-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Chính sách hỗ trợ người lao động mất việc làm khi chịu tác động đại dịch COVID 19 | Tiểu luận an sinh xã hội
Chính sách hỗ trợ người lao động mất việc làm của Chính Phủ và Nhà Nước Việt Nam. Ảnh hưởng đại dịch Covid 19 đến người lao động Việt Nam. Chính sách hỗ trợ người lao động bị mất việc làm bởi đại dich Covid 19 và các vấn đề đặt ra với chính sách. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Báo chí về kinh tế và an sinh xã hội 8 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Chính sách hỗ trợ người lao động mất việc làm khi chịu tác động đại dịch COVID 19 | Tiểu luận an sinh xã hội
Chính sách hỗ trợ người lao động mất việc làm của Chính Phủ và Nhà Nước Việt Nam. Ảnh hưởng đại dịch Covid 19 đến người lao động Việt Nam. Chính sách hỗ trợ người lao động bị mất việc làm bởi đại dich Covid 19 và các vấn đề đặt ra với chính sách. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Báo chí về kinh tế và an sinh xã hội 8 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA XÃ HỘI HỌC VÀ PHÁT TRIỂN TIỂU LUẬN MÔN AN SINH XÃ HỘI ĐỀ TÀI
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ NGƯỜI LAO ĐỘNG
MẤT VIỆC LÀM KHI CHỊU TÁC ĐỘNG ĐẠI DỊCH COVID 19
Họ Và Tên : Nguyễn Anh Vũ MSSV : 2051010058 Tên Lớp
: Công Tác Xã Hội K40 Tháng 6 – 2022 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................1
NỘI DUNG............................................................................................3
1.BỐI CẢNH CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ NGƯỜI LAO ĐỘNG MẤT VIỆC LÀM
BỞI ĐẠI DỊCH COVID 19 VÀ BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID 19.................3
1.1.Chính sách hỗ trợ người lao động mất việc làm của Chính Phủ và
Nhà Nước Việt Nam.............................................................................3
1.2.Ảnh hưởng đại dịch Covid 19 đến người lao động Việt Nam.........7
2.TÍNH THÍCH ỨNG VÀ SỰ KỊP THỜI CỦA CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ
NGƯỜI LAO ĐỘNG MÂT VIỆC LÀM BỞI ĐẠI DỊCH COVID 19..............12
2.1.Chính sách hỗ trợ người lao động bị mất việc làm bởi đại dich
Covid 19 và các vấn đề đặt ra với chính sách...................................12
2.2.Sự thay đổi , cập nhật, bổ sung đối với các chính sách hỗ trợ
người lao động bị mất việc làm bởi đại dich Covid 19.......................17
2.3.Sự thích ứng của Chính Phủ với các chính sách hỗ trợ người lao
động bị mất việc làm bởi đại dich Covid 19......................................21
KẾT LUẬN...........................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................24 LỜI MỞ ĐẦU.
Cơ chế thị trường được vận hành theo bàn tay vô hình mà nó
dựa trên cơ sở lợi ích riêng của các cá nhân và sự cạnh tranh. Trong
nhiều trường hợp, cơ chế thị trường vận hành gần như hoàn hảo và
nguồn lực xã hội được phân bổ tối ưu. Lúc này không cần vai trò của
nhà nước.Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, cơ chế thị trường được
dẫn dắt bởi lòng tham và sự vị kỷ của con người làm cho việc phân
bổ nguồn lực xã hội không tối ưu. Đó chính là thất bại của thị trường
và cần đến vai trò của nhà nước. Có năm loại thất bại thị trường
gồm: độc quyền hay có quyền lực thị trường, ngoại tác, hàng hoá
công, bất cân xứng thông tin, và hành vi không hợp lý.
Trong công cuộc đổi mới nước ta hiện nay, vấn đề thất nghiệp
và các chính sách giải quyết việc làm đang là vấn đề nóng bỏng “và
không kém phần bức bách” đang được toàn xã hội đặc biệt quan
tâm.Đất nước ta đang trong quá trình chuyển sang kinh tế phát triển,
chúng ta đang từng bước đổi mới, nhằm nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân, kinh tế vĩ mô đã vạch rõ những vấn đề phát
sinh trong đó thể hiện ở những vấn đề: Thất nghiệp, việc làm, lạm
phát....tuy nhiên, đề tài này chỉ đi vào nghiên cứu vấn đề thất nghiệp
và việc làm ở Việt Nam.
Sự biến động của tỷ lệ thất nghiệp thời kì đổi mới từ năm 1986
đến năm 1996, các nguyên nhân làm tăng hay giảm tỷ lệ thất
nghiệp, trong từng giai đoạn kể trên: Số người tăng thêm trong lực
lượng lao động hàng năm và số người được giải quyết việc làm hàng
năm. Các chính sách giải quyết việc làm của nhà nước ta từ năm
1986 đến nay “đặc điểm của thời kỳ đưa ra chính sách đó, mục tiêu
của chính sách, kết quả đạt được, những vấn đề chưa đạt được”.
