lOMoARcPSD| 58562220
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM GIẢNG VIÊN
BÀI THU HOẠCH
MÔN:GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
LỚP: K10.2024.TC.NVSP GIẢNG VIÊN
Họ và tên : Phạm Phi Hùng
Nơi sinh: Hà Nội
STT:
lOMoARcPSD| 58562220
Đề tài: Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam:
Anh (chị) hãy trình bày các xu hướng phát triển giáo dục đại học hiện nay. Anh
(chị) hãy đề xuất một số giải pháp phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam trong
thời gian tới.
Bài Làm
1. Các xu hướng phát triển giáo dục đại học hiện nay
1.1. Khái niệm giáo dục học
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt; Một quá trình, trong đó: Dưới
tác động mục đích, có kế hoạch, phương pháp của người giáo viên, với
cách nhà giáo dục, nhà phạm,học sinh tự giác, tích cực tự giáo dục, tự tu
dưỡng, rèn luyện nhằm nh thành thế giới quan những phẩm chất nhân 3 cách
tốt đẹp của người công dân tương lai. Như vậy, trong quá trình giáo dục, giáo viên
giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức, điều khiển hoạt động giáo dục đối với học
sinh. Vai trò chủ đạo của người giáo viên thể hiện đậm nét trong việc cụ thể hóa,
mục đích, mục tiêu giáo dục, xác định nội dung cần phải giáo dục giáo dục
như thế nào, bằng những phương pháp, phương tiện và những hình thức giáo dục
nào cho phù hợp. Điều đó cần được cụ thể hóa, chi tiết a trong chương trình,
kế hoạch, trong hoạt động tổ chức giáo dục học sinh. Quá trình giáo dục không
phải chỉ có tác động một chiều mà tác động hai chiều, tác động song phương.
Người học sinh trong quá trình giáo dục không phải chỉ tiếp thu ảnh hưởng, c
động từ phía giáo viên chính bản thân họ cũng thường xuyên tiến hành hoạt
động nhân, tgiác, tích cực, chủ động tự giáo dục để từng bước hoàn thiện
phẩm chất nhân cách của mình. Do đó, trong qtrình giáo dục diễn ra sự tác
động qua lại, thường xuyên, tích cực giữa chủ thể nhà giáo dục và đối tượng của
quá trình giáo dục là học sinh, vừa là khách thể, vừa là chủ thể tự giáo dục. Đó
mối quan hệ tương tác giữa giáo viên và học sinh giữa chủ thể khách thể, giữa
nhà giáo dục và người được giáo dục trong hoạt động giáo dục. Nếu không có sự
lOMoARcPSD| 58562220
tác động qua lại đó thì chính bản thân quá trình giáo dục sẽ không tồn tại, không
có quá trình giáo dục theo đúng nghĩa của nó. Nói cách khác trong quá trình giáo
dục luôn diễn ra sự tác động qua lại tích cực sự thống nhất biện chứng giữa
hoạt động giáo dục và hoạt động tự giáo dục.
1.2. Cấu trúc của quá trình giáo dục
Theo cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc, quá trình giáo dục tồn 4 tại như
một hệ thống toàn vẹn bao gồm các nhân tố cơ bản sau:
a) Mục đích và nhiệm vụ giáo dục Mục đích và nhiệm vụ giáo dục phản
ánh yêu cầu của sự tiến bộ hội sự phát triển của khoa học, kinh tế, chính
trị… Nó đòi hỏi sự nghiệp giáo dục phải đào tạo những người công dân tương lai
phẩm chất nhân cách, hành vi thói quen đáp ứng yêu cầu, chuẩn mực về
đạo đức, lao động, thể chất và thẩm mĩ do hội quy định, giúp họ khả năng
hòa nhập và thích ứng một cách năng động, sáng tạo với cuộc sống đang đổi mới
toàn diện và sâu sắc trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. thế,
mục đích nhiệm vụ giáo dục có vai trò định hướng cho tất cả các nhân tố khác
của quá trình giáo dục.
Để thực hiện tốt mục đích giáo dục, quá trình giáo dục phải hoàn thành các
nhiệm vụ cơ bản như:
- Tổ chức hình thành phát triển ý thức nhân về các chuẩn mực
xãhội nói chung các chuẩn mực đạo đức pháp luật nói riêng đã được quy định. Ý
thức nhân một thể thống nhất giữa sự hiểu biết của nhân về các chuẩn
mực xã hội và niềm tin đối với những chuẩn mực đó:
- Tổ chức hình thành phát triển học sinh những xúc cảm, tình
cảmtích cực tác dụng như một "chất men" đặc biệt thúc đẩy nhân chuyển
hóa ý thức về các chuẩn mực xã hội thành hành vi và thói quen tương ứng;
- Tổ chức hình thành phát triển học sinh hệ thống hành vi phù
hợpvới các chuẩn mực xã hội đã được quy định, mặt khác còn tổ chức rèn luyện
để các em thể tự lặp lại hệ thống những hành vi này thành thói quen bền vững
gắn bó mật thiết với nhu cầu hoạt động tích cực của cá nhân.
lOMoARcPSD| 58562220
Nhân tố mục đích và nhiệm vụ giáo dục là nhân tố có vị trí hàng đầu trong
quá trình giáo dục. chức năng định hướng cho sự vận động phát triển
của các nhân tố khác trong quá trình giáo dục từ đó, định hướng cho sự vận
động và phát triển của toàn bộ quá trình giáo dục.
b) Nội dung giáo dục Nội dung giáo dục quy định hệ thống những
chuẩnmực xã hội cần được giáo dục cho học sinh về các mặt giáo dục tưởng,
đạo đức lao động, giáo dục thể chất, thẩm mĩ, v.v... tạo nên nội dung hoạt
động của nhà giáo dục cũng như nội dung tgiáo dục, tự tu dưỡng của người
được giáo dục. Nội dung giáo dục chịu sự chi phối của mục đích, nhiệm vụ giáo
dục, mặt khác, nội dung giáo dục lại chi phối việc lựa chọn vận dụng phối hợp
các phương pháp, phương tiện giáo dục nhằm thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ
giáo dục.
c) Phương pháp, phương tiện giáo dục Phương pháp, phương tiện
giáodục là những cách thức, những phương tiện hoạt động phối hợp, thống nhất
của nhà giáo dục đối tượng giáo dục, của giáo viên học sinh nhằm giúp cho
học sinh chuyển hóa dần những chuẩn mực hội thành hành vi thói quen
tương ứng. Phương pháp, phương tiện giáo dục chịu sự chi phối của mục đích,
nhiệm vụ và nội dung giáo dục. Mặt khác, phương pháp, phương tiện lại là "hình
thức về cách thức vận động bên trong của nội dung", nó giúp cho nội dung giáo
dục được chuyển hóa thành vốn kinh nghiệm riêng của người được giáo dục sao
cho phù hợp với mục đích và các nhiệm vụ giáo dục.
