lOMoARcPSD| 58562220
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM GIẢNG VIÊN
BÀI THU HOẠCH
MÔN:GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
LỚP: K5.2023.TC.NVSP GIẢNG VIÊN
Họ và tên : Thái Ngọc Thịnh
Nơi sinh: Cần Thơ
STT: 174
lOMoARcPSD| 58562220
Đề tài: Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam:
Anh (chị) hãy trình bày các xu hướng phát triển giáo dục đại học hiện nay.
Anh (chị) hãy đề xuất một số giải pháp phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam
trong thời gian tới.
Bài làm
Các xu hướng phát triển của giáo dục đại học trên thế giới
1. Quốc tế hóa
Bên cạnh nhiệm vụ phát triển nghiên cứu, giảng dạy đổi mới, squốc tế
hóa trong giáo dục ngày càng được xem phương tiện để phát triển tầm nhìn
và ảnh hưởng của sở đào tạo và của quốc gia. Báo cáo của Hội đồng Anh về
các chính sách quốc gia liên quan đến sự tham gia quốc tế vào giáo dục đại học
cho thấy, số lượng các quốc gia cam kết vào sự quốc tế hóa trong giáo dục đại
học gia tăng. dụ, 23 trong số 26 quốc gia được nghiên cứu hiện đang có các
chính sách hiệu quả nhằm thúc đẩy các chương trình du học; trao đổi học tập
của sinh viên. Các quốc gia được đánh giá là cởi mở nhất trong các chính sách
ủng hộ việc trao đổi và quốc tế hóa là Australia, Đức, Anh, Malaysia và Trung
Quốc. Một số quốc gia khác, như Pháp cũng đang thúc đẩy xu hướng đó. Năm
2013, các trường đại học tổng hợp, các trường đào tạo kỹ sư và các trung tâm
nghiên cứu (như CNRS) đã hợp nhau lại thành các cụm nghiên cứu với các
chính sách nghiên cứu, điều phối đào tạo được quyết định phạm vi khu
vực chứ không phải phạm vi sở đào tạo (được gọi COMUE). Các quy
định mới về cấp thị thực nhập cảnh và yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính
cho sinh viên quốc tế đã được thực hiện, thêm vào đó, việc gia tăng số lượng
các khóa học bằng tiếng Anh các lớp học tiếng Pháp cho sinh viên quốc tế
không thuộc khối Pháp ngữ một phần của sự quốc tế hóa này. Giáo dục xuyên
quốc gia (Transnational education, TNE) là một phần của sự quốc tế hóa trong
giáo dục đại học.
Giáo dục xuyên quốc gia được hiểu là scung cấp giáo dục mà “người học
một quốc gia khác với quốc gia đặt sở giáo dục”, thể gọi xuất khẩu
giáo dục.
Trên bình diện toàn cầu, một cuộc khảo sát năm 2011 về các chương trình
liên kết và cấp bằng quốc tế đã làm sáng tỏ mức độ phổ biến của chúng. Phần
lớn các chương trình đều trình độ thạc (53%), ngoại trừ Úc phần lớn trình
độ tiến sĩ và ở Mỹ phần lớn là các khóa đào tạo đại học. Các lĩnh vực phổ biến
nhất là kinh doanh, quản lý và kỹ thuật. Các cơ sở đào tạo của Pháp, Đức và Ý
xu hướng đưa ra các chương trình liên kết chương trình song bằng từ
những năm 1990, trong khi Anh và Úc bắt đầu gần đây hơn. Hình thức mở các
chi nhánh đại học quốc tế vẫn đang phát triển rộng rãi. khoảng 200 chi nhánh
đại học trên toàn thế giới, phục vụ khoảng 120 000 sinh viên. Tiểu vương quốc
rập Thống nhất quốc gia chủ nhà phổ biến nhất với 37 chi nhánh đại học
và Hoa Kỳ là nguồn cung cấp phổ biến nhất với 78 chi nhánh đại học trên toàn
thế giới. Úc là một trong những nước có các chi nhánh đại học hiện diện ở bất
lOMoARcPSD| 58562220
kỳ quốc gia nào. Khoảng một phần các trường đại học của Úc được đặt ngoài
nước Úc. Các đối tác hàng đầu của Úc Trung Quốc, Singapore và Indonexia.
2. Hợp tác nghiên cứu
Theo Sliệu của Scopus Thomson Reuters, tổng số bài báo nghiên cứu
toàn cầu chỉ tập trung vào một số ít các quốc gia: trong thời gian từ 1996 2010,
chỉ có 5 quốc gia chiếm hơn một nửa tổng số (Hoa Kỳ, Trung Quốc, Anh, Nhật
và Đức) và 15 quốc gia chiếm hơn ba phần tư tổng số.
Hợp tác quốc tế về nghiên cứu có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia, tỉ
lệ trung bình hiện nay khoảng 45% ở Anh, 30% ở Mỹ, 15% ở Trung Quốc, 45
- 50% ở Đức và Lan, và cao nhất 65% ở Thụy Sĩ. Năm 2010, các quốc gia
hàng đầu về xuất bản các bài báo nghiên cứu học thuật thông qua hợp tác quốc
tế M(143.000), Anh (62.000), Đức (58.000), Trung Quốc (47.000), Pháp
(44.000), Canada (35.000) Ý (30.000). mối tương quan chặt chẽ giữa tỉ
lệ hợp tác nghiên cứu quốc tế trích dẫn tài liệu. Mặc đó không phải là mối
quan hệ nhân quả, nhưng mối liên hệ này tích cực ý nghĩa thống
(năm 2010, 80% sự thay đổi trong chỉ số trích dẫn tài liệu được lí giải bởi tỉ lệ
hợp tác nghiên cứu quốc tế). 3. Xu hướng di chuyển trong sinh viên
Số lượng sinh viên lựa chọn học tập tại một trường đại học ở nước ngoài đã
tăng mạnh trong những thập kỷ gần đây, tăng gần gấp bốn lần từ 1,3 triệu vào
năm 1990 lên 5 triệu vào năm 2014. Báo cáo về xu ớng năm 2015 nhấn mạnh,
sự di chuyển toàn cầu trong sinh viên đã thay đổi đáng kể thơn một thập kỷ
qua, từ chỗ sinh viên di chuyển theo một hướng duy nhất từ đông sang tây sang
một trào lưu di chuyển đa hướng bao gồm cả việc gửi đi đón tiếp các
quốc gia phi truyền thống. 6% sinh viên đại học thuộc khối các quốc gia OECD
quốc tế, tỉ lệ này sự khác biệt lớn giữa các quốc gia. Hơn một phần năm
(21,1%) sinh viên Anh sinh viên quốc tế - nhiều hơn bất kỳ quốc gia lớn
nào khác, tiếp đến là Úc với 20,7%, so với 8% ở Đức và 5% ở Hoa Kỳ.
Các con số đã khẳng định sự gia tăng của một xu hướng mới trong di chuyển
của sinh viên, đó là xu hướng du học gần nhà. Ở Mỹ La tinh, tỉ lệ sinh viên du
học trong khu vực tăng từ 11% năm 1999 lên 23% năm 2007, trong khi tỉ lệ
sinh viên Đông Á lựa chọn du học tại các nước ASEAN tăng từ 26% lên 42%
trong cùng thời gian đó. Không dưới 91% sinh viên quốc tế tại Nhật Bản đến
từ châu Á.
4. Tập trung vào đảm bảo chất lượng
Trong thập kqua, nhiều quốc gia đã nhấn mạnh việc mở rộng hội tiếp
cận giáo dục đại học, tăng trưởng mạnh vslượng các trường đại học
chương trình đào tạo. Tỉ lệ nhập học đại học toàn cầu (tỉ ldân số trong độ tuổi
sinh viên tại trường đại học) tăng t14% lên 32% trong hai thập kỷ tính đến
năm 2012.
Sự đại chúng hóa nhanh chóng này đã tạo ra một động thái nhiều nước
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Ở Nam Á và châu Mỹ La tinh nói
riêng, rất ít trường đại học xuất hiện trong các bảng xếp hạng quốc tế, thiếu
giảng viên có trình độ, phương pháp giảng dạy và kiểm soát chất lượng thường
lOMoARcPSD| 58562220
lạc hậu. Mục tiêu cung cấp giảng dạy và nghiên cứu chất lượng cao thông qua
một hệ thống giáo dục đại học được quốc tế công nhận để đào tạo ra những sinh
viên tốt nghiệp được trang bị các kỹ năng theo yêu cầu của các nhà tuyển dụng
địa phương và khu vực trọng tâm của tất cả các cải cách giáo dục quốc gia.
Nhưng cách thức mà các quốc gia nhắm đến để đạt được mục tiêu đó rất khác
nhau.
Chúng ta sẽ tìm hiểu 2 dụ cụ thể về các chương trình cải tổ giáo dục đại
học gần đây của Ecuador Ấn Độ. Trong khi Ecuador tập trung vào việc đo
lường và đánh giá kết quả học tập của sinh viên thì Bộ Giáo dục Ấn Độ lại lựa
chọn nâng cấp cơ sở hạ tầng giáo dục đại học. Thực thi chính thức vào m
2010, 71 trường đại học của Ecuador phục vụ 600 000 sinh viên trong nước
được đánh giá xếp hạng, trong số đó 14 sở bị yêu cầu đóng cửa, 26 trường
khác cần được cải thiện nhiều. Các cuộc cải tổ bao gồm một bài kiểm tra năng
lực tuyển sinh đối với các trường đại học công lập - lần đầu tiên Ecuador -
yêu cầu đối với giảng viên là phải có ít nhất trình độ thạc sĩ và ưu tiên trình độ
tiến sĩ. Để cải thiện chất lượng giảng dạy, học bổng chính phủ được cấp cho
nghiên cứu sau đại học nước ngoài với 3000 học bổng được trao vào năm
2012. Kể từ khi bắt đầu cải cách giáo dục, xếp hạng giáo dục đại học của
Ecuador trong bảng Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu trên Diễn đàn Kinh tế
thế giới đã cải thiện đáng kể, từ 93-108 năm 2012 đến 73 năm 2016 - 2017.