Tình hình việc làm của người lao động Việt nam hiện nay, phương
hướng giải quyết việc làm của Nhà nước, phương hướng giải quyết
việc làm của Nhà nước trong thời gian tới.Đề tài nghiên cứu này
nhằm mục đích đưa ra nhận thức đúng đắn và sự vận dụng có hiệu 1
quả những vần đề nêu trên. Từ đó có thể nêu lên được cơ sở lý luận
để xây dựng mà hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Việc nhận thức và
vận dụng đúng đắn vấn đề này giúp ta giải quyết được những thực
trạng này được là sự giảm sút to lớn về mặt sản lượng và đôi khi còn
kéo theo nạn lạm phát cao. Đồng thời nó còn giải quyết được nhiều
vấn đề xã hội. Bởi vì thất nghiệp tăng số người không có công ăn
việc làm nhiều hơn gắn liền với sự gia tăng các tệ nạn xã hội như: cờ
bạc, trộm cắp...làm xói mòn nếp sống lành mạnh, có thể phá vỡ
nhiều mối quan hệ truyền thống, gây tốn thương về mặt tâm lý và
niềm tin của nhiều người.
Nỗ lực triển khai chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã
hội theo tinh thần của Nghị quyết 11/NQ-CP của các cấp, các ngành,
các địa phương cùng với các chính sách nới lỏng giãn cách xã hội và
hoàn thành tiêm vắc xin trong những tháng cuối năm 2021 và đầu
năm 2022 đã tạo điều kiện cho thị trường lao động dần phục hồi và
đạt được mức tăng trưởng khá. Số lao động bị ảnh hưởng tiêu cực bởi
đại dịch Covid-19 đã giảm mạnh, số người gia nhập lực lượng lao
động tiếp tục tăng ngay cả khi số ca nhiễm Covid-19 trong cả nước
vượt mức hàng chục nghìn ca mỗi ngày. Lao động có việc làm tăng
mạnh. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm đều giảm. Thu nhập của
người lao động đã dần được cải thiện.
Trong đề tài nghiên cứu này, em xin trình bày một số quan
điểm của bản thân về vấn đê với đề tài : CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ
NGƯỜI LAO ĐỘNG MẤT VIỆC LÀM KHI CHỊU TÁC ĐỘNG ĐẠI DỊCH COVID 19
Tuy nhiên thời gian hạn hẹp và trình độ có hạn, bài tiểu luận
này chỉ xin dùng lại ở việc tổng kết những gì đã được học, các ý kiến
và số liệu kèm theo về vấn đề nói trên đã được một số nhà nguyên
cứu đi sâu vào tìm hiểu và được đăng tải trên báo hoặc tạp chí. 2 NỘI DUNG
1.BỐI CẢNH CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ NGƯỜI LAO ĐỘNG MẤT VIỆC
LÀM BỞI ĐẠI DỊCH COVID 19 VÀ BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID 19.
1.1.Chính sách hỗ trợ người lao động mất việc làm của Chính
Phủ và Nhà Nước Việt Nam
Theo thống kê về nguồn nhân lực và thị trường lao động ở Việt
Nam hiện nay, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước đến
thời điểm 01/10/2015 ước tính là 54,32 triệu người, tăng 11,7 nghìn
người so với cùng thời điểm năm 2014, bao gồm lao động nam là
28,12 triệu người, chiếm 51,77%; lao động nữ là 26,20 triệu người,
chiếm 48,23%. Xét theo khu vực, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở
lên khu vực thành thị là 16,87 triệu người, chiếm 31,06%; khu vực
nông thôn là 37,45 triệu người, chiếm 68,94%.
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tại thời điểm trên là
47,78 triệu người, tăng 9,3 nghìn người so với cùng thời điểm năm
2014; bao gồm lao động nam 25,75 triệu người, chiếm 53,9%; lao
động nữ 22,03 triệu người, chiếm 46,1%. Lực lượng lao động trong 3
độ tuổi của khu vực thành thị là 15,38 triệu người, chiếm 32,19%;
khu vực nông thôn là 32,40 triệu người, chiếm 67,81%.
Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong 9 tháng năm 2015
ước tính 52,72 triệu người, giảm 177,3 nghìn người so với cùng kỳ
năm trước, trong đó lao động làm việc trong ngành Nông, lâm nghiệp
và Thủy sản là 23,35 triệu người, giảm 1.523,7 nghìn người, chiếm
44,3%; lao động công nghiệp và xây dựng là 11,85 triệu người, tăng
756,4 nghìn người, chiếm 22,5%; lao động dịch vụ là 17,52 triệu
người, tăng 590 nghìn người, chiếm 33,2%.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi lao động 9 tháng
năm 2015 ước tính là 2,36% (Quý I là 2,43%; Quý II là 2,42%; Quý III
là 2,24%), trong đó khu vực thành thị là 3,42% (Quý I là 3,43%; Quý
II là 3,53%; Quý III là 3,31%); khu vực nông thôn là 1,86% (Quý I là
1,95%; Quý II là 1,91%; Quý III là 1,73%).
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (Từ 15 - 24 tuổi) 9 tháng năm
2015 ước tính là 6,74% (Quý I là 6,6%; Quý II là 6,68%; Quý III là
6,9%), trong đó khu vực thành thị là 11,52% (Quý I là 10,95%; Quý II
là 11,84%; Quý III là 11,7%); khu vực nông thôn là 5,05% (Quý I là
4,99%; Quý II là 4,91%; Quý III là 5,23%).
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 25 tuổi trở lên trong 9 tháng
năm 2015 là 1,25% (Quý I là 1,41%; Quý II là 1,3%; Quý III là 1,03%),
trong đó khu vực thành thị là 1,86% (Quý I là 1,99%; Quý II là 1,92%;
Quý III là 1,67%); khu vực nông thôn là 0,96% (Quý I là 1,13%; Quý II
là 1,02%; Quý III là 0,72%).