Như vậy, giữa mục đích, nhiệm vụ, nội dung và phương pháp, phương tiện
giáo dục mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, chi phối, ảnh hưởng,
hỗ trợ và phụ thuộc lẫn nhau thông qua các hoạt động giáo dục.
d) Nhà giáo dục Trong quá trình giáo dục người giáo viên tập thể
giáoviên, với cách các nhà giáo dục, các nhà phạm, những người được
chuẩn bị về chuyên môn nghiệp vụ phạm, phương pháp nghệ thuật
giáo dục, luôn phát huy vai trò chủ đạo, tổ chức, điều khiển quá trình hình thành,
phát triển nhân cách của học sinh một cách có mục đích có kế hoạch, có phương
pháp, tổ chức khoa học, hợp lí. Qua đó động viên, khuyến khích, làm phát triển
ở học sinh tính tự giác, tính tích cực tự giáo dục, tự hoàn thiện mình.
lOMoARcPSD| 58562220
e) Người học sinh trong quá trình giáo dục Trong quá trình giáo dục,
người học sinh (và tập thể học sinh) vừa là đối tượng, khách thể tiếp nhận sự
tác động có định hướng của nhà giáo dục. Những người học sinh trong quá trình
giáo dục không phải một thực thể thụ động, trái lại họ đã tiếp thu những tác
động từ các lực lượng giáo dục khác nhau một cách chủ động tùy theo mục đích
tu dưỡng rèn luyện, tự giáo dục của bản thân họ. Điều đó cũng có nghĩa là, dưới
tác động giáo dục khách quan của nhà giáo dục, của gia đình và xã hội, mỗi học
sinh không những là khách thể mà còn là chủ thể tiếp nhận những tác động giáo
dục một cách chọn lọc, ý thức, tự giác, tích cực nhằm biến những yêu cầu
khách quan, những chuẩn mực vđạo đức, về lao động, vthể chất thẩm
do hội quy định thành hành vi, thói quen, thành lối sống văn hóa bền vững,
ổn định của nhân họ. Nhờ vậy, người học sinh không ngừng vận động phát
triển đi lên và nhân cách của các em ngày càng hoàn thiện.
Như vậy, với vai trò vừa khách thể, đối tượng đồng thời lại một ch
thể tự giáo dục, tự tu dưỡng, tự rèn luyện tự mình biến những yêu cầu, những
chuẩn mực do hội quy định thành nhu cầu phát triển chủ quan của cá nhân
mình. Hai tư cách: đối tượng giáo dục chủ thể tự giáo dục thống nhất, tác động
qua lại, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau: Trong đó, người học sinh với tư cách chủ
thể giáo dục sở còn với tư cách đối ợng giáo dục sẽ điều kiện cho s
hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách.
g) Kết quả quá trình giáo dục Chất lượng hiệu quả quá trình giáo dục
phản ánh kết quả vận động tổng hợp của tất cả các nhân tố trên đây của quá trình
giáo dục. Cụ thể là, với sự định hướng của mục đích, nhiệm vụ giáo dục, với
những yêu cầu của nội dung, với sự vận dụng phối hợp, khéo léo các phương
pháp, phương tiện và nghệ thuật kết hợp các hình thức tổ chức các loại hình hoạt
động phong phú và đa dạng, những phẩm chất, những nét tính cách, những hành
vi, thói quen về đạo đức, về lối sống tốt đẹp sẽ dần dần hình thành, phát triển và
hoàn thiện.
Kết quả quá trình giáo dục được thể hiện đậm nét sự biến đổi vchất
trong nhân cách của người được giáo dục, đặc biệt ý thức về các chuẩn mực
lOMoARcPSD| 58562220
hội đã được quy định; về sự phát triển của tình cảm, hành vi, thói quen đạo đức,
thẩm mĩ,...
Những nhân tố trên đây: mục đích, nhiệm vụ giáo dục, nội dung, phương
pháp, phương tiện giáo dục, chủ thể, đối tượng và 8 kết quả giáo dục luôn tồn tại
phát triển trong mối quan hệ tương tác, biện chứng với nhau. Các nhân tố đó
còn mối quan hệ mật thiết với môi trường kinh tế - hội. môi trường chính
trị văn hóa,... với chế thị trường. Sự phát triển không ngừng về mọi lĩnh vực
đời sống hội, những đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế tri thức trong thời
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước luôn đặt ra những yêu cầu cao tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhân tố vận động phát triển và ngược lại, các nhân tố
của quá trình giáo dục lại ảnh hưởng, chi phối, tác động tích cực trở lại môi trường
kinh tế, văn hóa, xã hội...
Từ sự phân tích trên đây, theo quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc thì
quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp nói riêng, quá trình giáo dục - đào tạo nói chung
tồn tại như là một hệ thống bao gồm các nhân tố cấu trúc quan hệ mật thiết với
nhau và có quan hệ tương tác với môi trường. Sự vận động và phát triển của các
nhân tố được phản ánh trong kết quả của quá trình giáo dục.
Như vậy. quá trình giáo dục là hoạt động giáo dục và tự giáo dục một cách
kế hoạch, nội dung, phương pháp, phương tiện của giáo viên và học sinh
nhằm thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ giáo dục. Đó hoạt động phối hợp, thống
nhất của chủ thể và đối tượng giáo dục nhằm biến các yêu cầu khách quan của
hội thành nhu cầu phát triển chủ quan của mỗi học sinh.
1.3. Quá trình lịch sử
Bước vào thế kỷ 21, hệ thống giáo dục đại học toàn cầu đang chứng kiến
sự tăng trưởng vượt bậc về quy mô, từ 14 triệu sinh viên năm 1960 lên khoảng
80 triệu sinh viên hiện nay. Vai trò của các trường đại học, đặc biệt là các đại học
nghiên cứu, đã có những thay đổi đáng kể.
Đặc trưng bởi đội ngũ chuyên gia cao cấp, hệ thống trang thiết bị nghiên
cứu hiện đại, sở dữ liệu phong phú, các đại học nghiên cứu đã trở thành
lOMoARcPSD| 58562220
những trung tâm đào tạo chuyên gia nghiên cứu kỹ thuật mũi nhọn như công
nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới, và tự động hoá.
Tại các quốc gia như Mỹ các nước ASEAN (Thái Lan, Malaysia,
Philippines), nhiều biện pháp cải cách đã được triển khai nhằm đảm bảo chất
lượng giáo dục tăng cường khả năng cạnh tranh. Trong lịch sử, smệnh của
giáo dục đại học luôn nhấn mạnh vai trò khai phá tri thức, phát triển giá trị văn
hoá và hướng dẫn xã hội.
Tuy nhiên, cho góc độ nào thì nền giáo dục đại học luôn luôn coi trọng
sứ mệnh cao cả khai sáng, thức tỉnh, phát triển tri thức các giá trị văn hóa,
tìm kiếm chân lý và dẫn dắt xã hội…..
Sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học một mặt bị tác động, chi phối
và một mặt khác cũng góp phần thúc đẩy của các xu hướng phát triển chung của
đời sống xã hội hiện đại.
