-
Thông tin
-
Quiz
Đề cương ôn tập môn an sinh xã hội | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Nêu khái niệm và bản chất của an sinh xã hội. Nêu bản chất của ASXH. Phân tích chức năng của an sinh xã hội. Phân tích vai trò của an sinh xã hội. Nêu một số chính sách an sinh xã hội cơ bản. Đánh giá của anh/chị về các chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Báo chí về kinh tế và an sinh xã hội 8 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Đề cương ôn tập môn an sinh xã hội | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Nêu khái niệm và bản chất của an sinh xã hội. Nêu bản chất của ASXH. Phân tích chức năng của an sinh xã hội. Phân tích vai trò của an sinh xã hội. Nêu một số chính sách an sinh xã hội cơ bản. Đánh giá của anh/chị về các chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Báo chí về kinh tế và an sinh xã hội 8 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN AN SINH XÃ HỘI TRONG QUẢN LÝ AN SINH XÃ HỘI
Câu 1 + 2 (4.0 điểm): Nêu khái niệm và bản chất của an sinh xã hội.
Nêu bản chất của ASXH
- Một số quan niệm cơ bản về ASXH : o
Tổ chức lao động thế giới ILO ( công ước 102) : ASXH là 1 sự bảo
vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua 1 số
biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với khó khăn , các cú
sốc về kinh tế - XH làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng thu nhập do
ốm đau, thai sản , thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong
XH: Nhà nước, các tổ chức xã hội, cá nhân o
Hiệp hội ASXH thế giới: là sự chi phối kết hợp các thành tố (hợp
phần) của chính sách công , có thể điều chỉnh đáp ứng nhu cầu của
người công nhân, các công dân trong bối cảnh toàn cầu với sự thay
đổi kinh tế, xã hội, nhân khẩu học chưa từng xảy ra Điểm chung :
Mặc dù, với những diễn đạt khác nhau, các quan niệm về ASXH đều có những điểm chung sau đây:
Là sự bảo đảm an toàn thu nhập ở mức tối thiểu thông qua hệ thống các chính sách can thiệp nhằm quản lý
rủi ro tốt hơn, bao gồm các rủi ro liên quan đến nhu cầu cơ bản nhất của con người: rủi ro về sức khỏe,
thiếu hoặc mất việc làm, tuổi già, trẻ em, tàn tật... dẫn đến không có thu nhập tạm thời hoặc vĩnh viễn so với
mức tối thiểu đủ sống (được luật hóa hoặc quy định).
Là các chính sách do nhà nước tổ chức thực hiện là chính, ngoài ra còn có sự tham gia của các tổ chức xã
hội, cộng đồng và thị trường trong việc tổ chức thực hiện và cung cấp dịch vụ ASXH. Các chính sách này
hướng đến mọi thành viên trong xã hội, bảo đảm cho mọi thành viên được bình đẳng về tiếp cận và chất
lượng dịch vụ, tuy nhiên, nhấn mạnh đến nhóm đối tượng yếu thế (lý do chính để có sự tham gia của nhà nước).
Là lưới an toàn cho mọi thành viên trong xã hội. Do đó, phạm vi của ASXH là bao phủ toàn dân và toàn diện
(cơ bản đáp ứng được nhu cầu ASXH của người dân một cách toàn diện).
QUAN NIỆM : ASXH là một hệ thống các cơ chế, chính sách giả pháp của
nhà nước và cộng đồng nhằm trợ giúp mọi thÀNH VIÊN trong xã hội ứng
phó với các rủi ro, các cú sốc KT-XH làm cho họ suy giảm hoặc mất nguồn
thu nhập và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng thông qua các
hệ thống chính sách xã hội cơ bản . - Bản chất (3 ý) :
Thứ nhất, ASXH là biểu hiện rõ rệt của quyền con người đã được Liên
hợp quốc thừa nhận
Để thấy rõ bản chất của ASXH, cần hiểu rõ mục tiêu của nó. Mục tiêu của ASXH là tạo ra
một lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ cho tất cả mọi thành viên của cộng
đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột
xuất trong chi tiêu của gia đình do nhiều nguyên nhân khác nhau, như ốm đau, thương
tật, già cả… gọi chung là những biến cố và những “rủi ro xã hội”. Để tạo ra lưới an toàn
gồm nhiều tầng, nhiều lớp, có thể thực hiện bảo đảm an sinh cho mọi tầng lớp dân cư,
ASXH dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội, được thực
hiện bằng nhiều hình thức, phương thức và các biện pháp khác nhau. Nhưng tập trung
vào ba vấn đề chủ yếu:
Vấn đề BHXH, đây là trụ cột cơ bản nhất, là xương sống của hệ thống
ASXH. BHXH dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia, gồm người lao
động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường
hợp. Thông qua các trợ cấp BHXH, người lao động có được một khoản thu
nhập bù đắp hoặc thay thế cho những khoản thu nhập bị giảm hoặc mất
trong những trường hợp họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
Hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội, bao gồm cả dịch vụ chăm sóc sức
khỏe cho người lao động và các thành viên gia đình họ, nhằm bảo đảm
cho họ tái tạo được sức lao động, duy trì và phát triển nền sản xuất xã hội,
đồng thời phát triển mọi mặt cuộc sống của con người, kể cả phát triển bản thân con người.
Các loại trợ giúp xã hội (cung cấp tiền, hiện vật…), bao gồm cả trợ cấp
gia đình, cho những người có rất ít hoặc không có tài sản (người nghèo
khó), những người cần sự giúp đỡ đặc biệt cho các gánh nặng gia đình…
ASXH cũng khuyến khích, thậm chí bao quát cả những loại trợ giúp như
miễn giảm thuế, trợ cấp về ăn, ở, dịch vụ đi lại…
Như vậy, có thể thấy rõ bản chất của ASXH là nhằm che chắn, bảo vệ cho các
thành viên của xã hội trước mọi “biến cố xã hội” bất lợi. Đây là thước đo thực
hiện quyền con người của mỗi quốc gia, đã được Liên hợp quốc thừa nhận.
Thứ hai, ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp
Mỗi người trong xã hội từ những địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo khác nhau… là
những biểu hiện khác nhau của một hệ thống giá trị xã hội. Nhưng vượt lên trên
tất cả, với tư cách là một công dân, họ phải được bảo đảm mọi mặt để phát huy
đầy đủ những khả năng của mình, không phân biệt địa vị xã hội, chủng tộc, tôn
giáo… ASXH tạo cho những người bất hạnh, những người kém may mắn
hơn những người bình thường khác có thêm những điều kiện, những lực
đẩy cần thiết để khắc phục những “biến cố”, những “rủi ro xã hội”, có
cơ hội để phát triển, hoà nhập vào cộng đồng. ASXH kích thích tính tích cực
xã hội trong mỗi con người, kể cả những người giàu và người nghèo; người may
mắn và người kém may mắn, giúp họ hướng tới những chuẩn mực của Chân
- Thiện - Mỹ. Nhờ đó, một mặt có thể chống thói ỷ lại vào xã hội; mặt khác,
có thể chống lại được tư tưởng mạnh ai nấy lo, “đèn nhà ai nhà ấy
rạng”… ASXH là yếu tố tạo nên sự hòa đồng mọi người không phân biệt
chính kiến, tôn giáo, chủng tộc, vị trí xã hội… Đồng thời, giúp mọi người hướng
tới một xã hội nhân ái, góp phần tạo nên một cuộc sống công bằng, bình yên.
Thứ ba, ASXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau,
tương thân tương ái của cộng đồng
Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là một trong những nhân tố để ổn
định và phát triển xã hội. Sự san sẻ trong cộng đồng, giúp đỡ những người bất
hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản của con người, bảo đảm cho một
xã hội phát triển lành mạnh. Điều này thể hiện ở những mặt sau:
ASXH thực hiện một phần công bằng và tiến bộ xã hội. Trên bình
diện xã hội, ASXH là một công cụ để cải thiện các điều kiện sống của các
tầng lớp dân cư, đặc biệt là đối với những người nghèo khó, những nhóm
dân cư “yếu thế” trong xã hội. Trên bình diện kinh tế, ASXH là một công cụ
phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng, được thực
hiện theo hai chiều ngang và dọc. Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện
phân phối lại theo chiều dọc còn gặp nhiều khó khăn do điều kiện tài chính
và tổ chức.. Sự phân phối theo chiều ngang và theo chiều dọc đã tạo ra một lưới ASXH.