Tỉ lệ nhập học đại học Ấn Độ tăng rất cao trong thập kỷ vừa qua, gấp hai
lần từ 14 triệu năm 2007 lên 28 triệu năm 2013. Ấn Độ được dự báo nước
dân số trong độ tuổi sinh viên lớn nhất thế giới vào năm 2025, khoảng 119 triệu.
Kiểm soát chất lượng giáo dục đại học ở Ấn Độ đi sau so với việc mở rộng các
tổ chức giáo dục đại học. Kế hoạch năm năm lần thứ mười hai của chính phủ
Ấn Độ, được đưa ra vào năm 2012, nhấn mạnh sự cần thiết phải tập trung vào
sự hiệu quả trong giảng dạy và nghiên cứu để cải thiện chất lượng sinh viên tốt
nghiệp và chất lượng nghiên cứu trong các trường đại học. Một phần trong kế
hoạch này là một cơ quan đảm bảo chất lượng với ngân sách 1,5 tỷ USD được
công bố vào tháng 2 năm 2016 để tăng cường hệ thống kiểm định, nhân đôi số
lượng giảng viên sẽ chuyển hệ thống kiểm định của Ấn Độ sang hình thức
đánh giá được quốc tế công nhận.
5. Áp lực tìm kiếm việc làm cho sinh viên tốt nghiệp
Áp lực của sinh viên lên các trường đại học nhằm giúp họ việc làm tốt
không còn điều mới mẻ, cũng đang trở thành ưu tiên lớn đối với các chính
phủ. Chính phủ nhiều nước trong những năm gần đây đã gây áp lực lên các
trường đại học phải ảnh hưởng và đáp ứng nhu cầu hội. Điều này ban đầu
tập trung vào nghiên cứu ứng dụng và mở rộng quyền học đại học, nhưng gần
đây, việc cải thiện cơ hội có công ăn việc làm cũng được bổ sung.
Người ta có thể mong đợi các thị trường việc làm tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp
đại học thấp đnhanh chóng tiếp nhận sinh viên mới tốt nghiệp. Nhưng nhiều
nước đang phát triển, một sự thật ngược lại là: nhà tuyển dụng nghi ngờ về mức
độ sẵn sàng cho công việc của sinh viên tốt nghiệp, kết quả là mức thất nghiệp
lOMoARcPSD| 58562220
cao. dụ, Ấn Độ, một cuộc khảo sát của các ntuyển dụng cho thấy chỉ có
7% sinh viên tốt nghiệp kỹ sư (một lĩnh vực có triển vọng việc làm cao) là sẵn
sàng đối với công việc. Các kỹ năng đặc biệt thiếu bao gồm kỹ năng tiếng Anh
và khả năng áp dụng các vấn đề lý luận vào thực tiễn. Một nghiên cứu quy mô
của Hội đồng Anh về việc làm của sinh viên tốt nghiệp đại học ở châu Phi cho
thấy “các nhà tuyển dụng trong khu vực phàn nàn về việc sinh viên thiếu kiến
thức cơ bản, các kỹ năng kỹ thuật và kỹ năng có thể chuyển giao’’. Chất lượng
giảng dạy không đồng đều và kém là hậu quả của đội ngũ nhân viên kém chất
lượng, quy lớp học lớn phương pháp giảng dạy lỗi thời. Đáp lại mối quan
tâm này, hai bảng xếp hạng đại học tập trung vào việc làm đã xuất hiện. Thi
báo Giáo dục Đại học (The Times Higher Education, THE) hiện công bố một
bảng xếp hạng dựa trên việc khảo sát các nhà tuyển dụng trong khi QS đã xây
dựng một bảng xếp hạng việc m dựa trên năm tiêu chí: danh tiếng của nhà
tuyển dụng, kết quả của cựu sinh viên, các đối tác tuyển dụng, mối quan hệ giữa
sinh viên nhà tuyển dụng tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp việc làm. Hai
phương pháp này đưa ra một danh sách các trường đứng đầu mối tương quan
mạnh mẽ với các bảng xếp hạng đại học tổng thể (Stanford, MIT, Oxford,
Princeton Cambridge nằm trong top 10 của bảng). Đứng đầu về mục tiêu
việc làm bao gồm Đại học Thanh Hoa (thứ 3 trong xếp hạng QS), Đại học
Sydney (thứ 4 trong xếp hạng QS), Trường Đại học Bách Khoa Paris (thứ 6
trong xếp hạng QS) Đại học Kỹ thuật Munich (thứ 9 trong Thời báo Giáo
dục đại học)
6. Số hóa trong giáo dục đại học
Sự xuất hiện các khóa học mở trực tuyến đại chúng (MOOCs) vào năm 2012,
đã đem lại schú ý đến học tập điện tử trong giáo dục đại học. Số hóa trong
học tập giảng dạy đại học luôn vấn đề được quan tâm trong các chương
trình nghị sự chính sách cả cấp độ châu Âu, cấp độ quốc gia các tổ chức
giáo dục đại học. Năm 2015, các btrưởng giáo dục đại học Khu vực châu
Âu đã kêu gọi khuyến khích hỗ trợ các tổ chức giáo dục đại học khai thác
triệt để lợi ích của công nghệ số trong học tập giảng dạy. Cho đến nay, các
hành động cụ thể n của tiến trình Bologna về việc học tập kỹ thuật svẫn
đang được phát triển. Báo cáo triển khai tiến trình Bologna 2018 lần thứ nhất
đã theo dõi sự phát triển của học tập kỹ thuật số: Trong số 50 hthống giáo dục
đại học được điều tra, 38 hệ thống đã có chiến lược hoặc chính sách về việc sử
dụng công nghệ số trong học tập giảng dạy. Dạy học kết hợp (Blended
learning) cũng được xác nhận là phổ biến nhất trên khắp khu vực giáo dục đại
học châu Âu: Mặc dạy học trực tuyến toàn phần mới được cung cấp 18
quốc gia, 39 quốc gia cho biết một số tổ chức giáo dục đại học của họ cung cấp
các chương trình dạy học kết hợp.
Kết quả thu được từ khảo sát về các xu hướng năm 2018 cho thấy sự hiện
diện của học tập kỹ thuật số đã được củng cố tại các tổ chức giáo dục đại học
trong những năm gần đây. Các tổ chức này đã khẳng định mức độ chấp nhận
cao đối với việc học kỹ thuật số nói chung (93%), sử dụng một cách chiến
lOMoARcPSD| 58562220
lược (87%), tích hợp vào các chiến lược của tổ chức (85%) tăng cường sử
dụng trong giảng dạy thường xuyên (87%). 93% công nhận học tập kỹ thuật số
được sử dụng để đổi mới việc học và dạy. Tất cả các quốc gia, các tổ chức đều
xu hướng nhìn nhận đổi mới trong học tập giảng dạy liên quan chặt chẽ
với học tập điện tử số hóa. Trong số các dụ về đổi mới học tập giảng
dạy, học tập điện tử và các biện pháp kỹ thuật số khác (học tập kết hợp, học tập
nguồn mở MOOCs, sử dụng các nền tảng họ tập điện tử, v.v.) được nhắc
đến nhiều nhất.
thể thấy, ngày nay, sự phát triển của giáo dục đại học trên thế giới chịu
ảnh hưởng của quá trình vận động kinh tế - hội cũng như xu thế toàn cầu
hóa. Mặc dù mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng về kinh tế, chính trị, xã hội
và văn hóa, tuy nhiên các trường đại học tại mỗi quốc gia khác nhau đều đứng
trước những thách thức và cơ hội bản theo các xu hướng nêu trên. Việc tổng
hợp các xu hướng phát triển của giáo dục đại học trên thế giới giúp các trường
đại học có những kế hoạch thực hiện thay đổi p hợp với yêu cầu của sự phát
kinh tế - hội và xu thế phát triển của thời đại, khẳng định giá trị đối với
hội, là động lực có ý nghĩa định hướng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của
mỗi quốc gia. Các xu thế trên đây phản ánh những nỗ lực của các trường đại
học nhằm đápng với những thay đổi mạnh mẽ đang diễn ra trên thế giới. Các
trường đại học, với cách trung tâm trí tuệ của hội, đang “gồng mình”
bước những bước dài để tránh sự tụt hậu so với sự biến đổi của thế giới, đáp
ứng những đòi hỏi ngày càng cao và ngày càng đa dạng từ nhiều phía. Họ đang
tái khẳng định ý nghĩa của mình đối với xã hội, trong bối cảnh truyền thông xã
hội dựa trên những tiến bộ của công nghệ thông tin đã làm biến đổ sâu sắc cách
thức làm việc và giao tiếp của tất cả mọi người.
Để đưa ra được những giải pháp phát triển giáo dục đại học Việt Nam trong
thời gian tới ta cần nắm thực trạng giáo dục đại học hiện tại cùng với tính
cấp thiết đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam:
Xét vmặt lịch sử, tính từ khi Văn Miếu - Quốc Tử Giám ra đời (năm 1070),
giáo dục đại học Việt Nam đã có bề dày trên cả ngàn năm. Sự nghiệp giáo dục
đại học hình thành sau Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) cũng đã trải qua hơn
75 năm phát triển. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn nhất quán khẳng định,
giáo dục - đào tạo quốc sách hàng đầu; đầu cho giáo dục đầu cho phát
triển giáo dục phải được ưu tiên, đi trước so với các lĩnh vực khác. Để đáp
ứng những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của
Đảng thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-112013, “Về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế”. Từ đó đến nay, công cuộc đổi mới giáo dục đại học được tiến hành ở
Việt Nam với mục tiêu tạo ra sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng,
hiệu quả giáo dục, đào tạo nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Nghị quyết cũng đề ra
lOMoARcPSD| 58562220
mục tiêu đến năm 2030, giáo dục đại học Việt Nam sẽ đạt trình đtiên tiến
trong khu vực.