- Quốc tế hoá (Internationalization)
- Toàn cầu hoá (Globalization) với các dòng dịch chuyển của hàng hoá, tiền
tệ,nhân lực, dịch vụ, tri thức. Các vấn đề toàn cầu như môi trường, năng lượng,
HIV, dân số, thương mại..v.v
- Những bước đột phá về KHCN: Bản đồ Gen, Ttuệ nhân tạo,Vật liệu
thôngminh, công nghệ thông tin..
- Kinh tế tri thức và xã hội thông tin, Thời đại mạng
lOMoARcPSD| 58562220
- Văn hoá công nghệ, kỷ nguyên chất lượng
- Khu vực tự do thương mại: WTO, AFTA, APEC..
1.4. Xu hướng tác động đến giáo dục học
Những xu hướng lớn đang tác động đến giáo dục đại học bao gồm:
Quốc tế hoá giáo dục đại học Quốc tế hoá là xu hướng mạnh mẽ nhất, thể
hiện qua việc gia tăng số lượng sinh viên quốc tế, các chương trình liên kết đào
tạo xuyên quốc gia và hợp tác nghiên cứu toàn cầu. Các trường đại học đang mở
rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế, kết thỏa thuận trao đổi sinh viên giảng
viên, xây dựng các chương trình giảng dạy đa ngôn ngnhằm đáp ứng nhu
cầu học tập của người học trên toàn thế giới. Điều này giúp thúc đẩy sự giao lưu
văn hóa nâng cao chất lượng giáo dục thông qua học hỏi các nh tiên tiến.
Toàn cầu hthị trường tri thức Giáo dục đại học hiện nay không còn
giới hạn trong phạm vi quốc gia trở thành một thị trường toàn cầu. Sự di
chuyển tự do của tri thức, công nghệ nhân lực qua biên giới đã thúc đẩy các
trường đại học định hướng hoạt động theo hướng đáp ứng yêu cầu của nền kinh
tế tri thức toàn cầu. Các vấn đề toàn cầu nbiến đổi khí hậu, năng lượng, y tế
công cộng đòi hỏi các trường đại học phải trthành trung tâm nghiên cứu cung
cấp giải pháp sáng tạo.
Đại chúng hóa phổ cập giáo dục Giáo dục đại học đang chuyển đổi từ
giáo dục tinh hoa sang giáo dục đại chúng. Ở nhiều quốc gia như Mỹ, Nhật Bản
Hàn Quốc, tỷ lệ sinh viên đại học trong độ tuổi 18-26 đạt từ 40-60%. Xu hướng
này thúc đẩy các quốc gia đầu mạnh mẽ vào hệ thống sở vật chất phát
triển các loại hình trường đại học đa dạng để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng.
Đa dạng hóa loại hình giáo dục Hệ thống giáo dục đại học ngày nay bao
gồm nhiều loại hình trường với mục tiêu khác nhau, tcác đại học nghiên cứu
tập trung vào khoa học bản đến các trường đại học ứng dụng chuyên về thực
hành và công nghệ. Điều này giúp sinh viên có nhiều lựa chọn phù hợp với năng
lực và nhu cầu phát triển nghề nghiệp của họ.
Tư nhân hóa giáo dục đại học Để giảm áp lực tài chính lên ngân sách nhà
nước, nhiều quốc gia đã khuyến khích sự tham gia của các tổ chức nhân vào
lOMoARcPSD| 58562220
giáo dục đại học. Sự phát triển của các trường đại học các chương trình liên
kết với doanh nghiệp đang góp phần cung cấp nguồn lực mở rộng khả năng
tiếp cận giáo dục.
Đảm bảo chất lượng cạnh tranh quốc tế Trong bối cảnh toàn cầu hóa,
các trường đại học đang ngày càng chú trọng đến việc đảm bảo chất lượng đào
tạo thông qua các hệ thống kiểm định độc lập và xếp hạng quốc tế. Việc tham gia
các bảng xếp hạng như QS, THE đã trở thành một thước đo quan trọng để đánh
giá uy tín và năng lực của các trường đại học.
Ứng dụng công nghệ chuyển đổi số Sự phát triển của công nghệ, đặc
biệt trí tuệ nhân tạo, học máy dữ liệu lớn, đang thay đổi cách giáo dục đại
học hoạt động. Các hình thức học trực tuyến, học kết hợp (blended learning)
các nền tảng giáo dục mở đang tạo hội học tập linh hoạt hơn cho sinh viên.
Các trường đại học đang đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng công nghệ để nâng cao trải
nghiệm học tập và giảng dạy.
Kinh tế tri thức vai trò của đại học Trong nền kinh tế tri thức, các trường
đại học đóng vai trò trung tâm trong việc sản xuất, sử dụng và phân phối tri thức.
Các trường nghiên cứu hàng đầu không chỉ tập trung vào việc đào tạo n
thực hiện các nghiên cứu tiên tiến nhằm tạo ra các phát minh ứng dụng thực
tiễn. Đây cũng là cơ hội để các trường đại học gia tăng nguồn thu từ việc chuyển
giao công nghệ và cung cấp dịch vụ nghiên cứu.
2. Giải pháp phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam
trongthời gian tới
2.1. Giải pháp phát triển giáo dục đại học
Phát triển bền vững trách nhiệm hội Các trường đại học ngày càng
nhận thức vai tcủa mình trong việc thúc đẩy phát triển bền vững đóng
góp vào các mục tiêu phát triển chung của xã hội. Từ việc xây dựng các chương
trình giảng dạy gắn với bảo vệ môi trường đến việc tham gia giải quyết các thách
thức toàn cầu, giáo dục đại học đang khẳng định sứ mệnh cao cả của mình.
Để nâng cao chất lượng giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tình
hình mới, cần tiếp tục phát huy những thành tựu, kết quả đã được, đồng thời khắc
lOMoARcPSD| 58562220
phục những bất cập, hạn chế để giáo dục đại học xứng đáng là bậc học kiểu mẫu,
tiên phong, dẫn dắt các bậc học khác cùng nỗ lực, cố gắng, hoàn thành tốt trọng
trách, smệnh Đảng, Nhà nước, Nhân dân giao cho. Muốn thực hiện tốt nhiệm
vụ đó cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo các
quan quản lý, các sở giáo dục về giáo dục đại học. Đây giải pháp ý
nghĩa quyết định đến việc nâng cao chất lượng giáo dục đại. Bởi, nhận thức chỉ
đạo hành động, nhận thức đúng, sâu sắc mới thể hành động đúng và hiệu
quả cao, làm việc lương tâm trách nhiệm. Chất lượng, hiệu quả giáo dục
đại học trước hết và xuyên suốt phụ thuộc vào nhận thức và trách nhiệm của các
chủ thể liên quan. Để thực hiện tốt giải pháp này, các cơ quan quản lý, các cơ sở
giáo dục đại học cần thực hiện nghiêm túc, vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo
Nghị quyết số 29-NQ/TW cũng như các chính sách Nhà nước đã ban hành
(Luật giáo dục đại học, Luật Giáo dục). Khẩn trương hoàn thiện ban hành
Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm
2045, tiến đến xây dựng chiến lược, kế hoạch về phát triển giáo dục đại học Việt
Nam, trong đó xác định rõ mục tiêu, triết lí, tầm nhìn, sứ mệnh và những nguyên
tắc của giáo dục đại học.
