I THU HOẠCH
BẢO NG PH NỮ NAM BỘ
Hùng Thụy Cẩm Linh | Lớp 2033 | 25/04/2021
Giảng viên hướng dẫn: TS. Thị Huyền
Đầu tiên tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo n trường,
các thầy giáo trong khoa đã tổ chức một chuyến đi tham quan bảo tàng
cùng ý nghĩa đối với những sinh viên như chúng tôi. Tôi cũng muốn gửi lời
cảm ơn đến Thị Huyền đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình cho
chúng tôi trong suốt chuyến tham quan. Trên chặng đường đi đến Bảo tàng,
tôi một trong những sinh viên khoa Ngoại ngữ trường Đại học Hoa Sen
mặt trong đoàn. Chuyến đi này thực sự một chuyến đi thú vị bổ ích,
cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy cô, được tận mắt nhìn thấy những
hiên vật còn lại, cùng với những thuyết minh về các hiện vật lịch sử đã mang
lại cho tôi nhiều trải nghiệm sâu sắc, tôi cảm thấy mình dần trưởng thành
hơn trong suy nghĩ thêm yêu đất nước mình. Đây lần đầu tiên tôi được
đi tham quan bảo tang lịch sử như thế nên không tránh khỏi cảm giác bồi hồi
xúc động xen lẫn tự hào. Bên cạnh đó, chuyến tham quan cũng một cơ
hội để thắt chặt tình cảm thầy trò, bạn trở nên thân thiết hiểu nhau
hơn. Thông qua việc tiếp xúc với các hiện vật văn hóa lịch sử, sinh viên
cái nhìn trực tiếp để đánh giá, tiếp thu kho văn hóa nhân loại. Từ chuyến
tham quan bảo tàng, chúng tôi còn được mở rộng tầm mắt, hiểu hơn về
những kiến thức mình đã được học về lịch sử dân tộc đã trải qua bao thăng
trầm, biến cố trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, về phụ nữ Nam
Bộ…, được tự do học hỏi để thêm kiến thức cho bản thân. Ngày 25/04
ngày bắt đầu chuyến tham quan, 7h30 sáng tôi bắt đầu lên xe đi đến Bảo
tàng phụ nữ Nam Bộ, tại đây rất nhiều bạn học cùng lớp đã mặt gần
như đông đủ. 7h45 bắt đầu điểm danh sinh viên hướng dẫn chúng tôi
tham quan bảo tàng. Sau đây, tôi xin trình bày về lịch sử hình thành phát
triển của bảo tàng phụ nữ Nam Bộ cùng với một tấm gương người phụ nữ
Việt Nam mang tên Thị Sáu.
PAGE 1
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA
BẢO TÀNG PHỤ NỮ NAM BỘ
Ra đời ngày 29/04/1985, đến nay Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ số 202 Thị
Sáu, phường 7, quận 3, Tp. Hồ Chí Minh - đã trở thành một địa chỉ quen
thuộc với khách tham quan trong nước, nhất c tầng lớp phụ nữ khách
nước ngoài đến tham quan Tp. Hồ Chí Minh.
Tiền thân của Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ Nhà truyền thống phụ nữ Nam bộ
được xây dựng theo tâm nguyện ý chí của các thế hệ phụ nữ đi trước
nhằm giữ gìn, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống tốt đẹp của Phụ nữ Việt
Nam cho các thế hệ mai sau.
Được sự chấp thuận của Bộ Chính trị Ban thư Trung ương Đảng, tháng
1 năm 1983, Tổ nghiên cứu lịch sử phụ nữ Nam bộ (gọi tắt Tổ Sử Phụ nữ
Nam bộ) được thành lập. Tổ Sử Phụ nữ gồm 13 nữ cán bộ lão thành, đa số đã
nghỉ hưu, tự nguyện tham gia công tác tổng kết lịch sử phong trào phụ nữ
Nam bộ, do Nguyễn Thị Thập nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa
2,3,4, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam (từ năm 1956 đến năm 1974) phụ trách.
Với tinh thần làm việc khẩn trương của Tổ Sử Phụ n Nam bộ, ngày
29/4/1985, nhân kỷ niệm 10 m ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Nhà
truyền thống Phụ n Nam bộ được khánh thành với diện tích 200m2 gồm 6
phòng trưng bày chuyên đề. Hoạt động chưa đầy 1 năm, Nhà truyền thống
Phụ nữ Nam bộ đã đón cả 100.000 ợt khách tham quan trong ngoài
nước, đặc biệt các tỉnh thành phía Nam.
Song, thực tế cho thấy với một diện tích trưng bày khiêm tốn như trên, Nhà
truyền thống Phụ nữ Nam b không thể nào chuyển tải hết nội dung cũng
như thể hiện được các mặt tiêu biểu, đặc thù của phụ nữ miền Nam trong
quá trình dựng nước giữ nước của dân tộc. Do đó, ngày 8/3/1986, được
Trung Ương Đảng Nhà nước cho phép, Tổ sử Phụ nữ Nam bộ khởi công
xây dựng bảo tàng mới diện tích 3.000m2 với sự ủng hộ tích cực về tiền
bạc, vật của của các quan, ban, ngành, đoàn thể, các nhân, kiều
bào,
Qua 4 năm vừa lo vận động kinh phí vừa thi công xây dựng, vừa tích cực sưu
tầm liệu, hiện vật biên soạn quyển “Truyền thống đấu tranh cách mạng
của Phụ nữ Nam bộ thành đồng” một nỗ lực rất lớn của Tổ Sử Phụ n Nam
bộ của lớp cán bộ trẻ đầy tâm huyết với việc cho ra đời một bảo tàng v
PAGE 2
phụ nữ Nam bộ. Đây một bảo tàng được xây dựng theo phương thức hội
hóa đầu tiên Việt Nam.
