo chí. Nhiệm vụ ấy đòi hỏi người phóng viên cũng phải dấn
thân vào cuộc sống, lặn ngụp với thực tế để kiếm tìm trong biển thông tin
những đề tài nóng, những vấn đề có sức sống và sự lan tỏa...
Người ta nói đề tài quyết định tới 50% thậm chí 80% thành công của
tác phẩm báo chí. Đề tài báo chí cũng “có khi biến, có khi thường”, nhiều
cái tưởng hấp dẫn có thể viết nhưng lại không thể khai thác được gì, có
những thông tin tưởng chừng rất “vô thưởng vô phạt” nhưng lại cho bài báo
hay. Đề tài tác phẩm báo chí về an sinh xã hội phần nhiều như những “tảng
băng” trôi, ba phần nổi bảy phần chìm, những vỉa, những tầng thông tin nó nằm
sâu phía dưới mà cái lộ thiên đôi khi không dễ nhìn thấy.
Khi viết tác phẩm báo chí, sẽ luôn phải đối diện với một câu hỏi: đề tài này
gì mới không? Đã có báo nào viết chưa? Câu hỏi thường: không mới, đã có báo
khác viết rồi. Tìm trên google ra ngay. Thực ra, tìm được cái mới hoàn toàn
theo kiểu “chưa báo nào viết” thì rất khó. Nhưng đề tài mới nằm ở tư duy mới,
cái nhìn mới cách tiếp cận mới. Khi mọi cái tưởng như đã thì hãy “lạ
hóa” đề tài bằng cái nhìn mới của mình, hãy tìm cái mới trong cái cũ, tìm
những điều trong những cái tưởng như lý, tìm cái thuận trong cái
nghịch cáinghịch trong cái thuận. Từ đó sẽ bật ra những đề tài mới hay.
Bởi đó chính là cái chất của báo chí, báo chí thường diễn tả những gì đang mâu
thuẫn, đang vận động, đang xung đột, đang định hình. Cách tìm đề tài tác phẩm
báo chí, tựu chung lại thì đã được đúc kết thành nhiều phương pháp như
phương pháp quan sát, phương pháp lắng nghe, phương pháp “đi sẽ tới, tìm sẽ
gặp”. Nhưng phương pháp nào, nếu đó chỉ đơn giản vấn đề kỹ thuật
thiếu đi niềm đam mê với nghề, đam mê khám phá thì lại bế tắc. Đam mê đó nó
khiến người viết luôn phải lắng nghe luôn quan sát, luôn đặt câu hỏi. Mỗi sợi
tóc của nhà báo khi giống như một cây ăng ten để thu nhận thông tin từ đời
sống. Đừng tự đóng khung cái nhìn của mình hơn nữa, đừng tự đóng khung
cuộc sống của mình đối với tác phẩm, hãy để những đam mê nghề ở ngay trong
cuộc sống của mình, lúc đó thiết nghĩ nhà báo luôn biết viết gì cho bài báo.
Đặc biệt, với chuyên mục An sinh xã hội, người làm báo cần phải
cập nhật thông tin nhanh, đúng, sâu, chuẩn nhất để đưa đến cho công
chúng. Những quyết định, chính sách, điều lệ của Nhà nước phải được phổ
biến tới toàn dân nhanh chóng, kỹ càng và toàn diện nhất. Điều này đòi
hỏi những nhà báo, phóng viên phải có mối quan hệ xã hội sâu rộng, nền
tảng thông tin tức thời, tin thần tiên phong, nhiệt huyết với nghề thì
mới có thể làm được. Báo chí viết về An sinh xã hội vừa có cái dễ lại có điểm
khó ở điểm đó.
2.2. Tiêu chí của một tác phẩm Báo chí viết về An sinh xã hội
Đầu tiên cần thật sự quan tâm về đề tài. Chủ đề tác phẩm mang tính
tưởng, tính định hướng của báo
chí, có thể được Ban Biên tập gợi ý. Còn nói đề tài là đã bao hàm đối
tượng phản ánh cụ thể để khảo sát, nghiên cứu, phân tích, minh họa một cách
thuyết phục cho chủ đề. Ví dụ, phóng viên có thể được giao viết về
chủ đề đổi mới công tác
phát triển Đảng trong sinh viên hiện nay. Để đề tài hay, phóng
viên phải tìm cho được một trường đại học, một đối tượng cụ
thể với những sự kiện, những câu chuyện thuyết phục để khai thác tư liệu
viết bài, làm phim, v.v... Nhiều tác phẩm khi đọc tiêu đề thấy có chủ đề
hay, thiết thực, nhưng khi đọc nội dung lại thấy đề tài không tương xứng
chọn đối tượng phản ánh (nhân vật, sự
kiện…) không tiêu biểu, không đại diện, không đặc sắc,… nên không được
đánh giá cao.
Thứ hai là cần trao đổi về tiêu chí của đề tài hay. Đề tài hay cần đáp ứng 3 tiêu
chí: Đúng – Trúng – Hấp dẫn
(lôi cuốn). Nhà báo Hải Đường có hẳn cuốn sách “Nhanh, đúng, trúng, hay –
Những tản mạn về nghề báo” (NXB Trẻ - 2016), với nhiều bài học kinh nghiệm
rất quý cho người làm nghề.
Cả 3 tiêu chí Đúng Trúng Hấp dẫn nhiều khi được thể hiện ngay trong tiêu
đề (tít) bài báo hoặc trong phần giới thiệu tác phẩm (sapo).
Đúng, đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước. Chỉ cần đọc đầu đề bài báo là biết.
Cách đây 5 năm, khi Luật Đất đai 2013 vừa mới hiệu lực, một tác phẩm
của một tờ báo khối ngành, đoàn thể dự Giải Báo chí Quốc gia, đặt vấn đề
nên xem xét lại Luật Đất đai?, một vài điều bất cập được nhà báo phát
hiện trong thực tiễn… Đặt vấn đề như thế, không đúng quan điểm, chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Nhà báo có quyền (và
chức năng của báo chí) giám sát, phản biện hội bằng tác phẩm báo chí.
Nhưng việc đặt vấn đề xem lại Luật được Quốc hội thông qua vừa mới đi vào
cuộc sống, lại chuyện khác. Bài báo đạt tiêu chí đúng, tính định hướng
chính trị, định hướng luận hội kịp thời. Để đúng, không khó thường
khô khan. Nhưng là bắt buộc.
Trúng, là trúng chỉ đạo của Trung ương, của Bộ, ngành, của cấp ủy
địa phương. Trúng ở đây cũng có nghĩa là phù hợp nhất với điều mong đợi
tại thời điểm đó của công chúng bạn đọc, bạn nghe đài, xem truyền hình, muốn
được biết, được hiểu, được tham gia. Nhiều tác phẩm nội dung đúng nhưng
lại chưa trúng. Nói đúng quan điểm, đúng tinh thần chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Đảng, chính sách của Chính phủ, nhưng câu chuyện ấy, nhân vật ấy,
viết lúc nào cũng được, cũng đúng, không phải câu chuyện, nhân vật,
điều cần nói của hôm nay, của lúc này, của thời điểm bây giờ… Một chủ
trương, một nội dung nghị quyết có thể thực hiện trong một nhiệm kỳ, thậm chí
lâu hơn. Nhưng mỗi năm lại những trọng tâm riêng, mỗi địa phương đặc
thù của mình, câu chuyện riêng của năm, câu chuyện riêng của địa phương,
của ngành. “Bắt” được cái đó, mới trúng. Tiêu chí trúng đòi hỏi nhà báo
con mắt tinh đời, phát hiện nhanh những cái riêng tiêu biểu, đại diện nhất cho
cái chung, cái riêng bao giờ cũng bộ phận của cái chung, chứa đựng cái
chung (xét về mặt triết học).