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi lao động ước
tính là 1,93% (Quý I là 2,43%; Quý II là 1,8%; Quý III là 1,52%), trong
đó khu vực thành thị là 0,92%; khu vực nông thôn là 2,4%.
Mặc dù nước ta có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động lớn và tỷ lệ
thất nghiệp thấp, nhưng lao động có việc làm phi chính thức phi hộ
nông nghiệp lại khá cao. Ước tính quý IV/2015, tỷ lệ lao động có việc 4
làm phi chính thức phi hộ nông nghiệp của cả nước chiếm 56,4%
tổng số lao động có việc làm khu vực phi hộ nông nghiệp, trong đó tỷ
lệ lao động có việc làm phi chính thức phi hộ nông nghiệp khu vực
thành thị là 47,1%; khu vực nông thôn là 64,5%.
Tăng trưởng năng suất lao động của Việt Nam trong các ngành
sản xuất và dịch vụ vẫn còn ở mức thấp hơn nhiều so với các nước
khác trong khu vực. Điều này cho thấy thị trường lao động Việt Nam
thiếu ổn định, việc làm chưa đầy đủ và bền vững, với năng suất lao động thấp.
Có thể thấy thị trường lao động Việt Nam đã có những bước
tiến quan trọng trong vài thập kỷ qua. Điều này được thể hiện qua
mức lương cao hơn, tốc độ giảm đều đặn của các việc làm trong
ngành Nông nghiệp và pháp luật lao động được cải thiện. Nhưng mặc
dù có những tiến bộ như vậy, gần một nửa người số lao động Việt
Nam vẫn đang làm việc trong ngành Nông nghiệp - ngành có năng
suất lao động và thu nhập thấp. Cứ mỗi 5 người lao động thì khoảng
3 người làm những công việc dễ bị tổn thương (lao động tự làm và
lao động gia đình không trả lương) - đó là những công việc có điều
kiện làm việc đặc biệt không đảm bảo.
Nhìn chung, năng suất lao động và lương của Việt Nam tương
đối thấp so với các nền kinh tế khác trong khu vực ASEAN như
Malaysia, Singapore và Thái Lan. Bởi vậy, Việt Nam cần tiếp tục nỗ
lực tăng cường pháp luật lao động, cải thiện việc tuân thủ luật pháp,
thúc đẩy hệ thống quan hệ lao động và các cơ sở đào tạo, phát triển kỹ năng.
Tuy nhiên, hạn chế của việc sử dụng tỷ lệ thất nghiệp làm
thước đo cho các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam là không
thể hiện được đầy đủ tình trạng của thị trường lao động. Những nước
này không có đủ những việc làm tốt, bền vững với năng suất cao,
dẫn đến việc không sử dụng được đầy đủ tiềm năng của lực lượng
lao động (labour underutilization) như tỷ lệ thiếu việc làm cao, thu 5
nhập thấp và năng suất lao động thấp. Như vậy, việc theo dõi thị
trường lao động ở các nước đang phát triển như Việt Nam cần có
những chỉ số thể hiện được chất lượng việc làm. Chẳng hạn, những
chỉ số này bao gồm tỷ lệ lao động nghèo, tỷ lệ việc làm dễ bị tổn
thương, tỷ lệ nền kinh tế phi chính thức, tỷ lệ ngành Nông nghiệp
trong số việc làm, năng suất lao động và lương bình quân.
Tóm lại, cơ cấu dân số vàng ở Việt Nam thể hiện tỷ lệ lớn dân
số trong độ tuổi lao động và giảm tỷ lệ phụ thuộc. Nếu Việt Nam có
thể tạo ra đủ việc làm có chất lượng cao để đáp ứng nguồn lao động
đang mở rộng, có thể đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế và giải
quyết những lỗ hổng trên thị trường lao động. Đồng thời, sự ổn định
kinh tế vĩ mô và các thể chế về thị trường lao động vững mạnh hơn
sẽ giúp tạo ra một môi trường kinh doanh tốt hơn, thu hút đầu tư và
kích cầu. Thêm vào đó, cải thiện chất lượng giáo dục, đào tạo và
chất lượng của các nhà cung cấp dịch vụ việc làm sẽ giúp người lao
động Việt Nam và người tìm việc đáp ứng được các nhu cầu của
doanh nghiệp và ngành nghề và nắm bắt những cơ hội việc làm mới và tốt hơn.
Các chinh sách của chính phủ giải quyết vấn đề thất nghiệp
- Tích cực đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế
Về tài khóa, sẽ tiếp tục đẩy mạnh đầu tư phát triển dựa vào
củng cố nguồn thu; giãn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho các thành phần kinh tế.
Về tiền tệ, sẽ tiếp tục bù lãi suất tín dụng cho vốn vay trung và
dài hạn phục vụ đầu tư máy móc thiết bị cho nền kinh tế nói chung
và cho khu vực nông nghiệp nói riêng với các khoản.
Kích thích tăng trưởng bằng các gói kích cầu.
Sắp xếp lại cơ cấu lao động đồng thời nâng cao trình độ cho
người lao động. Việt Nam có dân số trẻ nguồn lao động dồi dào, chi 6
phí rẻ nhưng do cơ cấu bố trí chưa hợp lý nên việc khai thác lao động kém hiệu quả.
Tăng nguồn vốn đầu tư (chủ yếu lấy từ dự trữ quốc gia, vay nợ
nước ngoài) đẩy nhanh tiến bộ xây dựng cơ sở hạ tầng, làm thủy lợi,
thủy điện giao thông… nhằm tạo việc làm mới cho người lao động.