Sự cần thiết phải đổi mới giáo dục đại học Việt Nam được quy định bởi
tình hình phát triển của đất nước xu thế chung của thế giới. trong nước,
công cuộc đổi mới đã diễn ra được hơn 35 năm và ngày càng đi vào chiều sâu.
Yêu cầu chuyển đổi hình kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu sự cần
thiết tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
cao đòi hỏi giáo dục đại học phải đáp ứng nhu cầu học tập của người dân
nhanh chóng góp phần đào tạo ra đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Nếu không
sự đổi mới thì dẫn đến nguồn nhân lực kém chất lượng sẽ một trong
những yếu tố cản trở sự phát triển của đất nước.
Việt Nam một trong những quốc gia tích cực, chủ động hội nhập quốc tế
bởi thấy rõ tính khách quan của tiến trình này trong sphát triển của nhân loại.
Vì thế, sau khi thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội vào năm 1996,
Việt Nam đã từng bước chuyển từ hội nhập kinh tế quốc tế sang hội nhập quốc
tế sâu rộng và toàn diện trong mọi lĩnh vực. Để có những “công dân toàn cầu”,
đủ sức cạnh tranh trong thị trường nhân lực thế giới thì tất yếu phải đổi mới
giáo dục đại học theo hướng vừa giữ được những nét đặc thù của giáo dục đại
học trong nước, vừa tiệm cận các chuẩn mực chung của giáo dục đại học thế
giới. Như vậy, nhu cầu phát triển nội tại của Việt Nam đòi hỏi giáo dục đại học
phải có sự “chuyển mình” mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, nhu cầu thay đổi giáo dục đại học còn xuất phát từ sự phát triển
mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Dưới tác động của cuộc
cách mạng này, kiến thức chuyên môn bị lạc hậu rất nhanh, tri thức mới
thông tin khoa học sẽ được tạo ra với cấp số nhân thể lưu giữ bằng những
phương tiện rất gọn nhẹ. Trong môi trường “số hóa”, giáo dục đại học sẽ được
thay đổi mạnh mẽ từ triết lý, mục tiêu giáo dục đến vai trò của người thầy, từ
phương pháp dạy học đến vị trí “trung tâm” của người học... Do đó, đổi mới
giáo dục nói chung, đổi mới giáo dục đại học nói riêng là một xu thế toàn cầu
Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế đó. Hiện nay, cuộc cạnh tranh giữa
các quốc gia thực chất chính là cuộc cạnh tranh về nguồn nhân lực và khoa học
- công nghệ, cho nên, suy cho cùng, đây chính sự cạnh tranh về chất lượng
nguồn nhân lực, yếu tố quyết định cơ hội phát triển.
Kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra
Sau hơn 8 năm thực hiện chủ trương đổi mới, giáo dục đại học Việt Nam
đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Trước hết, Việt Nam đã từng bước
thể chế hóa các quan điểm, nội dung của Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới
giáo dục thành chính sách, pháp luật của Nnước. Cụ thể, trong hai năm 2018
2019, Luật sửa đổi, bsung một số điều của Luật Giáo dục Đại học (năm
2018) Luật Giáo dục (năm 2019) do Bộ Giáo dục Đào tạo soạn thảo đã
được Quốc hội thông qua từng bước đi vào cuộc sống, tạo hành lang pháp
lOMoARcPSD| 58562220
cho các hoạt động đổi mới giáo dục đại học. Các sở giáo dục đại học được
trải rộng khắp các miền đất nước, tạo điều kiện nâng cao tính công bằng trong
việc tiếp cận loại hình giáo dục đại học của người dân.
Về công tác quản trị, điều hành hệ thống giáo dục đại học, Việt Nam đã từng
bước tăng cường quyền tự chủ của các trường đại học. Chất lượng giáo dục đại
học từng bước được nâng lên tiếp cận các chuẩn mực quốc tế. Năm 2019,
giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới (tăng 12 bậc
so với năm 2018). Công tác kiểm định bảo đảm chất lượng ngày càng đi vào
nền nếp. Tính đến ngày 31-12-2020, có 149 cơ sở giáo dục đại học và 9 trường
cao đẳng phạm đạt tiêu chuẩn kiểm định theo btiêu ckiểm định chất
lượng giáo dục đại học Việt Nam (chiếm khoảng 55% tổng số các trường đại
học trong cả nước), trong đó có 7 trường đại học đã được công nhận bởi các tổ
chức, kiểm định quốc tế. Năm 2020, lần đầu tiên Việt Nam có 3 trường đại học
được xếp trong nhóm 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới (Đại học Quốc gia
Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh Trường Đại học Bách
khoa Nội); 8 trường đại học của Việt Nam đã được đưa vào danh sách các
trường đại học hàng đầu châu Á.
Sự thăng tiến về thứ hạng của các trường đại học đi đôi với sự tăng cường về
chất lượng của đội ngũ giảng viên theo chuẩn quốc tế. Nếu như trước đây, việc
công nhận học hàm giáo sư, phó giáo sư và học vị tiến sĩ không bắt buộc phải
có bài báo công bố quốc tế thì từ năm 2018, quy chế mới đòi hỏi ứng viên phải
công bố quốc tế nằm trong danh mục các tạp chí uy tín như ISI hoặc
Scopus... Năm 2019, tổng số bài báo khoa học của Việt Nam được công btrên
hệ thống ISI/ Scopus 12.475 bài, đứng thứ 49 trên thế giới (tăng 2,7 lần so
với năm 2015)(1). Tính đến năm 2020, tỷ lệ giảng viên chức danh giáo sư,
phó giáo trong toàn bộ hệ thống giáo dục Việt Nam 6%, tỷ lệ giảng viên
có trình độ tiến sĩ là 22,7%.
Trong các trường đại học, việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi
số từng bước được triển khai phục vụ cho công tác dạy và học. Năm học 2020
- 2021, trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, klường, tất cả
các trường đại học đã tiến hành dạy trực tuyến, nhờ đó, việc dạy học vẫn
được bảo đảm chất lượng và kết thúc đúng thời hạn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, giáo dục đại học Việt Nam vẫn n
những hạn chế. Nhìn chung, giáo dục đại học vẫn tụt hậu so với các nước trong
khu vực và thế giới; phát triển chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ và chưa
đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh
tế, hội”(2). Vấn đề đặt ra hiện nay là, những hạn chế, yếu kém phải được
nhận thức sâu sắc để từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục nhằm đưa giáo dục
đại học Việt Nam lên một tầm cao mới.
lOMoARcPSD| 58562220
Thứ nhất, các trường đại học Việt Nam thường được tổ chức theo hệ thống
đại học chuyên ngành, như Đại học Thủy lợi, Đại học Y, Đại học Dược, Đại
học Kinh tế tài chính, Đại học Ngoại thương... Mặc đã bắt đầu mở đa ngành,
nhưng về cơ bản, đây vẫn là đại học chuyên ngành. Chương trình giáo dục vẫn
“nặng” về lý thuyết, “nhẹ” về thực hành và vận dụng kiến thức.
Thứ hai, chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo còn thấp so với yêu cầu
phát triển kinh tế - hội của đất nước, thiếu sự gắn kết với thị trường lao động.
Hiện nay, nhiều trường đại học mới chỉ cung cấp những mình có, chứ chưa
phải những gì hội cần. Đó một trong những do khiến năm 2020, Việt
Nam 225.000 cử nhân, kỹ sư, thạc tốt nghiệp ra trường nhưng chưa tìm
được việc làm, hoặc chấp nhận làm không đúng nghề nghiệp được đào tạo, gây
ra một sự lãng phí rất lớn. Theo kết quả khảo sát tại 60 doanh nghiệp trong lĩnh
vực dịch vụ công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh về “Đánh giá mức độ hài
lòng của doanh nghiệp về chất lượng của sinh viên được đào tạo trong năm
đầu tiên sau khi tốt nghiệp” (bộ tiêu chí để đánh giá kiến thức lý thuyết, kỹ
năng thực hành, trình độ ngoại ngữ, tác phong làm việc kỹ năng nghề
nghiệp), chỉ 5% tổng số sinh viên tham gia khảo sát được đánh giá mức
độ tốt, 15% mức khá, 30% mức độ trung bình 40% mức độ không
đạt(3).
Thứ ba, về phương pháp hình thức dạy học, nhiều trường đại học chưa
tiếp cận phương pháp “lấy người học làm trung tâm”, người thầy vẫn đóng vai
trò chủ đạo, người học vẫn rất thụ động và sự tương tác giữa thầy và trò không
nhiều. Tình trạng “quá tải” về kiến thức và thay đổi giáo trình liên tục cũng
hậu quả của cách dạy thiên về cung cấp kiến thức cụ thể, trong khi những kiến
thức này không ngừng được bổ sung. Mặc trong những năm gần đây, theo
chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hầu hết các trường đại học đã bắt đầu
giảng dạy theo chương trình tín chỉ như ở các nước trên thế giới, tuy nhiên, về
thực chất vẫn chưa thực sự đổi mới so với phương pháp giảng dạy trước đây,
chưa khác nhiều cách dạy các cấp giáo dục phổ thông. Cụ thể là, tính chủ
động của sinh viên chưa được phát huy; phương pháp giáo dục, kiểm tra
đánh giá còn lạc hậu, thiếu thực chất; việc giáo dục đạo đức, lối sống kỹ
năng làm việc chưa được chú trọng đúng mức... Đây điểm chưa hợp lý, bởi
mục tiêu của giáo dục phổ thông giáo dục đại học khác nhau. Giáo dục
phổ thông trang bị tri thức nền rèn luyện những phẩm chất bản cho
người học. Giáo dục đại học là rèn luyện kỹ năng thực hành tư duy sáng tạo,
dạy cách học, cách nghiên cứu. Do đó, phải nhanh chóng khắc phục tình
trạng “thầy đọc, trò chép” ở bậc đại học hiện nay.