Thứ hai, phải thay đổi triết giáo dục đại học. Cần chuyển nền giáo dục
lấy trang bị kiến thức làm mục tiêu chủ yếu sang một nền giáo dục dạy kỹ năng,
dạy cách thọc,... cách duy làm chủ yếu. Trong quy trình dạy học đó, sinh viên
đóng vai trò chủ động; giảng viên chỉ là người hướng dẫn, định hướng cho sinh
viên cách thu nhận kiến thức hỗ trợ, giải đáp các thắc mắc khi cần thiết. Do
đó, cần phải sự đổi mới, từ chương trình khung đến giáo trình và phương pháp
giảng dạy... để trang bị cho sinh viên cách học, cách duy, tạo cho người học
thói quen “hoài nghi khoa học”, năng lực phản biện các tri thức sẵn sáng
tạo ra những tri thức mới. Đồng thời, cũng phải thay đổi một cách căn bản hệ
thống đánh giá từ kiểm tra kiến thức sang đánh giá năng lực. Các trường đại học
phải cam kết “chuẩn đầu ra” phù hợp với yêu cầu, nhu cầu của hội, chứ không
phải “chuẩn đầu ra” do trường, cụ thể hơn nữa do giáo viên tự xác định. Để
giáo dục đại học Việt Nam gắn kết với nhu cầu hội tgiáo dục đại học phải
lOMoARcPSD| 58562220
gắn kết chặt chẽ hơn với các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng lao
động.
Thứ ba, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ làm công tác quản
giáo dục đại học. Đây giải pháp ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì, chất lượng
của hệ thống giáo dục đại học luôn gắn chặt với chất lượng của đội ngũ giảng
viên. Để xây dựng, pt triển đội ngũ này, cần có quy hoạch kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng phù hợp, chính sách thu hút các sinh viên giỏi lại trường làm công
tác giảng dạy. Tạo điều kiện để các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài và các
chuyên gia quốc tế tham gia vào việc giảng dạy, nghiên cứu của các trường đại
học trong nước. Bên cạnh đó, cần có những người làm công tác quản lí giáo dục
đủ tâm, đủ tầm, đủ tài để sử dụng đúng người, giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh
trong giáo dục đại học theo tinh thần dân chủ. Cải thiện chế độ, chính sách đãi
ngộ giảng viên, cán bộ quản lí giáo dục, vì đến nay, nghề giáo vẫn là nghề có thu
nhập thấp trong xã hội. Tăng cường hơn nữa công tác thông tin, truyền thông để
xã hội thấu hiểu, chia sẻ với những khó khăn, vất vả của đội ngũ nhà giáo và giữ
gìn truyền thống “tôn sư, trọng đạo” của văn hóa Việt Nam.
Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh hội hóa giáo dục đại học tăng cường hợp
tác, hội nhập quốc tế về đào tạo đại học, để xây dựng cơ sở hạ tầng, các thiết chế
mang tính chuyên biệt trong các trường đại học, như giảng đường; thư viện; khu
thực hành, sản xuất; kng gian đổi mới sáng tạo; khu vui chơi giải trí, dịch vụ
mua sắm, ẩm thực; khu nhà công vụ, khu túc sinh viên, đảm bảo c
không gian đó có tính kết nối, liên thông, đồng bộ, hiện đại, tạo không gian, môi
trường học tập thuận lợi. Tăng cường khả năng kết nối, học tập, trao đổi nhóm,
kích thích khả năng sáng tạo và tinh thần chủ động, tích cực của mỗi sinh viên.
Bên cạnh đó, mở rộng mối quan hệ, giao lưu, hợp tác giữa các cơ sở giáo dục đại
học trong ngoài nước, tạo hội đsinh viên tham gia các chương trình trao
đổi nghiệp vụ, chuyển giao tri thức, kinh nghiệm hoặc du học tại chỗ. Đồng thời
tăng cường kết nối với các doanh nghiệp, nhất doanh nghiệp nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để xây dựng chương trình đào tạo đáp ứng nhu
cầu của hội, đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp, từ đó nâng cao tay
nghề, trình độ và mở rộng cơ hội việc làm, thu nhập cho sinh viên.
lOMoARcPSD| 58562220
Thứ năm, gắn đào tạo với nhu cầu hội - tập trung đầu tư xây dựng một
số trung tâm phân tích, dự báo nhu cầu nhân lực nhằm cung cấp số liệu và cơ sở
khoa học cho việc hướng nghiệp, xây dựng chương trình, lập kế hoạch đào tạo
nghề nghiệp. Trong năm 2009 sẽ xây dựng hai trung tâm quốc gia đặt tại Bộ Giáo
dục Đào tạo Bộ Lao động, Thương binh & hội với sự hỗ trợ kỹ thuật
của các đại học quốc tế có uy tín và kinh nghiệm.
Nhằm thực hiện hiệu quả việc cung cấp nhân lực trực tiếp cho các doanh
nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng
thực hiện chương trình đào tạo, quy định trách nhiệm chế phù hợp để mở
rộng các hình thức hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo, sử
dụng nhân lực nghiên cứu chuyển giao công nghệ, khuyến khích mở các s
giáo dục đại học trong các doanh nghiệp lớn
Thứ sáu, thể chế hóa vai trò, trách nhiệm và quyền lợi của các tổ chức,
nhân gia đình trong việc giám sát đánh giá giáo dục, phối hợp với nhà
trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và
an toàn.
Xây dựng chế học phí mới nhằm đảm bảo sự chia sẻ hợp giữa nhà
nước, người học các thành phần xã hội. Đối với giáo dục mầm non phổ
thông các trường công lập, ngân sách nhà nước nguồn tài chính chủ yếu để
đảm bảo chi phí của quá trình đào tạo. Đối với giáo dục nghề nghiệp đại học
các trường công lập, người học có trách nhiệm chia sẻ một phần quan trọng chi
phí đào tạo. Các sở giáo dục đào tạo ngoài công lập phải tuân thủ các quy định
về chất lượng của Nhà nước tự quyết định mức học phí. Khen thưởng, n vinh
các nhà hảo tâm, doanh nghiệp đó đóng góp xuất sắc cho snghiệp giáo dục
đào tạo. Hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong nghiên cứu và đào tạo.