Đồng thời, nới lỏng các chính sách tài chính, cải cách thủ tục hành
chính nhằm thu hút vốn đầu tư của nước ngoài tạo nguồn việc làm
cho người dân. Bên cạnh đó khuyến khích phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, cho các doanh nghiệp vay vốn để mua sắm trang
thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất.
Ưu đãi đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
tham gia đầu tư các dự án, công trình có quy mô lớn, tạo nhiều việc
làm, hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua việc giảm thuế, hoán thuế,
khoanh nợ song song với cam kết phải duy trì việc làm cho số lao
động hiện tại và thu hút thêm lao động nếu có thể, hỗ trợ vay vốn
cho các doanh nghiệp gặp khó khăn để duy trì sản xuất, bảo đảm
việc làm cho người lao động.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào các khu côngnghiệp các dự án kinh tế. giúp tăng trưởng
kinh tế và tạo việc làm cho công nhân.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động cần chuyển dịch cơ cấu
lao động theo hướng công nghiệp và dịch vụ, hướng người lao động
đến những việc làm ở những ngành nghề, đem lại giá trị cao trong
các chuỗi giá trị, với điều kiện lao động phải có hiểu biết, có kỹ năng
chuyên môn để dần thay thế khu vực kinh tế nông nghiệp kém hiệu
quả bằng khu vực kinh tế có giá trị cao hơn, thông qua đó nâng cao
đời sống và thu nhập của người lao động, tạo ra một thị trường lao
động cạnh tranh để giảm nguy cơ thất nghiệp khi có khủng hoảng.
Lao động nông thôn rất cần được đào tạo, dạy nghề, họ cần có
trình độ chuyên môn và cập nhật kiến thức để đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế của đất nước. 7
Cần đẩy nhanh tiến độ đô thị hóa và phát triển mạnh các khu
kinh tế vệ tinh, các khu công nghiệp và các làng nghề, tăng cường
mối quan hệ giữa sản xuất công nghiệp với nông nghiệp và dịch vụ,
đặc biệt khai thác mối liên kết kinh tế giữa các thành phố lớn với các
khu vực phụ cận nhằm tạo ra nhiều việc làm tại chỗ.
Cần có sự phát triển bền vững và đồng bộ thị trường hàng hóa,
thị trường đất đai, thị trường vốn, thị trường lao động và thị trường tín dụng.
Tổng liên đoàn lao động các tỉnh, thành phố giúp đỡ người lao
động sớm tìm được việc làm mới thông qua trung tâm tư vấn việc
làm. Bên cạnh việc giải quyết việc làm thì đầu tư cho công tác dạy
nghề cũng là biện pháp kích cầu không kém phần quan trọng.
Hoàn thiện hệ thống bảo hiểm thất nghiệp và an sinh xã hội.
Tình trạng thất nghiệp sau khi tốt nghiệp đại học đang diễn ra.
Để khắc phục tình trạng này thì việc làm tốt công tác hướng nghiệp
trong nhà trường phổ thông, phối hợp giữa gia đình, nhà trường và
xã hội là hết sức cần thiết.
1.2.Ảnh hưởng đại dịch Covid 19 đến người lao động Việt Nam
Thực tế cho thấy, ngoài tác động tiêu cực kinh tế vĩ mô, đại
dịch cũng ảnh hưởng lớn đến đời sống hàng ngày của người lao động
và hộ gia đình. Tuy nhiên, những tác động đó không dễ đo lường vì
chúng biến thiên theo thời gian, phụ thuộc vào quy mô của đại dịch
và mức độ nghiêm ngặt của các hạn chế đi lại. Nhiều ý kiến cho
rằng, kể cả nếu Việt Nam đã có khả năng chống chịu về kinh tế
tương đối tốt hơn so với hầu hết các quốc gia khác trong năm ngoái,
thì nhiều người dân vẫn phải trải qua tình trạng khó khăn về kinh tế
và mức độ khó khăn đang tăng lên do tình hình kinh tế trong nước
đang xấu đi, khi tốc độ tăng trưởng GDP quý III ước tính giảm 6,17% 8
so với cùng kỳ năm trước - mức giảm sâu nhất kể từ khi Việt Nam
tính và công bố GDP theo quý đến nay.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, thị trường
lao động có khả năng chống chịu tương đối vững trong năm đầu của
đại dịch, nhưng xu hướng gần đây bắt đầu phản ánh tác động trực
tiếp của đợt bùng phát dịch thứ 4 đến người lao động khi mà trong 9
tháng năm 2021 cả nước có tới hơn 1,3 triệu người lao động thất
nghiệp, 1,3 triệu lao động đã phải về quê do không có việc làm và cuộc sống khó khăn.