Trúng cũng có nghĩa đòi hỏi nhà báo phát hiện được những chi tiết
đắt nhất, tiêu biểu nhất nói được, phản ánh được sự chỉ đạo của Đảng, tổ chức
thực hiện của chính quyền, nguyện vọng cấp bách của người dân,…
Năm 2019, chủ đề cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung được hàng loạt
tờ báo khai thác. Nhưng Báo Đầu tư “bắt” trúng mạch là khai thác đề tài ở
góc độ kinh tế Việt Nam xoay xở ra sao, hạn chế tác động tiêu cực, tranh thủ
hội để “mượn gió” thế nào. Hoặc chủ đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ
quốc, nói lúc nào cũng đúng, cũng cần. Nhưng năm 2019 khác với năm 2014
(khi sự kiện khiêu khích của tàu Hải Dương 981 - Trung Quốc), phải tiếp
cận khác. Báo Người Lao động tìm trúng đề tài “Một triệu cờ Tổ quốc cùng
ngư dân bám biển”, v.v... Hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, nghe, xem từ nội
dung đề tài (mới, lạ, độc đáo), đáp ứng ngay nhu cầu bức thiết của công chúng,
đến việc diễn đạt một cách sinh động, giữ họ lại, tác phẩm có sức lay động, tác
động tới nhận thức và tình cảm. Hấp dẫn nhiều khi bắt đầu từ tít bài báo. Cùng
nói chuyện làm thế nào để bài trừ hủ tục, xây dựng nếp sống văn hóa đối với bà
con vùng dân tộc thiểu số trong việc chôn cất người chết đúng cách, khoa học,
không ảnh hưởng đến người sống, Đài Thanh Hóa đặt tít phóng sự “Đưa
người chết vào quan tài”. Hấp dẫn chỗ nghe vẻ mâu thuẫn, điều đó
đương nhiên. Nhưng, ở đâycả một cuộc đấu tranh bền bỉ, khéo léo, văn hóa,
mới thuyết phục được người dân làm cái việc tưởng như bình thường ấy.
Cùng nói chủ đề các loại thuế, phí chồng chéo, làm khó người nông
dân, báo Nông thôn Ngày nay chọn tít đơn giản, trực quan nhưng đầy tính
khái quát, “ý tại ngôn ngoại”, lôi cuốn ngay sự tò của người đọc: “Một hạt
thóc, 40 khoản đóng góp”. Hấp dẫn phụ thuộc vào cách kể, cách trình bày câu
chuyện của tác giả, sao cho người đọc, nghe, xem biết được, hiểu được thông
điệp của câu chuyện một cách dễ
nhất, nhanh nhất, thú vị nhất, từ việc sử dụng hình ảnh, âm thanh, từ ngữ, công
cụ đa phương tiện thời 4.0.
Một tác phẩm khó cùng lúc đạt được cả ba yếu tố trên. Tuy nhiên
nếu chịu khó đầu suy nghĩ cho đề tài, cùng với các tiêu chí khác, tác phẩm
chắc chắn không dở.
Phóng viên chuyên trách An sinh hội những người kiến thức kinh
nghiệm hoạt động trong lĩnh vực An sinh xã hội trong nước. Như
trên đã phân tích, việc nắm rõ vai trò, ý nghĩa, hệ thống An sinh xã hội
có tính chất quyết định đến các tác phẩm báo chí về lĩnh vực An sinh xã hội của
mỗi phóng viên.
Phóng viên chuyên trách cũng cần thiết là người có tâm huyết với
nghề báo, có sự nhạy cảm nghề nghiệp và giàu tình cảm. Bởi lẽ, đây là
lĩnh vực đòi hỏi sự xông xáo của phóng viên, phản ánh thông tin về đời
sống nhân dân những vùng xa xôi, hẻo lánh, khó khăn nhất. Đồng thời, lĩnh
vực này cũng cần có sự nhạy cảm cao để
nhận biết những nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn sinh sống của người
dân, những kẽ hở của chính sách gây thất thoát quyền lợi của người dân hay để
cho kẻ xấu lợi dụng... Bên cạnh đó, người phóng viên chuyên trách không
thể thiếu cảm xúc. Cảm xúc và kỹ năng viết khiến phóng viên có thể chuyển
Cần cảnh giác với những thông tin do kẻ xấu hay các thế lực thù địch lợi dụng
An sinh xã hội để phá hoại khối đại đoàn kết trong nước.
Đây là bài học không chỉ đối với riêng lĩnh vực An sinh xã hội mà với tất cả các
lĩnh vực thông tin khác trên báo chí.
Trong khi tác nghiệp, phóng viên cần cảnh giác với những kẻ xấu
lợi dụng danh nghĩa hoạt động An sinh hội để trục lợi trái pháp luật, hoặc
những chiêu bài an sinh của thế lực thù địch trong ngoài nước. Mặt khác,
người làm báo cũng cần lưu ý tới những mánh khoé thông tin của các thế lực
thù địch, tung tin bôi nhọ các chính sách An sinh xã
hội của Đảng, Nhà nước, phong trào của nhân dân, gây hại cho tiến trình phát
triển và hội nhập của nước ta.
2.3.Quy trình sáng tạo
tác phẩm báo chí viết về An sinh hội Trong quá trình sáng tạo tác phẩm
báo chí, nhà báo, sáng tạo tác phẩm thuộc loại hình báo chí nào, cũng cần
tuân thủ một quy trình chung, bao gồm 6 bước: (1) tìm hiểu và nghiên cứu thực
tế; (2) xác định chủ đề - đề tài - tư tưởng chủ đề; (3) thu thập và khai thác thông
tin; (4) thể hiện tác phẩm về nội dung hình thức; (5) duyệt, đăng báo, xuất
bản, phát hành, phát sóng và (6) lắng nghe thông tin phản hồi.
Bước 1: Tìm hiểu và nghiên cứu thực tế:
Đây là khâu đầu tiên trong quy trình sáng tạo một tác phẩm báo
chí. Các nhà báo thường dễ bỏ qua khâu này, nhất là đối với những nhà báo
đã có bề dày kinh nghiệm. Bởi vì nhà báo tin vào kinh nghiệm và sự hiểu
biết họ sẵn để xác định, lựa chọn đề tài. Quá trình tìm hiểu nghiên
cứu thực tế nếu được coi trọng sẽ giúp nhà báothêm thông tin, tài liệu, giúp
cho việc chọn đề tài thuyết phục hơn. Thực tế đời sống luôn biến động hàng
ngày hàng giờ, việc tìm hiểu nghiên cứu thực tế chính quá trình nhà báo
thu thập thông tin cần thiết cho việc quyết định chọn hay không chọn đề tài
đó. Nó cũng khác với quá trình tìm hiểu, thu thập và khai thác thông tin từ thực
tế để hoàn thành tác phẩm sau này.