Thứ bảy, Nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học ưu tiên đầu cho các
trường đại học định hướng nghiên cứu, tạo điều kiện phát triển các dự án khoa
học công nghệ lớn. Tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, xây
dựng các mạng lưới nghiên cứu đa quốc gia. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
vào các dự án nghiên cứu và đổi mới sáng tạo trong trường đại học

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58562220
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM GIẢNG VIÊN BÀI THU HOẠCH
MÔN:GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
LỚP: K10.2024.TC.NVSP GIẢNG VIÊN
Họ và tên : Phạm Phi Hùng
Ngày sinh : 24/12/2002 Nơi sinh: Hà Nội STT: lOMoAR cPSD| 58562220
Đề tài: Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam:
Anh (chị) hãy trình bày các xu hướng phát triển giáo dục đại học hiện nay. Anh
(chị) hãy đề xuất một số giải pháp phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam trong thời gian tới. Bài Làm
1. Các xu hướng phát triển giáo dục đại học hiện nay
1.1. Khái niệm giáo dục học
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt; Một quá trình, trong đó: Dưới
tác động có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp của người giáo viên, với tư
cách là nhà giáo dục, nhà sư phạm,học sinh tự giác, tích cực tự giáo dục, tự tu
dưỡng, rèn luyện nhằm hình thành thế giới quan và những phẩm chất nhân 3 cách
tốt đẹp của người công dân tương lai. Như vậy, trong quá trình giáo dục, giáo viên
giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức, điều khiển hoạt động giáo dục đối với học
sinh. Vai trò chủ đạo của người giáo viên thể hiện đậm nét trong việc cụ thể hóa,
mục đích, mục tiêu giáo dục, xác định nội dung cần phải giáo dục và giáo dục
như thế nào, bằng những phương pháp, phương tiện và những hình thức giáo dục
nào cho phù hợp. Điều đó cần được cụ thể hóa, chi tiết hóa trong chương trình,
kế hoạch, trong hoạt động tổ chức giáo dục học sinh. Quá trình giáo dục không
phải chỉ có tác động một chiều mà là tác động hai chiều, tác động song phương.
Người học sinh trong quá trình giáo dục không phải chỉ tiếp thu ảnh hưởng, tác
động từ phía giáo viên mà chính bản thân họ cũng thường xuyên tiến hành hoạt
động cá nhân, tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục để từng bước hoàn thiện
phẩm chất nhân cách của mình. Do đó, trong quá trình giáo dục diễn ra sự tác
động qua lại, thường xuyên, tích cực giữa chủ thể nhà giáo dục và đối tượng của
quá trình giáo dục là học sinh, vừa là khách thể, vừa là chủ thể tự giáo dục. Đó là
mối quan hệ tương tác giữa giáo viên và học sinh giữa chủ thể và khách thể, giữa
nhà giáo dục và người được giáo dục trong hoạt động giáo dục. Nếu không có sự lOMoAR cPSD| 58562220
tác động qua lại đó thì chính bản thân quá trình giáo dục sẽ không tồn tại, không
có quá trình giáo dục theo đúng nghĩa của nó. Nói cách khác trong quá trình giáo
dục luôn diễn ra sự tác động qua lại tích cực và sự thống nhất biện chứng giữa
hoạt động giáo dục và hoạt động tự giáo dục.
1.2. Cấu trúc của quá trình giáo dục
Theo cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc, quá trình giáo dục tồn 4 tại như là
một hệ thống toàn vẹn bao gồm các nhân tố cơ bản sau:
a) Mục đích và nhiệm vụ giáo dục Mục đích và nhiệm vụ giáo dục phản
ánh yêu cầu của sự tiến bộ xã hội và sự phát triển của khoa học, kinh tế, chính
trị… Nó đòi hỏi sự nghiệp giáo dục phải đào tạo những người công dân tương lai
có phẩm chất nhân cách, có hành vi thói quen đáp ứng yêu cầu, chuẩn mực về
đạo đức, lao động, thể chất và thẩm mĩ do xã hội quy định, giúp họ có khả năng
hòa nhập và thích ứng một cách năng động, sáng tạo với cuộc sống đang đổi mới
toàn diện và sâu sắc trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì thế,
mục đích và nhiệm vụ giáo dục có vai trò định hướng cho tất cả các nhân tố khác
của quá trình giáo dục.
Để thực hiện tốt mục đích giáo dục, quá trình giáo dục phải hoàn thành các nhiệm vụ cơ bản như: -
Tổ chức hình thành và phát triển ý thức cá nhân về các chuẩn mực
xãhội nói chung các chuẩn mực đạo đức pháp luật nói riêng đã được quy định. Ý
thức cá nhân là một thể thống nhất giữa sự hiểu biết của cá nhân về các chuẩn
mực xã hội và niềm tin đối với những chuẩn mực đó: -
Tổ chức hình thành và phát triển ở học sinh những xúc cảm, tình
cảmtích cực có tác dụng như là một "chất men" đặc biệt thúc đẩy cá nhân chuyển
hóa ý thức về các chuẩn mực xã hội thành hành vi và thói quen tương ứng; -
Tổ chức hình thành và phát triển ở học sinh hệ thống hành vi phù
hợpvới các chuẩn mực xã hội đã được quy định, mặt khác còn tổ chức rèn luyện
để các em có thể tự lặp lại hệ thống những hành vi này thành thói quen bền vững
gắn bó mật thiết với nhu cầu hoạt động tích cực của cá nhân. lOMoAR cPSD| 58562220
Nhân tố mục đích và nhiệm vụ giáo dục là nhân tố có vị trí hàng đầu trong
quá trình giáo dục. Nó có chức năng định hướng cho sự vận động và phát triển
của các nhân tố khác trong quá trình giáo dục và từ đó, định hướng cho sự vận
động và phát triển của toàn bộ quá trình giáo dục. b)
Nội dung giáo dục Nội dung giáo dục quy định hệ thống những
chuẩnmực xã hội cần được giáo dục cho học sinh về các mặt giáo dục tư tưởng,
đạo đức lao động, giáo dục thể chất, thẩm mĩ, v.v... Nó tạo nên nội dung hoạt
động của nhà giáo dục cũng như nội dung tự giáo dục, tự tu dưỡng của người
được giáo dục. Nội dung giáo dục chịu sự chi phối của mục đích, nhiệm vụ giáo
dục, mặt khác, nội dung giáo dục lại chi phối việc lựa chọn và vận dụng phối hợp
các phương pháp, phương tiện giáo dục nhằm thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ giáo dục. c)
Phương pháp, phương tiện giáo dục Phương pháp, phương tiện
giáodục là những cách thức, những phương tiện hoạt động phối hợp, thống nhất
của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục, của giáo viên và học sinh nhằm giúp cho
học sinh chuyển hóa dần những chuẩn mực xã hội thành hành vi và thói quen
tương ứng. Phương pháp, phương tiện giáo dục chịu sự chi phối của mục đích,
nhiệm vụ và nội dung giáo dục. Mặt khác, phương pháp, phương tiện lại là "hình
thức về cách thức vận động bên trong của nội dung", nó giúp cho nội dung giáo
dục được chuyển hóa thành vốn kinh nghiệm riêng của người được giáo dục sao
cho phù hợp với mục đích và các nhiệm vụ giáo dục.