Điểm đáng chú ý, ngay sau khi đợt dịch bùng phát hồi tháng 4,
đã ảnh hưởng tức thời đến người lao động. Theo số liệu Tổng cục
Thống kê, trong quý II năm 2021, khoảng 12,8 triệu người từ 15 tuổi
trở lên đã bị ảnh hưởng tiêu cực, bao gồm mất việc làm, tạm nghỉ,
làm việc luân phiên, giảm giờ làm, hoặc giảm thu nhập. Quy mô lực
lượng lao động giảm 0,7% trong khi có thêm 1,6% người lao động
thất nghiệp hoặc thiếu việc làm trong quý II năm 2021 so với quý II
năm 2019. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm tăng thêm lần lượt 0,2
điểm phần trăm và 1,3 điểm phần trăm trong quý II năm 2021 so với
quý II năm 2019. Mức lương thực tế vẫn thấp hơn 1,3% so với quý II
năm 2019. Trong quý II năm 2021, tỷ lệ lao động có việc làm phi
chính thức lên đến 57,4%, mức cao nhất trong ba năm qua. Mặc dù
những số liệu trên có vẻ tương đối nhỏ so với nhiều quốc gia khác, kể
cả trong khu vực, nhưng cho thấy sự thay đổi lớn trong lực lượng lao
động thường đạt mức toàn dụng lao động trước đó và đến lương thực
tế luôn gần như tự động tăng lên trong thập niên vừa qua.
Bằng chứng này có lẽ thể hiện bức tranh sáng - tối đan xen về
tác động đến doanh nghiệp, với những dấu hiệu cho thấy áp lực tài
chính lớn nhưng cũng thể hiện khả năng chống chịu ở khu vực tư
nhân. Nửa đầu năm 2021, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập
mới cao hơn so với số đóng cửa. Kết quả trên cần được diễn giải thận
trọng vì nó chỉ phản ánh khu vực kinh tế chính thức trong khi các 9
doanh nghiệp khu vực phi chính thức có thể dễ bị tổn thương hơn.
Ngoài ra, theo một kết quả khảo sát tần suất cao của Ngân hàng Thế
giới năm 2020 đã chỉ ra quan hệ tương quan chặt chẽ giữa sự gia
tăng chỉ số mức độ nghiêm ngặt của Chính phủ và tình trạng tài
chính xấu đi ở khu vực tư nhân. Ví dụ, trong đợt cách ly toàn quốc
vào tháng 4/2020, khoảng 81% doanh nghiệp cho biết bị ảnh hưởng
bởi khủng hoảng, khiến cho doanh số của họ giảm 52% so với cùng
kỳ năm 2019. Từ đó suy ra, tình hình tài chính của nhiều doanh
nghiệp chắc chắn đã xấu đi kể từ đợt dịch bùng phát gần đây, khi họ
phải đóng cửa, gánh chịu đứt gãy chuỗi cung ứng, hoặc không thể
giữ lao động làm việc tại cơ sở sản xuất kinh doanh do phải cách ly ở nhà.
Tác động kéo dài của đại dịch đến các hộ gia đình đã trở nên rõ
nét, thậm chí, ngay từ trước khi đợt dịch COVID-19 bùng phát vào
tháng 4, vào thời điểm tháng 3 năm 2021, 30% hộ gia đình có thu
nhập thấp hơn so với tháng 3 năm 2020. Khoảng 12% các hộ gia
đình này rơi vào tình trạng khó khăn tài chính khi họ bị mất ít nhất
50% thu nhập. Nữ giới và các hộ ở nhóm 20% có thu nhập thấp nhất
trải qua quá trình phục hồi thu nhập chậm nhất. Khu vực kinh tế phi
chính thức thường gắn liền với an ninh thu nhập thấp hơn, năng suất
lao động thấp hơn, và khả năng tiếp cận tài chính hạn chế, mặc dù ít
nhiều đã được tiếp cận mạng lưới an sinh xã hội.
Ngoài ra, như ở nhiều quốc gia khác, khủng hoảng có tác động
liên quan đến giới ở Việt Nam do nữ giới thường phải gánh trách
nhiệm chăm sóc trẻ em nhiều hơn, và đại dịch COVID-19 càng làm
tăng áp lực về thời gian cho nữ giới phải chăm sóc con cái nhiều hơn,
nhất là khi trường học bị đóng cửa, con em của họ phải học online tại
nhà. Các nhóm càng nghèo thì càng dễ bị tổn thương vì họ ít có
khoản tiết kiệm hơn và khả năng tiếp cận tài chính hạn chế hơn.
Ngoài ra, có thể thấy chênh lệch vùng miền trong xu hướng thu nhập
hộ gia đình, trong đó khu vực duyên hải Nam Trung Bộ (khu vực có 10
thành phố Đà Nẵng) và thành phố Hồ Chí Minh bị ảnh hưởng nhiều
hơn bởi các biện pháp y tế dự phòng và hạn chế đi lại quốc tế do du
lịch và kinh doanh dịch vụ chiếm một phần lớn trong quy mô kinh tế các tỉnh này.
Khủng hoảng kéo dài đã chỉ ra thêm những thách thức mang
tính cấu trúc trong nước, đòi hỏi các chính sách ứng phó của Chính
phủ phải xử lý hệ quả xã hội của khủng hoảng. Tác động của COVID-
19 đến thị trường lao động và các hộ gia đình tiếp tục diễn ra trong
năm 2021, và càng trở nên trầm trọng sau đợt dịch bùng phát vào
tháng 2 và tháng 4, nhất là trong những tháng gần đây của quý III.