ASXH góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Đến nay người ta đã ý thức
được rằng, sự phát triển của xã hội là một quá trình, trong đó các nhân tố
kinh tế và nhân tố xã hội thường xuyên tác động lẫn nhau. Sự phát triển
của thế giới trong những năm gần đây đặt ra mục tiêu là bảo đảm những
cải thiện nhất định cho hạnh phúc của mỗi người và đem lại những lợi ích
cho mọi người; bảo đảm phân phối công bằng hơn về thu nhập và của cải,
tiến tới công bằng xã hội; đạt được hiệu quả sản xuất, bảo đảm việc làm,
mở rộng và cải thiện về thu nhập giáo dục và y tế cộng đồng; giữ gìn và
bảo vệ môi trường… Đáp ứng những nhu cầu tối cần thiết cho những người
gặp khó khăn, bất hạnh là vấn đề được ưu tiên trong chiến lược phát triển
của thế giới. Những lưới đầu tiên của ASXH đã bảo vệ, giảm bớt sự
khó khăn cho họ. Sự phát triển sau này của những lưới khác tạo ra
sự đa dạng trong ASXH, giải quyết được những nhu cầu khác nhau
của nhiều nhóm người trong những trường hợp “rủi ro xã hội”. Tuy
nhiên, phải thấy rằng, ASXH không loại trừ được sự nghèo túng
mà chỉ có tác dụng góp phần đẩy lùi nghèo túng, góp phần vào
việc thúc đẩy tiến bộ xã hội. ASXH là một tất yếu khách quan trong
cuộc sống xã hội loài người. Trong bất kỳ xã hội nào, ở bất cứ giai đoạn
phát triển nào cũng đều có những nhóm dân cư, những đối tượng rơi vào
tình trạng không thể tự lo liệu được cuộc sống, hoặc trong cảnh gặp sự cố
nào đó trở thành những người “yếu thế” trong xã hội. Nếu trong xã hội có
những nhóm người “yếu thế”, những người gặp rủi ro, bất hạnh thì cũng
chính trong xã hội đó lại nẩy sinh những cơ chế hoặc tự phát, hoặc tự giác,
thích ứng để giúp đỡ họ. Đây là cơ sở để hệ thống ASXH hình thành và
phát triển. Tất nhiên, ASXH là một quá trình phát triển toàn diện, từ đơn
giản đến phức tạp và ngày càng phong phú, đa dạng.
- Biểu hiện của 3 bản chất trên trong thực tiễn :
Câu 3 (3.0 điểm): Phân tích chức năng của an sinh xã hội. Khái ni m : ệ
ASXH là một hệ thống các cơ chế, chính sách giả pháp của nhà nước và
cộng đồng nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội ứng phó với các rủi ro,
các cú sốc KT-XH làm cho họ suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập và cung
cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng thông qua các hệ thống chính sách xã hội cơ bản .
- Trình bày chức năng của ASXH : o
Chức năng tổng thể :
Thứ nhất, đó là chức năng phòng ngừa: ASXH góp phần
đảm bảo an toàn, ổn định cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Để
phòng ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị kinh tế phải đề ra các
quy định chặt chẽ về an toàn lao động buộc mọi người phải tuân
thủ. Khi có rủi ro xảy ra với người lao động, hệ thống ASXH kịp
thời hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động nhanh ổn định cuộc
sống và sản xuất. Tất cả những yếu tố đó góp phần quan trọng
làm ổn định nền kinh tế - xã hội. Từ giác độ phòng ngừa, hệ
thống ASXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội. Quỹ ASXH, trong đó có quỹ BHXH là nguồn tài
chính tập trung khá lớn, được sử dụng để chi trả các chế độ cho
người lao động và gia đình họ, phần nhàn rỗi được đầu tư vào
các hoạt động sản xuất, kinh doanh để bảo tồn và tăng trưởng
quỹ. Như vậy xét trên cả phương diện chi trả các chế độ, cũng
như đầu tư tăng trưởng quỹ, hoạt động của quỹ ASXH đều góp
phần ổn định xã hội và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, đó là chức năng giảm thiểu rủi ro: Với các cơ chế
san sẽ rủi ro (cả theo chiều dọc và theo chiều ngang), hệ thống
ASXH, nhất là trụ cột BHXH, tạo điều kiện cho mọi người dân,
mọi doanh nghiệp khi tham gia vào hệ thống có được nguồn tài
chính để trang trải cho các hoạt động đời sống gia đình; doanh
nghiệp không phải bỏ một khoản kinh phí lớn để trang trải
những rủi ro đối với người lao động (ví dụ: như thất nghiệp, tai
nạn lao động), có thể ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Nhà
nước, nhờ có các quỹ ASXH, nhất là quỹ BHXH, không phải chi
một khoản tiền lớn cho các trợ cấp xã hội, qua đó có thể sử
dụng ngân sách cho các mục tiêu phát triển.
Thứ ba, đó là chức năng khắc phục rủi ro: ASXH góp phần
ổn định đời sống của người lao động. Hệ thống các trợ cấp trong
ASXH sẽ góp phần thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi
người lao động bị ốm đau, mất khả năng lao động, mất việc làm,
hoặc chết. Nhờ có sự thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà
người lao động khắc phục nhanh chóng được những tổn thất về
vật chất, nhanh phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp
tục quá trình hoạt động bình thường.
Ngoài ra, hệ thống ASXH, trong đó có BHXH, thông qua các hoạt động của mình, góp
phần làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa người lao động, người sử dụng
lao động và Nhà nước. Người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước đều tham
gia đóng góp vào quỹ BHXH, điều đó làm cho người lao động có trách nhiệm hơn
trong công việc, trong lao động sản xuất, gắn bó với nơi mình làm việc. Người
sử dụng lao động tham gia đóng góp quỹ BHXH và các quỹ xã hội khác cũng
thấy rõ trách nhiệm của mình đối với người lao động và xã hội. Nhà nước vừa
tham gia đóng góp, vừa quản lý hoạt động của quỹ BHXH và các quỹ ASXH
khác, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng cho mọi đối tượng thụ hưởng… Điều đó
làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa Nhà nước - người sử dụng lao động - người lao
động, góp phần ổn định nền kinh tế - xã hội. ASXH, thông qua các cơ chế của mình, góp
phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, góp phần bảo đảm sự công bằng xã hội.
- Chức năng cụ thể :
Đảm bảo duy trì thu nhập liên tục cho mọi thành viên trong công
đồng xã hội ở mức tối thiểu: đây là chức năng cơ bản nhất Bất kể ai
trong xã hội dù giàu hay nghèo cũng đôi lúc cần đến sự hỗ trợ của
ASXH , không may gặp phải những thảm họa do chiến tranh, thảm
họa do thiên nhiên gây ra, hâu quả do những thảm họa đó để lại vô
cùng nặng thề, không thể khắc phục trong thời gian ngắn. Vì thế việc
duy trì thu nhập lúc này là điều vô cùng cần thiết. Điều này được thực
hiện thông qua các hình thức : BHXH, BHYT, BHTN, cứu trợ và cứu
trợ xã hội, ưu đãi xã hội , hỗ trợ đột xuất, hỗ trợ thường xuyên,….
Tạo lập quỹ tiền tệ tập trung trong xã hội để phân phối lại cho
nhưng người ko may gặp rủi ro : Với phương châm “người trẻ đóng
– người già hưởng ” trong BHXH hay Những quỹ tiền tệ tập trung, do hệ thống
ASXH tạo lập rất đa dạng và phong phú. Chúng bao gồm cả những nguồn quỹ rất lớn như quỹ dự
phòng của Chính phủ, quỹ BHXH cho đến những nguồn quỹ có quy mô nhỏ như quỹ thăm hỏi, quỹ
từ thiện trong các tầng lớp dân cư v.v... Tất cả các nguồn quỹ nói trên đều có một đặc điểm chung
giống nhau trong quá trình tạo lập và sử dụng là không nhằm mục đích kiếm lời trong hoạt động
của hệ thống ASXH. Trong xu hướng xã hội hoá hoạt động an sinh xã hội đang diễn ra nhanh
chóng ở các nước trên thế giới như hiện nay, thì chức năng tạo lập quỹ của ASXH đóng vai trò ngày càng quan trọng.