Như vậy, giữa mục đích, nhiệm vụ, nội dung và phương pháp, phương tiện
giáo dục có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, nó chi phối, ảnh hưởng,
hỗ trợ và phụ thuộc lẫn nhau thông qua các hoạt động giáo dục. d)
Nhà giáo dục Trong quá trình giáo dục người giáo viên và tập thể
giáoviên, với tư cách là các nhà giáo dục, các nhà sư phạm, những người được
chuẩn bị về chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, có phương pháp và nghệ thuật
giáo dục, luôn phát huy vai trò chủ đạo, tổ chức, điều khiển quá trình hình thành,
phát triển nhân cách của học sinh một cách có mục đích có kế hoạch, có phương
pháp, có tổ chức khoa học, hợp lí. Qua đó động viên, khuyến khích, làm phát triển
ở học sinh tính tự giác, tính tích cực tự giáo dục, tự hoàn thiện mình. lOMoAR cPSD| 58562220 e)
Người học sinh trong quá trình giáo dục Trong quá trình giáo dục,
người học sinh (và tập thể học sinh) vừa là đối tượng, là khách thể tiếp nhận sự
tác động có định hướng của nhà giáo dục. Những người học sinh trong quá trình
giáo dục không phải là một thực thể thụ động, trái lại họ đã tiếp thu những tác
động từ các lực lượng giáo dục khác nhau một cách chủ động tùy theo mục đích
tu dưỡng rèn luyện, tự giáo dục của bản thân họ. Điều đó cũng có nghĩa là, dưới
tác động giáo dục khách quan của nhà giáo dục, của gia đình và xã hội, mỗi học
sinh không những là khách thể mà còn là chủ thể tiếp nhận những tác động giáo
dục một cách chọn lọc, có ý thức, tự giác, tích cực nhằm biến những yêu cầu
khách quan, những chuẩn mực về đạo đức, về lao động, về thể chất và thẩm mĩ
do xã hội quy định thành hành vi, thói quen, thành lối sống văn hóa bền vững,
ổn định của cá nhân họ. Nhờ vậy, người học sinh không ngừng vận động phát
triển đi lên và nhân cách của các em ngày càng hoàn thiện.
Như vậy, với vai trò vừa là khách thể, là đối tượng đồng thời lại là một chủ
thể tự giáo dục, tự tu dưỡng, tự rèn luyện tự mình biến những yêu cầu, những
chuẩn mực do xã hội quy định thành nhu cầu phát triển chủ quan của cá nhân
mình. Hai tư cách: đối tượng giáo dục và chủ thể tự giáo dục thống nhất, tác động
qua lại, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau: Trong đó, người học sinh với tư cách chủ
thể giáo dục là cơ sở còn với tư cách đối tượng giáo dục sẽ là điều kiện cho sự
hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách.
g) Kết quả quá trình giáo dục Chất lượng và hiệu quả quá trình giáo dục
phản ánh kết quả vận động tổng hợp của tất cả các nhân tố trên đây của quá trình
giáo dục. Cụ thể là, với sự định hướng của mục đích, nhiệm vụ giáo dục, với
những yêu cầu của nội dung, với sự vận dụng phối hợp, khéo léo các phương
pháp, phương tiện và nghệ thuật kết hợp các hình thức tổ chức các loại hình hoạt
động phong phú và đa dạng, những phẩm chất, những nét tính cách, những hành
vi, thói quen về đạo đức, về lối sống tốt đẹp sẽ dần dần hình thành, phát triển và hoàn thiện.
Kết quả quá trình giáo dục được thể hiện đậm nét ở sự biến đổi về chất
trong nhân cách của người được giáo dục, đặc biệt là ý thức về các chuẩn mực xã lOMoAR cPSD| 58562220
hội đã được quy định; về sự phát triển của tình cảm, hành vi, thói quen đạo đức, thẩm mĩ,...
Những nhân tố trên đây: mục đích, nhiệm vụ giáo dục, nội dung, phương
pháp, phương tiện giáo dục, chủ thể, đối tượng và 8 kết quả giáo dục luôn tồn tại
và phát triển trong mối quan hệ tương tác, biện chứng với nhau. Các nhân tố đó
còn có mối quan hệ mật thiết với môi trường kinh tế - xã hội. môi trường chính
trị văn hóa,... với cơ chế thị trường. Sự phát triển không ngừng về mọi lĩnh vực
đời sống xã hội, những đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế tri thức trong thời
kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước luôn đặt ra những yêu cầu cao và tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhân tố vận động phát triển và ngược lại, các nhân tố
của quá trình giáo dục lại ảnh hưởng, chi phối, tác động tích cực trở lại môi trường
kinh tế, văn hóa, xã hội...
Từ sự phân tích trên đây, theo quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc thì
quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp nói riêng, quá trình giáo dục - đào tạo nói chung
tồn tại như là một hệ thống bao gồm các nhân tố cấu trúc có quan hệ mật thiết với
nhau và có quan hệ tương tác với môi trường. Sự vận động và phát triển của các
nhân tố được phản ánh trong kết quả của quá trình giáo dục.
Như vậy. quá trình giáo dục là hoạt động giáo dục và tự giáo dục một cách
có kế hoạch, có nội dung, phương pháp, phương tiện của giáo viên và học sinh
nhằm thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ giáo dục. Đó là hoạt động phối hợp, thống
nhất của chủ thể và đối tượng giáo dục nhằm biến các yêu cầu khách quan của xã
hội thành nhu cầu phát triển chủ quan của mỗi học sinh.
1.3. Quá trình lịch sử
Bước vào thế kỷ 21, hệ thống giáo dục đại học toàn cầu đang chứng kiến
sự tăng trưởng vượt bậc về quy mô, từ 14 triệu sinh viên năm 1960 lên khoảng
80 triệu sinh viên hiện nay. Vai trò của các trường đại học, đặc biệt là các đại học
nghiên cứu, đã có những thay đổi đáng kể.
Đặc trưng bởi đội ngũ chuyên gia cao cấp, hệ thống trang thiết bị nghiên
cứu hiện đại, và cơ sở dữ liệu phong phú, các đại học nghiên cứu đã trở thành lOMoAR cPSD| 58562220
những trung tâm đào tạo chuyên gia và nghiên cứu kỹ thuật mũi nhọn như công
nghệ thông tin, sinh học, vật liệu mới, và tự động hoá.
Tại các quốc gia như Mỹ và các nước ASEAN (Thái Lan, Malaysia,
Philippines), nhiều biện pháp cải cách đã được triển khai nhằm đảm bảo chất
lượng giáo dục và tăng cường khả năng cạnh tranh. Trong lịch sử, sứ mệnh của
giáo dục đại học luôn nhấn mạnh vai trò khai phá tri thức, phát triển giá trị văn
hoá và hướng dẫn xã hội.
Tuy nhiên, cho dù ở góc độ nào thì nền giáo dục đại học luôn luôn coi trọng
sứ mệnh cao cả là khai sáng, thức tỉnh, phát triển tri thức và các giá trị văn hóa,
tìm kiếm chân lý và dẫn dắt xã hội…..
Sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học một mặt bị tác động, chi phối
và một mặt khác cũng góp phần thúc đẩy của các xu hướng phát triển chung của
đời sống xã hội hiện đại. -
Quốc tế hoá (Internationalization) -
Toàn cầu hoá (Globalization) với các dòng dịch chuyển của hàng hoá, tiền
tệ,nhân lực, dịch vụ, tri thức. Các vấn đề toàn cầu như môi trường, năng lượng,
HIV, dân số, thương mại..v.v -
Những bước đột phá về KHCN: Bản đồ Gen, Trí tuệ nhân tạo,Vật liệu
thôngminh, công nghệ thông tin.. -
Kinh tế tri thức và xã hội thông tin, Thời đại mạng lOMoAR cPSD| 58562220 -
Văn hoá công nghệ, kỷ nguyên chất lượng -
Khu vực tự do thương mại: WTO, AFTA, APEC..
1.4. Xu hướng tác động đến giáo dục học
Những xu hướng lớn đang tác động đến giáo dục đại học bao gồm:
Quốc tế hoá giáo dục đại học Quốc tế hoá là xu hướng mạnh mẽ nhất, thể
hiện qua việc gia tăng số lượng sinh viên quốc tế, các chương trình liên kết đào
tạo xuyên quốc gia và hợp tác nghiên cứu toàn cầu. Các trường đại học đang mở
rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế, ký kết thỏa thuận trao đổi sinh viên và giảng
viên, và xây dựng các chương trình giảng dạy đa ngôn ngữ nhằm đáp ứng nhu
cầu học tập của người học trên toàn thế giới. Điều này giúp thúc đẩy sự giao lưu
văn hóa và nâng cao chất lượng giáo dục thông qua học hỏi các mô hình tiên tiến.
Toàn cầu hoá và thị trường tri thức Giáo dục đại học hiện nay không còn
giới hạn trong phạm vi quốc gia mà trở thành một thị trường toàn cầu. Sự di
chuyển tự do của tri thức, công nghệ và nhân lực qua biên giới đã thúc đẩy các
trường đại học định hướng hoạt động theo hướng đáp ứng yêu cầu của nền kinh
tế tri thức toàn cầu. Các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, năng lượng, y tế
công cộng đòi hỏi các trường đại học phải trở thành trung tâm nghiên cứu và cung
cấp giải pháp sáng tạo.
Đại chúng hóa và phổ cập giáo dục Giáo dục đại học đang chuyển đổi từ
giáo dục tinh hoa sang giáo dục đại chúng. Ở nhiều quốc gia như Mỹ, Nhật Bản
và Hàn Quốc, tỷ lệ sinh viên đại học trong độ tuổi 18-26 đạt từ 40-60%. Xu hướng
này thúc đẩy các quốc gia đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống cơ sở vật chất và phát
triển các loại hình trường đại học đa dạng để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng.
Đa dạng hóa loại hình giáo dục Hệ thống giáo dục đại học ngày nay bao
gồm nhiều loại hình trường với mục tiêu khác nhau, từ các đại học nghiên cứu
tập trung vào khoa học cơ bản đến các trường đại học ứng dụng chuyên về thực
hành và công nghệ. Điều này giúp sinh viên có nhiều lựa chọn phù hợp với năng
lực và nhu cầu phát triển nghề nghiệp của họ.
Tư nhân hóa giáo dục đại học Để giảm áp lực tài chính lên ngân sách nhà
nước, nhiều quốc gia đã khuyến khích sự tham gia của các tổ chức tư nhân vào lOMoAR cPSD| 58562220
giáo dục đại học. Sự phát triển của các trường đại học tư và các chương trình liên
kết với doanh nghiệp đang góp phần cung cấp nguồn lực và mở rộng khả năng tiếp cận giáo dục.
Đảm bảo chất lượng và cạnh tranh quốc tế Trong bối cảnh toàn cầu hóa,
các trường đại học đang ngày càng chú trọng đến việc đảm bảo chất lượng đào
tạo thông qua các hệ thống kiểm định độc lập và xếp hạng quốc tế. Việc tham gia
các bảng xếp hạng như QS, THE đã trở thành một thước đo quan trọng để đánh
giá uy tín và năng lực của các trường đại học.
Ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số Sự phát triển của công nghệ, đặc
biệt là trí tuệ nhân tạo, học máy và dữ liệu lớn, đang thay đổi cách giáo dục đại
học hoạt động. Các hình thức học trực tuyến, học kết hợp (blended learning) và
các nền tảng giáo dục mở đang tạo cơ hội học tập linh hoạt hơn cho sinh viên.
Các trường đại học đang đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng công nghệ để nâng cao trải
nghiệm học tập và giảng dạy.
Kinh tế tri thức và vai trò của đại học Trong nền kinh tế tri thức, các trường
đại học đóng vai trò trung tâm trong việc sản xuất, sử dụng và phân phối tri thức.
Các trường nghiên cứu hàng đầu không chỉ tập trung vào việc đào tạo mà còn
thực hiện các nghiên cứu tiên tiến nhằm tạo ra các phát minh và ứng dụng thực
tiễn. Đây cũng là cơ hội để các trường đại học gia tăng nguồn thu từ việc chuyển
giao công nghệ và cung cấp dịch vụ nghiên cứu. 2.
Giải pháp phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam trongthời gian tới
2.1. Giải pháp phát triển giáo dục đại học
Phát triển bền vững và trách nhiệm xã hội Các trường đại học ngày càng
nhận thức rõ vai trò của mình trong việc thúc đẩy phát triển bền vững và đóng
góp vào các mục tiêu phát triển chung của xã hội. Từ việc xây dựng các chương
trình giảng dạy gắn với bảo vệ môi trường đến việc tham gia giải quyết các thách
thức toàn cầu, giáo dục đại học đang khẳng định sứ mệnh cao cả của mình.
Để nâng cao chất lượng giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tình
hình mới, cần tiếp tục phát huy những thành tựu, kết quả đã được, đồng thời khắc lOMoAR cPSD| 58562220
phục những bất cập, hạn chế để giáo dục đại học xứng đáng là bậc học kiểu mẫu,
tiên phong, dẫn dắt các bậc học khác cùng nỗ lực, cố gắng, hoàn thành tốt trọng
trách, sứ mệnh mà Đảng, Nhà nước, Nhân dân giao cho. Muốn thực hiện tốt nhiệm
vụ đó cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo các
cơ quan quản lý, các cơ sở giáo dục về giáo dục đại học. Đây là giải pháp có ý
nghĩa quyết định đến việc nâng cao chất lượng giáo dục đại. Bởi, nhận thức chỉ
đạo hành động, có nhận thức đúng, sâu sắc mới có thể hành động đúng và hiệu
quả cao, làm việc có lương tâm và trách nhiệm. Chất lượng, hiệu quả giáo dục
đại học trước hết và xuyên suốt phụ thuộc vào nhận thức và trách nhiệm của các
chủ thể liên quan. Để thực hiện tốt giải pháp này, các cơ quan quản lý, các cơ sở
giáo dục đại học cần thực hiện nghiêm túc, vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo
Nghị quyết số 29-NQ/TW cũng như các chính sách mà Nhà nước đã ban hành
(Luật giáo dục đại học, Luật Giáo dục). Khẩn trương hoàn thiện và ban hành
Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm
2045, tiến đến xây dựng chiến lược, kế hoạch về phát triển giáo dục đại học Việt
Nam, trong đó xác định rõ mục tiêu, triết lí, tầm nhìn, sứ mệnh và những nguyên
tắc của giáo dục đại học.