Có lẽ, trong thời gian gần, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động
chưa thể khôi phục hoàn toàn về mức trước khi đại dịch COVID-19
bùng phát và thu nhập của hộ gia đình cũng bị ảnh hưởng, với mức
độ khác nhau giữa các ngành nghề, giới và địa bàn. Những tác động
đó đặc biệt liên quan đến nữ giới, là những người bị thiệt thòi hơn do
những điều chỉnh gần đây trên thị trường lao động. Đồng thời, những
người làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức và những địa bàn
mà hoạt động kinh tế phụ thuộc vào du lịch và doanh nghiệp quốc tế
cũng bị ảnh hưởng nhiều hơn. Tác động khác biệt như vậy có thể dẫn
đến sự gia tăng kéo dài của bất bình đẳng. Thu nhập hộ gia đình bị
giảm sẽ ảnh hưởng đến quyết định tiêu dùng và đầu tư, và qua đó
ảnh hưởng đến quá trình phục hồi kinh tế. Thu nhập thấp cũng có
thể tác động đến các khoản đầu tư cho sức khỏe và giáo dục của trẻ
em, gây ảnh hưởng lâu dài đến tích lũy vốn con người của đất nước.
Các cấp có thẩm quyền cần cân nhắc tăng cường phạm vi bao phủ,
xác định đối tượng mục tiêu và mức hỗ trợ trong các chương trình an
sinh xã hội để đảm bảo rằng những nạn nhân của đại dịch hiện tại và
tương lai cần nhận được hỗ trợ đầy đủ hơn...
Đại dịch COVID-19 bùng phát tại TP. Vũ Hán – Trung Quốc và
nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới, tác động đến hầu hết các lĩnh
vực, trong đó có thị trường lao động. Theo dự báo của Tổ chức Lao 11
động Quốc tế (ILO), cuộc khủng hoảng thị trường lao động toàn cầu
do đại dịch COVID-19 gây ra ít nhất còn tiếp diễn đến năm 2023.
Ở Việt Nam, đại dịch COVID-19 đã tác động tiêu cực đến thị
trường lao động Việt Nam, số người có việc làm giảm sâu, tỷ lệ thất
nghiệp và thiếu việc làm tăng cao, thu nhập bình quân tháng của
người lao động sụt giảm nghiêm trọng. Nhiều chủ sử dụng lao động
lâm vào tình cảnh nợ nần, phá sản... Nguồn cung cho thị trường lao
động bị suy giảm, cơ cấu việc làm và chuyển dịch trong thị trường bị đảo chiều.
Thị trường lao động bị chia cắt cục bộ giữa các vùng, các địa
phương, làm mất cân đối cung cầu lao động, gây ra áp lực về giải
quyết việc làm cho người lao động. Đại dịch COVID-19 tác động đến
mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội khiến nhiều doanh nghiệp và
người lao động đối mặt với nhiều rủi ro, buộc họ phải thay đổi để
thích ứng, an toàn, hòa nhập trong môi trường “bình thường mới”.
Đại dịch COVID-19 bùng phát và diễn biến phức tạp đã ảnh
hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả quốc gia trên thế giới. Nền kinh
tế toàn cầu rơi vào suy thoái nghiêm trọng. Thị trường lao động là
một trong những lĩnh vực chịu tác động khá nặng nề.
Theo thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, đại
dịch COVID-19 ảnh hưởng trực tiếp và gây tổn thương khá nặng nề
với quy mô khoảng 50-60% người lao động. Trên 50% người trong độ
tuổi lao động bị ảnh hưởng mất việc làm, giảm thu nhập. Đặc biệt,
trong quý III/2021, dịch bệnh tăng mạnh khiến lao động việc làm
thiếu hụt rất lớn, nhất là cuối thời kỳ giãn cách xã hội; thu nhập bình
quân của người lao động tại thành phố giảm đến 40% so với bình quân trên cả nước.
Tác động của dịch bệnh COVID-19 còn làm gia tăng khoảng
cách về kỹ năng của người lao động hiện tại và các kỹ năng mà các
doanh nghiệp cần để thích ứng với thay đổi về công nghệ và thị
trường. Dịch bệnh đã làm cơ cấu việc làm thay đổi, trước đây, số việc 12
làm trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản giảm, lĩnh vực dịch vụ, công
nghiệp tăng, nhưng hiện nay đã đảo chiều ngược lại. Lao động trong
ngành dịch vụ giảm 2-3 triệu người so với cùng kỳ năm trước, nay
còn khoảng 17,1 triệu người; lao động có việc làm ngành công
nghiệp và xây dựng là 15,7 triệu người, giảm 960.000 người so với cùng kỳ năm 2020.
Trong quý III/2021, lực lượng lao động có 49,1 triệu lượt người,
giảm 22 triệu lượt người so với cùng kỳ năm 2020; lao động việc làm
là 47,2 triệu người, giảm 2,7 triệu người so với cùng kỳ năm 2020; tỷ
lệ thiếu việc làm là 4,46% (hơn 1,8 triệu người), tăng 1,86% so với
quý trước; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 3,98% (hơn 1,7
triệu người), tăng hơn 1,25% so với cùng kỳ năm 2020; 14,7 triệu lao
động tạm nghỉ hoặc tạm ngừng sản xuất, kinh doanh; hơn 10 triệu
lao động giảm giờ làm, tạm dừng việc làm. Như vậy, năm 2021, số
lượng lao động giảm việc làm khá lớn. Đặc biệt, vùng Đông Nam Bộ
và vùng Đồng bằng sông Cửu Long bị ảnh hưởng nặng nề, với 4,59%
lao động vùng Đông Nam Bộ và 44,7% lao động vùng Đồng bằng
sông Cửu Long bị ảnh hưởng do ngừng việc, giãn việc, nghỉ việc.