Thúc đẩy việc làm bền vững và phát triển thị trường lao động:
(i)Hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động ( đặc biệt là người nghèo,
người nông thôn,…) (ii) Phát triển thông tin thị trường lao động và dịch vụ việc làm để kết
nối cung cầu lao động, giảm thiểu mất cân bằng cung cầu lao động; (iii) Hỗ trợ tạo việc làm trực
tiếp cho một bộ phận người lao động thông qua các chương trình cho vay vốn tín dụng ưu đãi,
chương trình việc làm công và các chương trình thị trường lao động khác; (iv) Hỗ trợ chuyển đổi
việc làm cho lao động mất đất, lao động di cư, lao động bị tác động bởi khủng hoảng kinh tế...
Nâng cao hiệu quả quản lý xã hội, thúc đẩy gắn kết xã hội và phát
triển xã hội. o
Nâng cao hiệu quả quản lý xã hội: ASXH là một trong 3 cấu phần của chính sách xã hội,
là một trong những hệ thống chương trình, chính sách quan trọng để thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Do vậy, ASXH là công cụ quản lý của nhà
nước trong lĩnh vực phân phối và điều tiết phân phối. Thông qua chính sách thuế và các
chính sách chuyển nhượng xã hội, nhà nước thực hiện vai trò điều tiết, phân phối lại thu
nhập giữa các khu vực kinh tế, các vùng kinh tế, các nhóm dân cư và các thế hệ. o
Xóa đói giảm nghèo, giảm bất bình đẳng, thu hẹp chênh lệch về điều kiện sống theo
vùng, các nhóm dân cư: Mục tiêu đầu tiên của ASXH là giảm nghèo, giảm bất bình đẳng
và phân hoá giàu nghèo. Nhà nước thông qua chính sách hỗ trợ người nghèo, các đối
tượng yếu thế, điều chỉnh nguồn lực cho các vùng nghèo, vùng chậm phát triển, tạo nên
sự phát triển hài hoà, giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng, hạn chế bất bình đẳng giữa
các nhóm dân cư, tạo nên sự đồng thuận giữa các giai tầng, các nhóm xã hội trong quá
trình phát triển và duy trì sự ổn định xã hội. o
Góp phần tăng trưởng kinh tế và gắn kết xã hội: Thông qua hỗ trợ người nghèo, người
yếu thế tham gia thị trường lao động, giảm nghèo, giảm bất bình đẳng... ASXH nâng cao
nguồn vốn con người, tăng cường cơ hội và phát triển con người và tăng cường sự hòa
nhập..., là tiền đề cho tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và tăng cường gắn kết xã hội. o
Hướng tới tương lai tốt đẹp hơn: Một hệ thống ASXH được thiết kế hiệu quả có thể tạo điều kiện
cho mỗi cá nhân được phát triển độc lập, chủ động và nhiều cơ hội đầu tư tốt hơn cho
tương lai. Ngày nay, trong hầu hết các nước, các chỉ số ASXH đều là những chỉ số rất
quan trọng gắn với phát triển con người và xã hội như: tình trạng sức khỏe, giáo dục, thu
nhập, nhà ở, tuổi thọ, tầm vóc... ASXH được coi là công cụ để đầu tư cho tương lai, giảm rủi ro trong tương lai.
- Đánh giá về việc thực hiện các chức năng này trong thực tiễn : o ưu điểm : o hạn chế:
Câu 4 (3.0 điểm): Phân tích vai trò của an sinh xã hội. Khái ni m : ệ
ASXH là một hệ thống các cơ chế, chính sách giả pháp của nhà nước và
cộng đồng nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội ứng phó với các rủi
ro, các cú sốc KT-XH làm cho họ suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập và
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng thông qua các hệ thống
chính sách xã hội cơ bản .
- Trình bày các vai trò (4 vai trò) :
a. An sinh xã hội khơi dậy được tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng xã hội
An sinh xã hội lấy con người làm trung tâm, coi ASXH là quyền con người, bảo vệ con người trước các biến cố rủi ro
xảy ra. Con người vừa là động lực của sự phát triển xã hội, vừa là mục tiêu của việc xây dựng xã hội. Trong Tuyên
ngôn về nhân quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948 đã khẳng định: “Tất cả mọi người,
với tư cách là thành viên xã hội có quyền hưởng bảo đảm xã hội. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền
về kinh tế, xã hội và văn hóa cần cho sự tự do phát triển con người”. Sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động
ASXH chính là sự san sẻ rủi ro, giảm bớt gánh nặng và nỗi đau cho những người không may lâm vào hoàn cảnh yếu
thế trong xã hội. Tinh thần này đã tạo nên sự gắn kết và sức mạnh của cả cộng đồng. Chỉ có sức mạnh của cả cộng
đồng mới giúp con người vượt qua khó khăn khi gặp thiên tai, địch hoạ ập đến, từ đó giúp xã hội phát triển lành
mạnh và bền vững. Việc đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong những khó khăn là một trong những truyền thống tốt đẹp
của bất kỳ dân tộc nào trên thế giới. Tuy nhiên, truyền thống đó nếu để tự phát, chỉ diễn ra trong một phạm vi hẹp và
hiệu quả không cao. Nhất là khi gặp thiên tai, địch hoạ gây thiệt hại lớn về người và của trên phạm vi rộng thì việc
khắc phục hậu quả là rất khó. Chỉ có nhờ các chính sách ASXH với cơ chế hoạt động đa dạng của mình, mới có thể
gắn kết được các thành viên trong cộng đồng, mới huy động được tối đa mọi nguồn lực để chia sẻ rủi ro và khắc
phục được những hậu quả nghiêm trọng khi loài người gặp phải những hiểm hoạ trong cuộc sống. ASXH là hình
thức tập hợp (có tổ chức) các thành viên xã hội nhằm chống lại những biến cố rủi ro, bất hạnh của mỗi cá nhân. Nhờ
sự tương hợp, đoàn kết trên tinh thần tương thân tương ái, thiện nguyện mà những rủi ro, biến cố, khó khăn của các
cá nhân sẽ được chia sẻ trên phạm vi rộng giúp họ vượt qua khó khăn. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát
triển dưới nhiều hình thứkhác nhau.
b. An sinh xã hội góp phần đảm bảo công bằng xã hội
Trên bình diện xã hội, ASXH là một công cụ để cải thiện điều kiện sống và làm việc của các tầng lớp dân cư, đặc biệt
là đối với những người nghèo khổ và những nhóm dân cư "yếu thế" trong xã hội. Trên bình diện kinh tế, ASXH là
công cụ phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng xã hội. Trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay,
công cụ này ngày càng phải được coi trọng, bởi vì hố ngăn cách giàu nghèo đã và đang có xu hướng gia tăng giữa
các nước, các châu lục và ngay cả trong phạm vi một nước. Vì ASXH ít nhiều đã góp phần đảm bảo công bằng xã
hội thông qua việc phân phối lại của cải, tiền bạc giữa các nhóm dân cư khác nhau. Phân phối trong ASXH là sự
phân phối lại theo hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người
khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động
sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, ASXH góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo,
góp phần bảo đảm sự công bằng xã hội.
c. An sinh xã hội vừa là một nhân tố ổn định, vừa là một nhân tố động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội
Là nhân tố ổn định, ASXH góp phần che chắn, bảo vệ cho mỗi thành viên trong cộng đồng, mà cụ thể là cho những
người gặp rủi ro hoặc rơi vào tình cảnh éo le, b
ASXH còn là niềm an ủi không thể thiếu được đối với các nạn nhân chiến tranh, nội chiến, khủng bố. Hệ thống ASXH
sẽ góp phần thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi người lao động bị ốm đau, mất khả năng lao động, mất
việc làm, hoặc chết. Nhờ có sự thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng
được những tổn thất về vật chất, phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống, tiếp tục quá trình hoạt động bình thường.
