lOMoARcPSD| 58562220
LỚP NVSP CAO ĐẲNG – ĐẠI HỌC K5-
2023 TĐT
Chuyên đề thi: Giáo dục đại học Thế giới và Việt Nam
Đề bài: Phân tích các giải pháp phát triển giáo dục đại học
Việt Nam. Liên hệ việc thực hiện các giải pháp này tại cơ
sở giáo dục mà anh (chị) đang công tác.
Họ và tên: Nguyễn Thị Xuân An
Ngày sinh: 31/7/1989
Nơi sinh: Long An
STT: 01
Năm 2023
lOMoARcPSD| 58562220
TRƯỜNG ĐHSP HÀ NỘI 2 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VIỆN NCSP Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÀI THI HẾT HỌC PHẦN
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
{
* Giảng viên: TRẦN THANH TÙNG - Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2
* Sinh viên: NGUYỄN THỊ XUÂN AN
Ngày sinh: 31/7/1989 Nơi sinh: Long An STT: 01
Lớp: NVSP.K05 Đại học Tôn Đức Thắng
Đề tài:
Anh (chị) hãy phân tích các giải pháp phát triển giáo dục đại học Việt Nam.
Từ đó, liên hệ việc thực hiện các giải pháp này tại sở giáo dục anh
(chị) đang công tác.
lOMoARcPSD| 58562220
Bài làm
I. Đặt vấn đề
Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, nền kinh tế tri thức với vai trò rất
quan trọng trong việc quyết định sự phát triển kinh tế đang khiến cho tất cả các
quốc gia đặt chiến lược con người trở thành mục tiêu hàng đầu. Cùng với sự
phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, các quốc gia đang phải đối
mặt với rất nhiều cơ hội và thách thức do toàn cầu hóa mang lại. Do đó, nguồn
nhân lực đã tr thành một tài sản quý nhất, quan trọng nhất và quyết định nhất
cho sự tồn tại phát triển của bất kỳ một quốc gia nào. Khi “tri thức đã
đang tr thành một nguồn lực kinh tế chủ yếu của lợi thế cạnh tranh” thì nhiều
quốc gia coi đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo là chiến lược sống còn trong
chiến lược phát triển của mình. Đảng Nhà nước ta luôn đề cao vai trò của
giáo dục và đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học.
II. Thực trạng giáo dục đại học Việt Nam trong hội nhập quốc tế
Từ Cách mạng tháng Tám đến nay, nước ta đã tiến hành nhiều cuộc cải
cách giáo dục vào các năm: 1950, 1956, 1979 2002, nhưng về bản đều
tập trung vào giáo dục phổ thông. Trong khi đó, đào tạo đại học mới thực sự là
lĩnh vực cần cải cách mạnh mẽ nhất vì đó những nơi chịu trách nhiệm cuối
cùng của hệ thống giáo dục đđưa sản phẩm ra hội. Giáo dục đại học hai
nhiệm vụ đào tạo nhân lực trình độ cao nghiên cứu khoa học phục vphát
triển kinh tế - hội. Tuy nhiên, việc thực hiện cả hai nhiệm vụ này các
trưng đại học hiện nay còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi
của các trưng tương đối cao nhưng khả năng hòa nhập của nhân lực được đào
tạo vào thị trưng lao động còn hạn chế. Những nguyên nhân cơ bản khiến giáo
dục Việt Nam có nguy cơ không theo kịp trình độ phát triển của hệ thống giáo
dục các quốc gia phát triển trên thế giới, bao gồm:
Thứ nhất, chương trình giáo trình giảng dạy chưa được tiêu chuẩn hóa
và công nhận trên phạm vi quốc tế. Điều y dẫn đến chỗ bằng cấp của nước ta
cũng chưa được thế giới công nhận về chất lượng, sinh viên khó tham gia các
chương trình trao đổi giao lưu với trưng đại học trên thế giới hoặc chuyển
lOMoARcPSD| 58562220
ngang sang học tiếp tại các trưӡng đại học quốc tế hoặc xét học tiếp cấp đ
cao hơn (thạc sĩ, tiến sĩ) đối với các sinh viên đã tốt nghiệp trong nước.
Thứ hai, chưa một bộ quy tắc chuẩn mực và đầy đủ để đánh gchất
lượng đào tạo, tiêu cxếp loại các tng, các ngành học để các quốc gia khác
dựa vào đó hợp tác làm việc với các trưng trong nước. Bệnh thành tích
nguy cơ quay tr lại. Hệ thống thi cử đánh giá thực lực khả năng của học sinh
còn bất cập; điều đó khiến học sinh học lệnh, học tủ, quay cóp, dạy học thêm;
làm mất nhiều thi gian của hội. Chưa có một hệ thống kiểm định hoàn chỉnh
nên công tác đánh giá chất lượng giáo dục đào tạo thiếu tính khoa học, nặng
cảm tính. Những bất cập này đã gây khó khăn không chỉ cho ngưi học khi lựa
chọn sai môi trưng, còn không tạo được yếu tố cạnh tranh cần thiết để phát
triển.
Thứ ba, chính sách đầu vào của các trưng đại học phạm chưa cao,
chất lượng đào tạo chưa được những ưu tiên về mọi mặt, chính sách lương
bổng của giáo viên còn chưa đsức đthu hút nhân tài. Hệ thống các phòng thí
nghiệm, nghiên cứu còn quá nghèo nàn, không hút được các nhà nghiên cứu
khoa học trẻ.
Trong thi gian qua, nhiều học sinh trung học phổ thông có học lực xếp
loại giỏi không mấy “mặn mà” với ngành phạm trước hết bi hội tìm
việc làm sau khi ra tng đã đang tr nên khó khăn. Đây cũng hquả
của việc tuyển sinh tràn lan, thiếu sự tính toán. Số lượng giáo viên hiện nay đã
không còn trong tình trạng thiếu trầm trọng như nhiều năm trước. Hiện tượng
“bão hòa” về nhu cầu tuyển dụng giáo viên bắt nguồn từ việc “cungvượt
“cầu”. Tình trạng trên khá phổ biến các vùng đồng bằng, nhất vùng thành
phố, thị xã. Sau 4 năm miệt mài học tập, ra trưng, cầm trên tay tấm bằng đại
học, nhiều sinh viên phạm cảm thấy hoang mang về tương lai của mình. Một
bộ phận trong số này đã phải chuyển sang làm nghề khác, gây lãng phí không
nhỏ về kinh phí đào tạo và thi gian học tập của sinh viên.
Bên cạnh đó, mặc lao động phạm loại hình lao động nhiều nét
đặc thù, nghề giáo viên vẫn được xem là “nghề cao quý nhất”, nhưng so với
nhiều ngành nghề khác, chế độ lương bổng phcấp của giáo viên vẫn còn thấp.
lOMoARcPSD| 58562220
Đồng lương eo hẹp khiến nhiều giáo viên không yên tâm công tác, phải “chân
trong, chân ngoài” vất vả mưu sinh. Điều này đã tác động không nhỏ đến sự
định hướng của phụ huynh việc chọn trưng dự thi của học sinh. Nhất
trong thi điểm hiện nay, việc chọn trưng dự thi đối với những học sinh thực
sự có năng lực đã tr nên thực dụng hơn.
Thứ , chưa các cơ quan, tổ chức trung gian khách quan làm việc độc
lập với các quan quản nhà nước về giáo dục để có các ý kiến phản biện,
kịp thi chấn chỉnh cũng như góp ý thực smang tính khoa học, tác dụng
vấn, khuyến nghị cho các dự thảo cải cách giáo dục. Trong nhiều năm qua, giáo
dục và đào tạo gặp khó khăn nhiều nhất trong việc đánh gkiểm tra do
chúng ta cứ luẩn quẩn với cách đánh giá truyền thống, nêu thành tích, ít tìm ra
nguyên nhân tồn tại của chính mình. Do vậy, hàng năm mỗi trưng đều rất
nhiều loại tổng kết, báo o nhưng vẫn không tìm ra nguyên nhân của yếu kém,
lạc hậu. Chất lượng đầu ra (chất lượng sinh viên tốt nghiệp) cũng như chất
lượng đào tạo của hệ thống chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế
hội chưa đáp ứng được sự kỳ vọng của ni sử dụng các dịch vụ các
trưng đại học cung cấp
Kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra
Sau hơn 8 năm thực hiện chủ trương đổi mới, giáo dục đại học Việt
Nam đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Trước hết, Việt Nam đã từng
bước thể chế hóa các quan điểm, nội dung của Nghị quyết s29-NQ/TW về đổi
mới giáo dục thành chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cụ thể, trong hai năm
2018 2019, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học
(năm 2018) Luật Giáo dục (năm 2019) do Bộ Giáo dục và Đào tạo soạn thảo
đã được Quốc hội thông qua từng bước đi vào cuộc sống, tạo hành lang pháp
cho các hoạt động đổi mới giáo dục đại học. Các sở giáo dục đại học được
trải rộng khắp các miền đất nước, tạo điều kiện nâng cao tính công bằng trong
việc tiếp cận loại hình giáo dục đại học của người dân.