Đợt dịch bệnh COVID-19 lần thứ tư diễn biến phức tạp, lây lan
nhanh và kéo dài đã làm tăng tỷ lệ và số người thiếu việc làm trong
độ tuổi ở quý III/2021 lên mức cao nhất trong vòng 10 năm qua. Theo
báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong năm 2021, tỷ lệ thất nghiệp
trong độ tuổi lao động là 3,22% (quý I/2021 là 2,42%; quý II/2021 là
2,62%; quý III/2021 là 3,98%; quý IV/2021 là 3,56%). Tỷ lệ thiếu việc
làm trong độ tuổi lao động năm 2021 là 3,1% (quý I/2021 là 2,2%;
quý II/2021 là 2,6%; quý III/2021 là 4,46%; quý IV/2021 ước tính 3,37%).
Theo đánh giá của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, đại
dịch COVID-19 đã gây ra nhiều thách thức đối với thị trường lao động
Việt Nam, như bị chia cắt cục bộ giữa các vùng, các địa phương, gây
ra thiếu lao động cho sản xuất - kinh doanh. Việc thực hiện các biện 13
pháp phòng, chống dịch khiến việc di chuyển giữ các vùng trở nên
khó khăn hơn, gia tăng sự mất cân đối cung cầu lao động cục bộ,
gây ra áp lực về giải quyết việc làm cho người lao động. Đặc biệt,
dịch COVID-19 bùng phát tại nhiều nơi, trong đó có các khu vực kinh
tế trọng điểm phía Nam, tạo ra một làn sóng dịch chuyển lao động
lớn chưa từng có từ các thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai,
Bình Dương về các địa phương khác trên cả nước. Điều này cũng tạo
ra lo ngại về thiếu hụt lao động tại các thành phố lớn trong thời gian tới.
Mặc dù, đại dịch COVID-19 gây ra nhiều thách thức với thị
trường lao động Việt Nam, song cũng tạo ra nhiều cơ hội lớn để thị
trường lao động phát triển. Đó là cơ hội để các doanh nghiệp sắp
xếp, cơ cấu sản xuất kinh doanh phù hợp với Cách mạng công
nghiệp 4.0, cơ hội điều chỉnh, phân bổ lại lao động giữa các vùng,
các ngành kinh tế, góp phần nâng cao năng suất, thúc đẩy chuyển
đổi kinh tế số, kinh tế xanh. Đồng thời, đây là cơ hội phát triển các
hình thức giao dịch việc làm, đổi mới giáo dục nghề nghiệp, đào tạo
gắn với nhu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Vì vậy,
cần có giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, thách thức và tận
dụng thời cơ để từng bước khôi phục và phát triển thị trường lao
động Việt Nam trong trạng thái bình thường mới.
2.TÍNH THÍCH ỨNG VÀ SỰ KỊP THỜI CỦA CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ
NGƯỜI LAO ĐỘNG MÂT VIỆC LÀM BỞI ĐẠI DỊCH COVID 19
2.1.Chính sách hỗ trợ người lao động bị mất việc làm bởi đại
dich Covid 19 và các vấn đề đặt ra với chính sách
Các vấn đề đặt ra về chính sách hỗ trợ người lao động bị
mất việc làm bởi đại dich Covid 19
Năm 2020, Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định
trong kiểm soát dịch Covid-19, với tỷ lệ ca mắc trên 1 triệu dân 14
thuộc nhóm thấp nhất thế giới. Mặc dù vậy, thị trường lao động vẫn
chịu ảnh hưởng khá nghiêm trọng.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm, cả
nước có khoảng 32,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu
cực bởi dịch bệnh. Trong đó, 69,2% bị giảm thu nhập, 39,9% phải
giảm giờ làm hoặc nghỉ luân phiên và khoảng 14% buộc phải tạm
ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ
tuổi lao động của Việt Nam tính trong cả năm 2020 là 2,48%, cao
hơn 0,31 điểm phần trăm so với năm 2019 và cao nhất trong 10 năm trở lại đây.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra các chính
sách hỗ trợ người lao động được đánh giá là kịp thời và chưa có tiền
lệ. Ngay trong tháng 4 năm 2020, Nghị quyết số 42/NQ-CP và Quyết
định số 15/2020/QĐ-TTg về các biện pháp hỗ trợ người dân, doanh
nghiệp gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 đã được ban hành.
Sang tới năm 2021, nhất là từ khi đợt dịch lần thứ 4 bùng phát
vào cuối tháng 4/2021, thị trường lao động lại rơi vào trạng thái biến
động khó lường. Chỉ tính riêng quý II/2021, cả nước có 557 nghìn lao
động bị mất việc; 4,1 triệu người phải tạm dừng sản xuất kinh doanh;
4,3 triệu người bị cắt giảm giờ làm hoặc buộc phải nghỉ giãn việc,
nghỉ luân phiên; và 8,5 triệu lao động bị giảm thu nhập.
Chính phủ một lần nữa ban hành thêm các chính sách hỗ trợ
người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn trong đại
dịch qua Nghị quyết số 68/NQ-CP và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 tới thị trường lao động -
việc làm vẫn thể đo đếm được.
Chính sách hỗ trợ người lao động bị mất việc làm bởi đại dich Covid 19 15
Trong thời gian xảy ra dịch bệnh COVID-19, đặc biệt với chỉ thị
cách ly xã hội, đời sống người dân gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là
những người nghèo, những người thuốc nhóm yếu thế.