Là nhân tố động lực để phát triển kinh tế - xã hội, ASXH có ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế của mỗi quốc gia, nhất là khi quy
mô và diện bảo vệ của ASXH ngày càng được mở rộng. Với xu hướng mang tính quy luật như hiện nay, một bộ phận lao động
nông thôn được chuyển dần ra thành thị làm việc, vì thế số người làm công ăn lương sẽ ngày một nhiều hơn và cuộc sống của họ
phụ thuộc chủ yếu vào đồng lương. Với sự chuyển dịch này thì nhu cầu ASXH là một tất yếu để bảo vệ cho các đối tượng này.
Hoặc cụ thể hơn, như: việc chăm sóc y tế, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp... sẽ giúp người lao động
có sức khoẻ tốt để làm việc, giúp họ yên tâm công tác và học tập... điều này có tác động to lớn đến quá trình nâng cao năng suất
lao động và hiệu suất công tác. Như vậy, suy cho cùng là tác động đến sự phát triển và tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, các chính
sách thụ hưởng dài hạn của ASXH, như: hưu trí, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp... còn góp phần
thực hành tiết kiệm, tạo lập quỹ đầu tư cho các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Để phòng ngừa, hạn chế tổn thất, các
đơn vị kinh tế phải đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn lao động buộc mọi người phải tuân thủ. Khi có rủi ro xảy ra
với người lao động, hệ thống ASXH kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động nhanh chóng ổn định cuộc sống
và sản xuất. Tất cả những yếu tố đó góp phần quan trọng làm ổn định nền kinh tế - xã hội.
d. An sinh xã hội là “chất xúc tác” giúp các nước, các dân tộc hiếu biết và xích lại gần nhau hơn, không phân biệt thế chế
chính trị, màu da, văn hóa
Trong những thập kỷ vừa qua, cả thế giới đã chứng kiến vai trò của ASXH thông qua một loạt các chương trình hành
động có liên quan, như: Chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình an ninh lương thực thế giới; Chương trình
chống lây nhiễm HIV và đối xử bình đẳng với những người bị lây nhiễm HIV; Chương trình phòng chống tội phạm
xuyên quốc gia; Chương trình phòng chống ô nhiễm môi trường; Chương trình cứu trợ nhân đạo; Chương trình
phòng chống dịch bệnh, v.v...
Tất cả các chương trình trên đều được người dân và Chính phủ các quốc gia hưởng ứng. Mặc dù, đó là những
chương trình rất lớn, rất rộng liên quan đến tất cả các vấn đề về chính trị, kinh tế và xã hội của mỗi nước, song thực
chất các chương trình đều thể hiện việc đảm bảo ASXH nói chung. Và đến lượt mình, ASXH sẽ góp phần đẩy lùi đói
nghèo, hạn chế và đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, từ đó làm cho thế giới hiểu biết và xích lại gần nhau hơn
- Khẳng định rằng vai trò đó trong ASXH tại VN ( phòng chống dịch Covid)
Câu 5 (4.0 điểm): Nêu một số chính sách an sinh xã hội cơ bản
ASXH là một hệ thống các cơ chế, chính sách giả pháp của nhà nước và
cộng đồng nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội ứng phó với các rủi ro,
các cú sốc KT-XH làm cho họ suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập và cung
cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng thông qua các hệ thống chính sách xã hội cơ bản . ASXH có vai trò : o
An sinh xã hội khơi dậy được tinh thần đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng xã hội o
An sinh xã h i góp phầần đ ộ m b ả o c
ả ông bằầng xã h i ộ o An sinh xã h i ộ v a ừ là m t
ộ nhần tôố n ổ đ nh, ị v a ừ là m t
ộ nhần tôố đ ng ộ l c ự cho s
ự phát tri n kinh ể tếố - xã h i ộ o An sinh xã h i
ộlà “chầốt xúc tác” giúp các n c,
ướ các dần t c
ộ hiếốu biếốt và xích l i gầần ạ nhau h n, ơ không
phần biệt thếố chếố chính tr , màu da, vằn hóa ị
- Chính sách/chế độ/trụ cột của ASXH ( khái niệm, vai trò)
BHXH : Khái niệm,vai trò,gồm các chế nào (6 chế độ) : Là trụ cột của hệ thống ASXH do
Chính phủ các quốc gia ban hành và tổ chức thực hiện. Các chính sách về BHXH có mục tiêu chủ yếu là bảo vệ, che
chắn cho người lao động và gia đình họ khi người lao động gặp phải rủi ro (ốm đau, tai nạn...) hay các sự kiện bảo
hiểm (thai sản, già yếu...). BHXH được coi là chính sách chủ yếu trong hệ thống các chính sách ASXH. Nó đóng vai
trò điều tiết và có mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác trong hệ thống các chính sách liên quan đến ASXH.
Các chế độ của BHXH hiện nay gồm có 6 chế độ : ốm đau, thai sản, tại nạn nghề nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp, hưu trí, tử tuất
BHYT: là một hình thức bảo hiểm theo đó người mua bảo hiểm sẽ được cơ quan bảo hiểm trả thay một phần
hoặc toàn bộ chi phí khám chữa bệnh cũng như chi phí mua thuốc men khám chữa bệnh. BHYT tạo điều kiện cho
bệnh nhân được khám và điều trị dù không có đủ tiền trang trải số chi phí khám chữa bệnh thực tế cho cơ quan y tế.
Cứu trợ xã hội : Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng cho những người không may rơi
vào hoàn cảnh bất hạnh do những nguyên nhân khác nhau không tự lo liệu được cuộc sống hàng ngày cho bản thân
và gia đình. Cứu trợ xã hội có thể biểu hiện ở nhiều chính sách xã hội có liên quan, như: cứu tế xã hội, trợ giúp xã
hội, trợ cấp gia đình. Các chính sách liên quan đến cứu trợ xã hội thường được coi là lưới che chắn thứ hai hoặc thứ
ba cho mọi thành viên trong cộng đồng và cũng không nằm ngoài mục đích chung của ASXH.
Ưu đãi xã hội : Ưu đãi xã hội là một chính sách xã hội đặc thù mà không phải tất cả các nước trên thế giới
đều thực hiện. Bởi lẽ, mảng chính sách này phụ thuộc chủ yếu vào truyền thống lịch sử và thể chế chính trị của từng
nước. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước quan niệm ưu đãi xã hội là trách nhiệm đặc biệt của toàn Đảng, toàn dân đối
với những người, những gia đình có công với dân với nước, như: các thương binh, bệnh binh, các thanh niên xung
phong, các gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng v.v... Mục tiêu chính của ưu đãi xã hội là nhằm tái sản
xuất ra những giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc, là đền ơn, đáp nghĩa nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị, kinh
tế và xã hội của đất nước.