Về công tác quản trị, điều hành hệ thống giáo dục đại học, Việt Nam đã
từng bước tăng cường quyền tchủ của các trường đại học. Chất lượng giáo
dục đại học từng bước được nâng lên và tiếp cận các chuẩn mực quốc tế. Năm
2019, giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới (tăng 12
lOMoARcPSD| 58562220
bậc so với năm 2018). Năm 2020, lần đầu tiên Việt Nam 3 trường đại học
được xếp trong nhóm 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới (Đại học Quốc gia
Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh Trường Đại học Bách
khoa Nội); 8 trường đại học của Việt Nam đã được đưa vào danh sách các
trường đại học hàng đầu châu Á. Năm 2019, tổng số bài báo khoa học của Việt
Nam được công bố trên hệ thống ISI/ Scopus 12.475 bài, đứng thứ 49 trên
thế giới (tăng 2,7 lần so với năm 2015). Tính đến năm 2020, tỷ lệ giảng viên có
chức danh giáo sư, phó giáo sư trong toàn bộ hệ thống giáo dục Việt Nam
6%, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ là 22,7%.
Trong các trường đại học, việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển
đổi số từng bước được triển khai phục vụ cho công tác dạy học. Năm học
2020 - 2021, trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, khó lường, tất
cả các trường đại học đã tiến hành dạy trực tuyến, nhờ đó, việc dạy và học vẫn
được bảo đảm chất lượng và kết thúc đúng thời hạn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, giáo dục đại học Việt Nam vẫn
còn những hạn chế. Nhìn chung, giáo dục đại học vẫn tụt hậu so với các nước
trong khu vực thế giới; phát triển chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ
chưa đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Đại hội XIII của Đảng nhận định:
“Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế, xã hội”. Vấn đề đặt ra hiện nay là, những hạn chế, yếu kém phải được
nhận thức sâu sắc để từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục nhằm đưa giáo dục
đại học Việt Nam lên một tầm cao mới.
Thứ nhất, các trường đại học Việt Nam thường được tổ chức theo hệ
thống đại học chuyên ngành, như Đại học Thủy lợi, Đại học Y, Đại học Dược,
Đại học Kinh tế tài chính, Đại học Ngoại thương... Mặc đã bắt đầu mở đa
ngành, nhưng vbản, đây vẫn là đại học chuyên ngành. Chương trình giáo
dục vẫn “nặng” về lý thuyết, “nhẹ” về thực hành và vận dụng kiến thức.
Thứ hai, chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo còn thấp so với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thiếu sự gắn kết với thị trường lao
động. Hiện nay, nhiều trường đại học mới chỉ cung cấp những gì mình có, chứ
chưa phải những hội cần. Đó một trong những do khiến năm 2020,
Việt Nam 225.000 cử nhân, kỹ sư, thạc tốt nghiệp ra trường nhưng chưa
lOMoARcPSD| 58562220
tìm được việc làm, hoặc chấp nhận làm không đúng nghề nghiệp được đào tạo,
gây ra một sự lãng phí rất lớn.
Thứ ba, về phương pháp và hình thức dạy học, nhiều trường đại học chưa
tiếp cận phương pháp “lấy người học làm trung tâm”, người thầy vẫn đóng vai
trò chủ đạo, người học vẫn rất thụ động và sự tương tác giữa thầy và trò không
nhiều. Tình trạng “quá tải” về kiến thức và thay đổi giáo trình liên tục cũng
hậu quả của cách dạy thiên về cung cấp kiến thức cụ thể, trong khi những kiến
thức này không ngừng được bổ sung. Tính chủ động của sinh viên chưa được
phát huy; phương pháp giáo dục, kiểm tra đánh giá còn lạc hậu, thiếu thực
chất; việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc chưa được chú trọng
đúng mức... Đây điểm chưa hợp lý, bởi mục tiêu của giáo dục phổ thông và
giáo dục đại học là khác nhau.
Thứ tư, giáo dục đại học Việt Nam tương đối “khép kín”, chưa tạo được
sự liên thông giữa các chuẩn mực giáo dục đại học trong nước và quốc tế. Ngay
cả trong nước, mặc dù được đặt dưới sự quản lý chung của Bộ Giáo dục Đào
tạo nhưng trên thực tế khả năng liên thông kiến thức giữa các sở giáo dục
đại học vẫn còn hạn chế. Các trường đại học và các chuyên ngành ít thừa nhận
kết quả đào tạo của nhau nên người học gặp nhiều khó khăn khi chuyển trường,
chuyển ngành học. Việc liên thông kiến thức giữa cơ sở giáo dục đại học trong
nước và nước ngoài lại càng khó khăn hơn do có sự khác biệt về mục tiêu, nội
dung phương pháp đào tạo (trừ các chương trình liên kết quốc tế theo thỏa
thuận).
Thứ năm,đã có chuyển biến trong thời gian gần đây nhưng số lượng
các công bố quốc tế của các trường đại học Việt Nam vẫn n thua kém nhiều
nước trong khu vực. Việt Nam hiện khoảng 9.000 giáo sư phó giáo sư,
24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ, nhưng số lượng công bố quốc tế còn khá
hạn chế, chỉ số ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu khoa học của Việt
Nam cũng thấp hơn so với một số nước trong khu vực, như Thái Lan, Malaysia,
Singapore...
Thứ sáu, tự chủ đại học dù đã trở thành chủ trương lớn nhưng việc phân
định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các trường đại học còn
chưa rõ ràng.
lOMoARcPSD| 58562220
Hạn chế của giáo dục đại học Việt Nam n thể hiện qua một số vấn đ
khác, như xu hướng thương mại hóa giáo dục, thiếu cơ sở vật chất, sự đãi ngộ
chưa thỏa đáng đối với những người làm công tác giáo dục đại học...
III. Một số giải pháp phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam
Quá trình toàn cầu hóa đã thúc đẩy cuộc chạy đua phát triển nguồn nhân
lực tại các quốc gia, khu vực trên thế giới. Toàn cầu hóa đã làm cho các nền
kinh tế phát triển nhanh chóng hơn và tr thành một thị trưng toàn cầu, tương
tác phụ thuộc lẫn nhau, cạnh tranh gay gắt với nhau. Việc hội nhập quốc tế
sẽ tạo điều kiện và thúc đẩy việc thiết lập cơ cấu lao động theo định hướng thị
trưng, đó cần những lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, trong
khi những lao động không có chuyên môn kỹ thuật phải được cắt giảm. Ni
lao động nếu không tích cực cập nhật cái mới, học tập nâng cao trình độ, chuyên
môn nghiệp vụ thì sẽ bị đào thải khỏi môi trưng làm việc chuyên nghiệp.
Do đó, để tham gia vào quá trình hội nhập giáo dục toàn cầu, trước mắt
hệ thống giáo dục đại học nước ta cần thực hiện được các giải pháp sau:
1. Xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục
Mục đích của việc xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục là
hàng năm đánh giá, xếp hạng các trưӡng đại học tại Việt Nam; qua đó, chính
thức hóa các tiêu chí lựa chọn xếp hạng các tng đại học. Sự xếp hạng
cũng cần dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau như trưӡng chất lượng đào tạo
tốt nhất, trưng có các đề tài nghiên cứu có tính ứng dụng trong thực tế tốt nhất,
trưng quan quản sinh viên tốt nhất… Việc kiểm định này cần giao
cho một tổ chức độc lập nằm ngoài Bộ Giáo dục Đào tạo để đảm bảo tính
khách quan. Định kỳ 2 năm một lần việc đánh giá, xếp hạng được thực hiện dựa
trên kết quả kiểm soát quá trình đánh giá tổng thể, kết quả xếp hạng được
công bố rộng rãi trên các kênh thông tin đại chúng. Kết quả xếp hạng cho biết
chất lượng uy tín của các cơ sӣ giáo dục đại học, căn cứ để các trưng đại
học tổ chức quốc tế tham khảo về hệ thống giáo dục đại học Việt Nam; t
đó, tạo hội giao lưu hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao trên bình diện quốc tế.
lOMoARcPSD| 58562220
Đồng thi, cần xây dựng chế đánh gchất lượng đào tạo qua khả
năng hòa nhập của nhân lực được đào tạo vào thị trưng lao động. Muốn thực
hiện điều này, các quan quản nnước vgiáo dục cần sự phối hợp
chặt chẽ với quan sử dụng nhân lực và các doanh nghiệp. Để hướng đến một
nền giáo dục chất lượng chuyên nghiệp, ngành giáo dục cần khẩn trương
hoàn thiện chế, bộ tiêu chuẩn chất lượng; đồng thi chú trọng đào tạo các
chuyên gia, kiểm định viên không chỉ giỏi chuyên môn n là vị “quan tòa”
liêm chính, chuyên gia vấn, sẵn sàng giúp các s giáo dục giải quyết
khó khăn.