Đảm bảo an sinh xã hội là một việc làm rất quan trọng trong
giai đoạn dịch bệnh COVID-19. Hiểu được điều đó, Chính phủ đã đưa
ra những phương án giải quyết để hỗ trợ kịp thời với phương châm
“Không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ hỗ trợ đã đưa ra gói an sinh xã hội
lên tới 2,6 tỉ USD với nhiều chính sách hỗ trợ cụ thể cho người nghèo,
người lao động bị mất việc làm do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Cụ thể như sau:
Hỗ trợ thêm 500 nghìn đồng/người/tháng trong 3 tháng 4, 5, 6
cho các đối tượng gồm người có công cách mạng đang hưởng
trợ cấp; đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng.
Hỗ trợ 1 triệu đồng/tháng trong 3 tháng 4, 5, 6 cho các đối
tượng hộ nghèo, cận nghèo theo chuẩn nghèo.
Hỗ trợ 1,8 triệu đồng người tháng cho người lao động tạm dừng
lao động do bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 đang làm việc tại các doanh nghiệp.
Người sử dụng lao động được vay Ngân hàng Chính sách xã hội
với lãi suất 0%, tối đa thời hạn 12 tháng để hỗ trợ 50% mức
lương tối thiểu vùng để trả lương cho người lao động và có
trách nhiệm trả phần tiền lương còn lại cho người lao động.
Hỗ trợ 1 triệu đồng/hộ/tháng trong 3 tháng 4, 5, 6 cho hộ kinh
doanh cá thể có thu nhập dưới 100 triệu đồng/năm tạm ngừng
kinh doanh theo yêu cầu của Thủ tướng trong chỉ thị ngày 27-3.
Hỗ trợ 1 triệu đồng/người/tháng cho 3 tháng cho người lao động
phải chấm dứt hợp đồng lao động chưa đủ điều kiện hưởng trợ 16
cấp thất nghiệp, lao động không có cam kết hợp đồng lao động và bị mất việc làm.
Riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh sẽ chi 2.700 tỉ đồng hỗ trợ chống
dịch COVID-19, trong đó dành 1.800 tỉ giúp các đối tượng khó khăn
do tác động của dịch bệnh.
Hỗ trợ người lao động bị mất việc do ảnh hưởng của dịch
COVID-19, nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp
sẽ hỗ trợ 1.000.000 đồng/người/tháng. Thời gian hỗ trợ tối đa
không quá ba tháng, tính từ tháng 4/2020. Dự kiến 600.000
người, bao gồm cả giáo viên, nhân viên của các cơ sở giáo dục
mầm non ngoài công lập và nhóm trẻ sẽ được hưởng chính sách này.
Hỗ trợ người bị cách ly y tế, kể cả tại khu dân cư được khoanh
vùng kiểm dịch, phân loại trước khi chuyển đến khu cách ly tập
trung (không bao gồm cách ly tại nhà, nơi lưu trú) và người
điều trị COVID-19 tại các cơ sở khám, chữa bệnh Thành phố Hồ
Chí Minh được hỗ trợ mức 90.000 đồng/người/ngày.
Các đối tượng: Công an, quân đội, nhân viên y tế và lực lượng
tham gia phòng chống dịch đều có chế độ hỗ trợ từ nguồn ngân
sách của thành phố. Học sinh, sinh viên tại các cơ sở giáo dục
phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục nghề nghiệp công
lập và công nhân vệ sinh trực tiếp tham gia chống dịch được hỗ
trợ 3 cái khẩu trang/người/tháng.
Với tinh thần truyền thống của dân tộc ta “lá lành đùm lá rách”,
trong khi đợi sự hỗ trợ của chính quyền, nhiều nguồn lực xã hội đã
chung sức hỗ trợ cho người nghèo, người thuộc nhóm yếu thế. Đã có
rất nhiều các điểm phát gạo, mì gói, trứng, dầu ăn, khẩu trang và
cung cấp bữa ăn miễn phí, giúp cho người có hoàn cảnh khó khăn,
người bán vé số, nhặt ve chai… Những bữa ăn miễn phí, những đồ
dùng thiết yếu đã được tổ chức để mọi người cùng nhau vượt qua
cơn khó khăn trong mùa dịch này. 17
Hỗ trợ bằng tiền cho người lao động bị ảnh hưởng bởi
đại dịch COVID-19 từ kết dư Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Đối tượng áp dụng là người lao động đang tham gia bảo hiểm
thất nghiệp tại thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2021 (không bao
gồm người lao động đang làm việc tại cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và đơn
vị sự nghiệp công lập do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên).
Người lao động đã dừng tham gia bảo hiểm thất nghiệp do
chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc trong khoảng
thời gian từ ngày 01 tháng 01 năm 2020 đến hết ngày 30 tháng 9
năm 2021 có thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp được bảo lưu theo
quy định của pháp luật về việc làm, không bao gồm người hưởng lương hưu hàng tháng.
Mức hỗ trợ trên cơ sở thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp chưa
hưởng trợ cấp thất nghiệp của người lao động, cụ thể như sau:
- Thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp dưới 12 tháng: hỗ trợ 1.800.000 đồng/người.
- Thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng đến dưới 60
tháng: hỗ trợ 2.100.000 đồng/người.
- Thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 60 tháng đến dưới 84
tháng: hỗ trợ 2.400.000 đồng/người.
- Thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 84 tháng đến dưới 108
tháng: hỗ trợ 2.650.000 đồng/người.
- Thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 108 tháng đến dưới 132
tháng: hỗ trợ 2.900.000 đồng/người.
- Thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 132 tháng trở lên: hỗ trợ 3.300.000 đồng/người. 18