Ngày 18/05/1990, lễ khánh thành Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ được tổ chức
trọng thể trong không khí tưng bừng cả nước kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh
của Bác Hồ. Bảo tàng có diện tích sử dụng 5.410,5m2, một hội trường sức
chứa gần 1.000 người, hệ thống kho bảo quản trên 700m2. Từ đó đến nay,
dưới sư' lãnh đạo của Ủy Ban Nhân Dân TP.HCM, Sở Văn hóa Thông tin (nay
Sở Văn hóa, thể thao Du lịch) sự hỗ trợ của Cục Di sản Văn hóa, tổ
chức Hội Liên hiệp Ph nữ các cấp, đồng bào các địa phương, Bảo tàng
Phụ nữ Nam Bộ đã từng bước trưởng thành khẳng định được v trí trong
hệ thống bảo tàng cả nước. Hơn 20 năm hoạt động, Bảo tàng Phụ Nam Bộ
nhiều nỗ lực chủ động sáng tạo trong các mặt công tác chuyên môn nhằm
giáo dục truyền thống của Phụ nữ Việt Nam cho công chúng trở thành
điểm đến nơi họp mặt truyền thống, giao lưu, sinh hoạt văn hóa, …của các
thế hệ phụ nữ Việt Nam.
Bảo tàng hiện quản 31.360 hiện vật. Trong đó 30.431 hiện vật trong
kho 929 hiện vật đang trưng bày; 16.739 hiện vật thể khối 14.621
phim, ảnh, tài liệu khoa học phụ các loại; gần 2/3 hiện vật loại nh chiến
tranh cách mạng với hơn 1/3 hiện vật văn hóa bao gồm nhiều chất liệu.
Các hiện vật được chia thành 24 sưu tập theo chủ đề hoặc theo chất liệu,
trong đó 6 sưu tập hiện vật quí hiếm. Hầu hết hiện vật được bảo quản
theo đúng hướng dẫn của Cục Di sản Văn hóa theo từng chất liệu với ánh
sáng, nhiệt độ, độ ẩm thích hợp. Hiện vật được quản trong máy tính theo
phần mềm do Cục Di sản hướng dẫn. Mỗi năm có tiến hành xịt mối mọt, bảo
quản thường xuyên bảo quản định kỳ hiện vật. Ngoài ra, thư viện của bảo
tàng trên 11.000 đầu sách chuyên đề về phụ nữ.
Đối với hệ thống trưng bày, ngoài trưng bày 11 chuyên đề cố định trưng
bày nhiều chuyên đề định kỳ khác tại bảo tàng thu hút từ 60.000 80.000
khách tham quan mỗi m, việc phối hợp với các bảo tàng trung ương, các
bảo tàng địa phương bảo tàng nước ngoài tiến hành trưng bày lưu động
để đưa bảo tàng đến với công chúng khắp cả nước cũng được phát huy.
Mỗi năm tổ chức trưng bày lưu động từ 3 đến 5 cuộc, thu hút hàng trăm
ngàn lượt khách tham quan. Hệ thống trưng bày bảo tàng định kỳ chỉnh
trang, nâng cấp. Năm 2005, Bảo tàng đưa vào trưng bày các chuyên đề về:
tín ngương thờ Mẫu, trang phục trang sức phụ nữ các dân tộc miền Nam,
làng nghề truyền thống với phong cách trưng bày mới đã thu hút được sự
quan tâm của khách tham quan trong ngoài nước.
Đến nay, đã hơn 3 triệu lượt khách đến tham quan tham gia những
hoạt động của Bảo tàng trong đó hơn 4.000 đoàn khách trong nước
gần 1.500 đoàn khách quốc tế, trên 50 đoàn lãnh đạo cao cấp trong ngoài
c.
PAGE 3
Bên cạnh việc sưu tầm liệu, hiện vật về những đóng góp của phụ nữ miền
Nam trong chống ngoại xâm, từ năm 1994, Bảo tàng đã chú trọng sưu tầm
liệu hiện vật về những đóng góp của phụ nữ miền Nam trong bảo tồn phát
huy di sản văn hóa của dân tộc trong đó hiện vật văn hóa phi vật thể liên
quan đến lễ hội, tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa cộng đồng, làng nghề truyền
thống v.v… trong đó, nổi bật vai trò người phụ nữ trong các hình thức sinh
hoạt cộng đồng trong đời sống gia đình. Đến nay, Bảo tàng đã nhiều bộ
sưu tập: chóe, bộ ăn trầu, trang phục, trang sức, dụng cụ nhà bếp, đồ dùng
trong sản xuất nông nghiệp lúa nước v.v… Đó chưa kể hàng trăm giờ ghi
hình phim liệu về văn hóa phi vật thể: dân ca, làng nghề truyền thống, lễ
hội thờ (Mẫu).
Bảo tàng đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho khách tham quan như:
tham quan miễn phí tất cả các ngày trong tuần (kể cả ngày Lễ, Tết), khách
tham quan không cần đăng trước thể tham gia các chương trình
giải thưởng hàng tháng Bảo tàng đề ra, Ngoài ra, nhằm thu hút thế hệ
trẻ ôn lại truyền thống, thực hiện công tác hội hóa hoạt động bảo tàng,
Bảo tàng tổ chức nhiều cuộc họp mặt giao lưu các Bà Mẹ Việt Nam Anh
Hùng phụ nữ tiêu biểu các tỉnh thành miền Nam, họp mặt giao lưu nữ
thanh niên xung phong, nữ chính trị, nữ Nghệ Nhân dân, Nghệ Ưu tú,
nữ quản doanh nghiệp, Anh hùng lực lượng trang v.v…, các cuộc sinh
hoạt của HSSV, hội thi tìm hiểu truyền thống phụ n Việt Nam, hội thi
nấu ăn của trẻ em khuyết tật, hội chợ hàng tiêu dùng cho phụ nữ. Bảo tàng
đã tổ chức Hội thảo khoa học về Mẹ dạy con, về tr em đường phố, nữ n
báo hy sinh trong kháng chiến v.v..