Câu 6 (3.0 điểm): Đánh giá của anh/chị về các chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Hiện nay , VN có 4 chính sách ASXH chủ yếu đó là : kn, vai trò, các chế độ o
BHXH : (6 chế độ) : Là trụ cột của hệ thống ASXH do Chính phủ các quốc gia ban
hành và tổ chức thực hiện. Các chính sách về BHXH có mục tiêu chủ yếu là bảo vệ, che chắn
cho người lao động và gia đình họ khi người lao động gặp phải rủi ro (ốm đau, tai nạn...) hay các
sự kiện bảo hiểm (thai sản, già yếu...). BHXH được coi là chính sách chủ yếu trong hệ thống các
chính sách ASXH. Nó đóng vai trò điều tiết và có mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác
trong hệ thống các chính sách liên quan đến ASXH. Các chế độ của BHXH hiện nay gồm có 6
chế độ : ốm đau, thai sản, tại nạn nghề nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp, hưu trí, tử tuất o
BHYT: là một hình thức bảo hiểm theo đó người mua bảo hiểm sẽ được cơ quan bảo hiểm
trả thay một phần hoặc toàn bộ chi phí khám chữa bệnh cũng như chi phí mua thuốc men khám
chữa bệnh. BHYT tạo điều kiện cho bệnh nhân được khám và điều trị dù không có đủ tiền trang
trải số chi phí khám chữa bệnh thực tế cho cơ quan y tế. o
Cứu trợ xã hội : Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng cho những
người không may rơi vào hoàn cảnh bất hạnh do những nguyên nhân khác nhau không tự lo
liệu được cuộc sống hàng ngày cho bản thân và gia đình. Cứu trợ xã hội có thể biểu hiện ở
nhiều chính sách xã hội có liên quan, như: cứu tế xã hội, trợ giúp xã hội, trợ cấp gia đình. Các
chính sách liên quan đến cứu trợ xã hội thường được coi là lưới che chắn thứ hai hoặc thứ ba
cho mọi thành viên trong cộng đồng và cũng không nằm ngoài mục đích chung của ASXH. o
Ưu đãi xã hội : Ưu đãi xã hội là một chính sách xã hội đặc thù mà không phải tất cả các
nước trên thế giới đều thực hiện. Bởi lẽ, mảng chính sách này phụ thuộc chủ yếu vào truyền
thống lịch sử và thể chế chính trị của từng nước. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước quan niệm ưu
đãi xã hội là trách nhiệm đặc biệt của toàn Đảng, toàn dân đối với những người, những gia đình
có công với dân với nước, như: các thương binh, bệnh binh, các thanh niên xung phong, các gia
đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng v.v... Mục tiêu chính của ưu đãi xã hội là nhằm tái
sản xuất ra những giá trị tinh thần cao đẹp của dân tộc, là đền ơn, đáp nghĩa nhằm thực hiện
các mục tiêu chính trị, kinh tế và xã hội của đất nước.
- Đánh giá ( ưu, khuyết điểm) theo tiêu chí :
ASXH hiện nay của Việt Nam là lưới ASXH đa tầng, tương tự mô hình
sàn ASXH của ILO. Theo đó, ở tầng thứ nhất, Nhà nước bảo đảm an sinh
tối thiểu cho người dân thông qua trợ cấp xã hội, giảm nghèo và cung
cấp các dịch vụ xã hội cơ bản. Mô hình an sinh của Việt Nam hướng tới
bảo đảm cho người dân có một mức sống tối thiểu, đặc biệt chú ý đến
các nhóm yếu thế, như trẻ em, người già, người khuyết tật, phụ nữ,
người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, do điều kiện phát
triển kinh tế và khả năng ngân sách, việc bảo đảm mức sống tối thiểu
này vẫn gặp nhiều khó khăn. Với chủ trương áp dụng mô hình BHXH đa
tầng có lương hưu xã hội ở tầng thứ nhất được Đảng ta đưa ra trong
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, Việt Nam đang hướng tới
bảo đảm an sinh tối thiểu cho người già không có lương hưu hay các
thu nhập khác. Ở tầng thứ hai là ASXH dựa trên BHXH theo cơ chế
đóng - hưởng, chia sẻ. Người lao động đóng bảo hiểm trong độ tuổi lao
động, được hưởng các chế độ BHXH khi xảy ra ốm đau, bệnh tật, tai
nạn, thai sản. Khi về già, họ được hưởng chế độ hưu trí và khi mất,
được hưởng chế độ tử tuất. Ngoài ra, còn có BHXH bổ sung ở tầng thứ
ba cho những người muốn được hưởng chế độ bảo hiểm cao hơn.
Trong những năm qua, lưới ASXH của Việt Nam đã góp phần bảo đảm
ASXH, xây dựng nền kinh tế vì con người ở Việt Nam. Cụ thể:
Một là, lưới ASXH đã góp phần hỗ trợ bảo đảm việc làm và giảm nghèo.
Nhờ đó, nhiều người lao động đã có việc làm, bảo đảm sinh kế và thu
nhập. Tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam giảm nhanh. Tỷ lệ hộ nghèo áp dụng
chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giảm từ 9,9% năm 2016 xuống còn 4,8% năm 2020.
Hai là, diện bao phủ BHXH tăng, bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người
tham gia bảo hiểm, trong đó đặc biệt nâng cao quyền lợi cho phụ nữ
sinh con, lao động ốm đau, thất nghiệp. Số người tham gia bảo hiểm xã
hội tăng từ 13,056 triệu (năm 2016) lên 16,101 triệu (năm 2020).
Ba là, trợ giúp xã hội được quan tâm, góp phần bảo đảm đời sống cho
một bộ phận người già, người tàn tật; người chịu ảnh hưởng bởi thiên
tai,... Trợ giúp xã hội từng bước được xã hội hóa, thu hút sự tham gia tự
nguyện của cộng đồng xã hội và doanh nghiệp. Đến nay, chính sách
trợ giúp xã hội đã bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng ở mọi lứa tuổi,
3% dân số và 100% đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện được hưởng
trợ cấp xã hội thường xuyên hằng tháng; bảo đảm 100% người dân bị
thiệt hại do thiên tai, lũ lụt, thiếu đói, dịch bệnh được trợ giúp đột xuất kịp thời.
Bốn là, cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản được quan tâm và ngày
càng được cải thiện. Mở rộng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, như
giáo dục, y tế, nước sạch,... Nhờ những nỗ lực này, Việt Nam là nước có
chỉ số phát triển con người (HDI) cao, giảm nghèo nói chung và nghèo
đa chiều nói riêng đạt kết quả ấn tượng, bảo hiểm y tế được bao phủ tới hơn 80% dân số.
Mặc dù lưới ASXH Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định,
nhưng vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, cần khắc phục trong thời gian tới:
Thứ nhất, diện bao phủ của lưới ASXH trên thực tế còn hẹp. Mặc dù
hướng tới mục tiêu bảo đảm ASXH cho toàn dân, nhưng trên thực tế,
lưới ASXH Việt Nam mới chỉ bao phủ được một bộ phận dân cư. Điều
này thể hiện ở quy mô bao phủ BHXH thấp dù đã được cải thiện trong
những năm gần đây. Một mặt, tỷ lệ bao phủ BHXH mới chỉ ở mức trên
30% lực lượng lao động. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm thất nghiệp cũng khá
thấp; mặt khác, số người tham gia BHXH tự nguyện chỉ chiếm một tỷ lệ
rất nhỏ trên tổng lao động tham gia BHXH. Sau hơn 10 năm triển khai
chính sách BHXH tự nguyện (từ năm 2008 đến nay), mới chỉ có khoảng
300 nghìn người tham gia. Trong khi đó, khu vực phi chính thức hiện
nay có khoảng 40 triệu lao động.
Trợ cấp xã hội mới chỉ bao phủ được một bộ phận đối tượng cần hỗ trợ.
An sinh xã hội mới chủ yếu bao phủ được tới nhóm đối tượng người
nghèo, người tàn tật không nơi nương tựa, không có khả năng tự chăm
sóc và người già trên 80 tuổi; người lao động trong khu vực kinh tế
chính thức có tham gia BHXH. Điều đó có nghĩa là một bộ phận lớn lực
lượng lao động chưa tham gia BHXH và không được hưởng lợi ích từ
BHXH, hiện tại và tương lai sau khi đến tuổi nghỉ hưu. Hơn nữa, một tỷ
lệ lớn người già trong tuổi nghỉ hưu nhưng không có BHXH và chưa
được nhận trợ giúp xã hội. Trợ giúp xã hội với người khuyết tật, trẻ em
mồ côi không nơi nương tựa vẫn còn hạn chế. Những người có nguy cơ
nghèo cao, cận nghèo cũng chưa được quan tâm hỗ trợ nhiều. Như vậy,
còn một tỷ lệ rất lớn người có nguy cơ nghèo cao, người làm việc trong
khu vực phi chính thức, có công việc không ổn định, thu nhập bấp bênh
chưa được hưởng những thành quả ASXH. Điều này làm giảm ý nghĩa
của ASXH. Do đó, cần phải đẩy mạnh việc mở rộng diện bao phủ ASXH
thông qua mở rộng trợ giúp xã hội và BHXH, bao gồm cả BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện.