Thứ tư, giáo dục đại học Việt Nam tương đối “khép kín”, chưa tạo được sự
liên thông giữa các chuẩn mực giáo dục đại học trong nước quốc tế. Ngay
cả trong nước, mặc được đặt dưới sự quản chung của Bộ Giáo dục Đào
tạo nhưng trên thực tế khả năng liên thông kiến thức giữa các sở giáo dục
lOMoARcPSD| 58562220
đại học vẫn còn hạn chế. Các trường đại học và các chuyên ngành ít thừa nhận
kết quả đào tạo của nhau nên người học gặp nhiều khó khăn khi chuyển trường,
chuyển ngành học. Việc liên thông kiến thức giữa cơ sở giáo dục đại học trong
nước và nước ngoài lại càng khó khăn hơn do có sự khác biệt về mục tiêu, nội
dung phương pháp đào tạo (trừ các chương trình liên kết quốc tế theo thỏa
thuận). Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới chưa công nhận văn bằng,
chứng chỉ đại học do Việt Nam đào tạo; do đó, người Việt Nam rất khó khăn
khi muốn ra nước ngoài tiếp tục học tập hay định cư, công tác.
Thứ năm, dù đã có chuyển biến trong thời gian gần đây nhưng số lượng các
công bquốc tế của các trường đại học Việt Nam vẫn còn thua kém nhiều
nước trong khu vực. Cùng với xu thế hội nhập quốc tế, số lượng và chất lượng
các công trình công bố trên các n phẩm khoa học quốc tế đã trở thành thước
đo quan trọng về chất lượng giáo dục đại học ở các quốc gia. Việt Nam hiện có
khoảng 9.000 giáo phó giáo sư, 24.000 tiến hơn 100.000 thạc sĩ,
nhưng số lượng công bố quốc tế còn khá hạn chế, chỉ số ảnh hưởng của các
công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam cũng thấp hơn so với một số
nước trong khu vực, như Thái Lan, Malaysia, Singapore...
Thứ sáu, số lượng các cơ sở đào tạo đại học gia tăng, quy mô tuyển sinh lớn,
đa dạng các ngành nghề. Tuy nhiên nhiều sở GDĐH chất lượng đào tạo chưa
đảm bảo, chưa xây dựng được chuẩn đầu vào, đầu ra, chưa xây dựng được nội
dung, chương trình giảng dạy; vẫn còn tình trạng “đem con bỏ chợ”, chạy theo
hình thức, hư danh, quảng bá thương hiệu nhà trường sai với thực tế, đánh lừa
tâm lí người học. Một số cơ sở GDĐH xuống cấp về cơ sở hạ tầng, thiếu trang
thiết bị thực hành; thiếu diện tích mặt bằng, không gian phục vụ cho việc học
tập, nghiên cứu, giảng dạy, phải thuê mượn, phân tán nhiều địa điểm, sở
khác nhau. Một số trường trong diện quy hoạch phải di rời ra khỏi nội đô nhưng
chậm thực hiện, gây những xáo trộn, lo lắng trong tâm lí giảng viên, sinh viên.
Một số trường đại học được xây dựng với quy mô lớn, được cấp phép đào tạo,
tuyển sinh nhưng do thiếu tầm nhìn, thiếu đánh giá thị trường, nhu cầu của
người học, thiếu bộ máy, cấu tổ chức nên không thể tuyển sinh, trường bị bỏ
hoang, gây lãng phí lớn. Cùng với đó là tình trạng chạy theo thành tích, lợi ích
cá nhân, vì đồng tiền, lợi ích nhóm, một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhân viên
dưới quyền của một số cơ sở, đơn vị đào tạo đã lợi dụng hình ảnh nhà trường,
chức vụ nhân để “dụ dỗ, lôi kéo” số học viên “lười học nhưng sính bằng cấp,
chứng chỉ” để đào tạo chui; người học chỉ cần ghi danh, đóng tiền, hợp lý hóa
hồ sơ là được cấp bằng.
Thứ bảy, tình trạng học nhưng không việc làm một trong những n
nguyên khiến nhiều học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông không
muốn học lên đại học chọn con đường học nghề, du học, xuất khẩu lao động,
lao động tự do. thiếu nguồn tuyển sinh đầu vào, phải tự chủ tài chính,
nhiều trường đã hạ điểm chuẩn, tiến hành nhiều phương thức xét tuyển, thậm
lOMoARcPSD| 58562220
chí mời gọi người học nhưng vẫn không đủ chỉ tiêu. Việc chạy theo số lượng,
hạ thấp chuẩn đầu vào cộng với tâm bất an của giảng viên, khiến cho chất
lượng đào tạo ngày càng thấp.
Thứ tám, tự chủ đại học đã trở thành chủ trương lớn nhưng việc phân định
giữa quản nhà nước với hoạt động quản trị trong các trường đại học còn chưa
ràng. Ngày 24-10-2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 77/NQ-CP,
“Về thí điểm đổi mới chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công
lập giai đoạn 2014 - 2017”, nhưng đến nay vẫn thiếu các hành lang pháp lý cụ
thể để thực hiện. Vai trò của hội đồng nhà trường trong các trường đại học còn
mờ nhạt; vai trò các cơ quan quản lý của Nhà nước vẫn còn rất lớn trong nhiều
nội dung, hoạt động của nhà trường, như bổ nhiệm chủ tịch hội đồng trường,
hiệu trưởng, biên chế, mức lương, định mức chi cho các nhiệm vụ khoa học...
Hạn chế của giáo dục đại học Việt Nam còn thể hiện qua một số vấn đề
khác, như xu hướng thương mại hóa giáo dục, thiếu cơ sở vật chất, sự đãi ngộ
chưa thỏa đáng đối với những người làm công tác giáo dục đại học...
Giải pháp thúc đẩy tiến trình đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam
Để đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam, cần tập
trung thực hiện một số giải pháp sau đây:
Để đảm bảo và nâng cao chất lượng GDĐH đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tình
hình mới, cần tiếp tục phát huy những thành tựu, kết quả đã được, đồng thời
khắc phục những bất cập, hạn chế để GDĐH xứng đáng bậc học kiểu mẫu,
tiên phong, dẫn dắt c bậc học khác cùng nỗ lực, cố gắng, hoàn thành tốt trọng
trách, sứ mệnh Đảng, Nhà nước, Nhân dân giao cho. Muốn thực hiện tốt
nhiệm vụ đó cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, như:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, cải cách về mặt thể chế, chế; chính sách đặc
thù, thông thoáng, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của lĩnh vực giáo dục
nói chung GDĐH nói riêng. Hiện nay, các quan quản lý, các sở GDĐH
cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc, vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, phù
hợp, hiệu quả tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW cũng như các chính sách mà
Nhà nước đã ban hành (Luật giáo dục đại học, Luật Giáo dục). Khẩn trương
hoàn thiện và ban hành Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2021-
2030, tầm nhìn đến năm 2045, tiến đến xây dựng chiến lược, kế hoạch về phát
triển giáo dục đại học Việt Nam, trong đó xác định mục tiêu, triết lý, tầm
nhìn, sứ mệnh và những nguyên tắc của GDĐH.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình,
phương thức, phương pháp giảng dạy, thi cử, kiểm tra, đánh giá bậc GDĐH
theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, đáp ứng những yêu cầu mới của phát
triển kinh tế - hội, khoa học công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư.
lOMoARcPSD| 58562220
Đối với GDĐH, cùng với việc trang bị kiến thức, nâng cao trình độ chuyên
môn, rèn luyện kỹ năng, nâng cao tay nghề, cần không ngừng chú trọng giáo
dục đạo đức, hình thành nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất
giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống lịch sử
dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các thế hệ sinh viên; khơi dậy trong thế
hệ trẻ khát vọng, lý tưởng cống hiến, phát triển vì sự phồn vinh, hạnh phúc của
đất nước, nhân dân.
Thứ hai, thực hành tốt tinh thần dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, giữ gìn
môi trường nhà trường luôn trong sạch, lành mạnh với những giá trị khoa học,
nhân văn, tiến bộ, sự phát triển toàn diện con người; tất cả vì tương lai của
thế hệ trẻ. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ đó, người đứng đầu sở GDĐH ngoài
năng lực, trình độ, uy tín chuyên môn phải luôn gương mẫu, đi đầu trong mọi
công việc, biết phát huy tinh thần đoàn kết, sức mạnh của tập thể, tôn trọng,
lắng nghe, tiếp thu những tiếng nói phản biện, tạo bầu không khí cởi mở, tạo sự
đồng cảm, chia sẻ, vì mục tiêu, sứ mệnh của nhà trường.
Việc tổ chức, thực thi chính ch giáo dục, như chính sách tuyển sinh, đào
tạo, hướng nghiệp, về công tác tổ chức cán bộ, tuyển dụng, đãi ngộ với giảng
viên,… phải đảm bảo đúng chủ trương của Đảng những quy định của Nhà
nước các quan, bộ ngành liên quan. Tránh tâm độc đoán, chuyên quyền,
tham nhũng, thương mại hóa kinh doanh giáo dục. Để tránh những sai sót,
những vi phạm trong lĩnh vực giáo dục, quan thanh tra cần thường xuyên
bám sát sở, nắm bắt kịp thời phản ánh của luận để biện pháp ngăn
chặn, xử lý, tránh những vụ việc, hiện tượng đáng tiếc xảy ra. Thực thi tốt mô
hình quản trị GDĐH hiện đại, trong đó phát huy stham gia tích cực của các
chủ thể: cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, Hội đồng trường, ban lãnh đạo
nhà trường, đội ngũ cán bộ, giảng viên, sinh viên, gia đình, xã hội và stham
gia của các công ty, doanh nghiệp, đối tác liên kết, hợp tác trong
GDĐH.