Bước 2: Xác định đề tài, chủ đề, tư tưởng chủ đề
Đề tài là những vấn đề đặt ra trong cuộc sống thực, rất đa dạng và
phong phú, không phụ thuộc vào phạm vi giới hạn rộng hay hẹp của vấn đề,
sự kiện mà thường mang tính khách quan; ví dụ, đề tài về trẻ em, về giáo
dục, về môi trường... Chủ đề là vấn đề đã được nhà báo lựa chọn để thực hiện
tác phẩm và được giới hạn trong một phạm vi nhất định. Ví dụ, đề tài trẻ
em nhưng chủ đề đề cập là trẻ em khuyết tật, hoặc chủ đề về giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ em, hoặc chủ đề bảo vệ môi trường văn hóa học đường...
Tư tưởng chủ đề là nội dung được nhà báo xác định cách thức thể hiện tư
tưởng, quan điểm, cách nhìn nhận của nhà báo về vấn đề đó. tưởng chủ đề
thể hiện rõ lập trường, sự nhận thức và những phán xét của nhà báo về một
22
vấn đề nào đó. Cách bộc lộ tư tưởng chủ đề của một tác phẩm chính
là sự bộc lộ thái độ, cách nhìn nhận đánh giá vấn đề của nhà báo. Nhà báo
xác định đề tài, chủ đề và tư tưởng chủ đề của tác phẩm để quyết định
hướng khai thác và thu thập thông tin liên quan, cần thiết cho tác phẩm,
bám sát với chủ đề tác phẩm. Đây là khâu thứ hai quan trọng, nó giúp nhà
báo xác định và giới hạn vấn đề để triển khai các bước tiếp theo. Nếu việc tìm
hiểu thực tế được tiến hành tốt, có hiệu quả thì việc xác định đề
tài chủ đề, tư tưởng chủ đề sẽ bảo đảm chính xác và hiệu quả.
Bước 3: Thu thập và khai thác thông tin
Đây là quá trình đòi hỏi nhà báo phải có kỹ năng nghiệp vụ tinh
thông để có thể khai thác thông tin một cách chính xác nhất, đầy đủ nhất.
Thông thường, các nhà báo sử dụng 3 phương pháp cơ bản để có được thông
tin. Trước hết là, đọc nghiên cứu tài liệu - thể đọc các bản báo cáo, kỷ
yếu, liệu lịch sử, đọc tìm kiếm trên mạng internet. Đọc thường kết hợp
với phân tích, so sánh… tìm hiểu bản chất của những thông tin sự kiện, vấn đề
liên quan đến đề tài, chủ đề tác phẩm. Thứ hai sử dụng phương pháp phỏng
vấn thông qua hệ thống câu hỏi để tìm kiếm thông tin từ đối tượng những
nhân vật liên quan hoặc nhân vật nắm giữ thông tin. Nhà báo cần biết lựa chọn
đối tượng, chuẩn bị hệ thống câu hỏi, các phương tiện kỹ thuật thích hợp để thu
thập thông tin phục vụ cho chủ đề của tác phẩm. Phương pháp thứ ba quan
sát. Khi quan sát, nhà báo sự phân tích, thẩm định, nhận xét. Quan sát kèm
theo sự cảm nhận của người quan sát sẽ quyết định việc thu thập thông tin
thẩm định thông tin chính xác hơn.
Bước 4: Thể hiện tác phẩm về nội dung và hình thức
Nội dung của một tác phẩm báo chí thường phản ánh chân thực, khách
quan những sự kiện, vấn đề, sự việc có thực xảy ra trong cuộc sống hàng
ngày, mang tính thời sự, ý nghĩa hội được công chúng quan tâm.Đây
khâu quan trọng trong quy trình sáng tạo tác phẩm, bởi vì, tác phẩm hấp
dẫn
công chúng hay không sẽ phụ thuộc vào những vấn đề đề cập cách
thức thể hiện nó. Về hình thức thể hiện tác phẩm, trước hết, tùy thuộc loại
hình báo chí và thể loại tác phẩm. Mỗi thể loại báo chí thể hiện một mô thức
phản ánh khác nhau. Sự phân chia thể loại căn cứ vào một số tiêu chí. Khi
cần đưa thông tin nhanh, ngắn gọn, người ta sử dụng thể loại tin tức hoặc
một thể loại trong nhóm thông tấn báo chí. Khi cần phân tích, nêu lý lẽ,
dẫn chứng, người ta chọn thể loại thuộc nhóm chính luận. Khi cần bày tỏ
cảm xúc thẩm mỹ hoặc viết dưới bút pháp nhẹ nhàng… thì thường sử dụng các
thể chính luận nghệ thuật.
Bước 5: Duyệt, đăng báo, xuất bản, phát hành, phát sóng
Tác phẩm báo chí là sản phẩm cá nhân sáng tạo ban đầu của phóng
viên, nhưng sau khi hoàn thành sẽ được biên tập cho phù hợp với chủ đề,
tôn chỉ mục đích... của tờ báo. Vì thế mà không thể bỏ qua khâu duyệt
bài. Sản phẩm báo chí xuất hiện trước công chúng luôn có bàn tay biên
tập. Người biên tập là những người đầu tiên thay mặt công chúng đọc
(nghe, xem) tác phẩm của nhà báo. Họ chỉnh sửa, cắt ngắn hoặc thêm bớt,
kéo dài... cho rõ ý, rõ câu chữ. Có tác phẩm phải biên tập nhiều, có tác
phẩm phải biên tập ít tùy thuộc vào trình độ người viết bài và trình độ biên tập
viên. Khi ra với công chúng, tác phẩm phải đạt độ hoàn hảo nhất có thể.
Bước 6: Lắng nghe thông tin phản hồi
Sau khi phát sóng, tác phẩm báo chí sẽ nhận được các thông tin phản hồi của
người đọc, người nghe, người xem. Thông thường thì nhà báo ít để ý đến những
thông tin phản hồi của luận, bởi họ thường bận rộn quá nhiều sự quan
tâm khác. Tuy nhiên, một nhà báo có trách nhiệm là nhà báo biết quan tâm đến
những thông tin phản hồi từ công chúng để điều chỉnh thái độ đối xử.