Câu 7 (3.0 điểm): Phân tích các quan điểm cơ bản nhằm phát triển an sinh xã
hội ở nước ta hiện nay. Khái ni m
ệ : ASXH là một hệ thống các cơ chế, chính sách giả pháp của nhà
nước và cộng đồng nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội ứng phó với
các rủi ro, các cú sốc KT-XH làm cho họ suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập
và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng thông qua các hệ thống
chính sách xã hội cơ bản .
- Trình bày các quan điểm : o
Coi bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội. o
Phát triển hệ thống ASXH phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động và
cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn,
người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. o
Xây dựng hệ thống ASXH đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các
nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ, bảo đảm bền vững, công bằng. o
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách ASXH, đồng thời tạo điều kiện để
người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh. o
Tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách ASXH.
Câu 8 (3.0 điểm): Theo anh/chị cần làm gì (giải pháp ) để phát huy vai trò của
chính quyền địa phương trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay?
- Thực trạng CQĐP thực hiện ASXH hiện nay o Ưu điểm : o Hạn chế :
- Nêu các giải pháp phát huy vai trò : Căn cứ vào các hạn chế o
Nâng cao vai trò trách nhiệm của CQĐP (3-4 trách nhiệm) o
Huy động các nguồn lực xã hội ở địa phương : mạnh thường quân o
Tăng cuồng thanh tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách, chương trình ASXH o
Tuyên truyền đường lối, chính sách ASXH
Câu 9 (3.0 điểm): Theo anh/chị cần phải làm gì để thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay?
- Thực trạng thực hiện ASXH tại VN hiện nay :
Kết quả tích cực
Thực hiện đường lối Đổi mới, trong hơn 25 năm qua, công tác bảo đảm an sinh xã hội ở nước ta
đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống an sinh xã hội ngày càng đồng bộ và hoàn thiện
với diện bao phủ không ngừng được mở rộng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
không ngừng được cải thiện. An sinh xã hội đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho người nghèo và
đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, góp phần hình thành xã hội không còn nhóm xã hội bị
loại trừ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước.
Về mặt thể chế, trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã hoạch định và triển
khai nhiều chính sách an sinh xã hội quan trọng, huy động được nhiều nguồn lực của toàn xã hội
để trợ giúp cho các đối tượng (người dân tộc thiểu số, người nghèo, người già cô đơn, trẻ em và
các đối tượng dễ bị tổn thương) vươn lên trong cuộc sống. Các chính sách và giải pháp bảo đảm
an sinh xã hội được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện: (1) Giúp các đối tượng thụ hưởng
tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp
lý, nhà ở,...; (2) Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về bảo đảm thị trường, tín
dụng, việc làm; (3) Phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu cho các địa phương phục vụ người dân tốt hơn.
Đến nay công tác bảo đảm an sinh xã hội đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được nhân dân
đồng tình, quốc tế đánh giá cao: số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002) xuống còn 9,5% (năm
2011); chỉ số phát triển con người (HDI) tăng từ mức 0,683 (năm 2000) lên mức 0,728 (năm
2011), xếp thứ 128/187 nước, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới; năm 2011 nước ta đã
hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) do Liên hợp quốc đề ra cho các
nước đang phát triển đến năm 2015.
Hệ thống pháp luật về an sinh xã hội ngày càng hoàn thiện hơn, đã trở thành căn cứ pháp lý
quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Hệ thống bảo hiểm xã hội được quan tâm phát triển với nội dung và hình thức ngày càng phong
phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho những người tham gia. Bảo hiểm xã hội được
triển khai đồng bộ với 3 loại hình là: bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế), bảo
hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Số người tham gia bảo hiểm bắt buộc tăng nhanh, từ
4,8 triệu (năm 2001) lên 9,7 triệu (năm 2011). Sau gần 3 nămtriển khai bảo hiểm xã hội tự
nguyện, đến năm 2010 có khoảng 96,6 nghìn người tham gia. Năm 2011 có khoảng 7,6 triệu
người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 13,4% dân số (năm 2000) lên
khoảng 62% (năm 2010). Đặc biệt, đã thực hiện chính sách bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em
dưới 6 tuổi, một số đối tượng chính sách, người nghèo và hỗ trợ bảo hiểm y tế cho các hộ cận nghèo, v.v..
Hệ thống chính sách ưu đãi đối với người có công không ngừng được hoàn thiện. Mức trợ cấp
ưu đãi năm 2010 tăng 2,2 lần so với năm 2006. Thực hiện chính sách ưu đãi thường xuyên cho
hơn 1,4 triệu người có công. Đến nay, hơn 90% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc
cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn.
Các chính sách trợ giúp xã hội (thường xuyên và đột xuất) được thực hiện rộng hơn cả về quy
mô và đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng. Kinh phí trợ giúp thường xuyên từ
ngân sách nhà nước và số người được thụ hưởng tăng nhanh, từ 113 tỉ đồng cho hơn 180 nghìn
người (năm 2001) tăng lên 4.500 tỉ đồng cho hơn 1,6 triệu người (năm 2010). Hằng năm Nhà
nước còn trợ cấp đột xuất hàng nghìn tỉ đồng và hàng chụcnghìn tấn lương thực, thuốc men, chủ
yếu để trợ giúp khắc phục thiên tai.
Các phong trào “Tương thân, tương ái”, “Quỹ vì người nghèo“, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước
nhớ nguồn” được tổ chức thường xuyên và thu hút sự hưởng ứng của nhiều lực lượng xã hội,
đóng góp đáng kể vào việc nâng cao an sinh xã hội cho mọi người, nhất là những người nghèo, vùng nghèo.
Hạn chế và thách thức
Đến nay, công tác bảo đảm an sinh xã hội ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập và yếu kém: giảm
nghèo chưa bền vững, người dân ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó
khăn, phân hóa giàu nghèo, phân hóa giữa các vùng miền có xu hướng mở rộng. Tình trạng
thiếu việc làm ở nông thôn, ở vùng đô thị hóa và thất nghiệp ở thành thị còn nhiều. Nguồn lực để
thực hiện an sinh xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và
mức hỗ trợ thấp, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Khả năng cân đối giữa nguồn và sử dụng của hệ thống an sinh xã hội, kể cả các quỹ bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế và các chế độ bảo trợ xã hội còn hạn chế và gặp thách thức lớn cả trước
mắt, cũng như trong trung và dài hạn. Các quỹ bảo hiểm xã hội, đặc biệt là quỹ bảo hiểm y tế ở
trong tình trạng báo động trong tương lai gần. Nguồn lực đầu tư cho an sinh xã hội của Nhà
nước khó đáp ứng được yêu cầu an sinh xã hội ngày càng tăng của người dân, trong khi đó huy
động từ các nguồn khác, đặc biệt từ cộng đồng còn hạn chế, nhất là vùng nông thôn. Các hình
thức bảo hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các dịch vụ nhìn
chung còn thấp, vẫn xảy ra không ít tiêu cực, phiền hà. Một số chính sách an sinh xã hội còn tồn
tại những bất hợp lý; chưa có các chính sách an sinh xã hội đặc thù và phù hợp với dân cư nông
thôn và các vùng dân tộc, miền núi có điều kiện sống khó khăn. Chất lượng cung cấp các dịch vụ
an sinh xã hội, đặc biệt là dịch vụ y tế, còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và sự gia tăng mức sống của dân cư. Hệ thống hành chính, sự nghiệp cung cấp dịch vụ an
sinh xã hội chưa theo kịp yêu cầu phát triển, còn hạn chế trong năng lực tổ chức và quản lý đối
với các loại hình an sinh xã hội.
Những hạn chế trên đây đã đặt hệ thống an sinh xã hội của nước ta trước nhiều thách thức lớn,
cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh chính sách để vượt qua. Cụ thể là:
Thứ nhất, trong quá trình đổi mới kinh tế, nhiều vấn đề an sinh xã hội bức xúc, mới phát sinh
chưa được giải đáp một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. Hệ thống chính sách, luật pháp
về an sinh xã hội theo mô hình hiện nay không theo kịp với đòi hỏi của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN và tiến trình hội nhập quốc tế.