Đảm bảo tính nhân văn, nhân bản, tính chuẩn mực trong các sở GDĐH.
Bởi một sai phạm nhỏ trong giáo dục hay những hành vi lệch chuẩn của một số
thầy giáo, giảng viên khi bphát giác, tố cáo, xét xử sẽ để lại những dư chấn
lớn trong đời sống xã hội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân, đặc biệt để lại
những mối hoài nghi, những ấn tượng xấu trong ức của nhiều thế hệ học
sinh, sinh viên.
Thứ ba, tăng cường nguồn lực đầu tnguồn vốn ngân sách nhà nước,
nguồn vốn hội hóa đxây dựng sở hạ tầng, các thiết chế mang tính chuyên
biệt trong các trường đại học, như giảng đường; thư viện; khu thực hành, sản
xuất; không gian đổi mới sáng tạo; khu vui chơi giải trí, dịch vụ mua sắm, ẩm
thực; khu nhà ở công vụ, khu ký túc xá sinh viên, đảm bảm các không gian đó
tính kết nối, liên thông, đồng bộ, hiện đại, tạo không gian, môi trường học
lOMoARcPSD| 58562220
tập thuận lợi. Tăng cường khả năng kết nối, học tập, trao đổi nhóm, kích thích
khả năng sáng tạo và tinh thần chủ động, tích cực của mỗi sinh viên.
Mở rộng mối quan hệ, giao lưu, hợp tác giữa các sGDĐH trong ngoài
nước để trao đổi chuyên môn nghiệp vụ, chuyển giao tri thức, kinh nghiệm.
Đồng thời tăng cường kết nối với các doanh nghiệp, nhất doanh nghiệp
nhân, doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài để xây dựng chương trình đào
tạo đáp ứng nhu cầu của hội, đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp,
từ đó nâng cao tay nghề, trình độ mở rộng hội việc làm, thu nhập cho sinh
viên. Trong mối quan hệ, hợp tác này phải đảm bảo tính minh bạch, khách quan,
chiến lược dài hạn, đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan. Để mối quan
hệ, hợp tác giữa sở GDĐH doanh nghiệp ngày càng bền chặt, ngoài vai
trò chính của hai bên cần sự tham gia, tạo điều kiện của chính quyền địa phương
và các bộ ngành liên quan.
Thứ tư, cải thiện môi trường làm việc khoa học, dân chủ, đảm bảo tự do sáng
tạo. Thiết lập chế về tiền lương, phụ cấp ưu đãi đặc thù, xứng đáng với công
sức và những cống hiến của đội ngũ giảng viên GDĐH. Có chính sách thu hút,
trọng dụng nhân tài, nhất giảng viên trẻ, tài năng, triển vọng được đào tạo bài
bản nước ngoài, có uy tín chuyên môn và học thuật vào làm việc trong các
sở GDĐH.
Thứ năm, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong các cơ sở GDĐH,
bằng việc gìn giữ và phát huy truyền thống lịch sử vẻ vang của nhà trường với
những giá trị thiêng liêng các thế hệ thầy giáo, học sinh, sinh viên qua
các thời kỳ đã sáng tạo lên. Đồng thời xây dựng cảnh quan, không gian nhà
trường sáng, xanh, sạch, đẹp; hình thành phong cách ứng xử văn minh, lịch sự
theo chuẩn mực, quy tắc học đường. Kiến tạo và gìn giữ bản sắc, dấu ấn riêng,
tạo nên sự khác biệt, độc đáo của nhà trường, để những giá trị tinh thần đó trở
thành niềm tự hào động lực để mỗi sinh viên không ngừng phấn đấu, tu
dưỡng, trưởng thành.
Thứ 6, phải thay đổi triết giáo dục đại học. Thực tiễn cho thấy, muốn “con
tàu” giáo dục tiến lên thì trước hết cần phải một triết giáo dục phù hợp.
Đó những nguyên nền tảng chỉ đạo toàn bộ việc xác lập mục tiêu, nội dung,
phương pháp thực hiện hoạt động giáo dục được đúc kết bằng những câu nói
ngắn gọn. Cần chuyển nền giáo dục lấy trang bị kiến thức làm mục tiêu chủ yếu
sang một nền giáo dục dạy kỹ năng, dạy cách tự học, cách tư duy làm chủ yếu.
Trong quy trình dạy học đó, sinh viên đóng vai trò chủ động; giảng viên chỉ là
người hướng dẫn, định hướng cho sinh viên cách thu nhận kiến thức và hỗ trợ,
giải đáp các thắc mắc khi cần thiết. Đi theo sự đổi mới này hàng loạt các thay
đổi căn bản, từ chương trình khung đến giáo trình và phương pháp giảng dạy...
Nền giáo dục ngày nay là nền giáo dục khai phóng nên giảng viên phải chuyển
từ dạy tri thức sang dạy cách học, dạy cách tư duy. Do đó, người thầy không
nên “nhồi nhét” kiến thức, mà phải trang bị cho người học thói quen “hoài nghi
lOMoARcPSD| 58562220
khoa học”, năng lực phản biện các tri thức có sẵn và sáng tạo ra những tri thức
mới. Cũng phải thay đổi một cách căn bản hệ thống đánh giá từ kiểm tra kiến
thức sang đánh giá năng lực. Các trường đại học phải cam kết “chuẩn đầu ra”
phù hợp với yêu cầu, nhu cầu của hội, chứ không phải “chuẩn đầu ra” do
trường, cụ thể hơn nữa là do giáo viên txác định. Để giáo dục đại học Việt
Nam gắn kết với nhu cầu xã hội thì giáo dục đại học phải gắn kết chặt chẽ hơn
với các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng lao động.
Thứ 7, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ làm công tác quản
giáo dục đại học. Chất lượng của hthống giáo dục đại học luôn gắn chặt với
chất lượng của đội ngũ giảng viên. Để xây dựng, phát triển đội ngũ này, cần có
quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, chính sách thu hút các
sinh viên giỏi lại trường làm công tác giảng dạy. Tạo điều kiện để các nhà
khoa học Việt Nam ở nước ngoài các chuyên gia quốc tế tham gia vào việc
giảng dạy, nghiên cứu của các trường đại học trong nước. Bên cạnh đó, cần có
những người làm công tác quản lý giáo dục đủ tâm, đủ tầm, đủ tài để sử dụng
đúng người, giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh trong giáo dục đại học theo tinh
thần dân chủ. Cải thiện chế độ, chính sách đãi ngộ giảng viên, cán bộ quản lý
giáo dục, vì đến nay, nghề giáo vẫn nghề thu nhập thấp trong hội. Tăng
cường hơn nữa công tác thông tin, truyền thông để xã hội thấu hiểu, chia sẻ với
những khó khăn, vất vả của đội ngũ nhà giáo giữ gìn truyền thống “tôn sư,
trọng đạo” của văn hóa Việt Nam.
Thứ 8, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đại học và tăng cường hợp tác,
hội nhập quốc tế về đào tạo đại học. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, từng bước hoàn
thiện hệ thống chính sách, pháp luật, các quy định khuyến khích các nđầu
trong và ngoài nước tích cực đầu cho giáo dục đại học ở Việt Nam; khuyến
khích tạo điều kiện để các trường đại học quốc tế hàng đầu mở sđào tạo
Việt Nam, đặc biệt là các cơ sở hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Hiện
nay, một số trường đại học nước ngoài đã mở chi nhánh hoặc liên kết với Việt
Nam, như Đại học RMIT (Úc), Đại học Việt - Nhật, Đại học Công nghệ
Swinburne (Úc) liên kết với tập đoàn FPT Việt Nam, Đại học Staffordshire
(Anh) liên kết với British University Việt Nam (BUV)... Bên cạnh đó, tạo
hội để sinh viên tham gia các chương trình trao đổi hoặc du học tại chỗ, mở các
cuộc hội thảo, tọa đàm quốc tế về chuyên môn phương pháp giảng dạy đại
học để nâng cao tính học thuật, kỹ năng dạy học tiên tiến cho đội ngiảng
viên. chế, chính sách động viên, khuyến khích các nhà khoa học tích cực
công bố kết quả nghiên cứu trên các ấn phẩm khoa học quốc tế uy tín, coi
đó tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công tác nghiên cứu khoa học của
các trường đại học và các giảng viên.
Thứ 9, tiếp tục đẩy nhanh quá trình “chuyển đổi số” trong giáo dục đại học.
Triển khai xây dựng hiệu quả sở dữ liệu ngành, đẩy mạnh kỹ năng và
nâng cao chất lượng dạy học trực tuyến, dịch vụ công trực tuyến. Tiếp tục sử
lOMoARcPSD| 58562220
dụng hiệu quả hệ thống trao đổi văn bản điện tử, chữ số liên thông giữa
Bộ Giáo dục và Đào tạo với cơ sở giáo dục, cá nhân có liên quan... để giảm bớt
các thủ tục phiền hà cho các đối tượng tham gia vào hoạt động giáo dục đại
học.
Trong bối cảnh internet, mạng hội phát triển mạnh mẽ như hiện nay, những
mối quan hệ, tương tác của sinh viên trên môi trường ảo tất yếu. Để định
hướng tốt học sinh, sinh viên đến với những gtrị tốt đẹp, tránh xa cái xấu, cái
ác, các quan, đoàn thể chính trị - hội, như Đoàn Thanh niên, Hội Sinh
viên, Công đoàn nhà trường, các thầy giáo cần sự phối kết hợp chặt chẽ
để tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho sinh viên về kỹ năng sống, cách thức
giao tiếp, xử thông tin trên môi trường mạng. Tổ chức có hiệu quả các hoạt
động, phong trào văn hóa, văn nghệ, thu hút sự tham gia của sinh viên, tạo sự
đoàn kết, chia sẻ, thông hiểu lẫn nhau để cùng xử những vấn đề mới, phức
tạp, nảy sinh, hướng đến những giá trị tốt đẹp của chân, thiện, mỹ.