Hiểu đúng khái niệm, tuân thủ yêu cầu đặc thù trong việc thực hiện
các bước của quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí là điều kiện cơ bản nhất
cho tính chuyên nghiệp của nhà báo trong tổ chức thực hiện các hoạt động
sáng tạo tác phẩm. Việc ứng dụng quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí đòi hỏi
yêu cầu khác biệt với hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí các mảng đề tài
khác nhau. Thậm chí, ngay trong cùng một loại hình báo chí, khi sáng tạo tác
phẩm các thể loại khác nhau, cũng sự khác biệt. Chính vậy, bản thân
việc hiểu đúng ứng dụng hiệu quả quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí trên
cơ sở nắm vững đặc thù lý thuyết và thực tiễn nghề nghiệp trong từng thời điểm
cụ thể cũng thể hiện năng lực sáng tạo của nhà báo.
luận thực tiễn cho thấy hình hệ thống chính sách an sinh hội của
Việt Nam rất phong phú, đa dạng với nhiều hợp phần, nội dung đan xen, chồng
chéo, rất phức tạp. Trên thực tế, an sinh hội được thực hiện theo cả nghĩa
rộng nghĩa hẹp với mức đầu của hội tăng dần cùng với tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên, từ góc độ thu nhập của người dân, giá trị tuyệt đối tỷ
trọng của thu nhập từ an sinh xã hội vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ với mức giá trị
tuyệt đối còn thấp và có biểu hiện của sự phân bố thiếu cân đối. Điều này đặt ra
yêu cầu xây dựng hệ thống báo chí viết về An sinh xã hội và xây dựng các tiêu
chí, tiêu chuẩn thực hiện hiệu quả các chính sách an sinh hội góp phần
phát triển bao trùm, bền vững.
| 1/16

Preview text:

Họ và tên: Nguyễn Văn Đức Lớp: Quay phim k40 Mã SV: 2056060005 Bài giữa kì
Câu 1: Theo các anh chị hệ thống an sinh xã hội Việt Nam có đặc điểm
nào? Báo chí viết về An sinh xã hội thường viết về những đề tài gì?
Câu 2: Anh chị hãy khái quát về quy trình xây dựng một tác phẩm báo chí viết về an sinh xã hội? Bài làm
Câu 1: Theo các anh chị hệ thống an sinh xã hội Việt Nam có đặc điểm
nào? Báo chí viết về An sinh xã hội thường viết về những đề tài gì? 1.
Tổng quát an sinh xã hội Việt Nam
Không phải ai cũng hiểu rõ về an sinh xã hội (ASXH) và các chương
trình an sinh xã hội. Theo nghĩa rộng, an sinh xã hội có thể hiểu là sự bảo đảm
thực hiện các quyền để con người được an bình, bảo đảm an ninh, an toàn trong
xã hội. Như vậy, đây là các chương trình hành động của chính phủ nhằm thúc đẩy
phúc lợi của người dân thông qua các biện pháp hỗ trợ đảm bảo quyền tiếp cận
các nguồn lực đầy đủ về nhiều mặt.
Chính sách bảo đảm an sinh xã hội là hệ thống các chính sách
can thiệp của Nhà nước (bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội...) và sự hỗ trợ của
tổ chức hay tư nhân (các chế độ không theo luật định). Việc thiếu hiểu biết về
an sinh xã hội cùng những quan niệm sai lầm dẫn đến việc nhiều lao động gặp khó
khăn khi về già, ốm đau hoặc khi mất đi khả năng lao động.
Trong hơn 35 năm qua, cùng với những thành tựu đổi mới kinh tế,
phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường
tiềm lực kinh tế quốc gia, Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn, đầu tư nguồn lực
và đổi mới cơ chế, chính sách để thực hiện an sinh xã hội, chăm lo cải thiện
không ngừng cuộc sống của người dân hiện nay. Ví dụ như tính đến tháng 12- 2020,
tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều ước giảm còn khoảng 2,75%,
giảm 1% so với cuối năm 2019. Tỷ lệ giảm nghèo đa chiều nhanh đã giúp Việt Nam
về đích trước 10 năm so với Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, là một trong 30
quốc gia áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. 2.
Đặc điểm an sinh xã hội Việt Nam
Ở Việt Nam, nhận thức về an sinh xã hội và quyền an sinh xã hội
ngày càng được nâng cao cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. An sinh xã hội
được xác định là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, nằm trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bảo đảm an sinh xã hội là điều
kiện để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế
thị trường, phản ánh bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Như vậy, mục tiêu của an sinh xã hội là xây dựng hệ thống an sinh
xã hội đa dạng, toàn diện, từng bước mở rộng diện bao phủ, có tính chia sẻ giữa
Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa
các thế hệ đang là đích đến của các quốc gia trên thế giới.
Về cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội: có nhiều quan điểm và
cách tiếp cận khác nhau. Theo quan điểm phổ biến của các tổ chức quốc tế, thì
một hệ thống an sinh xã hội phải có tối thiểu 3 hợp phần cơ bản tương ứng với 3
chức năng chính của an sinh xã hội, gồm: Thứ nhất, những chính sách, chương
trình phòng ngừa rủi ro; Thứ hai, những chính sách, chương trình giảm thiểu rủi
ro; Thứ ba, những chính sách, chương trình khắc phục rủi ro.
Nước ta lựa chọn phát triển mô hình an sinh xã hội dựa trên quan
điểm của Tổ chức Lao động thế giới (ILO) với các bộ phận cấu thành là bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, bảo trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Đây là mô hình phù hợp
với chủ trương, đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước ta, phát triển hệ
thống an sinh xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, coi con người là động lực, mục tiêu của sự phát triển.
Phát triển quan điểm và chủ trương của Đảng về vấn đề này, trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
1991 và bổ sung, phát triển năm 2011) và nghị quyết của các kỳ đại hội, đặc
biệt Nghị Quyết số 15-NQ/TW, ngày 1-6-2012, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI, về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020” đã đặt
ra yêu cầu với một cấu trúc bao gồm: 1- Việc làm, thu nhập và giảm nghèo; 2-
Bảo hiểm xã hội; 3- Trợ giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn;
4- Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục tối thiểu, y
tế tối thiểu, nhà ở tối thiểu, nước sạch và bảo đảm thông tin).
Theo đó, chính sách an sinh xã hội của Việt Nam tập trung vào 4
nội dung chính như sau: Một là, tăng cường cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập
tối thiểu và giảm nghèo bền vững cho người lao động yếu thế thông qua các hình
thức hỗ trợ, giải quyết việc làm và kết nối thông tin thị trường lao động; Hai
là, mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia hệ thống chính sách bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm thất nghiệp để chủ động đối phó khi thu nhập bị suy giảm hoặc bị
mất do các rủi ro; Ba là, hỗ trợ thường xuyên đối với người có hoàn cảnh đặc
thù và hỗ trợ đột xuất cho người dân khi gặp các rủi ro không lường trước hoặc
vượt quá khả năng kiểm soát thông qua các khoản tiền mặt và hiện vật do ngân
sách nhà nước bảo đảm; Bốn là, tăng cường tiếp cận của người dân đến hệ thống
dịch vụ xã hội cơ bản, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, thông tin.
Nước ta chú trọng phát triển hệ thống an sinh xã hội đối với khu
vực nông thôn, dân tộc thiểu số, các đối tượng bị tác động bởi cải cách kinh tế
và xã hội, như lao động di cư, người thuộc diện thu hồi đất, bị tác động bởi
khủng hoảng, người có công, trẻ em, người già, người tàn tật... Không ngừng đẩy
mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề, điều kiện vật chất, tài chính làm
bệ đỡ cho cho hệ thống an sinh xã hội. Trong đó, nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong việc tổ chức thực hiện an sinh xã hội, đồng thời mở rộng sự tham gia của
cộng đồng xã hội vào việc thực hiện chính sách an sinh xã hội dưới hình thức xã hội hóa.