Thứ hai, phải thay đổi triết lý giáo dục đại học. Cần chuyển nền giáo dục
lấy trang bị kiến thức làm mục tiêu chủ yếu sang một nền giáo dục dạy kỹ năng,
dạy cách tự học,... cách tư duy làm chủ yếu. Trong quy trình dạy học đó, sinh viên
đóng vai trò chủ động; giảng viên chỉ là người hướng dẫn, định hướng cho sinh
viên cách thu nhận kiến thức và hỗ trợ, giải đáp các thắc mắc khi cần thiết. Do
đó, cần phải có sự đổi mới, từ chương trình khung đến giáo trình và phương pháp
giảng dạy... để trang bị cho sinh viên cách học, cách tư duy, tạo cho người học
thói quen “hoài nghi khoa học”, năng lực phản biện các tri thức có sẵn và sáng
tạo ra những tri thức mới. Đồng thời, cũng phải thay đổi một cách căn bản hệ
thống đánh giá từ kiểm tra kiến thức sang đánh giá năng lực. Các trường đại học
phải cam kết “chuẩn đầu ra” phù hợp với yêu cầu, nhu cầu của xã hội, chứ không
phải “chuẩn đầu ra” do trường, cụ thể hơn nữa là do giáo viên tự xác định. Để
giáo dục đại học Việt Nam gắn kết với nhu cầu xã hội thì giáo dục đại học phải lOMoAR cPSD| 58562220
gắn kết chặt chẽ hơn với các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng lao động.
Thứ ba, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ làm công tác quản
lý giáo dục đại học. Đây là giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì, chất lượng
của hệ thống giáo dục đại học luôn gắn chặt với chất lượng của đội ngũ giảng
viên. Để xây dựng, phát triển đội ngũ này, cần có quy hoạch và kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng phù hợp, có chính sách thu hút các sinh viên giỏi ở lại trường làm công
tác giảng dạy. Tạo điều kiện để các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài và các
chuyên gia quốc tế tham gia vào việc giảng dạy, nghiên cứu của các trường đại
học trong nước. Bên cạnh đó, cần có những người làm công tác quản lí giáo dục
đủ tâm, đủ tầm, đủ tài để sử dụng đúng người, giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh
trong giáo dục đại học theo tinh thần dân chủ. Cải thiện chế độ, chính sách đãi
ngộ giảng viên, cán bộ quản lí giáo dục, vì đến nay, nghề giáo vẫn là nghề có thu
nhập thấp trong xã hội. Tăng cường hơn nữa công tác thông tin, truyền thông để
xã hội thấu hiểu, chia sẻ với những khó khăn, vất vả của đội ngũ nhà giáo và giữ
gìn truyền thống “tôn sư, trọng đạo” của văn hóa Việt Nam.
Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đại học và tăng cường hợp
tác, hội nhập quốc tế về đào tạo đại học, để xây dựng cơ sở hạ tầng, các thiết chế
mang tính chuyên biệt trong các trường đại học, như giảng đường; thư viện; khu
thực hành, sản xuất; không gian đổi mới sáng tạo; khu vui chơi giải trí, dịch vụ
mua sắm, ẩm thực; khu nhà ở công vụ, khu ký túc xá sinh viên, đảm bảo các
không gian đó có tính kết nối, liên thông, đồng bộ, hiện đại, tạo không gian, môi
trường học tập thuận lợi. Tăng cường khả năng kết nối, học tập, trao đổi nhóm,
kích thích khả năng sáng tạo và tinh thần chủ động, tích cực của mỗi sinh viên.
Bên cạnh đó, mở rộng mối quan hệ, giao lưu, hợp tác giữa các cơ sở giáo dục đại
học trong và ngoài nước, tạo cơ hội để sinh viên tham gia các chương trình trao
đổi nghiệp vụ, chuyển giao tri thức, kinh nghiệm hoặc du học tại chỗ. Đồng thời
tăng cường kết nối với các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để xây dựng chương trình đào tạo đáp ứng nhu
cầu của xã hội, đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp, từ đó nâng cao tay
nghề, trình độ và mở rộng cơ hội việc làm, thu nhập cho sinh viên. lOMoAR cPSD| 58562220
Thứ năm, gắn đào tạo với nhu cầu xã hội - tập trung đầu tư xây dựng một
số trung tâm phân tích, dự báo nhu cầu nhân lực nhằm cung cấp số liệu và cơ sở
khoa học cho việc hướng nghiệp, xây dựng chương trình, lập kế hoạch đào tạo
nghề nghiệp. Trong năm 2009 sẽ xây dựng hai trung tâm quốc gia đặt tại Bộ Giáo
dục và Đào tạo và Bộ Lao động, Thương binh & Xã hội với sự hỗ trợ kỹ thuật
của các đại học quốc tế có uy tín và kinh nghiệm.
Nhằm thực hiện có hiệu quả việc cung cấp nhân lực trực tiếp cho các doanh
nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng và
thực hiện chương trình đào tạo, quy định trách nhiệm và cơ chế phù hợp để mở
rộng các hình thức hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo, sử
dụng nhân lực và nghiên cứu chuyển giao công nghệ, khuyến khích mở các cơ sở
giáo dục đại học trong các doanh nghiệp lớn
Thứ sáu, thể chế hóa vai trò, trách nhiệm và quyền lợi của các tổ chức, cá
nhân và gia đình trong việc giám sát và đánh giá giáo dục, phối hợp với nhà
trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.
Xây dựng cơ chế học phí mới nhằm đảm bảo sự chia sẻ hợp lý giữa nhà
nước, người học và các thành phần xã hội. Đối với giáo dục mầm non và phổ
thông ở các trường công lập, ngân sách nhà nước là nguồn tài chính chủ yếu để
đảm bảo chi phí của quá trình đào tạo. Đối với giáo dục nghề nghiệp và đại học
ở các trường công lập, người học có trách nhiệm chia sẻ một phần quan trọng chi
phí đào tạo. Các cơ sở giáo dục đào tạo ngoài công lập phải tuân thủ các quy định
về chất lượng của Nhà nước và tự quyết định mức học phí. Khen thưởng, tôn vinh
các nhà hảo tâm, doanh nghiệp đó đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp giáo dục và
đào tạo. Hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong nghiên cứu và đào tạo.
Thứ bảy, Nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học ưu tiên đầu tư cho các
trường đại học định hướng nghiên cứu, tạo điều kiện phát triển các dự án khoa
học công nghệ lớn. Tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, xây
dựng các mạng lưới nghiên cứu đa quốc gia. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
vào các dự án nghiên cứu và đổi mới sáng tạo trong trường đại học