Giáo dục đại học bậc học quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân
nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập quốc tế. Để nâng cao chất lượng GDĐH
cần thực hiện nhiều giải pháp, trong đó đổi mới về cơ chế, chính sách, về năng
lực quản trị, điều hành GDĐH; thực thi tốt tinh thần dân chủ, tạo niềm tin, sức
hấp dẫn đối với cộng đồng, xã hội, đặc biệt thế hệ trẻ, sẽ nhân tố, điều kiện
quan trọng để nâng cao chất lượng GDĐH trong bối cảnh hiện nay, góp phần
tạo ra những thế hệ con người Việt Nam mới trình độ, tri thức, kỹ năng nghề
nghiệp, năng lực, phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm hội, tạo
sức mạnh, nguồn lực nội sinh để hiện thực khát vọng xây dựng nước Việt Nam
phồn vinh, hạnh phúc như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra.
Với những thay đổi trong xu hướng phát triển giáo dục nói chung giáo
dục đại học nói riêng, cải cách giáo dục giáo dục đại học một xu hướng
tất yếu của mỗi quốc gia. Việc tổng hợp các xu hướng phát triển giáo dục đại
học trong giai đoạn hiện nay giúp các cơ sở giáo dục đại học có góc nhìn tổng
thể từ đó xác định được vai trò, trách nhiệm cũng như chiến lược phát triển,
tránh được những “va đập” giữa mong muốn và thực tế trong quá trình tổ chức
thực hiện các mục tiêu giáo dục. đất nước đang phát triển, hiện nay giáo dục
đại học của Việt Nam gặp phải rất nhiều khó khăn, sự cạnh tranh cũng như
những đòi hỏi từ nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội đã đặt ra cho các cơ sở giáo
dục đại học những thách thức phải vượt qua. Điều này đặt ra cho hệ thống giáo
dục và cơ sở giáo dục đại học cần lựa chọn đúng các giải pháp đột phá để lãnh
đạo dẫn dắt quá trình đổi mới giáo dục đại học đạt hiệu quả, thực hiện được vai
trò định hướng sự phát triển của kinh tế xã hội.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58562220
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM GIẢNG VIÊN BÀI THU HOẠCH
MÔN:GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
LỚP: K5.2023.TC.NVSP GIẢNG VIÊN
Họ và tên : Thái Ngọc Thịnh
Ngày sinh : 24/07/1999 Nơi sinh: Cần Thơ STT: 174 lOMoAR cPSD| 58562220
Đề tài: Giáo dục đại học thế giới và Việt Nam:
Anh (chị) hãy trình bày các xu hướng phát triển giáo dục đại học hiện nay.
Anh (chị) hãy đề xuất một số giải pháp phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam trong thời gian tới. Bài làm
Các xu hướng phát triển của giáo dục đại học trên thế giới 1. Quốc tế hóa
Bên cạnh nhiệm vụ phát triển nghiên cứu, giảng dạy và đổi mới, sự quốc tế
hóa trong giáo dục ngày càng được xem là phương tiện để phát triển tầm nhìn
và ảnh hưởng của cơ sở đào tạo và của quốc gia. Báo cáo của Hội đồng Anh về
các chính sách quốc gia liên quan đến sự tham gia quốc tế vào giáo dục đại học
cho thấy, số lượng các quốc gia cam kết vào sự quốc tế hóa trong giáo dục đại
học gia tăng. Ví dụ, 23 trong số 26 quốc gia được nghiên cứu hiện đang có các
chính sách hiệu quả nhằm thúc đẩy các chương trình du học; trao đổi học tập
của sinh viên. Các quốc gia được đánh giá là cởi mở nhất trong các chính sách
ủng hộ việc trao đổi và quốc tế hóa là Australia, Đức, Anh, Malaysia và Trung
Quốc. Một số quốc gia khác, như Pháp cũng đang thúc đẩy xu hướng đó. Năm
2013, các trường đại học tổng hợp, các trường đào tạo kỹ sư và các trung tâm
nghiên cứu (như CNRS) đã hợp nhau lại thành các cụm nghiên cứu với các
chính sách nghiên cứu, điều phối và đào tạo được quyết định ở phạm vi khu
vực chứ không phải ở phạm vi cơ sở đào tạo (được gọi là COMUE). Các quy
định mới về cấp thị thực nhập cảnh và yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính
cho sinh viên quốc tế đã được thực hiện, thêm vào đó, việc gia tăng số lượng
các khóa học bằng tiếng Anh và các lớp học tiếng Pháp cho sinh viên quốc tế
không thuộc khối Pháp ngữ là một phần của sự quốc tế hóa này. Giáo dục xuyên
quốc gia (Transnational education, TNE) là một phần của sự quốc tế hóa trong giáo dục đại học.
Giáo dục xuyên quốc gia được hiểu là sự cung cấp giáo dục mà “người học
ở một quốc gia khác với quốc gia đặt cơ sở giáo dục”, có thể gọi là xuất khẩu giáo dục.
Trên bình diện toàn cầu, một cuộc khảo sát năm 2011 về các chương trình
liên kết và cấp bằng quốc tế đã làm sáng tỏ mức độ phổ biến của chúng. Phần
lớn các chương trình đều ở trình độ thạc sĩ (53%), ngoại trừ Úc phần lớn ở trình
độ tiến sĩ và ở Mỹ phần lớn là các khóa đào tạo đại học. Các lĩnh vực phổ biến
nhất là kinh doanh, quản lý và kỹ thuật. Các cơ sở đào tạo của Pháp, Đức và Ý
có xu hướng đưa ra các chương trình liên kết và chương trình song bằng từ
những năm 1990, trong khi Anh và Úc bắt đầu gần đây hơn. Hình thức mở các
chi nhánh đại học quốc tế vẫn đang phát triển rộng rãi. Có khoảng 200 chi nhánh
đại học trên toàn thế giới, phục vụ khoảng 120 000 sinh viên. Tiểu vương quốc
Ả rập Thống nhất là quốc gia chủ nhà phổ biến nhất với 37 chi nhánh đại học
và Hoa Kỳ là nguồn cung cấp phổ biến nhất với 78 chi nhánh đại học trên toàn
thế giới. Úc là một trong những nước có các chi nhánh đại học hiện diện ở bất lOMoAR cPSD| 58562220
kỳ quốc gia nào. Khoảng một phần tư các trường đại học của Úc được đặt ngoài
nước Úc. Các đối tác hàng đầu của Úc là Trung Quốc, Singapore và Indonexia. 2. Hợp tác nghiên cứu
Theo Số liệu của Scopus và Thomson Reuters, tổng số bài báo nghiên cứu
toàn cầu chỉ tập trung vào một số ít các quốc gia: trong thời gian từ 1996 2010,
chỉ có 5 quốc gia chiếm hơn một nửa tổng số (Hoa Kỳ, Trung Quốc, Anh, Nhật
và Đức) và 15 quốc gia chiếm hơn ba phần tư tổng số.
Hợp tác quốc tế về nghiên cứu có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia, tỉ
lệ trung bình hiện nay khoảng 45% ở Anh, 30% ở Mỹ, 15% ở Trung Quốc, 45
- 50% ở Đức và Hà Lan, và cao nhất 65% ở Thụy Sĩ. Năm 2010, các quốc gia
hàng đầu về xuất bản các bài báo nghiên cứu học thuật thông qua hợp tác quốc
tế là Mỹ (143.000), Anh (62.000), Đức (58.000), Trung Quốc (47.000), Pháp
(44.000), Canada (35.000) và Ý (30.000). Có mối tương quan chặt chẽ giữa tỉ
lệ hợp tác nghiên cứu quốc tế và trích dẫn tài liệu. Mặc dù đó không phải là mối
quan hệ nhân quả, nhưng mối liên hệ này là tích cực và có ý nghĩa thống kê
(năm 2010, 80% sự thay đổi trong chỉ số trích dẫn tài liệu được lí giải bởi tỉ lệ
hợp tác nghiên cứu quốc tế). 3. Xu hướng di chuyển trong sinh viên
Số lượng sinh viên lựa chọn học tập tại một trường đại học ở nước ngoài đã
tăng mạnh trong những thập kỷ gần đây, tăng gần gấp bốn lần từ 1,3 triệu vào
năm 1990 lên 5 triệu vào năm 2014. Báo cáo về xu hướng năm 2015 nhấn mạnh,
sự di chuyển toàn cầu trong sinh viên đã thay đổi đáng kể từ hơn một thập kỷ
qua, từ chỗ sinh viên di chuyển theo một hướng duy nhất từ đông sang tây sang
một trào lưu di chuyển đa hướng và bao gồm cả việc gửi đi và đón tiếp ở các
quốc gia phi truyền thống. 6% sinh viên đại học thuộc khối các quốc gia OECD
là quốc tế, tỉ lệ này có sự khác biệt lớn giữa các quốc gia. Hơn một phần năm
(21,1%) sinh viên ở Anh là sinh viên quốc tế - nhiều hơn bất kỳ quốc gia lớn
nào khác, tiếp đến là Úc với 20,7%, so với 8% ở Đức và 5% ở Hoa Kỳ.