2. Quảng bá hình ảnh, uy tín cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam
Tổ chức các triển lãm giáo dục hàng năm cuộc biểu dương lực lượng
của ngành giáo dục. Điều đó giúp các học sinh nắm được đầy đủ thông tin về
các trưng mình dự kiến thi, s để các trưng tạo nguồn sinh viên chất
lượng trong tương lai. Để giúp cơ quan quản lý nhà nước về cải cách giáo dục
cần thành lập một Hội đồng cố vấn giáo dục gồm cả c chuyên gia giáo dục
quốc tế các nước phát triển. Các chuyên gia này thể giúp Việt Nam tiến
nhanh hơn vào quá trình hội nhập giáo dục quốc tế thông qua những kiến thức
kinh nghiệm của họ. Mặt khác, cần khuyến khích các trưng m rộng các
chương trình liên doanh, liên kết đào tạo, đsinh viên thể học ngay tại trong
nước lấy bằng nước ngoài, hạn chế việc chảy ngoại tệ ra nước ngoài để học tập.
Để đáp ứng yêu cầu hội nhập, cần nâng cao trình đtiếng Anh cho giảng
viên và sinh viên Việt Nam. Muốn thực hiện được cần có chính sách thu hút
ưu đãi vđịa điểm, điều kiện s vật chất để mi các tổ chức hàng đầu về
giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên. Đây sẽ là nơi đào tạo nguồn cho các sinh
viên có thể tham gia các khóa giao lưu tại nước ngoài.
3. Tăng cường giao quyền tự chủ cho các trường đại học
Chức năng bản trong quản nhà nước của Bộ Giáo dục Đào tạo
thực hiện việc định hướng phát triển, tạo lập khung pháp kiểm tra, thanh
tra, giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trưng cạnh tranh lành mạnh trong
giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, thực tế việc thực hiện các chức năng này lại có
xu hướng sa đà các công việc cụ thể, làm thay công việc vốn thuộc trách nhiệm
lOMoARcPSD| 58562220
của từng trưng đại học, làm thui chột sức sáng tạo tính năng động vốn
của các trưng đại học. Việc quản theo kiểu “cầm tay, chỉ việc” đối với các
trưng đại học dẫn tới biên chế tăng liên tục mà kết quả, mục tiêu cải cải giáo
dục chưa đạt được. Quản lý các trưng đại học mang tính “xin - cho” gây ra s
thiếu minh bạch, thiếu công bằng trong giáo dục. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào
tạo cần làm đúng chức năng quản nhà ớc của mình, giao quyền tự chủ đầy
đủ và tự chịu trách nhiệm cho các trưng đại học. Đổi mới tư duy giáo dục đại
học trong quản nhà nước để tiến đến trao quyền tự chủ, gắn với tự chịu trách
nhiệm cao của các tng đại học chính động lực của phát triển. Đó yêu
cầu tất yếu tchính các tng đại học trong cả nước hiện nay, như quyền tự
chủ tài chính, nhân sự, công tác tuyển sinh và nhất là xây dựng chương trình.
Với chủ trương “đào tạo theo nhu cầu” thì việc xây dựng chương trình
phải xuất phát từ nhu cầu của hội. Chỉ như vậy, các tng đại học mới
có thể tự quyết định trong đầu tư cơ s vật chất và chuyên môn hóa sâu về lĩnh
vực đào tạo của mình. các tng phổ thông có thể dùng chung một chương
trình, một bộ sách giáo khoa, một phương thức đào tạo; còn mỗi trưng đại
học những đặc thù riêng. Mỗi trưng đại học một trung tâm ttuệ, hiểu
biết sâu về lĩnh vực đào tạo của mình, thấu hiểu nhất các vấn đề của nội bộ nhà
trưng. Nhà trưng nơi hiểu biết cập nhật nhanh nhất các thông tin
trong lĩnh vực chuyên môn mà họ đào tạo. Họ cần được trao quyền tự chủ đầy
đủ để phát huy cao nhất tính năng động và sáng tạo của tập thể nhà trưng, để
các hoạt động của nhà trưng đạt được hiệu quả cao. Sự quản lý nhà nước của
Bộ Giáo dục và Đào tạo không can thiệp quá sâu vào các công việc cụ thể của
trưng. Từng trưng đại học phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về các hoạt động
của mình theo đúng luật pháp chịu sự kiểm tra, thanh tra của Bộ Giáo dục
và Đào tạo và sự giám sát của ngưi dân.
4. Nâng cao trình độ quản của người đứng đầu sở giáo dục đại
học
Trong các s giáo dục đại học, lãnh đạo không chỉ cần giỏi về chuyên
môn, còn cần phải tâm, tầm, phải tạo được sự ủng hcủa cấp trên, tạo
được niềm tin của cấp dưới và phải thực sự dũng cảm trong thực hiện cải cách
giáo dục. Để thực hiện điều đó, ngưi đứng đầu cần có tư duy đổi mới, nhất là
lOMoARcPSD| 58562220
trong việc thu hút tìm kiếm nguồn nhân lực giảng viên theo nguyên tắc “việc
tìm ngưi” thay cho nguyên tắc “ngưi tìm việc” nhằm đảm bảo được đội ngũ
giảng viên có chất lượng cao.
Để thực hiện được điều đó, pháp luật phải quy định chặt chẽ tiêu
chuẩn ngưi đứng đầu. Điều kiện tiên quyết trong tiêu chuẩn ngưi đứng đầu
là phải có tri thức sâu rộng về quản lí giáo dục. Kiến thức và tầm nhìn về quản
giáo dục của ngưi đứng đầu s giáo dục phải được đặt lên hàng đầu trong
tiêu chí lựa chọn. Chính sự yếu kém về nhận thức dẫn đến sự yếu kém trong
công tác chỉ đạo, ra quyết định, sự lúng túng trong công tác qui hoạch cải cách
giáo dục của nước ta trong thi gian qua. Mặt khác, ngưi đứng đầu phải biết
lắng nghe, biết tập hợp sức mạnh khoa học từ những nhà chuyên môn về giáo
dục, về quản lí hành chính, thống nhất trong công tác qui hoạch và quyết đoán
trong công tác xây dựng, kiến thiết, quản lí, vận hành sgiáo dục đại học.
Đồng thi, cần phải quy định nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ báo cáo, giải
trình, trách nhiệm của ni đứng đầu và kèm theo cơ chế kiểm soát hiệu quả
để hạn chế tình trạng lạm quyền của cá nhân ngưi có trách nhiệm. Đó là việc
quy định quy trình bổ nhiệm hoặc thi tuyển ngưi đứng đầu thật chặt chẽ;
quy định nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ báo cáo, giải trình, trách nhiệm của
ngưӡi đứng đầu, đảm bảo chế giám sát, kiểm tra, xử với các vi phạm
của ngưi đứng đầu.