Từng bước phát triển các chính sách an sinh xã hội với nội dung,
cách tiếp cận và chuẩn mực quốc tế; huy động sự liên kết, hợp tác khu vực và
quốc tế thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với người lao động trong bối
cảnh di chuyển lao động quốc tế ngày càng mạnh mẽ.
Để bảo đảm định hướng phát triển của xã hội, việc phát triển an
sinh xã hội phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của nó. Phát triển hệ thống an
sinh xã hội tại Việt Nam đã đưa đến nhiều biến đổi tích cực về mặt thể chế, hệ
thống bảo hiểm xã hội, hệ thống chính sách ưu đãi và các chính sách trợ giúp xã hội.
An sinh xã hội đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo và
đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần hình thành xã hội không còn
nhóm xã hội bị loại trừ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước. 3.
Báo chí viết về an sinh xã hội
An sinh xã hội là một trong những yếu tố quan trọng để phát triển
bền vững, đồng thời là vấn đề mang tính cấp bách cho sự ổn định chính trị của
mỗi quốc gia, khu vực. Đối với lĩnh vực báo chí, dù thế giới đã có vô vàn các
hình thức truyền tải thông tin, liên kết xã hội thông minh, song sự nổi trội về
trách nhiệm xã hội, đạo đức nghề nghiệp và ý thức chính trị của đội ngũ nhà
báo, phóng viên, biên tập viên vẫn tạo cho báo chí vị thế vững chắc, bởi đó là
niềm tin, là sự gửi gắm trách nhiệm của cả cộng đồng.
Nhờ vào sức mạnh của sự thật, báo chí có uy lực và cũng đòi hỏi
trách nhiệm luôn gắn bó, đồng hành và phục vụ mọi mục tiêu phát triển của đất
nước nói chung và vì con người nói riêng, trong đó có lĩnh vực an sinh xã hội.
An sinh xã hội là lĩnh vực thông tin quan trọng trên báo chí.
Thông tin báo chí về an sinh xã hội bao gồm hầu hết toàn bộ thông tin liên quan
đến những nhu cầu đời sống cơ bản của nhân dân như bảo hiểm (bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp...), lương tối thiểu, lương hưu, trợ cấp
(thai sản, ốm đau, tai nạn lao động...), ưu đãi xã hội đối với người và gia
đình có công với nước, trợ cấp đột xuất cho người gặp nạn do thiên tai, địch
họa..., trợ cấp hàng tháng cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các chính
sách hỗ trợ việc làm, dạy nghề cho người lao động thất nghiệp, người có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa, người khuyết tật,
đối tượng xã hội (mại dâm, ma túy)... để hòa nhập cộng đồng và đảm bảo mức sống tối thiểu cho họ.
Trong đó, đặc biệt cần chú ý là các đề tài xoay quanh mô hình an
sinh xã hội của Việt Nam, đó là các vấn đề thuộc các đề tài bảo hiểm xã hội
(BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo trợ xã hội và ưu đãi xã hội. ·
Vấn đề bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế:
Trên các phương tiện truyền thông đại chúng, xuất hiện nhiều bài
báo, phóng sự phát thanh, truyền hình… về BHXH, BHYT được thể hiện một cách
chân thực, sinh động, lối cuốn người đọc, người xem, phản ánh những khó khăn
trở ngại, những cách làm hay, điển hình tốt cũng như những tâm tư, nguyện vọng
của nhân dân… Điều này đã mang lại hiệu ứng tích cực trong việc tổ chức thực
hiện Luật BHXH, Luật BHYT. Mặt khác, báo chí cũng chính là một kênh tham mưu
cho các nhà hoạch định chính sách, đóng góp quan trọng cho hệ thống chính sách,
pháp luật BHXH, BHYT được vận hành một cách minh bạch, rõ ràng.
Với độ bao phủ rộng, cập nhật liên tục, không giới hạn, báo chí là
phương tiện chuyển tải thông tin BHXH, BHYT nhanh chóng và hữu hiệu nhất. ·
Vấn đề bảo trợ và ưu đãi xã hội:
Cũng tương tự như bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, báo chí là
phương tiện chuyển tải thông tin bảo trợ xã hội và ưu đãi xã hội nhanh chóng, hữu hiệu.
Báo chí đăng tải các bài viết về cập nhật chính sách của Nhà nước,
các phương án hỗ trợ cho người dân và cả những câu chuyện về kết quả bảo trợ và
ưu đãi của người dân sau khi được hưởng chính sách. Điều này giúp công tác mở
rộng pháp luật đến với người dân diễn ra tốt hơn.
Báo chí Việt Nam viết và đăng tải rất nhiều các bài viết thuộc về
an sinh xã hội, chủ yếu là cập nhật luật pháp và câu chuyện đời sống để mọi
người có cái nhìn tổng quan. Thế nhưng vẫn có những kẻ cố tình đưa ra những
nguồn tin sai lệch, cần phải lưu ý và xử trí.
Câu 2: Anh chị hãy khái quát về quy trình xây dựng một tác phẩm báo chí
viết về an sinh xã hội?
tải thông tin có liên quan đến An sinh xã hội một cách chân thực và giàu hình
ảnh, tạo đồng cảm trong lòng người đọc.
2.1. Quá trình tìm đề tài cho tác phẩm
“Săn đề tài” là bước quan trọng hàng đầu trong quá trình sáng tạo một tác phẩm
báo chí. Nhiệm vụ ấy đòi hỏi người phóng viên cũng phải dấn
thân vào cuộc sống, lặn ngụp với thực tế để kiếm tìm trong biển thông tin
những đề tài nóng, những vấn đề có sức sống và sự lan tỏa...
Người ta nói đề tài quyết định tới 50% thậm chí 80% thành công của
tác phẩm báo chí. Đề tài báo chí cũng “có khi biến, có khi thường”, nhiều
cái tưởng hấp dẫn có thể viết nhưng lại không thể khai thác được gì, có
những thông tin tưởng chừng rất “vô thưởng vô phạt” nhưng lại cho bài báo
hay. Đề tài tác phẩm báo chí về an sinh xã hội phần nhiều như những “tảng
băng” trôi, ba phần nổi bảy phần chìm, những vỉa, những tầng thông tin nó nằm
sâu phía dưới mà cái lộ thiên đôi khi không dễ nhìn thấy.
Khi viết tác phẩm báo chí, sẽ luôn phải đối diện với một câu hỏi: đề tài này có
gì mới không? Đã có báo nào viết chưa? Câu hỏi thường: không mới, đã có báo
khác viết rồi. Tìm trên google ra ngay. Thực ra, tìm được cái mới hoàn toàn
theo kiểu “chưa báo nào viết” thì rất khó. Nhưng đề tài mới nằm ở tư duy mới,
cái nhìn mới và cách tiếp cận mới. Khi mọi cái tưởng như đã cũ thì hãy “lạ
hóa” đề tài bằng cái nhìn mới của mình, hãy tìm cái mới trong cái cũ, tìm
những điều có lý trong những cái tưởng như vô lý, tìm cái thuận trong cái
nghịch và cáinghịch trong cái thuận. Từ đó sẽ bật ra những đề tài mới và hay.