Các con số đã khẳng định sự gia tăng của một xu hướng mới trong di chuyển
của sinh viên, đó là xu hướng du học gần nhà. Ở Mỹ La tinh, tỉ lệ sinh viên du
học trong khu vực tăng từ 11% năm 1999 lên 23% năm 2007, trong khi tỉ lệ
sinh viên Đông Á lựa chọn du học tại các nước ASEAN tăng từ 26% lên 42%
trong cùng thời gian đó. Không dưới 91% sinh viên quốc tế tại Nhật Bản đến từ châu Á.
4. Tập trung vào đảm bảo chất lượng
Trong thập kỷ qua, nhiều quốc gia đã nhấn mạnh việc mở rộng cơ hội tiếp
cận giáo dục đại học, tăng trưởng mạnh về số lượng các trường đại học và
chương trình đào tạo. Tỉ lệ nhập học đại học toàn cầu (tỉ lệ dân số trong độ tuổi
sinh viên tại trường đại học) tăng từ 14% lên 32% trong hai thập kỷ tính đến năm 2012.
Sự đại chúng hóa nhanh chóng này đã tạo ra một động thái ở nhiều nước
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Ở Nam Á và châu Mỹ La tinh nói
riêng, rất ít trường đại học xuất hiện trong các bảng xếp hạng quốc tế, thiếu
giảng viên có trình độ, phương pháp giảng dạy và kiểm soát chất lượng thường lOMoAR cPSD| 58562220
lạc hậu. Mục tiêu cung cấp giảng dạy và nghiên cứu chất lượng cao thông qua
một hệ thống giáo dục đại học được quốc tế công nhận để đào tạo ra những sinh
viên tốt nghiệp được trang bị các kỹ năng theo yêu cầu của các nhà tuyển dụng
địa phương và khu vực là trọng tâm của tất cả các cải cách giáo dục quốc gia.
Nhưng cách thức mà các quốc gia nhắm đến để đạt được mục tiêu đó rất khác nhau.
Chúng ta sẽ tìm hiểu 2 ví dụ cụ thể về các chương trình cải tổ giáo dục đại
học gần đây của Ecuador và Ấn Độ. Trong khi Ecuador tập trung vào việc đo
lường và đánh giá kết quả học tập của sinh viên thì Bộ Giáo dục Ấn Độ lại lựa
chọn nâng cấp cơ sở hạ tầng giáo dục đại học. Thực thi chính thức vào năm
2010, 71 trường đại học của Ecuador phục vụ 600 000 sinh viên trong nước
được đánh giá và xếp hạng, trong số đó 14 cơ sở bị yêu cầu đóng cửa, 26 trường
khác cần được cải thiện nhiều. Các cuộc cải tổ bao gồm một bài kiểm tra năng
lực tuyển sinh đối với các trường đại học công lập - lần đầu tiên ở Ecuador - và
yêu cầu đối với giảng viên là phải có ít nhất trình độ thạc sĩ và ưu tiên trình độ
tiến sĩ. Để cải thiện chất lượng giảng dạy, học bổng chính phủ được cấp cho
nghiên cứu sau đại học ở nước ngoài với 3000 học bổng được trao vào năm
2012. Kể từ khi bắt đầu cải cách giáo dục, xếp hạng giáo dục đại học của
Ecuador trong bảng Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu trên Diễn đàn Kinh tế
thế giới đã cải thiện đáng kể, từ 93-108 năm 2012 đến 73 năm 2016 - 2017.
Tỉ lệ nhập học đại học ở Ấn Độ tăng rất cao trong thập kỷ vừa qua, gấp hai
lần từ 14 triệu năm 2007 lên 28 triệu năm 2013. Ấn Độ được dự báo là nước có
dân số trong độ tuổi sinh viên lớn nhất thế giới vào năm 2025, khoảng 119 triệu.
Kiểm soát chất lượng giáo dục đại học ở Ấn Độ đi sau so với việc mở rộng các
tổ chức giáo dục đại học. Kế hoạch năm năm lần thứ mười hai của chính phủ
Ấn Độ, được đưa ra vào năm 2012, nhấn mạnh sự cần thiết phải tập trung vào
sự hiệu quả trong giảng dạy và nghiên cứu để cải thiện chất lượng sinh viên tốt
nghiệp và chất lượng nghiên cứu trong các trường đại học. Một phần trong kế
hoạch này là một cơ quan đảm bảo chất lượng với ngân sách 1,5 tỷ USD được
công bố vào tháng 2 năm 2016 để tăng cường hệ thống kiểm định, nhân đôi số
lượng giảng viên và sẽ chuyển hệ thống kiểm định của Ấn Độ sang hình thức
đánh giá được quốc tế công nhận.
5. Áp lực tìm kiếm việc làm cho sinh viên tốt nghiệp
Áp lực của sinh viên lên các trường đại học nhằm giúp họ có việc làm tốt
không còn là điều mới mẻ, nó cũng đang trở thành ưu tiên lớn đối với các chính
phủ. Chính phủ ở nhiều nước trong những năm gần đây đã gây áp lực lên các
trường đại học phải có ảnh hưởng và đáp ứng nhu cầu xã hội. Điều này ban đầu
tập trung vào nghiên cứu ứng dụng và mở rộng quyền học đại học, nhưng gần
đây, việc cải thiện cơ hội có công ăn việc làm cũng được bổ sung.
Người ta có thể mong đợi các thị trường việc làm có tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp
đại học thấp để nhanh chóng tiếp nhận sinh viên mới tốt nghiệp. Nhưng ở nhiều
nước đang phát triển, một sự thật ngược lại là: nhà tuyển dụng nghi ngờ về mức
độ sẵn sàng cho công việc của sinh viên tốt nghiệp, kết quả là mức thất nghiệp lOMoAR cPSD| 58562220
cao. Ví dụ, ở Ấn Độ, một cuộc khảo sát của các nhà tuyển dụng cho thấy chỉ có
7% sinh viên tốt nghiệp kỹ sư (một lĩnh vực có triển vọng việc làm cao) là sẵn
sàng đối với công việc. Các kỹ năng đặc biệt thiếu bao gồm kỹ năng tiếng Anh
và khả năng áp dụng các vấn đề lý luận vào thực tiễn. Một nghiên cứu quy mô
của Hội đồng Anh về việc làm của sinh viên tốt nghiệp đại học ở châu Phi cho
thấy “các nhà tuyển dụng trong khu vực phàn nàn về việc sinh viên thiếu kiến
thức cơ bản, các kỹ năng kỹ thuật và kỹ năng có thể chuyển giao’’. Chất lượng
giảng dạy không đồng đều và kém là hậu quả của đội ngũ nhân viên kém chất
lượng, quy mô lớp học lớn và phương pháp giảng dạy lỗi thời. Đáp lại mối quan
tâm này, hai bảng xếp hạng đại học tập trung vào việc làm đã xuất hiện. Thời
báo Giáo dục Đại học (The Times Higher Education, THE) hiện công bố một
bảng xếp hạng dựa trên việc khảo sát các nhà tuyển dụng trong khi QS đã xây
dựng một bảng xếp hạng việc làm dựa trên năm tiêu chí: danh tiếng của nhà
tuyển dụng, kết quả của cựu sinh viên, các đối tác tuyển dụng, mối quan hệ giữa
sinh viên và nhà tuyển dụng và tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm. Hai
phương pháp này đưa ra một danh sách các trường đứng đầu có mối tương quan
mạnh mẽ với các bảng xếp hạng đại học tổng thể (Stanford, MIT, Oxford,
Princeton và Cambridge nằm trong top 10 của bảng). Đứng đầu về mục tiêu
việc làm bao gồm Đại học Thanh Hoa (thứ 3 trong xếp hạng QS), Đại học
Sydney (thứ 4 trong xếp hạng QS), Trường Đại học Bách Khoa Paris (thứ 6
trong xếp hạng QS) và Đại học Kỹ thuật Munich (thứ 9 trong Thời báo Giáo dục đại học)
6. Số hóa trong giáo dục đại học
Sự xuất hiện các khóa học mở trực tuyến đại chúng (MOOCs) vào năm 2012,
đã đem lại sự chú ý đến học tập điện tử trong giáo dục đại học. Số hóa trong
học tập và giảng dạy đại học luôn là vấn đề được quan tâm trong các chương
trình nghị sự chính sách ở cả cấp độ châu Âu, cấp độ quốc gia và các tổ chức
giáo dục đại học. Năm 2015, các bộ trưởng giáo dục đại học ở Khu vực châu
Âu đã kêu gọi khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức giáo dục đại học khai thác
triệt để lợi ích của công nghệ số trong học tập và giảng dạy. Cho đến nay, các
hành động cụ thể hơn của tiến trình Bologna về việc học tập kỹ thuật số vẫn
đang được phát triển. Báo cáo triển khai tiến trình Bologna 2018 lần thứ nhất
đã theo dõi sự phát triển của học tập kỹ thuật số: Trong số 50 hệ thống giáo dục
đại học được điều tra, 38 hệ thống đã có chiến lược hoặc chính sách về việc sử
dụng công nghệ số trong học tập và giảng dạy. Dạy học kết hợp (Blended
learning) cũng được xác nhận là phổ biến nhất trên khắp khu vực giáo dục đại
học châu Âu: Mặc dù dạy học trực tuyến toàn phần mới được cung cấp ở 18
quốc gia, 39 quốc gia cho biết một số tổ chức giáo dục đại học của họ cung cấp
các chương trình dạy học kết hợp.
Kết quả thu được từ khảo sát về các xu hướng năm 2018 cho thấy sự hiện
diện của học tập kỹ thuật số đã được củng cố tại các tổ chức giáo dục đại học
trong những năm gần đây. Các tổ chức này đã khẳng định mức độ chấp nhận
cao đối với việc học kỹ thuật số nói chung (93%), sử dụng nó một cách chiến lOMoAR cPSD| 58562220
lược (87%), tích hợp vào các chiến lược của tổ chức (85%) và tăng cường sử
dụng trong giảng dạy thường xuyên (87%). 93% công nhận học tập kỹ thuật số
được sử dụng để đổi mới việc học và dạy. Tất cả các quốc gia, các tổ chức đều
có xu hướng nhìn nhận đổi mới trong học tập và giảng dạy liên quan chặt chẽ
với học tập điện tử và số hóa. Trong số các ví dụ về đổi mới học tập và giảng
dạy, học tập điện tử và các biện pháp kỹ thuật số khác (học tập kết hợp, học tập
mã nguồn mở MOOCs, sử dụng các nền tảng họ tập điện tử, v.v.) được nhắc đến nhiều nhất.