IV. GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC CẢI CÁCH GIÁO DỤC TẠI TRƯỜNG
ĐẠI HỌC VINH
Trường Đại học Vinh tiền thân là Trường Đại học Sư phạm Vinh -
sở đào tạo phạm chủ chốt uy tín trong cả nước, đã cung cấp hàng chục
nghìn giáo viên các cấp, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển giáo dục
đào tạo của đất nước. sở giáo dục đại học đa ngành nhưng trường luôn
lấy chất lượng đào tạo giáo viên làm nòng cốt để nâng cao chất lượng đào tạo
các ngành ngoài sư phạm. Trường đã quán triệt và thực hiện có hiệu quả Nghị
quyết số 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa hội nhập quốc
tế.
lOMoARcPSD| 58562220
1. Đào tạo giáo viên trong giai đoạn mới
Trên thế giới, đào tạo giáo viên trong trường đại học đa ngành là mô hình
phbiến ở đa số các nước phát triển như: Hoa kỳ, Anh, Pháp, Hà Lan, Nhật Bản,
Hàn quốc,... hình này tận dụng được thế mạnh của các ngành khoa học giáo
dục, vừa tận dụng được thế mạnh của các ngành khoa học cơ bản, khoa học ứng
dụng; bổ sung cho nhau, tối ưu hoá được nguồn nhân lực đa dạng và phong phú
của các trường đại học đa ngành trong đào tạo giáo viên.
Từ năm 2017, Trường Đại học Vinh đã ến hành tái cấu trúc, thành lập các
viện đào tạo, trong đó Viện phạm Tnhiên Viện phạm hội.
hình hoạt động của các viện này đã khẳng định ưu thế, tạo điều kiện thuận lợi
cho các ngành phát triển, tăng cường nh tự ch, giải phóng các nguồn lực, thực
hiện tốt chủ trương cải ch hành chính, nh giản biên chế của Đảng Nhà nước
hiện nay. Mô hình trên cũng cho thấy sự cần thiết tái cấu trúc mạnh mẽ hơn nữa
để Trường Đại học Vinh một trường phạm, phát huy hết được năng lực,
chất lượng đội ngũ truyền thống đào tạo. Đồng thời cũng hội để có thể
đầu tư, phát triển các ngành đào tạo sư phạm của nhà trường.
Ngày 21/7/2021, Hội đồng trường Trường Đại học Vinh đã ban hành
Nghị quyết số 11/NQ-HĐT về việc thành lập Trường phạm thuộc Trường
Đại học Vinh - được đánh giá một bước tiến quan trọng trong chiến lược phát
triển của Tờng Đại học Vinh (Nghệ An) hướng tới xếp hạng tốp 500 đại học
hàng đầu châu Á. Việc thành lập Trường phạm cũng nhằm cải ến hình
đào tạo giáo viên từ năm 2021, phát triển hơn nữa ngành sư phạm đáp ứng yêu
cầu đổi mới giáo dục hiện nay, giữ vững thương hiệu đào tạo phạm, khẳng
định vị thế của Trường Đại học Vinh trong lĩnh vực đào tạo phạm, góp phần
nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, kỹ năng thực hành phạm cho sinh viên,
đưa chương trình đào to của nhà trường đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục đại
học Việt Nam, ngang tầm với khu vực và quốc tế, trước mắt phù hợp với chương
trình đào tạo theo ếp cận CDIO, đáp ứng chuẩn đầu ra và yêu cầu của xã hội đi
với ngành sư phạm
2. Những cải tiến nổi bật về chương trình đào tạo
Tnăm 2017, Trường Đại học Vinh đã triển khai Đề án y dựng phát
triển chương trình đào tạo ếp cận CDIO. Lần đầu ên cũng là cơ sgiáo dục
lOMoARcPSD| 58562220
đại học đầu ên của cả ớc. Trường Đại học Vinh triển khai phát triển ếp cận
CDIO cho các ngành đào tạo giáo viên cho thấy sự quyết tâm mạnh mẽ của Nhà
trường trong việc cải ến chương trình đào tạo, đáp ứng yêu cầu xã hội và đáp
ứng yêu cầu thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông 2018.
Năm 2021, Trường phạm được thành lập với chức ng chính đào to
trình độ đại học và sau đại học các ngành đào tạo giáo viên, cán bộ quản lý giáo
dục cho các bậc học và nhân lực chuyên n nghiệp vụ khác cho ngành giáo dục.
Ngay khi mới ra đời, từ khóa 62 (tuyển sinh năm 2021), Trường Sư phạm đã ếp
tục cải ến chương trình đào tạo theo hướng ếp cận năng lực đáp ứng yêu cầu
nâng cao ng lực của đội ngũ giáo viên cán bộ quản lý giáo dục của các trường
phổ thông thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông 2018.
Trường đã đưa các học phần dạy học dự án vào các chương trình đào tạo.
Chương trình mỗi ngành phạm 7 học phần dự án được phân bổ trong 8 học
kỳ/4 năm học từ năm thứ nhất đến năm cuối, trong đó 4 học phần khoa học
giáo dục 3 học phần khoa học bản. Sinh viên sđược ếp cận trường phổ
thông và chủ động trong việc tchức học tập ngày từ học kỳ đầu ên và thực tp
nghề nghiệp học kỳ cuối cùng. Ngoài ra việc cải ến chương trình đào tạo, gắn
dạy học dự án với nghiên cứu khoa học, chính sách đối với giảng viên và sinh viên
phạm cũng được Trường chú trọng tạo nên luồng không khí mới trong công
tác đào tạo giáo viên của Trường Đại học Vinh.
Các chương trình đào tạo của Trường phạm đã sẽ được kiểm định
theo chuẩn Quốc tế và chuẩn quốc gia. Trong số 14 ngành đào tạo sư phạm, 1
ngành (Sư phạm Toán học) đã được kiểm định và đạt êu chuẩn theo êu chuẩn
Quốc tế (AUNQA), 3 ngành (Sư phạm Hoá học, Giáo dục Mầm non, Giáo dục
Tiểu học) đã được kiểm định và đạt ểu chuẩn Quốc gia.
3. Ký kết thoả thuận hợp tác với các trường phổ thông vệ tinh
Nhằm thúc đẩy sự phát triển góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục đào tạo nguồn nhân lực cho hội; tạo điều kiện để đội ngũ nhà giáo
phát huy sức mạnh nội lực, sáng tạo trong nghề nghiệp, sẵn sàng đáp ứng
Chương trình giáo dục phổ thông, Trường Đại học Vinh ký kết hợp tác với các
trường phổ thông, xem các trường phổ thông là vệ tinh của Nhà trường.
lOMoARcPSD| 58562220
Theo thỏa thuận hợp tác, Trường Đại học Vinh sẽ chuyển giao các sản
phẩm nghiên cứu, chia sẻ kinh nghiệm về các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên, cụ thể: Các sản phẩm nghiên cứu miễn phí phục vụ đào tạo trong
khuôn khổ chương trình ETEP do Trường Đại học Vinh thực hiện hàng năm từ
2018 đến năm 2022; Cử chuyên gia vấn chia sẻ kinh nghiệm đào tạo về
Chương trình giáo dục phổ thông 2018, vấn các knăng dạy học và kiểm tra
đánh giá theo tiếp cận năng lực, tư vấn các hoạt động đào tạo...
Nhà trường cũng sẽ tài trợ cho các trường vệ sinh một số khóa học phát
triển chuyên môn nghề nghiệp cho giáo viên (bồi dưỡng về kỹ năng phạm
để thực hiện các hoạt động thực hành cũng như giảng dạy trực tuyến; tập huấn
về ICT; chuyển giao một số sản phẩm phục vụ đào tạo trực tuyến, đào tạo kết
hợp; bồi dưỡng nâng cao năng lực tiếng Anh cho học sinh và giáo viên).
Các trường phổ thông vệ tinh sẽ trách nhiệm hỗ trợ Trường Đại học
Vinh thực hiện các nhiệm vụ trong đào tạo giáo viên như: Thực tập, thực tế, trải
nghiệm sáng tạo...; lấy ý kiến các n liên quan nhằm thực hiện Kế hoạch chiến
lược phát triển nhà trường; tham vấn ý kiến để thực hiện các nhiệm vụ nghiên
cứu khoa học, phát triển chương trình đào tạo chương trình bồi dưỡng
liên quan đến trường phổ thông; phối hợp thực hiện các hoạt động phát triển kỹ
năng nghề nghiệp.
V. Kết luận
Giáo dục là một lĩnh vực hết sức quan trọng và cần thiết trong quá trình
xây dựng và đổi mới nước nhà. Do đó để nền giáo dục nước nhà phát triển phù
hợp yêu cầu xây dựng đất nước và xu thế hội nhập thì cần thực hiện nhiều cải
cách, đặc biệt trong tưởng, duy giáo dục. Điều đó còn phụ thuộc vào
các cấp chính quyền, lãnh đạo, cũng như cần đến sự quan tâm của toàn xã hội.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58562220
LỚP NVSP CAO ĐẲNG – ĐẠI HỌC K5- 2023 TĐT
Chuyên đề thi: Giáo dục đại học Thế giới và Việt Nam
Đề bài: Phân tích các giải pháp phát triển giáo dục đại học
Việt Nam. Liên hệ việc thực hiện các giải pháp này tại cơ
sở giáo dục mà anh (chị) đang công tác.