Bởi đó chính là cái chất của báo chí, báo chí thường diễn tả những gì đang mâu
thuẫn, đang vận động, đang xung đột, đang định hình. Cách tìm đề tài tác phẩm
báo chí, tựu chung lại thì đã được đúc kết thành nhiều phương pháp như
phương pháp quan sát, phương pháp lắng nghe, phương pháp “đi sẽ tới, tìm sẽ
gặp”. Nhưng dù phương pháp nào, nếu đó chỉ đơn giản là vấn đề kỹ thuật mà
thiếu đi niềm đam mê với nghề, đam mê khám phá thì lại bế tắc. Đam mê đó nó
khiến người viết luôn phải lắng nghe luôn quan sát, luôn đặt câu hỏi. Mỗi sợi
tóc của nhà báo có khi giống như một cây ăng ten để thu nhận thông tin từ đời
sống. Đừng tự đóng khung cái nhìn của mình và hơn nữa, đừng tự đóng khung
cuộc sống của mình đối với tác phẩm, hãy để những đam mê nghề ở ngay trong
cuộc sống của mình, lúc đó thiết nghĩ nhà báo luôn biết viết gì cho bài báo.
Đặc biệt, với chuyên mục An sinh xã hội, người làm báo cần phải
cập nhật thông tin nhanh, đúng, sâu, chuẩn nhất để đưa đến cho công
chúng. Những quyết định, chính sách, điều lệ của Nhà nước phải được phổ
biến tới toàn dân nhanh chóng, kỹ càng và toàn diện nhất. Điều này đòi
hỏi những nhà báo, phóng viên phải có mối quan hệ xã hội sâu rộng, nền
tảng thông tin tức thời, tin thần tiên phong, nhiệt huyết với nghề thì
mới có thể làm được. Báo chí viết về An sinh xã hội vừa có cái dễ lại có điểm khó ở điểm đó.
2.2. Tiêu chí của một tác phẩm Báo chí viết về An sinh xã hội
Đầu tiên là cần thật sự quan tâm về đề tài. Chủ đề tác phẩm mang tính tư
tưởng, tính định hướng của báo
chí, có thể được Ban Biên tập gợi ý. Còn nói đề tài là đã bao hàm đối
tượng phản ánh cụ thể để khảo sát, nghiên cứu, phân tích, minh họa một cách
thuyết phục cho chủ đề. Ví dụ, phóng viên có thể được giao viết về
chủ đề đổi mới công tác
phát triển Đảng trong sinh viên hiện nay. Để có đề tài hay, phóng
viên phải tìm cho được một trường đại học, một đối tượng cụ
thể với những sự kiện, những câu chuyện thuyết phục để khai thác tư liệu
viết bài, làm phim, v.v... Nhiều tác phẩm khi đọc tiêu đề thấy có chủ đề
hay, thiết thực, nhưng khi đọc nội dung lại thấy đề tài không tương xứng vì
chọn đối tượng phản ánh (nhân vật, sự
kiện…) không tiêu biểu, không đại diện, không đặc sắc,… nên không được đánh giá cao.
Thứ hai là cần trao đổi về tiêu chí của đề tài hay. Đề tài hay cần đáp ứng 3 tiêu
chí: Đúng – Trúng – Hấp dẫn
(lôi cuốn). Nhà báo Hải Đường có hẳn cuốn sách “Nhanh, đúng, trúng, hay –
Những tản mạn về nghề báo” (NXB Trẻ - 2016), với nhiều bài học kinh nghiệm
rất quý cho người làm nghề.
Cả 3 tiêu chí Đúng – Trúng – Hấp dẫn nhiều khi được thể hiện ngay trong tiêu
đề (tít) bài báo hoặc trong phần giới thiệu tác phẩm (sapo).
Đúng, là đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước. Chỉ cần đọc đầu đề bài báo là biết.
Cách đây 5 năm, khi Luật Đất đai 2013 vừa mới có hiệu lực, có một tác phẩm
của một tờ báo khối ngành, đoàn thể dự Giải Báo chí Quốc gia, đặt vấn đề
nên xem xét lại Luật Đất đai?, vì có một vài điều bất cập được nhà báo phát
hiện trong thực tiễn… Đặt vấn đề như thế, là không đúng quan điểm, chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Nhà báo có quyền (và
là chức năng của báo chí) giám sát, phản biện xã hội bằng tác phẩm báo chí.
Nhưng việc đặt vấn đề xem lại Luật được Quốc hội thông qua vừa mới đi vào
cuộc sống, lại là chuyện khác. Bài báo đạt tiêu chí đúng, có tính định hướng
chính trị, định hướng dư luận xã hội kịp thời. Để đúng, không khó và thường
khô khan. Nhưng là bắt buộc.
Trúng, là trúng chỉ đạo của Trung ương, của Bộ, ngành, của cấp ủy
địa phương. Trúng ở đây cũng có nghĩa là phù hợp nhất với điều mong đợi
tại thời điểm đó của công chúng bạn đọc, bạn nghe đài, xem truyền hình, muốn
được biết, được hiểu, được tham gia. Nhiều tác phẩm có nội dung đúng nhưng
lại chưa trúng. Nói đúng quan điểm, đúng tinh thần chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Đảng, chính sách của Chính phủ, nhưng câu chuyện ấy, nhân vật ấy,
viết lúc nào cũng được, cũng đúng, mà không phải là câu chuyện, nhân vật,
điều cần nói của hôm nay, của lúc này, của thời điểm bây giờ… Một chủ
trương, một nội dung nghị quyết có thể thực hiện trong một nhiệm kỳ, thậm chí
lâu hơn. Nhưng mỗi năm lại có những trọng tâm riêng, mỗi địa phương có đặc
thù của mình, có câu chuyện riêng của năm, câu chuyện riêng của địa phương,
của ngành. “Bắt” được cái đó, mới là trúng. Tiêu chí trúng đòi hỏi nhà báo có
con mắt tinh đời, phát hiện nhanh những cái riêng tiêu biểu, đại diện nhất cho
cái chung, vì cái riêng bao giờ cũng là bộ phận của cái chung, chứa đựng cái
chung (xét về mặt triết học).