Cán bộ tuyên truyền của bảo tàng đi tuyên truyền, nói chuyện chuyên đề về
truyền thống phụ nữ nhiều địa phương, đơn vị, trường học, nhân các
ngày lễ Quốc tế phụ nữ 8/3 hoặc ngày thành lập Hội LHPNVN 20/10. Ứng
dụng đề tài nghiên cứu khoa học “Trang phục Phụ nữ miền Nam qua các
thời kỳ lịch sử”, Bảo tàng tổ chức 8 buổi trình diễn trang phục truyền thống
thu hút được hàng ngàn công chúng. Bảo tàng còn vận động các quan,
đơn vị, các phương tiện thông tin đại chúng như Đài truyền hình Việt Nam,
Đài phát thanh Thành phố, HTV, Báo Người Lao Động, Báo Sài Gòn Giải
Phóng, Tạp chí Công nghiệp, Báo Tình Thương Cuộc Sống các doanh
nghiệp trên địa bàn Thành phố hàng năm tài trợ đồng tổ chức các hoạt
động cho phụ nữ và trẻ em với chi phí hàng chục tỉ đồng trong những năm
qua.
Bảo tàng đã sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn, in ấn xuất bản 30 đầu sách
về phụ nữ miền Nam, trong đó quyển “Phụ nữ Nam bộ thành đồng” tổng
kết phong trào đấu tranh của phụ nữ Nam bộ trong hai cuộc kháng chiến (đã
tái bản lần thứ ba), “Di tích danh thắng Lịch sử Văn hóa Phụ nữ Việt Nam”,
“Truyện tích huyền thoại Phụ nữ Việt Nam” v.v… Bảo tàng phối hợp với Đài
truyền hình TPHCM xưởng phim Giải Phóng thực hiện 4 bộ phim liệu
về Nhà truyền thống Phụ nữ Nam bộ, chân dung người mẹ miền Nam, nữ
chính trị nữ thanh niên xung phong đạt những giải thưởng giá trị. Công
PAGE 4
tác nghiên cứu khoa học được Bảo tàng quan tâm với hàng chục đề tài
nghiên cứu liên quan đến vai trò người phụ nữ trong kháng chiến cũng như
trong gìn giữ phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong quá trình đi sưu tầm liệu - hiện vật, tiếp xúc nhân chứng lịch sử
một số hoạt động khác, Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ đã góp phần hướng luận
đến một số vấn đề Đảng, Nhà nước và hội quan tâm, tác động tích cực
đến việc giải quyết chính sách cho những người công với nước, chính sách
hội đối với cựu nữ chính trị, nữ thanh niên xung phong, …. Cụ thể
việc đề nghị tỉnh Tiền Giang lập n lưu niệm Nguyễn Thị Thập, đề xuất
phong tặng danh hiệu anh hùng cho liệt Sáu Tiền Giang. Những nội
dung này đã thể hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, đền ơn đáp nghĩa
của thế hệ sau với những người đi trước đã cống hiến tuổi xuân xương
máu của mình cho Tổ quốc. Từ số tiền tiết kiệm được trong các cuộc họp
mặt, hội thi có s vận động các nhà hảo tâm đóng góp, Bảo tàng đã xây dựng
14 nhà tình thương, tình nghĩa cho các đối tượng phụ nữ nghèo một số
tỉnh.
Công tác đối ngoại hợp tác quốc tế ngày càng được bảo tàng chú trọng
đạt được nhiều kết quả. Bảo tàng đă đưa hiện vật đi trưng bày các nước Bỉ,
Lan, phối hợp với Bảo tàng Chihiro (Nhật Bản) trưng bày tranh về chủ đề
“Mẹ vắng nhà” (sưu tập tranh của cố nữ họa Chihiro sáng tác từ cảm xúc
đọc tác phẩm “Người mẹ cầm súng” của nhà văn Nguyễn Thi), trưng bày búp
truyền thống Nhật Bản tại Bảo tàng. Ngoài việc tham gia các cuộc hội
nghị, hội thảo trong ớc, cán bộ Bảo tàng còn tham gia hội nghị, hội thảo
quốc tế như: hội thảo quốc tế về bảo tàng khu vực Đông Nam Á do Hội đồng
Bảo tàng Quốc tế (ICOM) tổ chức tại Lào Campuchia (năm 2006), hội
nghị quốc tế lần I về bảo tàng phụ nữ tại Italy với s tham gia của đông đảo
đại biểu từ 23 bảo tàng phụ nữ trên thế giới (năm 2008). Qua sự trao đổi,
hợp tác, Bảo tàng đă dịp giới thiệu v truyền thống của phụ nữ Việt Nam
nói riêng lịch sử văn hóa dân tộc nói chung với bạn thế giới.
Từ khi thành lập đến nay, tập thể cán bộ công chức Bảo tàng đã không
ngừng học tập, phấn đấu vươn lên mọi mặt về năng lực chuyên môn, nghiệp
vụ, trình độ chính trị quản lý. Với những thành tích đạt được, năm 1998,
Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ đã vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng
Nhất do Nhà ớc trao tặng liên tục nhiều năm liền nhận bằng khen của
Bộ Văn hóa thông tin bằng khen UBND TP.HCM.
Th u, nữ anh ng huyền thoại vùng Đất Đỏ
Chị Thị Sáu sinh năm 1933 huyện Đất Đỏ, tỉnh Rịa (nay tỉnh
Rịa Vũng Tàu).
PAGE 5
Sinh ra và lớn lên trên miền quê giàu truyền thống yêu nước, lại chứng kiến
cảnh thực dân Pháp giết chóc đồng bào, chị Sáu đã không ngần ngại cùng
các anh trai tham gia cách mạng.