Họ và tên: Nguyễn Thị Xuân An Ngày sinh: 31/7/1989 Nơi sinh: Long An STT: 01 Năm 2023 lOMoAR cPSD| 58562220
TRƯỜNG ĐHSP HÀ NỘI 2
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VIỆN NCSP
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÀI THI HẾT HỌC PHẦN
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM {
* Giảng viên: TRẦN THANH TÙNG - Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2
* Sinh viên: NGUYỄN THỊ XUÂN AN
Ngày sinh: 31/7/1989 Nơi sinh: Long An STT: 01
Lớp: NVSP.K05 Đại học Tôn Đức Thắng Đề tài:
Anh (chị) hãy phân tích các giải pháp phát triển giáo dục đại học Việt Nam.
Từ đó, liên hệ việc thực hiện các giải pháp này tại cơ sở giáo dục mà anh
(chị) đang công tác.
lOMoAR cPSD| 58562220 Bài làm
I. Đặt vấn đề
Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, nền kinh tế tri thức với vai trò rất
quan trọng trong việc quyết định sự phát triển kinh tế đang khiến cho tất cả các
quốc gia đặt chiến lược con người trở thành mục tiêu hàng đầu. Cùng với sự
phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ, các quốc gia đang phải đối
mặt với rất nhiều cơ hội và thách thức do toàn cầu hóa mang lại. Do đó, nguồn
nhân lực đã trở thành một tài sản quý nhất, quan trọng nhất và quyết định nhất
cho sự tồn tại và phát triển của bất kỳ một quốc gia nào. Khi “tri thức đã và
đang trở thành một nguồn lực kinh tế chủ yếu của lợi thế cạnh tranh” thì nhiều
quốc gia coi đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo là chiến lược sống còn trong
chiến lược phát triển của mình. Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao vai trò của
giáo dục và đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học.
II. Thực trạng giáo dục đại học ở Việt Nam trong hội nhập quốc tế
Từ Cách mạng tháng Tám đến nay, nước ta đã tiến hành nhiều cuộc cải
cách giáo dục vào các năm: 1950, 1956, 1979 và 2002, nhưng về cơ bản đều
tập trung vào giáo dục phổ thông. Trong khi đó, đào tạo đại học mới thực sự là
lĩnh vực cần cải cách mạnh mẽ nhất vì đó là những nơi chịu trách nhiệm cuối
cùng của hệ thống giáo dục để đưa sản phẩm ra xã hội. Giáo dục đại học có hai
nhiệm vụ là đào tạo nhân lực trình độ cao và nghiên cứu khoa học phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, việc thực hiện cả hai nhiệm vụ này ở các
trường đại học hiện nay còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi
của các trường tương đối cao nhưng khả năng hòa nhập của nhân lực được đào
tạo vào thị trường lao động còn hạn chế. Những nguyên nhân cơ bản khiến giáo
dục Việt Nam có nguy cơ không theo kịp trình độ phát triển của hệ thống giáo
dục các quốc gia phát triển trên thế giới, bao gồm:
Thứ nhất, chương trình và giáo trình giảng dạy chưa được tiêu chuẩn hóa
và công nhận trên phạm vi quốc tế. Điều này dẫn đến chỗ bằng cấp của nước ta
cũng chưa được thế giới công nhận về chất lượng, sinh viên khó tham gia các
chương trình trao đổi giao lưu với trường đại học trên thế giới hoặc chuyển lOMoAR cPSD| 58562220
ngang sang học tiếp tại các trưӡng đại học quốc tế hoặc xét học tiếp ở cấp độ
cao hơn (thạc sĩ, tiến sĩ) đối với các sinh viên đã tốt nghiệp trong nước.
Thứ hai, chưa có một bộ quy tắc chuẩn mực và đầy đủ để đánh giá chất
lượng đào tạo, tiêu chí xếp loại các trường, các ngành học để các quốc gia khác
dựa vào đó hợp tác làm việc với các trường trong nước. Bệnh thành tích có
nguy cơ quay trở lại. Hệ thống thi cử đánh giá thực lực khả năng của học sinh
còn bất cập; điều đó khiến học sinh học lệnh, học tủ, quay cóp, dạy và học thêm;
làm mất nhiều thời gian của xã hội. Chưa có một hệ thống kiểm định hoàn chỉnh
nên công tác đánh giá chất lượng giáo dục đào tạo thiếu tính khoa học, nặng
cảm tính. Những bất cập này đã gây khó khăn không chỉ cho người học khi lựa
chọn sai môi trường, mà còn không tạo được yếu tố cạnh tranh cần thiết để phát triển.
Thứ ba, chính sách đầu vào của các trường đại học sư phạm chưa cao,
chất lượng đào tạo chưa có được những ưu tiên về mọi mặt, chính sách lương
bổng của giáo viên còn chưa đủ sức để thu hút nhân tài. Hệ thống các phòng thí
nghiệm, nghiên cứu còn quá nghèo nàn, không hút được các nhà nghiên cứu khoa học trẻ.
Trong thời gian qua, nhiều học sinh trung học phổ thông có học lực xếp
loại giỏi không mấy “mặn mà” với ngành sư phạm trước hết là bởi cơ hội tìm
việc làm sau khi ra trường đã và đang trở nên khó khăn. Đây cũng là hệ quả
của việc tuyển sinh tràn lan, thiếu sự tính toán. Số lượng giáo viên hiện nay đã
không còn trong tình trạng thiếu trầm trọng như nhiều năm trước. Hiện tượng
“bão hòa” về nhu cầu tuyển dụng giáo viên bắt nguồn từ việc “cung” vượt
“cầu”. Tình trạng trên là khá phổ biến ở các vùng đồng bằng, nhất là vùng thành
phố, thị xã. Sau 4 năm miệt mài học tập, ra trường, cầm trên tay tấm bằng đại
học, nhiều sinh viên sư phạm cảm thấy hoang mang về tương lai của mình. Một
bộ phận trong số này đã phải chuyển sang làm nghề khác, gây lãng phí không
nhỏ về kinh phí đào tạo và thời gian học tập của sinh viên.
Bên cạnh đó, mặc dù lao động sư phạm là loại hình lao động có nhiều nét
đặc thù, nghề giáo viên vẫn được xem là “nghề cao quý nhất”, nhưng so với
nhiều ngành nghề khác, chế độ lương bổng phụ cấp của giáo viên vẫn còn thấp. lOMoAR cPSD| 58562220
Đồng lương eo hẹp khiến nhiều giáo viên không yên tâm công tác, phải “chân
trong, chân ngoài” vất vả mưu sinh. Điều này đã tác động không nhỏ đến sự
định hướng của phụ huynh và việc chọn trường dự thi của học sinh. Nhất là
trong thời điểm hiện nay, việc chọn trường dự thi đối với những học sinh thực
sự có năng lực đã trở nên thực dụng hơn.
Thứ tư, chưa có các cơ quan, tổ chức trung gian khách quan làm việc độc
lập với các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục để có các ý kiến phản biện,
kịp thời chấn chỉnh cũng như góp ý thực sự mang tính khoa học, có tác dụng tư
vấn, khuyến nghị cho các dự thảo cải cách giáo dục. Trong nhiều năm qua, giáo
dục và đào tạo gặp khó khăn nhiều nhất trong việc đánh giá và kiểm tra do
chúng ta cứ luẩn quẩn với cách đánh giá truyền thống, nêu thành tích, ít tìm ra
nguyên nhân tồn tại của chính mình. Do vậy, hàng năm mỗi trường đều có rất
nhiều loại tổng kết, báo cáo nhưng vẫn không tìm ra nguyên nhân của yếu kém,
lạc hậu. Chất lượng đầu ra (chất lượng sinh viên tốt nghiệp) cũng như chất
lượng đào tạo của hệ thống chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế
xã hội và chưa đáp ứng được sự kỳ vọng của người sử dụng các dịch vụ mà các
trường đại học cung cấp
Kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra
Sau hơn 8 năm thực hiện chủ trương đổi mới, giáo dục đại học ở Việt
Nam đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Trước hết, Việt Nam đã từng
bước thể chế hóa các quan điểm, nội dung của Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi
mới giáo dục thành chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cụ thể, trong hai năm
2018 và 2019, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học
(năm 2018) và Luật Giáo dục (năm 2019) do Bộ Giáo dục và Đào tạo soạn thảo
đã được Quốc hội thông qua và từng bước đi vào cuộc sống, tạo hành lang pháp
lý cho các hoạt động đổi mới giáo dục đại học. Các cơ sở giáo dục đại học được
trải rộng khắp các miền đất nước, tạo điều kiện nâng cao tính công bằng trong
việc tiếp cận loại hình giáo dục đại học của người dân.