Thứ hai, cùng với sự phát triển thì các nguy cơ, rủi ro kinh tế và xã hội ngày càng có xu hướng
tăng. Là nước đang phát triển với điều kiện địa - tự nhiên, địa - kinh tế đặc thù, nên Việt Nam rất
dễ gặp phải rủi ro, ảnh hưởng đến sinh kế và thu nhập của người dân. Trong khi đó, do nguồn
lực còn hạn chế, nên chúng ta chưa thật chủ động bảo đảm an sinh xã hội cho đông đảo dân cư.
Thứ ba, xu thế già hóa dân số đang và sẽ đặt ra nhiều khó khăn cho hệ thống an sinh xã hội hiện
hành và trong tương lai, sẽ tạo áp lực lớn lên hệ thống y tế, bảo hiểm xã hội, các dịch vụ chăm
sóc xã hội cho người cao tuổi.
Thứ tư, mức đóng, mức hưởng bảo hiểm xã hội còn chưa hợp lý, chưa bảo đảm cuộc sống cho
các đối tượng thụ hưởng. Mức độ bền vững về tài chính, tính liên kết giữa các chế độ, chính
sách an sinh xã hội còn nhiều bất cập.
Thứ năm, những rủi ro kinh tế, xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp và có diện ảnh hưởng rộng.
Tác động tiêu cực của những “cú sốc khó lường trước” từ bên ngoài, như khủng hoảng kinh tế -
tài chính toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh... đến quốc kế dân sinh ngày càng nhanh và mạnh. Trong
khi đó chúng ta lại chưa có nhiều kinh nghiệm phòng, chống rủi ro trong bối cảnh toàn cầu hóa
và còn hạn chế về nguồn lực dành cho các hoạt động phòng, chống rủi ro.
Thứ sáu, sự phân hóa nhanh, mạnh trong nền kinh tế thị trường, đã làm cho các nhóm xã hội
yếu thế ngày càng trở nên yếu thế hơn và dễ bị tổn thương hơn do hạn chế về khả năng cạnh
tranh, khả năng phòng ngừa rủi ro trên thương trường. Các dòng di chuyển việc làm, di chuyển
lao động diễn ra với cường độ ngày càng mạnh, tạo áp lực lớn cho việc bảo đảm quyền và cơ
hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, quyền thụ hưởng các chính sách an sinh của các nhóm
dân cư dễ bị tổn thương.
- Đề xuất biện pháp ( cách thức thực hiện)/ giải pháp ( bao quát hơn): o
Hoàn thiện hệ thống pháp luật : rà soát lại hệ thống, kiến nghị xây dựng mới . o
Tổ chức bộ máy phù hợp: ASXH hiện nay do nhiều chủ tthể khác
nhau quan lý. Tại các nước khác, có BỘ ASXH o Nang cao nhận thức XH o
Kiểm tra giám sát việc thực hiện: ngăn nguwafm ngặn chặn phòng
ngừa phát hiện. Đa dạng hóa các hình thức kiểm tra: tăng cường
kiểm tra đột xuất. Nếu phát hiện vi phạm, nhanh chóng xử lý, kiến
nghị với cơ quan có thẩm quyền để xử lý
Câu 10 (4.0 điểm): Nêu định hướng chiến lược phát triển và hoàn thiện hệ
thống an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030.
Định hướng chiến lược phát triển và hoàn thiện hệ thống ASXH ở Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030 được xác định như sau:
Một là, xây dựng chuẩn ASXH phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước giai đoạn 2021 – 2030
và tiếp cận các chuẩn mực quốc tế: (i) Thống nhất quy định chuẩn mức sống tối thiểu quốc gia giai đoạn 2021 –
2030 làm cơ sở xây dựng chính sách, chế độ bảo đảm ASXH và mọi người dân có mức sống dưới mức này đều
được hưởng lợi (mức chuẩn trợ cấp xã hội thấp nhất tiến tới bằng mức chuẩn này); (ii) Xây dựng mức chuẩn lương
hưu xã hội thống nhất bằng hoặc cao hơn chuẩn mức sống tối thiểu quốc gia; (iii) Xây dựng mức chuẩn chế độ ưu
đãi xã hội cao hơn chuẩn mức sống tối thiểu quốc gia để bảm đảm đối tượng người có công với cách mạng có mức
sống trên mức trung bình của xã hội; (iv) Xây dựng sàn ASXH làm chuẩn bảo đảm ASXH cho người dân về tiếp cận
đa chiều hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nước sạch sinh hoạt, nhà ở, văn hoá, thông tin...).
Hai là, tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống ASXH đa tầng, linh hoạt và có khả năng hỗ trợ, chia sẻ lẫn nhau: (i)
Thiết lập mối gắn kết trong chính sách và chương trình bảo đảm ASXH cho người dân theo vòng đời của một con
người: Bà mẹ mang thai và trẻ em dưới 6 tuổi; Trẻ em trên 6 tuổi đến dưới 16 tuổi là độ tuổi đang đến trường phổ
thông chưa đến tuổi lao động; Tuổi trưởng thành đang trong độ tuổi lao động; Người cao tuổi (hết tuổi lao động). Mỗi
độ tuổi có chính sách bảo đảm ASXH phù hợp, trong đó xác định rõ trách nhiệm đầu tư của Nhà nước, của người
dân và cộng đồng; (ii) Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống ASXH đa tầng, linh hoạt, có sự chia sẻ giữa các tầng:
Tầng 1: Tầng việc làm, thị trường lao động và giáo dục nghề nghiệp: Phát triển tầng này theo hướng thúc
đẩy tăng năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả trên cơ sở chiến lược tăng trưởng cân bằng, an toàn,
bao trùm, bền vững và sáng tạo để người lao động có tiền lương, thu nhập đảm bảo đời sống của bản thân
và gia đình từ mức trung bình của lao động xã hội trở lên.
Tầng 2: Tầng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp đa dạng, linh hoạt, hiện đại, hội nhập quốc tế, có sự chia sẻ và bền vững.
Tầng 3: Tầng ưu đãi xã hội theo hướng bảo đảm người có công với cách mạng có mức sống cao hơn mức
trung bình của xã hội. Tầng 4: Tầng trợ giúp xã hội đa dạng về mô hình, toàn diện cả vật chất và tinh thần
phù hợp với vòng đời con người, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân.
Tầng 5: Tầng bảo đảm các dịch vụ xã hội cơ bản trên cơ sở chuẩn sàn ASXH (giáo dục, y tế, nước sạch
sinh hoạt, nhà ở, văn hoá, thông tin...) và theo hướng bao phủ toàn dân.
Ba là, phát triển và hoàn thiện hệ thống ASXH trong mối quan hệ gắn kết chặt chẽ, cân bằng với phát triển và hoàn
thiện hệ thống chăm sóc xã hội đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ ngày càng tăng của người dân: (i) Sắp xếp các
cơ sở chăm sóc xã hội công lập theo hướng có trọng điểm, hiện đại, chất lượng và hiệu quả; Phát triển mạnh các cơ
sở chăm sóc xã hội ngoài công lập và dựa vào cộng đồng (các cơ sở, trung tâm, chăm sóc xã hội, nhà xã hội, gia
đình...); (ii) Phát triển nhanh nghề công tác xã hội theo hướng chuyên môn hoá, chuyên nghiệp, chất lượng và hiệu quả.
Bốn là, cơ cấu lại nguồn lực bảo đảm ASXH theo hướng: (i) Tăng đầu tư của Nhà nước cho chính sách, chương
trình bảo đảm ASXH với quan điểm đầu tư cho ASXH là đầu tư cho phát triển và giữ vai trò nòng cốt; (ii) Cơ cấu lại
các thông số đóng hưởng BHXH, BHTN đảm bảo quỹ BHXH, BHTN cân đối vững chắc trong dài hạn (về mức đóng,
mức hưởng, thời gian đóng, công thức tính lương hưu, tuổi nghỉ hưu, chi phí quản lý, đầu tư phát triển quỹ...); (iii)
Phát triển mở rộng các quỹ ASXH (quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ tình thương, quỹ hỗ trợ khẩn cấp...) với sự đóng góp
của doanh nghiệp, tổ chức, người dân, cộng đồng và quốc tế theo quy định của pháp luật.