Trúng cũng có nghĩa đòi hỏi nhà báo phát hiện được những chi tiết
đắt nhất, tiêu biểu nhất nói được, phản ánh được sự chỉ đạo của Đảng, tổ chức
thực hiện của chính quyền, nguyện vọng cấp bách của người dân,…
Năm 2019, chủ đề cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung được hàng loạt
tờ báo khai thác. Nhưng Báo Đầu tư “bắt” trúng mạch là khai thác đề tài ở
góc độ kinh tế Việt Nam xoay xở ra sao, hạn chế tác động tiêu cực, tranh thủ cơ
hội để “mượn gió” thế nào. Hoặc chủ đề bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ
quốc, nói lúc nào cũng đúng, cũng cần. Nhưng năm 2019 khác với năm 2014
(khi có sự kiện khiêu khích của tàu Hải Dương 981 - Trung Quốc), phải tiếp
cận khác. Báo Người Lao động tìm trúng đề tài “Một triệu lá cờ Tổ quốc cùng
ngư dân bám biển”, v.v... Hấp dẫn, là lôi cuốn người đọc, nghe, xem từ nội
dung đề tài (mới, lạ, độc đáo), đáp ứng ngay nhu cầu bức thiết của công chúng,
đến việc diễn đạt một cách sinh động, giữ họ lại, tác phẩm có sức lay động, tác
động tới nhận thức và tình cảm. Hấp dẫn nhiều khi bắt đầu từ tít bài báo. Cùng
nói chuyện làm thế nào để bài trừ hủ tục, xây dựng nếp sống văn hóa đối với bà
con vùng dân tộc thiểu số trong việc chôn cất người chết đúng cách, khoa học,
không ảnh hưởng đến người sống, Đài Thanh Hóa đặt tít phóng sự là “Đưa
người chết vào quan tài”. Hấp dẫn ở chỗ nghe có vẻ mâu thuẫn, vì điều đó là
đương nhiên. Nhưng, ở đây là cả một cuộc đấu tranh bền bỉ, khéo léo, văn hóa,
mới thuyết phục được người dân làm cái việc tưởng như bình thường ấy.
Cùng nói chủ đề các loại thuế, phí chồng chéo, làm khó người nông
dân, báo Nông thôn Ngày nay chọn tít đơn giản, trực quan nhưng đầy tính
khái quát, “ý tại ngôn ngoại”, lôi cuốn ngay sự tò mò của người đọc: “Một hạt
thóc, 40 khoản đóng góp”. Hấp dẫn phụ thuộc vào cách kể, cách trình bày câu
chuyện của tác giả, sao cho người đọc, nghe, xem biết được, hiểu được thông
điệp của câu chuyện một cách dễ
nhất, nhanh nhất, thú vị nhất, từ việc sử dụng hình ảnh, âm thanh, từ ngữ, công
cụ đa phương tiện thời 4.0.
Một tác phẩm khó cùng lúc đạt được cả ba yếu tố trên. Tuy nhiên
nếu chịu khó đầu tư suy nghĩ cho đề tài, cùng với các tiêu chí khác, tác phẩm chắc chắn không dở.
Phóng viên chuyên trách An sinh xã hội là những người có kiến thức và kinh
nghiệm hoạt động trong lĩnh vực An sinh xã hội trong nước. Như
trên đã phân tích, việc nắm rõ vai trò, ý nghĩa, hệ thống An sinh xã hội
có tính chất quyết định đến các tác phẩm báo chí về lĩnh vực An sinh xã hội của mỗi phóng viên.
Phóng viên chuyên trách cũng cần thiết là người có tâm huyết với
nghề báo, có sự nhạy cảm nghề nghiệp và giàu tình cảm. Bởi lẽ, đây là
lĩnh vực đòi hỏi sự xông xáo của phóng viên, phản ánh thông tin về đời
sống nhân dân ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, khó khăn nhất. Đồng thời, lĩnh
vực này cũng cần có sự nhạy cảm cao để
nhận biết những nguy cơ ảnh hưởng đến an toàn sinh sống của người
dân, những kẽ hở của chính sách gây thất thoát quyền lợi của người dân hay để
cho kẻ xấu lợi dụng... Bên cạnh đó, người phóng viên chuyên trách không
thể thiếu cảm xúc. Cảm xúc và kỹ năng viết khiến phóng viên có thể chuyển
Cần cảnh giác với những thông tin do kẻ xấu hay các thế lực thù địch lợi dụng
An sinh xã hội để phá hoại khối đại đoàn kết trong nước.
Đây là bài học không chỉ đối với riêng lĩnh vực An sinh xã hội mà với tất cả các
lĩnh vực thông tin khác trên báo chí.
Trong khi tác nghiệp, phóng viên cần cảnh giác với những kẻ xấu
lợi dụng danh nghĩa hoạt động An sinh xã hội để trục lợi trái pháp luật, hoặc
những chiêu bài an sinh của thế lực thù địch trong và ngoài nước. Mặt khác,
người làm báo cũng cần lưu ý tới những mánh khoé thông tin của các thế lực
thù địch, tung tin bôi nhọ các chính sách An sinh xã
hội của Đảng, Nhà nước, phong trào của nhân dân, gây hại cho tiến trình phát
triển và hội nhập của nước ta.
2.3.Quy trình sáng tạo
tác phẩm báo chí viết về An sinh xã hội Trong quá trình sáng tạo tác phẩm
báo chí, nhà báo, dù sáng tạo tác phẩm thuộc loại hình báo chí nào, cũng cần
tuân thủ một quy trình chung, bao gồm 6 bước: (1) tìm hiểu và nghiên cứu thực
tế; (2) xác định chủ đề - đề tài - tư tưởng chủ đề; (3) thu thập và khai thác thông
tin; (4) thể hiện tác phẩm về nội dung và hình thức; (5) duyệt, đăng báo, xuất
bản, phát hành, phát sóng và (6) lắng nghe thông tin phản hồi.
Bước 1: Tìm hiểu và nghiên cứu thực tế:
Đây là khâu đầu tiên trong quy trình sáng tạo một tác phẩm báo
chí. Các nhà báo thường dễ bỏ qua khâu này, nhất là đối với những nhà báo
đã có bề dày kinh nghiệm. Bởi vì nhà báo tin vào kinh nghiệm và sự hiểu
biết mà họ sẵn có để xác định, lựa chọn đề tài. Quá trình tìm hiểu và nghiên
cứu thực tế nếu được coi trọng sẽ giúp nhà báo có thêm thông tin, tài liệu, giúp
cho việc chọn đề tài thuyết phục hơn. Thực tế đời sống luôn biến động hàng
ngày hàng giờ, việc tìm hiểu và nghiên cứu thực tế chính là quá trình nhà báo
thu thập thông tin cần thiết cho việc quyết định có chọn hay không chọn đề tài
đó. Nó cũng khác với quá trình tìm hiểu, thu thập và khai thác thông tin từ thực
tế để hoàn thành tác phẩm sau này.
Bước 2: Xác định đề tài, chủ đề, tư tưởng chủ đề
Đề tài là những vấn đề đặt ra trong cuộc sống thực, rất đa dạng và
phong phú, không phụ thuộc vào phạm vi giới hạn rộng hay hẹp của vấn đề,
sự kiện mà thường mang tính khách quan; ví dụ, đề tài về trẻ em, về giáo
dục, về môi trường... Chủ đề là vấn đề đã được nhà báo lựa chọn để thực hiện
tác phẩm và được giới hạn trong một phạm vi nhất định. Ví dụ, đề tài trẻ
em nhưng chủ đề đề cập là trẻ em khuyết tật, hoặc chủ đề về giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ em, hoặc chủ đề bảo vệ môi trường văn hóa học đường...