Về công tác quản trị, điều hành hệ thống giáo dục đại học, Việt Nam đã
từng bước tăng cường quyền tự chủ của các trường đại học. Chất lượng giáo
dục đại học từng bước được nâng lên và tiếp cận các chuẩn mực quốc tế. Năm
2019, giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới (tăng 12 lOMoAR cPSD| 58562220
bậc so với năm 2018). Năm 2020, lần đầu tiên Việt Nam có 3 trường đại học
được xếp trong nhóm 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới (Đại học Quốc gia
Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Đại học Bách
khoa Hà Nội); 8 trường đại học của Việt Nam đã được đưa vào danh sách các
trường đại học hàng đầu châu Á. Năm 2019, tổng số bài báo khoa học của Việt
Nam được công bố trên hệ thống ISI/ Scopus là 12.475 bài, đứng thứ 49 trên
thế giới (tăng 2,7 lần so với năm 2015). Tính đến năm 2020, tỷ lệ giảng viên có
chức danh giáo sư, phó giáo sư trong toàn bộ hệ thống giáo dục Việt Nam là
6%, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ là 22,7%.
Trong các trường đại học, việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển
đổi số từng bước được triển khai phục vụ cho công tác dạy và học. Năm học
2020 - 2021, trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, khó lường, tất
cả các trường đại học đã tiến hành dạy trực tuyến, nhờ đó, việc dạy và học vẫn
được bảo đảm chất lượng và kết thúc đúng thời hạn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, giáo dục đại học Việt Nam vẫn
còn những hạn chế. Nhìn chung, giáo dục đại học vẫn tụt hậu so với các nước
trong khu vực và thế giới; phát triển chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ và
chưa đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Đại hội XIII của Đảng nhận định:
“Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế, xã hội”. Vấn đề đặt ra hiện nay là, những hạn chế, yếu kém phải được
nhận thức sâu sắc để từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục nhằm đưa giáo dục
đại học Việt Nam lên một tầm cao mới.
Thứ nhất, các trường đại học ở Việt Nam thường được tổ chức theo hệ
thống đại học chuyên ngành, như Đại học Thủy lợi, Đại học Y, Đại học Dược,
Đại học Kinh tế tài chính, Đại học Ngoại thương... Mặc dù đã bắt đầu mở đa
ngành, nhưng về cơ bản, đây vẫn là đại học chuyên ngành. Chương trình giáo
dục vẫn “nặng” về lý thuyết, “nhẹ” về thực hành và vận dụng kiến thức.
Thứ hai, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thiếu sự gắn kết với thị trường lao
động. Hiện nay, nhiều trường đại học mới chỉ cung cấp những gì mình có, chứ
chưa phải những gì xã hội cần. Đó là một trong những lý do khiến năm 2020,
Việt Nam có 225.000 cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ tốt nghiệp ra trường nhưng chưa lOMoAR cPSD| 58562220
tìm được việc làm, hoặc chấp nhận làm không đúng nghề nghiệp được đào tạo,
gây ra một sự lãng phí rất lớn.
Thứ ba, về phương pháp và hình thức dạy học, nhiều trường đại học chưa
tiếp cận phương pháp “lấy người học làm trung tâm”, người thầy vẫn đóng vai
trò chủ đạo, người học vẫn rất thụ động và sự tương tác giữa thầy và trò không
nhiều. Tình trạng “quá tải” về kiến thức và thay đổi giáo trình liên tục cũng là
hậu quả của cách dạy thiên về cung cấp kiến thức cụ thể, trong khi những kiến
thức này không ngừng được bổ sung. Tính chủ động của sinh viên chưa được
phát huy; phương pháp giáo dục, kiểm tra và đánh giá còn lạc hậu, thiếu thực
chất; việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc chưa được chú trọng
đúng mức... Đây là điểm chưa hợp lý, bởi mục tiêu của giáo dục phổ thông và
giáo dục đại học là khác nhau.
Thứ tư, giáo dục đại học Việt Nam tương đối “khép kín”, chưa tạo được
sự liên thông giữa các chuẩn mực giáo dục đại học trong nước và quốc tế. Ngay
cả trong nước, mặc dù được đặt dưới sự quản lý chung của Bộ Giáo dục và Đào
tạo nhưng trên thực tế khả năng liên thông kiến thức giữa các cơ sở giáo dục
đại học vẫn còn hạn chế. Các trường đại học và các chuyên ngành ít thừa nhận
kết quả đào tạo của nhau nên người học gặp nhiều khó khăn khi chuyển trường,
chuyển ngành học. Việc liên thông kiến thức giữa cơ sở giáo dục đại học trong
nước và nước ngoài lại càng khó khăn hơn do có sự khác biệt về mục tiêu, nội
dung và phương pháp đào tạo (trừ các chương trình liên kết quốc tế theo thỏa thuận).
Thứ năm, dù đã có chuyển biến trong thời gian gần đây nhưng số lượng
các công bố quốc tế của các trường đại học ở Việt Nam vẫn còn thua kém nhiều
nước trong khu vực. Việt Nam hiện có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư,
24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ, nhưng số lượng công bố quốc tế còn khá
hạn chế, chỉ số ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu khoa học của Việt
Nam cũng thấp hơn so với một số nước trong khu vực, như Thái Lan, Malaysia, Singapore...
Thứ sáu, tự chủ đại học dù đã trở thành chủ trương lớn nhưng việc phân
định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các trường đại học còn chưa rõ ràng. lOMoAR cPSD| 58562220
Hạn chế của giáo dục đại học ở Việt Nam còn thể hiện qua một số vấn đề
khác, như xu hướng thương mại hóa giáo dục, thiếu cơ sở vật chất, sự đãi ngộ
chưa thỏa đáng đối với những người làm công tác giáo dục đại học...
III. Một số giải pháp phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam
Quá trình toàn cầu hóa đã thúc đẩy cuộc chạy đua phát triển nguồn nhân
lực tại các quốc gia, khu vực trên thế giới. Toàn cầu hóa đã làm cho các nền
kinh tế phát triển nhanh chóng hơn và trở thành một thị trường toàn cầu, tương
tác và phụ thuộc lẫn nhau, cạnh tranh gay gắt với nhau. Việc hội nhập quốc tế
sẽ tạo điều kiện và thúc đẩy việc thiết lập cơ cấu lao động theo định hướng thị
trường, đó là cần có những lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, trong
khi những lao động không có chuyên môn kỹ thuật phải được cắt giảm. Người
lao động nếu không tích cực cập nhật cái mới, học tập nâng cao trình độ, chuyên
môn nghiệp vụ thì sẽ bị đào thải khỏi môi trường làm việc chuyên nghiệp.
Do đó, để tham gia vào quá trình hội nhập giáo dục toàn cầu, trước mắt
hệ thống giáo dục đại học ở nước ta cần thực hiện được các giải pháp sau:
1. Xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục
Mục đích của việc xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục là
hàng năm đánh giá, xếp hạng các trưӡng đại học tại Việt Nam; qua đó, chính
thức hóa các tiêu chí lựa chọn và xếp hạng các trường đại học. Sự xếp hạng
cũng cần dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau như trưӡng có chất lượng đào tạo
tốt nhất, trường có các đề tài nghiên cứu có tính ứng dụng trong thực tế tốt nhất,
trường có cơ quan quản lý sinh viên tốt nhất… Việc kiểm định này cần giao
cho một tổ chức độc lập nằm ngoài Bộ Giáo dục và Đào tạo để đảm bảo tính
khách quan. Định kỳ 2 năm một lần việc đánh giá, xếp hạng được thực hiện dựa
trên kết quả kiểm soát quá trình và đánh giá tổng thể, kết quả xếp hạng được
công bố rộng rãi trên các kênh thông tin đại chúng. Kết quả xếp hạng cho biết
chất lượng và uy tín của các cơ sӣ giáo dục đại học, là căn cứ để các trường đại
học và tổ chức quốc tế tham khảo về hệ thống giáo dục đại học Việt Nam; từ
đó, tạo cơ hội giao lưu hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao trên bình diện quốc tế. lOMoAR cPSD| 58562220
Đồng thời, cần xây dựng cơ chế đánh giá chất lượng đào tạo qua khả
năng hòa nhập của nhân lực được đào tạo vào thị trường lao động. Muốn thực
hiện điều này, các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục cần có sự phối hợp
chặt chẽ với cơ quan sử dụng nhân lực và các doanh nghiệp. Để hướng đến một
nền giáo dục chất lượng và chuyên nghiệp, ngành giáo dục cần khẩn trương
hoàn thiện cơ chế, bộ tiêu chuẩn chất lượng; đồng thời chú trọng đào tạo các
chuyên gia, kiểm định viên không chỉ giỏi chuyên môn mà còn là vị “quan tòa”
liêm chính, là chuyên gia tư vấn, sẵn sàng giúp các cơ sở giáo dục giải quyết khó khăn.