Năm là, đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý lĩnh vực ASXH:
Tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức, quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển hệ thống ASXH tiếp cập
theo quyền trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn, tổng kết Nghị quyết 15-NQ/TW và kinh nghiệm quốc tế
để hình thành hệ thống quan điểm, định hướng mới về ASXH cho giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn xa hơn
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam và các chuẩn mực quốc tế trong hội nhập.
- Thống nhất quản lý ASXH vào một đầu mối; tăng cường sự phối hợp trong hệ thống quản lý nhà nước liên
quan đến ASXH; phân cấp mạnh cho địa phương, cơ sở; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội và sử
dụng hiệu quả cơ chế thị trường trong đảm bảo ASXH.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quản lý ASXH theo hướng tinh giảm, có thể lực tốt, tri thức cao, có
kỹ năng quản lý giỏi, có hành vi và ý thức chính trị, xã hội tốt; phát triển mạnh nhân viên công tác xã hội
theo hướng chuyên môn hoá và chuyên nghiệp theo nhu cầu của xã hội
- Tách bạch chức năng, nhiệm vụ quản lý ASXH của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp
công lập cung cấp dịch vụ, thực hiện chính sách bảo đảm ASXH, tránh trùng chéo, lẫn lộn chức năng,
nhiệm vụ hoặc xu hướng công chức hoá, hành chính hoá các đơn vị sự nghiệp này.
- Tiếp tục hiện đại hoá quản lý ASXH trên cơ sở áp dụng công nghệ cao, xây dựng chính phủ/chính quyền điện
tử (số hoá), gắn mã số ASXH...
Đánh giá/ nhấn mạnh vai trò của ASXH thông qua các định hướng của giai đoạn trước QUẢN LÝ AN SINH XÃ HỘI
Câu 18 (4.0 điểm): Nêu khái niệm và đặc điểm của quản lý an sinh xã hội. -
Nêu khái niệm qly ASXH : nêu thành phần tạo nên khái niệm : chủ thê, đối
tuwowng của qlys ASXh, mục tiêu của quản lý - Nêu các đặc điểm : o
Quản lý ASXH thể hiện sự ghi nhận quyền cơ bản của con người ,
là công cụ để xây dựng một xã hội hài hòa, công bằng và không có sự phân biệt. o
Quản lý ASXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo và truyền thống đoàn
kết, giúp đỡ, tương thân tương ái lẫn nhau của cộng đồng với
những thành viên của mình. Dựa trên nguyên tắc cơ bản là đoàn kết
và tương trợ cộng đồng giữa các nhóm, các thế hệ người với nhai. Từ
đó thúc đẩy sự đồng thuận bình đẳng, công bằng trong xã hội , tạo tiền
đề chó các nhận tố kinh tế, văn hóa, xã hội, khác có điều kiên phát triển o
Quản lý ASXH chính là sự an toàn. ASXH có liên quan trực tiếp đến
quyền lợi và sự phát triển của con người mà con người lại là mục tiêu
trung tâm và yêu cầu của phát triển bền vững. Việc đảm bảo ASXH
luôn được coi là nhiệm vụ trọng tâm để tạo sự ổn định của xã hội,
sánh ngang với các chính sách kinh tế o
Quản lý ASXH góp phần thực hiện mục tiêu tái phân phối của cải
xã hội, giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo và phân tầng xã hội. Quản
lý ASXH nhằm tạo ra sự ổn định xã hội, đảm bảo công bằng và phát
triển bền vững. Đồng thời hóp phần nâng cao năng suất lao động, hỗ
trợ chuyển đổi cơ cấu lao động và toàn bộ quá trình phát triển kinh tế. -
Khẳng định vai trò của quản lý về ASXh trong điều kiện hiện nay
Câu 11 (4.0 điểm): Tại sao phải quản lý an sinh xã hội?
Khái niệm : Quản lý ASXH là quá trình tác động có tổ chức và bằng các cơ chế
chính sách, các giải pháp nhằm hạn chế, phòng ngừa, khắc phục rủi ro cho các
thành viên trong cộng đồng. Đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp cho các
gia đình chính sách có công với cách mạng.
6 lý do phải quản lý ASXH:
Diện bảo vệ của ASXH rất rộng : Diện bảo vệ và che chắn của hệ thống ASXH trong mỗi quốc gia chia
thành nhiều lưới khác nhau, đảm bảo là tấm lá chắn bảo vệ cho mọi thành viên trong xã hội không may gặp rủi
ro và các biến cố bất lợi, không phân biệt giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội, dân tộc, tôn giáo, v.v.
được hưởng dịch vụ ASXH đã dần dần trở thành một trong những quyền cơ bản của con người. Đồng thời, mọi
thành viên xã hội không chỉ có quyền được hưởng mà phải được hưởng dịch vụ này một cách tốt nhất. Thực
hiện tốt ASXH là vô cùng quan trọng để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, làm cho con người có cuộc sống
thật đầy đủ ý nghĩa và có ích. Tuy nhiên, khi diện bảo vệ của ASXH có phạm vi rộng thì rất cần một nguồn tài
chính đủ lớn, ổn định và được đảm bảo lâu dài. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi có sự quản lý của xã hội về ASXH.
Tất cả các chính sách đều nhằm đảm bảo công bằng xã hội : Xã hội ngày càng phát triển thì các
phương thức đối phó với rủi ro, khó khăn trong cuộc sống truyền thống như đùm bọc, chia sẻ giữa các cá nhân
cũng như sự giúp đỡ của cộng đồng như từ thiện, bảo trợ xã hội cung cấp thông qua mô hình các hợp tác xã,
các doanh nghiệp của nhà nước... dần dần không còn hiệu quả nữa. Lúc này, các quốc gia cần phải xây dựng
và phát triển một hệ thống ASXH. Nội dung của ASXH là các chính sách ASXH như BHXH, bảo hiểm y tế, cứu
trợ xã hội, ưu đãi xã hội, v.v. ngày càng được mở rộng và đều nhằm đảm bảo công bằng xã hội. Bởi lẽ, một mặt,
các chính sách này là công cụ +để cải thiện điều kiện sống và làm việc cho các tầng lớp dân cư; mặt khác, là
công cụ để phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng xã hội.
Các chính sách trong hệ thống ASXH thường có sự đan xen lồng ghép với nhau : Tất cả
các chính sách ASXH đều có mối quan hệ tác động qua lại tạo thành một hệ thống chính sách gắn kết chặt chẽ,
đan xen, lồng ghép. Do đó, muốn thực hiện thành công các chính sách ASXH đòi hỏi phải xác định được chiến
lược phát triển rõ ràng; phải có một quá trình hoạch định chính sách tốt bắt đầu bằng sự phân tích cặn kẽ thực
trạng; phải tổ chức thực hiện và kiểm tra chặt chẽ quá trình thực thi chính sách. Theo đó, chỉ có nhà nước với
sức mạnh và quyền lực của mình mới huy động được các nguồn lực trong nước và quốc tế để thực hiện thành công quá trình này.
Hầu hết các chính sách về ASXH hầu hết được luật hóa. ASXH vừa là nhân tố ổn định, vừa là
nhân tố động lực phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. ASXH góp phần đảm bảo an toàn, ổn định cho toàn bộ
nền kinh tế - xã hội. để phòng ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị kinh tế phải đề ra các quy định chặt chẽ về an
toàn lao động buộc mọi người phải tuân thủ. Khi có rủi ro xảy ra với người lao động, hệ thống ASXH kịp thời hỗ
trợ, tạo điều kiện cho người lao động nhanh ổn định cuộc sống và sản xuất. Tất cả những yếu tố đó góp phần
quan trọng giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ổn định nền kinh tế - xã hội. Thực
hiện ASXH cần trở thành nỗ lực chung của tất cả mọi người trong xã hội. Do đó, các chính sách bảo đảm ASXH