Tư tưởng chủ đề là nội dung được nhà báo xác định cách thức thể hiện tư
tưởng, quan điểm, cách nhìn nhận của nhà báo về vấn đề đó. Tư tưởng chủ đề
thể hiện rõ lập trường, sự nhận thức và những phán xét của nhà báo về một 22
vấn đề nào đó. Cách bộc lộ tư tưởng chủ đề của một tác phẩm chính
là sự bộc lộ thái độ, cách nhìn nhận đánh giá vấn đề của nhà báo. Nhà báo
xác định đề tài, chủ đề và tư tưởng chủ đề của tác phẩm để quyết định
hướng khai thác và thu thập thông tin liên quan, cần thiết cho tác phẩm,
bám sát với chủ đề tác phẩm. Đây là khâu thứ hai quan trọng, nó giúp nhà
báo xác định và giới hạn vấn đề để triển khai các bước tiếp theo. Nếu việc tìm
hiểu thực tế được tiến hành tốt, có hiệu quả thì việc xác định đề
tài chủ đề, tư tưởng chủ đề sẽ bảo đảm chính xác và hiệu quả.
Bước 3: Thu thập và khai thác thông tin
Đây là quá trình đòi hỏi nhà báo phải có kỹ năng nghiệp vụ tinh
thông để có thể khai thác thông tin một cách chính xác nhất, đầy đủ nhất.
Thông thường, các nhà báo sử dụng 3 phương pháp cơ bản để có được thông
tin. Trước hết là, đọc và nghiên cứu tài liệu - có thể đọc các bản báo cáo, kỷ
yếu, tư liệu lịch sử, đọc và tìm kiếm trên mạng internet. Đọc thường kết hợp
với phân tích, so sánh… tìm hiểu bản chất của những thông tin sự kiện, vấn đề
liên quan đến đề tài, chủ đề tác phẩm. Thứ hai là sử dụng phương pháp phỏng
vấn thông qua hệ thống câu hỏi để tìm kiếm thông tin từ đối tượng và những
nhân vật liên quan hoặc nhân vật nắm giữ thông tin. Nhà báo cần biết lựa chọn
đối tượng, chuẩn bị hệ thống câu hỏi, các phương tiện kỹ thuật thích hợp để thu
thập thông tin phục vụ cho chủ đề của tác phẩm. Phương pháp thứ ba là quan
sát. Khi quan sát, nhà báo có sự phân tích, thẩm định, nhận xét. Quan sát kèm
theo sự cảm nhận của người quan sát sẽ quyết định việc thu thập thông tin và
thẩm định thông tin chính xác hơn.
Bước 4: Thể hiện tác phẩm về nội dung và hình thức
Nội dung của một tác phẩm báo chí thường phản ánh chân thực, khách
quan những sự kiện, vấn đề, sự việc có thực xảy ra trong cuộc sống hàng
ngày, mang tính thời sự, có ý nghĩa xã hội và được công chúng quan tâm.Đây
là khâu quan trọng trong quy trình sáng tạo tác phẩm, bởi vì, tác phẩm có hấp dẫn
công chúng hay không sẽ phụ thuộc vào những vấn đề mà nó đề cập và cách
thức thể hiện nó. Về hình thức thể hiện tác phẩm, trước hết, nó tùy thuộc loại
hình báo chí và thể loại tác phẩm. Mỗi thể loại báo chí thể hiện một mô thức
phản ánh khác nhau. Sự phân chia thể loại căn cứ vào một số tiêu chí. Khi
cần đưa thông tin nhanh, ngắn gọn, người ta sử dụng thể loại tin tức hoặc
một thể loại trong nhóm thông tấn báo chí. Khi cần phân tích, nêu lý lẽ,
dẫn chứng, người ta chọn thể loại thuộc nhóm chính luận. Khi cần bày tỏ
cảm xúc thẩm mỹ hoặc viết dưới bút pháp nhẹ nhàng… thì thường sử dụng các
thể chính luận nghệ thuật.
Bước 5: Duyệt, đăng báo, xuất bản, phát hành, phát sóng
Tác phẩm báo chí là sản phẩm cá nhân sáng tạo ban đầu của phóng
viên, nhưng sau khi hoàn thành sẽ được biên tập cho phù hợp với chủ đề,
tôn chỉ mục đích... của tờ báo. Vì thế mà không thể bỏ qua khâu duyệt
bài. Sản phẩm báo chí xuất hiện trước công chúng luôn có bàn tay biên
tập. Người biên tập là những người đầu tiên thay mặt công chúng đọc
(nghe, xem) tác phẩm của nhà báo. Họ chỉnh sửa, cắt ngắn hoặc thêm bớt,
kéo dài... cho rõ ý, rõ câu chữ. Có tác phẩm phải biên tập nhiều, có tác
phẩm phải biên tập ít tùy thuộc vào trình độ người viết bài và trình độ biên tập
viên. Khi ra với công chúng, tác phẩm phải đạt độ hoàn hảo nhất có thể.
Bước 6: Lắng nghe thông tin phản hồi
Sau khi phát sóng, tác phẩm báo chí sẽ nhận được các thông tin phản hồi của
người đọc, người nghe, người xem. Thông thường thì nhà báo ít để ý đến những
thông tin phản hồi của dư luận, bởi họ thường bận rộn và có quá nhiều sự quan
tâm khác. Tuy nhiên, một nhà báo có trách nhiệm là nhà báo biết quan tâm đến
những thông tin phản hồi từ công chúng để điều chỉnh thái độ đối xử.
Hiểu đúng khái niệm, tuân thủ yêu cầu đặc thù trong việc thực hiện
các bước của quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí là điều kiện cơ bản nhất
cho tính chuyên nghiệp của nhà báo trong tổ chức thực hiện các hoạt động
sáng tạo tác phẩm. Việc ứng dụng quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí đòi hỏi
yêu cầu khác biệt với hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí ở các mảng đề tài
khác nhau. Thậm chí, ngay trong cùng một loại hình báo chí, khi sáng tạo tác
phẩm ở các thể loại khác nhau, cũng có sự khác biệt. Chính vì vậy, bản thân
việc hiểu đúng và ứng dụng hiệu quả quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí trên
cơ sở nắm vững đặc thù lý thuyết và thực tiễn nghề nghiệp trong từng thời điểm
cụ thể cũng thể hiện năng lực sáng tạo của nhà báo.
Lý luận và thực tiễn cho thấy mô hình hệ thống chính sách an sinh xã hội của
Việt Nam rất phong phú, đa dạng với nhiều hợp phần, nội dung đan xen, chồng
chéo, rất phức tạp. Trên thực tế, an sinh xã hội được thực hiện theo cả nghĩa
rộng và nghĩa hẹp với mức đầu tư của xã hội tăng dần cùng với tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên, từ góc độ thu nhập của người dân, giá trị tuyệt đối và tỷ
trọng của thu nhập từ an sinh xã hội vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ với mức giá trị
tuyệt đối còn thấp và có biểu hiện của sự phân bố thiếu cân đối. Điều này đặt ra
yêu cầu xây dựng hệ thống báo chí viết về An sinh xã hội và xây dựng các tiêu
chí, tiêu chuẩn thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội góp phần
phát triển bao trùm, bền vững.