2. Quảng bá hình ảnh, uy tín cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam
Tổ chức các triển lãm giáo dục hàng năm là cuộc biểu dương lực lượng
của ngành giáo dục. Điều đó giúp các học sinh nắm được đầy đủ thông tin về
các trường mình dự kiến thi, là cơ sở để các trường tạo nguồn sinh viên có chất
lượng trong tương lai. Để giúp cơ quan quản lý nhà nước về cải cách giáo dục
cần thành lập một Hội đồng cố vấn giáo dục gồm có cả các chuyên gia giáo dục
quốc tế ở các nước phát triển. Các chuyên gia này có thể giúp Việt Nam tiến
nhanh hơn vào quá trình hội nhập giáo dục quốc tế thông qua những kiến thức
và kinh nghiệm của họ. Mặt khác, cần khuyến khích các trường mở rộng các
chương trình liên doanh, liên kết đào tạo, để sinh viên có thể học ngay tại trong
nước lấy bằng nước ngoài, hạn chế việc chảy ngoại tệ ra nước ngoài để học tập.
Để đáp ứng yêu cầu hội nhập, cần nâng cao trình độ tiếng Anh cho giảng
viên và sinh viên Việt Nam. Muốn thực hiện được cần có chính sách thu hút và
ưu đãi về địa điểm, điều kiện cơ sở vật chất để mời các tổ chức hàng đầu về
giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên. Đây sẽ là nơi đào tạo nguồn cho các sinh
viên có thể tham gia các khóa giao lưu tại nước ngoài.
3. Tăng cường giao quyền tự chủ cho các trường đại học
Chức năng cơ bản trong quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo
là thực hiện việc định hướng phát triển, tạo lập khung pháp lý và kiểm tra, thanh
tra, giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong
giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, thực tế việc thực hiện các chức năng này lại có
xu hướng sa đà các công việc cụ thể, làm thay công việc vốn thuộc trách nhiệm lOMoAR cPSD| 58562220
của từng trường đại học, làm thui chột sức sáng tạo và tính năng động vốn có
của các trường đại học. Việc quản lý theo kiểu “cầm tay, chỉ việc” đối với các
trường đại học dẫn tới biên chế tăng liên tục mà kết quả, mục tiêu cải cải giáo
dục chưa đạt được. Quản lý các trường đại học mang tính “xin - cho” gây ra sự
thiếu minh bạch, thiếu công bằng trong giáo dục. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào
tạo cần làm đúng chức năng quản lý nhà nước của mình, giao quyền tự chủ đầy
đủ và tự chịu trách nhiệm cho các trường đại học. Đổi mới tư duy giáo dục đại
học trong quản lý nhà nước để tiến đến trao quyền tự chủ, gắn với tự chịu trách
nhiệm cao của các trường đại học chính là động lực của phát triển. Đó là yêu
cầu tất yếu từ chính các trường đại học trong cả nước hiện nay, như quyền tự
chủ tài chính, nhân sự, công tác tuyển sinh và nhất là xây dựng chương trình.
Với chủ trương “đào tạo theo nhu cầu” thì việc xây dựng chương trình
phải xuất phát từ nhu cầu của xã hội. Chỉ có như vậy, các trường đại học mới
có thể tự quyết định trong đầu tư cơ sở vật chất và chuyên môn hóa sâu về lĩnh
vực đào tạo của mình. Ở các trường phổ thông có thể dùng chung một chương
trình, một bộ sách giáo khoa, một phương thức đào tạo; còn ở mỗi trường đại
học có những đặc thù riêng. Mỗi trường đại học là một trung tâm trí tuệ, có hiểu
biết sâu về lĩnh vực đào tạo của mình, thấu hiểu nhất các vấn đề của nội bộ nhà
trường. Nhà trường là nơi có hiểu biết và cập nhật nhanh nhất các thông tin
trong lĩnh vực chuyên môn mà họ đào tạo. Họ cần được trao quyền tự chủ đầy
đủ để phát huy cao nhất tính năng động và sáng tạo của tập thể nhà trường, để
các hoạt động của nhà trường đạt được hiệu quả cao. Sự quản lý nhà nước của
Bộ Giáo dục và Đào tạo không can thiệp quá sâu vào các công việc cụ thể của
trường. Từng trường đại học phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về các hoạt động
của mình theo đúng luật pháp và chịu sự kiểm tra, thanh tra của Bộ Giáo dục
và Đào tạo và sự giám sát của người dân.
4. Nâng cao trình độ quản lý của người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học
Trong các cơ sở giáo dục đại học, lãnh đạo không chỉ cần giỏi về chuyên
môn, mà còn cần phải có tâm, có tầm, phải tạo được sự ủng hộ của cấp trên, tạo
được niềm tin của cấp dưới và phải thực sự dũng cảm trong thực hiện cải cách
giáo dục. Để thực hiện điều đó, người đứng đầu cần có tư duy đổi mới, nhất là lOMoAR cPSD| 58562220
trong việc thu hút và tìm kiếm nguồn nhân lực giảng viên theo nguyên tắc “việc
tìm người” thay cho nguyên tắc “người tìm việc” nhằm đảm bảo được đội ngũ
giảng viên có chất lượng cao.
Để thực hiện được điều đó, pháp luật phải quy định rõ và chặt chẽ tiêu
chuẩn người đứng đầu. Điều kiện tiên quyết trong tiêu chuẩn người đứng đầu
là phải có tri thức sâu rộng về quản lí giáo dục. Kiến thức và tầm nhìn về quản
lí giáo dục của người đứng đầu cơ sở giáo dục phải được đặt lên hàng đầu trong
tiêu chí lựa chọn. Chính sự yếu kém về nhận thức dẫn đến sự yếu kém trong
công tác chỉ đạo, ra quyết định, sự lúng túng trong công tác qui hoạch cải cách
giáo dục của nước ta trong thời gian qua. Mặt khác, người đứng đầu phải biết
lắng nghe, biết tập hợp sức mạnh khoa học từ những nhà chuyên môn về giáo
dục, về quản lí hành chính, thống nhất trong công tác qui hoạch và quyết đoán
trong công tác xây dựng, kiến thiết, quản lí, vận hành cơ sở giáo dục đại học.
Đồng thời, cần phải quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ báo cáo, giải
trình, trách nhiệm của người đứng đầu và kèm theo cơ chế kiểm soát hiệu quả
để hạn chế tình trạng lạm quyền của cá nhân người có trách nhiệm. Đó là việc
quy định rõ quy trình bổ nhiệm hoặc thi tuyển người đứng đầu thật chặt chẽ;
quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ báo cáo, giải trình, trách nhiệm của
ngưӡi đứng đầu, và đảm bảo cơ chế giám sát, kiểm tra, xử lý với các vi phạm
của người đứng đầu.