Chị Thị Sáu nhiều lần được khen ngợi nhờ không ngại gian khó, dũng cảm
tham gia chiến đấu, bảo v quê hương.
Tượng đồng chân dung Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân, Liệt Thị u (1933-
1952) Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ.
Thiếu nữ ném lựu đạn diệt giặc
14 tuổi, Thị Sáu theo anh gia nhập Việt Minh, trốn lên chiến khu chống
Pháp. Chị tham gia đội công an xung phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
liên lạc, tiếp tế.
Trong khoảng thời gian này, chị Sáu tham gia nhiều trận chiến đấu để bảo
vệ quê hương, dùng lựu đạn tiêu diệt hai tên ác ôn làm bị thương nhiều
lính Pháp.
Người con gái Đất Đỏ còn nhiều lần phát hiện gian tế, tay sai Pháp, giúp đội
công an thoát khỏi nguy hiểm, chủ động tấn công địch.
Tháng 7/1948, Công an Đất Đỏ được giao nhiệm vụ phá cuộc mít tinh kỷ
niệm Quốc khánh Pháp. Biết đây nhiệm vụ gian nan, nguy hiểm, chị Sáu
vẫn chủ động xin được trực tiếp đánh trận này.
Chị nhận lựu đạn, giấu vào góc chợ gần khán đài từ nửa đêm. Sáng hôm đó,
địch lùa người n vào sân. Khi xe của tỉnh trưởng tới, chị tung lựu đạn v
phía khán đài, uy hiếp giải n mít tinh.
Hai tổ công an xung phong gần đấy đồng loạt nổ súng yểm trợ tạo áp lực
giải tán cuộc mít tinh, đồng thời hỗ trợ cho chị Sáu rút an toàn. Người của
Việt Minh được bố trí trong đám đông to "Việt Minh tiến công" hướng
dẫn người dân giải tán.
PAGE 6
Sau chiến công này, chị Sáu được tổ chức tuyên dương khen ngợi và được
giao nhiệm vụ diệt tề trừ gian, bao gồm việc tiêu diệt tên cai tổng ng.
Tháng 11/1948, Thị Sáu mang theo lựu đạn, trà trộn vào đám người đi
làm căn cước. Giữa buổi, chị ném lựu đạn vào nơi làm việc của Tòng, to
“Việt Minh tấn công” rồi kéo mấy chị em cùng chạy.
Lựu đạn nổ, tên Tòng bị thương nặng nhưng không chết. Tuy nhiên, vụ tấn
công khiến bọn lính đồn khiếp vía, không dám truy lùng Việt Minh ráo riết
như trước.
Tháng 2/1950, Thị Sáu tiếp tục nhận nhiệm v ném lựu đạn, tiêu diệt hai
chỉ điểm viên của thực dân Pháp Cả Suốt Cả Đay rồi không may bị bắt.
Trong hơn một tháng bị giam tại nhà Đất Đỏ, bị giặc tra tấn man,
chị không khai báo. Địch phải chuyển chị về khám Chí Hòa.
Chị Sáu tiếp tục làm liên lạc cho các đồng chí trong khám, cùng chị em tại tù
đấu tranh đòi cải thiện cuộc sống nhà tù.
Trước tinh thần đấu tranh quyết liệt của Thị Sáu, thực dân Pháp và tay
sai mở phiên tòa, kết án tử hình đối với n chiến trẻ. Chúng chuyển chị
cùng một số người cách mạng ra nhà Côn Đảo.
Nhờ sự kiên cường, dũng cảm, trung thành, Võ Thị Sáu được kết nạp vào
Đảng Lao động Việt Nam công nhận Đảng viên chính thức ngay đêm
trước khi hy sinh.
Kiên cường đến phút cuối
Trong quá trình bị bắt, tra tấn đến tận những giây phút cuối cùng, Thị
Sáu luôn chứng tỏ bản lĩnh kiên cường, bất khuất của chiến cộng sản.
Khi mới bị bắt, địch tra tấn chị chết đi sống lại nhưng không moi được nửa
lời khai báo.
Sự kiên trung ấy một lần nữa thể hiện tại phiên tòa đại hình khi chị Sáu (khi
đó mới 17 tuổi) hiên ngang khẳng định: “Yêu nước, chống bọn thực dân xâm
lược không phải tội”.
Khi nhận án tử hình, chị Sáu không hề run sợ. Chị to “Đả đảo thực dân
Pháp!”, “Kháng chiến nhất định thắng lợi!”.
Năm 1952, trước giờ hành hình, viên cha đạo đề nghị làm lễ rửa tội cho chị.
Song chị từ chối nói: “Tôi không tội. Chỉ kẻ sắp hành hình tôi đây
mới tội”.
Đối mặt cái chết, điều khiến người con gái Đất Đỏ ân hận nhất chưa diệt
hết bọn thực dân tay sai cướp nước. Giai thoại kể rằng khi ra đến pháp
trường, Thị Sáu kiên quyết không qu xuống, yêu cầu không bịt mắt.
PAGE 7
“Không cần bịt mắt tôi. Hãy để cho đôi mắt tôi được nhìn đất nước thân yêu
đến giây phút cuối cùng tôi đủ can đảm để nhìn thẳng o họng súng
của các người!”, chị tuyên bố. Nói xong, chị Sáu bắt đầu hát Tiến quân ca.
Khi lính lên đạn, chị ngừng hát, vang những lời cuối cùng “Đả đảo bọn
thực dân Pháp. Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ Chủ tịch muôn năm!”.
