Bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt | Ngữ văn lớp 9
Với tài năng và đóng góp không nhỏ cho văn hóa Việt Nam, ông đã được bầu làm Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt điểm cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
1. Một vài nét về tác giả Bằng Việt
Nguyễn Việt Bằng, tên khai sinh Bằng Việt, sinh năm 1941 tại huyện Thạch Thất, tỉnh
Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Sự nghiệp sáng tác
thơ của ông đã bắt đầu từ những năm 60, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, và ông
thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc chiến đấu đó.
Với tài năng và đóng góp không nhỏ cho văn hóa Việt Nam, ông đã được bầu làm Chủ
tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội. Vị trí này cho phép ông thúc đẩy và hỗ trợ
sự phát triển của các tác giả, nghệ sĩ và nhà văn tại thủ đô. Ông góp phần xây dựng
một môi trường sáng tạo và đa dạng trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật, giúp gìn giữ
và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Với tài năng và đóng góp không nhỏ cho văn hóa Việt Nam, ông đã được bầu làm Chủ
tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội. Vị trí này cho phép ông thúc đẩy và hỗ trợ
sự phát triển của các tác giả, nghệ sĩ và nhà văn tại thủ đô. Ông góp phần xây dựng
một môi trường sáng tạo và đa dạng trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật, giúp gìn giữ
và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Nguyễn Việt Bằng đã sáng tác nhiều tác phẩm thơ đáng chú ý trong suốt sự nghiệp của
mình. Dưới đây là một số tác phẩm tiêu biểu: Tập thơ Hương cây - Bếp lửa, (1968,
2005), đồng tác giả với Lưu Quang Vũ; Đường Trường Sơn, cảnh và người (ký sự thơ,
1972 - 1973); Đất sau mưa (1977) Khoảng cách giữa lời (1984) Cát sáng (1985), in
chung với nhà thơ Vũ Quần Phương; Tập thơ Bếp lửa - Khoảng trời (1986); Phía nửa
mặt trăng chìm (1995); Tập thơ Ném câu thơ vào gió (2001); Tập thơ Nheo mắt nhìn
vào gió (2008); Tập thơ Hoa tường vi (tập thơ, 7 - 2018)...
>> Xem thêm: Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt chọn lọc hay nhất
2. Bài thơ Bếp lửa BẾP LỬA
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?
>> Tham khảo: Cảm nhận về bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt chọn lọc hay nhất
3. Giới thiệu về bài thơ Bếp lửa
3.1 Về hoàn cảnh sáng tác:
Bài thơ được sáng tác vào năm 1963, trong hoàn cảnh đặc biệt của tác giả khi ông
đang là sinh viên nước ngoài, theo học ngành Luật. Lúc đó, những suy nghĩ và tâm
trạng của tác giả đang chịu ảnh hưởng sâu sắc từ môi trường học tập và cuộc sống xa quê hương.