IV. GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC CẢI CÁCH GIÁO DỤC TẠI TRƯỜNG
ĐẠI HỌC VINH
Trường Đại học Vinh tiền thân là Trường Đại học Sư phạm Vinh - là cơ
sở đào tạo sư phạm chủ chốt và có uy tín trong cả nước, đã cung cấp hàng chục
nghìn giáo viên các cấp, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển giáo dục
và đào tạo của đất nước. Là cơ sở giáo dục đại học đa ngành nhưng trường luôn
lấy chất lượng đào tạo giáo viên làm nòng cốt để nâng cao chất lượng đào tạo
các ngành ngoài sư phạm. Trường đã quán triệt và thực hiện có hiệu quả Nghị
quyết số 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. lOMoAR cPSD| 58562220
1. Đào tạo giáo viên trong giai đoạn mới
Trên thế giới, đào tạo giáo viên trong trường đại học đa ngành là mô hình
phổ biến ở đa số các nước phát triển như: Hoa kỳ, Anh, Pháp, Hà Lan, Nhật Bản,
Hàn quốc,... Mô hình này tận dụng được thế mạnh của các ngành khoa học giáo
dục, vừa tận dụng được thế mạnh của các ngành khoa học cơ bản, khoa học ứng
dụng; bổ sung cho nhau, tối ưu hoá được nguồn nhân lực đa dạng và phong phú
của các trường đại học đa ngành trong đào tạo giáo viên.
Từ năm 2017, Trường Đại học Vinh đã tiến hành tái cấu trúc, thành lập các
viện đào tạo, trong đó có Viện Sư phạm Tự nhiên và Viện Sư phạm Xã hội. Mô
hình hoạt động của các viện này đã khẳng định ưu thế, tạo điều kiện thuận lợi
cho các ngành phát triển, tăng cường tính tự chủ, giải phóng các nguồn lực, thực
hiện tốt chủ trương cải cách hành chính, tinh giản biên chế của Đảng và Nhà nước
hiện nay. Mô hình trên cũng cho thấy sự cần thiết tái cấu trúc mạnh mẽ hơn nữa
để Trường Đại học Vinh có một trường sư phạm, phát huy hết được năng lực,
chất lượng đội ngũ và truyền thống đào tạo. Đồng thời cũng là cơ hội để có thể
đầu tư, phát triển các ngành đào tạo sư phạm của nhà trường.
Ngày 21/7/2021, Hội đồng trường Trường Đại học Vinh đã ban hành
Nghị quyết số 11/NQ-HĐT về việc thành lập Trường Sư phạm thuộc Trường
Đại học Vinh - được đánh giá là một bước tiến quan trọng trong chiến lược phát
triển của Trường Đại học Vinh (Nghệ An) hướng tới xếp hạng tốp 500 đại học
hàng đầu châu Á. Việc thành lập Trường Sư phạm cũng nhằm cải tiến mô hình
đào tạo giáo viên từ năm 2021, phát triển hơn nữa ngành sư phạm đáp ứng yêu
cầu đổi mới giáo dục hiện nay, giữ vững thương hiệu đào tạo sư phạm, khẳng
định vị thế của Trường Đại học Vinh trong lĩnh vực đào tạo sư phạm, góp phần
nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, kỹ năng thực hành sư phạm cho sinh viên,
đưa chương trình đào tạo của nhà trường đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục đại
học Việt Nam, ngang tầm với khu vực và quốc tế, trước mắt là phù hợp với chương
trình đào tạo theo tiếp cận CDIO, đáp ứng chuẩn đầu ra và yêu cầu của xã hội đối với ngành sư phạm
2. Những cải tiến nổi bật về chương trình đào tạo
Từ năm 2017, Trường Đại học Vinh đã triển khai Đề án xây dựng và phát
triển chương trình đào tạo tiếp cận CDIO. Lần đầu tiên và cũng là cơ sở giáo dục lOMoAR cPSD| 58562220
đại học đầu tiên của cả nước. Trường Đại học Vinh triển khai phát triển tiếp cận
CDIO cho các ngành đào tạo giáo viên cho thấy sự quyết tâm mạnh mẽ của Nhà
trường trong việc cải tiến chương trình đào tạo, đáp ứng yêu cầu xã hội và đáp
ứng yêu cầu thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông 2018.
Năm 2021, Trường Sư phạm được thành lập với chức năng chính là đào tạo
trình độ đại học và sau đại học các ngành đào tạo giáo viên, cán bộ quản lý giáo
dục cho các bậc học và nhân lực chuyên môn nghiệp vụ khác cho ngành giáo dục.
Ngay khi mới ra đời, từ khóa 62 (tuyển sinh năm 2021), Trường Sư phạm đã tiếp
tục cải tiến chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực đáp ứng yêu cầu
nâng cao năng lực của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục của các trường
phổ thông thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông 2018.
Trường đã đưa các học phần dạy học dự án vào các chương trình đào tạo.
Chương trình mỗi ngành sư phạm có 7 học phần dự án được phân bổ trong 8 học
kỳ/4 năm học từ năm thứ nhất đến năm cuối, trong đó có 4 học phần khoa học
giáo dục và 3 học phần khoa học cơ bản. Sinh viên sẽ được tiếp cận trường phổ
thông và chủ động trong việc tổ chức học tập ngày từ học kỳ đầu tiên và thực tập
nghề nghiệp ở học kỳ cuối cùng. Ngoài ra việc cải tiến chương trình đào tạo, gắn
dạy học dự án với nghiên cứu khoa học, chính sách đối với giảng viên và sinh viên
sư phạm cũng được Trường chú trọng tạo nên luồng không khí mới trong công
tác đào tạo giáo viên của Trường Đại học Vinh.
Các chương trình đào tạo của Trường Sư phạm đã và sẽ được kiểm định
theo chuẩn Quốc tế và chuẩn quốc gia. Trong số 14 ngành đào tạo sư phạm, có 1
ngành (Sư phạm Toán học) đã được kiểm định và đạt tiêu chuẩn theo tiêu chuẩn
Quốc tế (AUNQA), có 3 ngành (Sư phạm Hoá học, Giáo dục Mầm non, Giáo dục
Tiểu học) đã được kiểm định và đạt tiểu chuẩn Quốc gia.
3. Ký kết thoả thuận hợp tác với các trường phổ thông vệ tinh
Nhằm thúc đẩy sự phát triển và và góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội; tạo điều kiện để đội ngũ nhà giáo
phát huy sức mạnh nội lực, sáng tạo trong nghề nghiệp, sẵn sàng đáp ứng
Chương trình giáo dục phổ thông, Trường Đại học Vinh ký kết hợp tác với các
trường phổ thông, xem các trường phổ thông là vệ tinh của Nhà trường. lOMoAR cPSD| 58562220
Theo thỏa thuận hợp tác, Trường Đại học Vinh sẽ chuyển giao các sản
phẩm nghiên cứu, chia sẻ kinh nghiệm về các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
giáo viên, cụ thể: Các sản phẩm nghiên cứu miễn phí phục vụ đào tạo trong
khuôn khổ chương trình ETEP do Trường Đại học Vinh thực hiện hàng năm từ
2018 đến năm 2022; Cử chuyên gia tư vấn chia sẻ kinh nghiệm đào tạo về
Chương trình giáo dục phổ thông 2018, tư vấn các kỹ năng dạy học và kiểm tra
đánh giá theo tiếp cận năng lực, tư vấn các hoạt động đào tạo...
Nhà trường cũng sẽ tài trợ cho các trường vệ sinh một số khóa học phát
triển chuyên môn nghề nghiệp cho giáo viên (bồi dưỡng về kỹ năng sư phạm
để thực hiện các hoạt động thực hành cũng như giảng dạy trực tuyến; tập huấn
về ICT; chuyển giao một số sản phẩm phục vụ đào tạo trực tuyến, đào tạo kết
hợp; bồi dưỡng nâng cao năng lực tiếng Anh cho học sinh và giáo viên).

Các trường phổ thông vệ tinh sẽ có trách nhiệm hỗ trợ Trường Đại học
Vinh thực hiện các nhiệm vụ trong đào tạo giáo viên như: Thực tập, thực tế, trải
nghiệm sáng tạo...; lấy ý kiến các bên liên quan nhằm thực hiện Kế hoạch chiến
lược phát triển nhà trường; tham vấn ý kiến để thực hiện các nhiệm vụ nghiên
cứu khoa học, phát triển chương trình đào tạo và chương trình bồi dưỡng có
liên quan đến trường phổ thông; phối hợp thực hiện các hoạt động phát triển kỹ năng nghề nghiệp. V. Kết luận
Giáo dục là một lĩnh vực hết sức quan trọng và cần thiết trong quá trình
xây dựng và đổi mới nước nhà. Do đó để nền giáo dục nước nhà phát triển phù
hợp yêu cầu xây dựng đất nước và xu thế hội nhập thì cần thực hiện nhiều cải
cách, đặc biệt là trong tư tưởng, tư duy giáo dục. Điều đó còn phụ thuộc vào
các cấp chính quyền, lãnh đạo, cũng như cần đến sự quan tâm của toàn xã hội.