PAGE 8

Preview text:

BÀI THU HOẠCH
BẢO TÀNG PHỤ NỮ NAM BỘ
Hùng Thụy Cẩm Linh | Lớp 2033 | 25/04/2021
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Huyền
Đầu tiên tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo nhà trường,
các thầy cô giáo trong khoa đã tổ chức một chuyến đi tham quan bảo tàng vô
cùng ý nghĩa đối với những sinh viên như chúng tôi. Tôi cũng muốn gửi lời
cảm ơn đến cô Lê Thị Huyền đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình cho
chúng tôi trong suốt chuyến tham quan. Trên chặng đường đi đến Bảo tàng,
tôi là một trong những sinh viên khoa Ngoại ngữ trường Đại học Hoa Sen có
mặt trong đoàn. Chuyến đi này thực sự là một chuyến đi thú vị và bổ ích,
cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy cô, được tận mắt nhìn thấy những
hiên vật còn lại, cùng với những thuyết minh về các hiện vật lịch sử đã mang
lại cho tôi nhiều trải nghiệm sâu sắc, tôi cảm thấy mình dần trưởng thành
hơn trong suy nghĩ và thêm yêu đất nước mình. Đây là lần đầu tiên tôi được
đi tham quan bảo tang lịch sử như thế nên không tránh khỏi cảm giác bồi hồi
và xúc động xen lẫn tự hào. Bên cạnh đó, chuyến tham quan cũng là một cơ
hội để thắt chặt tình cảm thầy trò, bạn bè trở nên thân thiết và hiểu nhau
hơn. Thông qua việc tiếp xúc với các hiện vật văn hóa lịch sử, sinh viên có
cái nhìn trực tiếp để đánh giá, tiếp thu kho văn hóa nhân loại. Từ chuyến
tham quan bảo tàng, chúng tôi còn được mở rộng tầm mắt, hiểu rõ hơn về
những kiến thức mình đã được học về lịch sử dân tộc đã trải qua bao thăng
trầm, biến cố trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, về phụ nữ Nam
Bộ…, được tự do học hỏi để có thêm kiến thức cho bản thân. Ngày 25/04 là
ngày bắt đầu chuyến tham quan, 7h30 sáng tôi bắt đầu lên xe đi đến Bảo
tàng phụ nữ Nam Bộ, tại đây có rất nhiều bạn học cùng lớp đã có mặt gần
như đông đủ. 7h45 cô bắt đầu điểm danh sinh viên và hướng dẫn chúng tôi
tham quan bảo tàng. Sau đây, tôi xin trình bày về lịch sử hình thành và phát
triển của bảo tàng phụ nữ Nam Bộ cùng với một tấm gương người phụ nữ
Việt Nam mang tên Võ Thị Sáu. PAGE 1
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
BẢO TÀNG PHỤ NỮ NAM BỘ
Ra đời ngày 29/04/1985, đến nay Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ – số 202 Võ Thị
Sáu, phường 7, quận 3, Tp. Hồ Chí Minh - đã trở thành một địa chỉ quen
thuộc với khách tham quan trong nước, nhất là các tầng lớp phụ nữ và khách
nước ngoài đến tham quan Tp. Hồ Chí Minh.
Tiền thân của Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ là Nhà truyền thống phụ nữ Nam bộ
được xây dựng theo tâm nguyện và ý chí của các thế hệ phụ nữ đi trước
nhằm giữ gìn, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống tốt đẹp của Phụ nữ Việt
Nam cho các thế hệ mai sau.
Được sự chấp thuận của Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng, tháng
1 năm 1983, Tổ nghiên cứu lịch sử phụ nữ Nam bộ (gọi tắt là Tổ Sử Phụ nữ
Nam bộ) được thành lập. Tổ Sử Phụ nữ gồm 13 nữ cán bộ lão thành, đa số đã
nghỉ hưu, tự nguyện tham gia công tác tổng kết lịch sử phong trào phụ nữ
Nam bộ, do bà Nguyễn Thị Thập – nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa
2,3,4, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam (từ năm 1956 đến năm 1974) phụ trách.
Với tinh thần làm việc khẩn trương của Tổ Sử Phụ nữ Nam bộ, ngày
29/4/1985, nhân kỷ niệm 10 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Nhà
truyền thống Phụ nữ Nam bộ được khánh thành với diện tích 200m2 gồm 6
phòng trưng bày chuyên đề. Hoạt động chưa đầy 1 năm, Nhà truyền thống
Phụ nữ Nam bộ đã đón cả 100.000 lượt khách tham quan trong và ngoài
nước, đặc biệt là ở các tỉnh thành phía Nam.
Song, thực tế cho thấy với một diện tích trưng bày khiêm tốn như trên, Nhà
truyền thống Phụ nữ Nam bộ không thể nào chuyển tải hết nội dung cũng
như thể hiện được các mặt tiêu biểu, đặc thù của phụ nữ miền Nam trong
quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Do đó, ngày 8/3/1986, được
Trung Ương Đảng và Nhà nước cho phép, Tổ sử Phụ nữ Nam bộ khởi công
xây dựng bảo tàng mới có diện tích 3.000m2 với sự ủng hộ tích cực về tiền
bạc, vật tư của của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể, các cá nhân, kiều bào, …
Qua 4 năm vừa lo vận động kinh phí vừa thi công xây dựng, vừa tích cực sưu
tầm tư liệu, hiện vật và biên soạn quyển “Truyền thống đấu tranh cách mạng
của Phụ nữ Nam bộ thành đồng” là một nỗ lực rất lớn của Tổ Sử Phụ nữ Nam
bộ và của lớp cán bộ trẻ đầy tâm huyết với việc cho ra đời một bảo tàng về PAGE 2
phụ nữ Nam bộ. Đây là một bảo tàng được xây dựng theo phương thức xã hội
hóa đầu tiên ở Việt Nam.
Ngày 18/05/1990, lễ khánh thành Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ được tổ chức
trọng thể trong không khí tưng bừng cả nước kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh
của Bác Hồ. Bảo tàng có diện tích sử dụng 5.410,5m2, một hội trường có sức
chứa gần 1.000 người, hệ thống kho bảo quản trên 700m2. Từ đó đến nay,
dưới sư' lãnh đạo của Ủy Ban Nhân Dân TP.HCM, Sở Văn hóa Thông tin (nay
là Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch) và sự hỗ trợ của Cục Di sản Văn hóa, tổ
chức Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp, đồng bào ở các địa phương, Bảo tàng
Phụ nữ Nam Bộ đã từng bước trưởng thành và khẳng định được vị trí trong
hệ thống bảo tàng cả nước. Hơn 20 năm hoạt động, Bảo tàng Phụ nư Nam Bộ
có nhiều nỗ lực chủ động sáng tạo trong các mặt công tác chuyên môn nhằm
giáo dục truyền thống của Phụ nữ Việt Nam cho công chúng và trở thành
điểm đến – nơi họp mặt truyền thống, giao lưu, sinh hoạt văn hóa, …của các
thế hệ phụ nữ Việt Nam.
Bảo tàng hiện quản lý 31.360 hiện vật. Trong đó có 30.431 hiện vật trong
kho và 929 hiện vật đang trưng bày; 16.739 hiện vật thể khối và 14.621
phim, ảnh, tài liệu khoa học phụ các loại; gần 2/3 là hiện vật loại hình chiến
tranh cách mạng với hơn 1/3 là hiện vật văn hóa bao gồm nhiều chất liệu.
Các hiện vật được chia thành 24 sưu tập theo chủ đề hoặc theo chất liệu,
trong đó có 6 sưu tập hiện vật quí hiếm. Hầu hết hiện vật được bảo quản
theo đúng hướng dẫn của Cục Di sản Văn hóa theo từng chất liệu với ánh
sáng, nhiệt độ, độ ẩm thích hợp. Hiện vật được quản lý trong máy tính theo
phần mềm do Cục Di sản hướng dẫn. Mỗi năm có tiến hành xịt mối mọt, bảo
quản thường xuyên và bảo quản định kỳ hiện vật. Ngoài ra, thư viện của bảo
tàng có trên 11.000 đầu sách chuyên đề về phụ nữ.
Đối với hệ thống trưng bày, ngoài trưng bày 11 chuyên đề cố định và trưng
bày nhiều chuyên đề định kỳ khác tại bảo tàng thu hút từ 60.000 – 80.000
khách tham quan mỗi năm, việc phối hợp với các bảo tàng trung ương, các
bảo tàng địa phương và bảo tàng ở nước ngoài tiến hành trưng bày lưu động
để đưa bảo tàng đến với công chúng ở khắp cả nước cũng được phát huy.
Mỗi năm tổ chức trưng bày lưu động từ 3 đến 5 cuộc, thu hút hàng trăm
ngàn lượt khách tham quan. Hệ thống trưng bày bảo tàng có định kỳ chỉnh
trang, nâng cấp. Năm 2005, Bảo tàng đưa vào trưng bày các chuyên đề về:
tín ngương thờ Mẫu, trang phục trang sức phụ nữ các dân tộc ở miền Nam,
làng nghề truyền thống … với phong cách trưng bày mới đã thu hút được sự
quan tâm của khách tham quan trong và ngoài nước.
Đến nay, đã có hơn 3 triệu lượt khách đến tham quan và tham gia những
hoạt động của Bảo tàng trong đó có hơn 4.000 đoàn khách trong nước và
gần 1.500 đoàn khách quốc tế, trên 50 đoàn lãnh đạo cao cấp trong và ngoài nước. PAGE 3
Bên cạnh việc sưu tầm tư liệu, hiện vật về những đóng góp của phụ nữ miền
Nam trong chống ngoại xâm, từ năm 1994, Bảo tàng đã chú trọng sưu tầm tư
liệu hiện vật về những đóng góp của phụ nữ miền Nam trong bảo tồn phát
huy di sản văn hóa của dân tộc trong đó có hiện vật văn hóa phi vật thể liên
quan đến lễ hội, tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa cộng đồng, làng nghề truyền
thống v.v… trong đó, nổi bật vai trò người phụ nữ trong các hình thức sinh
hoạt cộng đồng và trong đời sống gia đình. Đến nay, Bảo tàng đã có nhiều bộ
sưu tập: chóe, bộ ăn trầu, trang phục, trang sức, dụng cụ nhà bếp, đồ dùng
trong sản xuất nông nghiệp lúa nước v.v… Đó là chưa kể hàng trăm giờ ghi
hình phim tư liệu về văn hóa phi vật thể: dân ca, làng nghề truyền thống, lễ hội thờ Bà (Mẫu).
Bảo tàng đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho khách tham quan như:
tham quan miễn phí tất cả các ngày trong tuần (kể cả ngày Lễ, Tết), khách
tham quan không cần đăng ký trước và có thể tham gia các chương trình có
giải thưởng hàng tháng mà Bảo tàng đề ra, … Ngoài ra, nhằm thu hút thế hệ
trẻ ôn lại truyền thống, thực hiện công tác xã hội hóa hoạt động bảo tàng,
Bảo tàng tổ chức nhiều cuộc họp mặt giao lưu các Bà Mẹ Việt Nam Anh
Hùng và phụ nữ tiêu biểu ở các tỉnh thành miền Nam, họp mặt giao lưu nữ
thanh niên xung phong, nữ tù chính trị, nữ Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú,
nữ quản lý doanh nghiệp, Anh hùng lực lượng võ trang v.v…, các cuộc sinh
hoạt hè của HSSV, hội thi tìm hiểu truyền thống phụ nữ Việt Nam, hội thi
nấu ăn của trẻ em khuyết tật, hội chợ hàng tiêu dùng cho phụ nữ. Bảo tàng
đã tổ chức Hội thảo khoa học về Mẹ dạy con, về trẻ em đường phố, nữ nhà
báo hy sinh trong kháng chiến v.v.
Cán bộ tuyên truyền của bảo tàng đi tuyên truyền, nói chuyện chuyên đề về
truyền thống phụ nữ ở nhiều địa phương, đơn vị, trường học, … nhân các
ngày lễ Quốc tế phụ nữ 8/3 hoặc ngày thành lập Hội LHPNVN 20/10. Ứng
dụng đề tài nghiên cứu khoa học “Trang phục Phụ nữ miền Nam qua các
thời kỳ lịch sử”, Bảo tàng tổ chức 8 buổi trình diễn trang phục truyền thống
thu hút được hàng ngàn công chúng. Bảo tàng còn vận động các cơ quan,
đơn vị, các phương tiện thông tin đại chúng như Đài truyền hình Việt Nam,
Đài phát thanh Thành phố, HTV, Báo Người Lao Động, Báo Sài Gòn Giải
Phóng, Tạp chí Công nghiệp, Báo Tình Thương Cuộc Sống và các doanh
nghiệp trên địa bàn Thành phố hàng năm tài trợ và đồng tổ chức các hoạt
động cho phụ nữ và trẻ em với chi phí hàng chục tỉ đồng trong những năm qua.
Bảo tàng đã sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn, in ấn và xuất bản 30 đầu sách
về phụ nữ miền Nam, trong đó có quyển “Phụ nữ Nam bộ thành đồng” tổng
kết phong trào đấu tranh của phụ nữ Nam bộ trong hai cuộc kháng chiến (đã
tái bản lần thứ ba), “Di tích danh thắng Lịch sử Văn hóa Phụ nữ Việt Nam”,
“Truyện tích huyền thoại Phụ nữ Việt Nam” v.v… Bảo tàng phối hợp với Đài
truyền hình TPHCM và xưởng phim Giải Phóng thực hiện 4 bộ phim tư liệu
về Nhà truyền thống Phụ nữ Nam bộ, chân dung người mẹ miền Nam, nữ tù
chính trị và nữ thanh niên xung phong đạt những giải thưởng giá trị. Công PAGE 4
tác nghiên cứu khoa học được Bảo tàng quan tâm với hàng chục đề tài
nghiên cứu liên quan đến vai trò người phụ nữ trong kháng chiến cũng như
trong gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong quá trình đi sưu tầm tư liệu - hiện vật, tiếp xúc nhân chứng lịch sử và
một số hoạt động khác, Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ đã góp phần hướng dư luận
đến một số vấn đề mà Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm, tác động tích cực
đến việc giải quyết chính sách cho những người có công với nước, chính sách
xã hội đối với cựu nữ tù chính trị, nữ thanh niên xung phong, …. Cụ thể là
việc đề nghị tỉnh Tiền Giang lập nhà lưu niệm Bà Nguyễn Thị Thập, đề xuất
phong tặng danh hiệu anh hùng cho liệt sĩ Bé Sáu ở Tiền Giang. Những nội
dung này đã thể hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, đền ơn đáp nghĩa
của thế hệ sau với những người đi trước đã cống hiến tuổi xuân và xương
máu của mình cho Tổ quốc. Từ số tiền tiết kiệm được trong các cuộc họp
mặt, hội thi có sự vận động các nhà hảo tâm đóng góp, Bảo tàng đã xây dựng
14 nhà tình thương, tình nghĩa cho các đối tượng phụ nữ nghèo ở một số tỉnh.
Công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế ngày càng được bảo tàng chú trọng và
đạt được nhiều kết quả. Bảo tàng đă đưa hiện vật đi trưng bày ở các nước Bỉ,
Hà Lan, phối hợp với Bảo tàng Chihiro (Nhật Bản) trưng bày tranh về chủ đề
“Mẹ vắng nhà” (sưu tập tranh của cố nữ họa sĩ Chihiro sáng tác từ cảm xúc
đọc tác phẩm “Người mẹ cầm súng” của nhà văn Nguyễn Thi), trưng bày búp
bê truyền thống Nhật Bản tại Bảo tàng. Ngoài việc tham gia các cuộc hội
nghị, hội thảo trong nước, cán bộ Bảo tàng còn tham gia hội nghị, hội thảo
quốc tế như: hội thảo quốc tế về bảo tàng khu vực Đông Nam Á do Hội đồng
Bảo tàng Quốc tế (ICOM) tổ chức tại Lào và Campuchia (năm 2006), hội
nghị quốc tế lần I về bảo tàng phụ nữ tại Italy với sự tham gia của đông đảo
đại biểu từ 23 bảo tàng phụ nữ trên thế giới (năm 2008). Qua sự trao đổi,
hợp tác, Bảo tàng đă có dịp giới thiệu về truyền thống của phụ nữ Việt Nam
nói riêng và lịch sử văn hóa dân tộc nói chung với bạn bè thế giới.
Từ khi thành lập đến nay, tập thể cán bộ công chức Bảo tàng đã không
ngừng học tập, phấn đấu vươn lên mọi mặt về năng lực chuyên môn, nghiệp
vụ, trình độ chính trị và quản lý. Với những thành tích đạt được, năm 1998,
Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ đã vinh dự đón nhận Huân chương Lao động hạng
Nhất do Nhà nước trao tặng và liên tục nhiều năm liền nhận bằng khen của
Bộ Văn hóa thông tin và bằng khen UBND TP.HCM.
Võ Thị Sáu, nữ anh hùng huyền thoại vùng Đất Đỏ
Chị Võ Thị Sáu sinh năm 1933 ở huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa (nay là tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). PAGE 5
Sinh ra và lớn lên trên miền quê giàu truyền thống yêu nước, lại chứng kiến
cảnh thực dân Pháp giết chóc đồng bào, chị Sáu đã không ngần ngại cùng
các anh trai tham gia cách mạng.
Chị Võ Thị Sáu nhiều lần được khen ngợi nhờ không ngại gian khó, dũng cảm
tham gia chiến đấu, bảo vệ quê hương.
Tượng đồng chân dung Anh hùng lực lượng vũ
trang Nhân dân, Liệt sĩ Võ Thị Sáu (1933-
1952) ở Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ.
Thiếu nữ ném lựu đạn diệt giặc
14 tuổi, Võ Thị Sáu theo anh gia nhập Việt Minh, trốn lên chiến khu chống
Pháp. Chị tham gia đội công an xung phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc, tiếp tế.
Trong khoảng thời gian này, chị Sáu tham gia nhiều trận chiến đấu để bảo
vệ quê hương, dùng lựu đạn tiêu diệt hai tên ác ôn và làm bị thương nhiều lính Pháp.
Người con gái Đất Đỏ còn nhiều lần phát hiện gian tế, tay sai Pháp, giúp đội
công an thoát khỏi nguy hiểm, chủ động tấn công địch.
Tháng 7/1948, Công an Đất Đỏ được giao nhiệm vụ phá cuộc mít tinh kỷ
niệm Quốc khánh Pháp. Biết đây là nhiệm vụ gian nan, nguy hiểm, chị Sáu
vẫn chủ động xin được trực tiếp đánh trận này.
Chị nhận lựu đạn, giấu vào góc chợ gần khán đài từ nửa đêm. Sáng hôm đó,
địch lùa người dân vào sân. Khi xe của tỉnh trưởng tới, chị tung lựu đạn về
phía khán đài, uy hiếp giải tán mít tinh.
Hai tổ công an xung phong ở gần đấy đồng loạt nổ súng yểm trợ tạo áp lực
giải tán cuộc mít tinh, đồng thời hỗ trợ cho chị Sáu rút an toàn. Người của
Việt Minh được bố trí trong đám đông hô to "Việt Minh tiến công" và hướng
dẫn người dân giải tán. PAGE 6
Sau chiến công này, chị Sáu được tổ chức tuyên dương khen ngợi và được
giao nhiệm vụ diệt tề trừ gian, bao gồm việc tiêu diệt tên cai tổng Tòng.
Tháng 11/1948, Võ Thị Sáu mang theo lựu đạn, trà trộn vào đám người đi
làm căn cước. Giữa buổi, chị ném lựu đạn vào nơi làm việc của Tòng, hô to
“Việt Minh tấn công” rồi kéo mấy chị em cùng chạy.
Lựu đạn nổ, tên Tòng bị thương nặng nhưng không chết. Tuy nhiên, vụ tấn
công khiến bọn lính đồn khiếp vía, không dám truy lùng Việt Minh ráo riết như trước.
Tháng 2/1950, Võ Thị Sáu tiếp tục nhận nhiệm vụ ném lựu đạn, tiêu diệt hai
chỉ điểm viên của thực dân Pháp là Cả Suốt và Cả Đay rồi không may bị bắt.
Trong hơn một tháng bị giam tại nhà tù Đất Đỏ, dù bị giặc tra tấn dã man,
chị không khai báo. Địch phải chuyển chị về khám Chí Hòa.
Chị Sáu tiếp tục làm liên lạc cho các đồng chí trong khám, cùng chị em tại tù
đấu tranh đòi cải thiện cuộc sống nhà tù.
Trước tinh thần đấu tranh quyết liệt của Võ Thị Sáu, thực dân Pháp và tay
sai mở phiên tòa, kết án tử hình đối với nữ chiến sĩ trẻ. Chúng chuyển chị
cùng một số người tù cách mạng ra nhà tù Côn Đảo.
Nhờ sự kiên cường, dũng cảm, trung thành, Võ Thị Sáu được kết nạp vào
Đảng Lao động Việt Nam và công nhận là Đảng viên chính thức ngay đêm trước khi hy sinh.
Kiên cường đến phút cuối
Trong quá trình bị bắt, tra tấn và đến tận những giây phút cuối cùng, Võ Thị
Sáu luôn chứng tỏ bản lĩnh kiên cường, bất khuất của chiến sĩ cộng sản.
Khi mới bị bắt, địch tra tấn chị chết đi sống lại nhưng không moi được nửa lời khai báo.
Sự kiên trung ấy một lần nữa thể hiện tại phiên tòa đại hình khi chị Sáu (khi
đó mới 17 tuổi) hiên ngang khẳng định: “Yêu nước, chống bọn thực dân xâm
lược không phải là tội”.
Khi nhận án tử hình, chị Sáu không hề run sợ. Chị hô to “Đả đảo thực dân
Pháp!”, “Kháng chiến nhất định thắng lợi!”.
Năm 1952, trước giờ hành hình, viên cha đạo đề nghị làm lễ rửa tội cho chị.
Song chị từ chối và nói: “Tôi không có tội. Chỉ có kẻ sắp hành hình tôi đây mới có tội”.
Đối mặt cái chết, điều khiến người con gái Đất Đỏ ân hận nhất là chưa diệt
hết bọn thực dân và tay sai cướp nước. Giai thoại kể rằng khi ra đến pháp
trường, Võ Thị Sáu kiên quyết không quỳ xuống, yêu cầu không bịt mắt. PAGE 7
“Không cần bịt mắt tôi. Hãy để cho đôi mắt tôi được nhìn đất nước thân yêu
đến giây phút cuối cùng và tôi có đủ can đảm để nhìn thẳng vào họng súng
của các người!”, chị tuyên bố. Nói xong, chị Sáu bắt đầu hát Tiến quân ca.
Khi lính lên đạn, chị ngừng hát, hô vang những lời cuối cùng “Đả đảo bọn
thực dân Pháp. Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ Chủ tịch muôn năm!”. PAGE 8
Document Outline

  • PAGE 1
  • PAGE 2
  • PAGE 3
  • PAGE 4
  • PAGE 5
  • PAGE 6
  • PAGE 7