Có thể thấy, ngày nay, sự phát triển của giáo dục đại học trên thế giới chịu
ảnh hưởng của quá trình vận động kinh tế - xã hội cũng như xu thế toàn cầu
hóa. Mặc dù mỗi quốc gia có những đặc điểm riêng về kinh tế, chính trị, xã hội
và văn hóa, tuy nhiên các trường đại học tại mỗi quốc gia khác nhau đều đứng
trước những thách thức và cơ hội cơ bản theo các xu hướng nêu trên. Việc tổng
hợp các xu hướng phát triển của giáo dục đại học trên thế giới giúp các trường
đại học có những kế hoạch thực hiện thay đổi phù hợp với yêu cầu của sự phát
kinh tế - xã hội và xu thế phát triển của thời đại, khẳng định giá trị đối với xã
hội, là động lực có ý nghĩa định hướng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của
mỗi quốc gia. Các xu thế trên đây phản ánh những nỗ lực của các trường đại
học nhằm đáp ứng với những thay đổi mạnh mẽ đang diễn ra trên thế giới. Các
trường đại học, với tư cách là trung tâm trí tuệ của xã hội, đang “gồng mình”
bước những bước dài để tránh sự tụt hậu so với sự biến đổi của thế giới, đáp
ứng những đòi hỏi ngày càng cao và ngày càng đa dạng từ nhiều phía. Họ đang
tái khẳng định ý nghĩa của mình đối với xã hội, trong bối cảnh truyền thông xã
hội dựa trên những tiến bộ của công nghệ thông tin đã làm biến đổ sâu sắc cách
thức làm việc và giao tiếp của tất cả mọi người.
Để đưa ra được những giải pháp phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam trong
thời gian tới ta cần nắm rõ thực trạng giáo dục đại học hiện tại cùng với tính
cấp thiết đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam:
Xét về mặt lịch sử, tính từ khi Văn Miếu - Quốc Tử Giám ra đời (năm 1070),
giáo dục đại học Việt Nam đã có bề dày trên cả ngàn năm. Sự nghiệp giáo dục
đại học hình thành sau Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) cũng đã trải qua hơn
75 năm phát triển. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn nhất quán khẳng định,
giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát
triển và giáo dục phải được ưu tiên, đi trước so với các lĩnh vực khác. Để đáp
ứng những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của
Đảng thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-112013, “Về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế”. Từ đó đến nay, công cuộc đổi mới giáo dục đại học được tiến hành ở
Việt Nam với mục tiêu là tạo ra sự chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng,
hiệu quả giáo dục, đào tạo nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Nghị quyết cũng đề ra lOMoAR cPSD| 58562220
mục tiêu đến năm 2030, giáo dục đại học Việt Nam sẽ đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Sự cần thiết phải đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam được quy định bởi
tình hình phát triển của đất nước và xu thế chung của thế giới. Ở trong nước,
công cuộc đổi mới đã diễn ra được hơn 35 năm và ngày càng đi vào chiều sâu.
Yêu cầu chuyển đổi mô hình kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu và sự cần
thiết tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu quả, có sức cạnh tranh
cao đòi hỏi giáo dục đại học phải đáp ứng nhu cầu học tập của người dân và
nhanh chóng góp phần đào tạo ra đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Nếu không
có sự đổi mới thì dẫn đến nguồn nhân lực kém chất lượng và sẽ là một trong
những yếu tố cản trở sự phát triển của đất nước.
Việt Nam là một trong những quốc gia tích cực, chủ động hội nhập quốc tế
bởi thấy rõ tính khách quan của tiến trình này trong sự phát triển của nhân loại.
Vì thế, sau khi thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội vào năm 1996,
Việt Nam đã từng bước chuyển từ hội nhập kinh tế quốc tế sang hội nhập quốc
tế sâu rộng và toàn diện trong mọi lĩnh vực. Để có những “công dân toàn cầu”,
đủ sức cạnh tranh trong thị trường nhân lực thế giới thì tất yếu phải đổi mới
giáo dục đại học theo hướng vừa giữ được những nét đặc thù của giáo dục đại
học trong nước, vừa tiệm cận các chuẩn mực chung của giáo dục đại học thế
giới. Như vậy, nhu cầu phát triển nội tại của Việt Nam đòi hỏi giáo dục đại học
phải có sự “chuyển mình” mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, nhu cầu thay đổi giáo dục đại học còn xuất phát từ sự phát triển
mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Dưới tác động của cuộc
cách mạng này, kiến thức chuyên môn bị lạc hậu rất nhanh, tri thức mới và
thông tin khoa học sẽ được tạo ra với cấp số nhân và có thể lưu giữ bằng những
phương tiện rất gọn nhẹ. Trong môi trường “số hóa”, giáo dục đại học sẽ được
thay đổi mạnh mẽ từ triết lý, mục tiêu giáo dục đến vai trò của người thầy, từ
phương pháp dạy học đến vị trí “trung tâm” của người học... Do đó, đổi mới
giáo dục nói chung, đổi mới giáo dục đại học nói riêng là một xu thế toàn cầu
và Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế đó. Hiện nay, cuộc cạnh tranh giữa
các quốc gia thực chất chính là cuộc cạnh tranh về nguồn nhân lực và khoa học
- công nghệ, cho nên, suy cho cùng, đây chính là sự cạnh tranh về chất lượng
nguồn nhân lực, yếu tố quyết định cơ hội phát triển.
Kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra
Sau hơn 8 năm thực hiện chủ trương đổi mới, giáo dục đại học ở Việt Nam
đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ. Trước hết, Việt Nam đã từng bước
thể chế hóa các quan điểm, nội dung của Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới
giáo dục thành chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cụ thể, trong hai năm 2018
và 2019, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học (năm
2018) và Luật Giáo dục (năm 2019) do Bộ Giáo dục và Đào tạo soạn thảo đã
được Quốc hội thông qua và từng bước đi vào cuộc sống, tạo hành lang pháp lOMoAR cPSD| 58562220
lý cho các hoạt động đổi mới giáo dục đại học. Các cơ sở giáo dục đại học được
trải rộng khắp các miền đất nước, tạo điều kiện nâng cao tính công bằng trong
việc tiếp cận loại hình giáo dục đại học của người dân.
Về công tác quản trị, điều hành hệ thống giáo dục đại học, Việt Nam đã từng
bước tăng cường quyền tự chủ của các trường đại học. Chất lượng giáo dục đại
học từng bước được nâng lên và tiếp cận các chuẩn mực quốc tế. Năm 2019,
giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới (tăng 12 bậc
so với năm 2018). Công tác kiểm định và bảo đảm chất lượng ngày càng đi vào
nền nếp. Tính đến ngày 31-12-2020, có 149 cơ sở giáo dục đại học và 9 trường
cao đẳng sư phạm đạt tiêu chuẩn kiểm định theo bộ tiêu chí kiểm định chất
lượng giáo dục đại học Việt Nam (chiếm khoảng 55% tổng số các trường đại
học trong cả nước), trong đó có 7 trường đại học đã được công nhận bởi các tổ
chức, kiểm định quốc tế. Năm 2020, lần đầu tiên Việt Nam có 3 trường đại học
được xếp trong nhóm 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới (Đại học Quốc gia
Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Trường Đại học Bách
khoa Hà Nội); 8 trường đại học của Việt Nam đã được đưa vào danh sách các
trường đại học hàng đầu châu Á.
Sự thăng tiến về thứ hạng của các trường đại học đi đôi với sự tăng cường về
chất lượng của đội ngũ giảng viên theo chuẩn quốc tế. Nếu như trước đây, việc
công nhận học hàm giáo sư, phó giáo sư và học vị tiến sĩ không bắt buộc phải
có bài báo công bố quốc tế thì từ năm 2018, quy chế mới đòi hỏi ứng viên phải
có công bố quốc tế nằm trong danh mục các tạp chí có uy tín như ISI hoặc
Scopus... Năm 2019, tổng số bài báo khoa học của Việt Nam được công bố trên
hệ thống ISI/ Scopus là 12.475 bài, đứng thứ 49 trên thế giới (tăng 2,7 lần so
với năm 2015)(1). Tính đến năm 2020, tỷ lệ giảng viên có chức danh giáo sư,
phó giáo sư trong toàn bộ hệ thống giáo dục Việt Nam là 6%, tỷ lệ giảng viên
có trình độ tiến sĩ là 22,7%.
Trong các trường đại học, việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi
số từng bước được triển khai phục vụ cho công tác dạy và học. Năm học 2020
- 2021, trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, khó lường, tất cả
các trường đại học đã tiến hành dạy trực tuyến, nhờ đó, việc dạy và học vẫn
được bảo đảm chất lượng và kết thúc đúng thời hạn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, giáo dục đại học Việt Nam vẫn còn
những hạn chế. Nhìn chung, giáo dục đại học vẫn tụt hậu so với các nước trong
khu vực và thế giới; phát triển chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ và chưa
đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh
tế, xã hội”(2). Vấn đề đặt ra hiện nay là, những hạn chế, yếu kém phải được
nhận thức sâu sắc để từ đó tìm ra các giải pháp khắc phục nhằm đưa giáo dục
đại học Việt Nam lên một tầm cao mới. lOMoAR cPSD| 58562220
Thứ nhất, các trường đại học ở Việt Nam thường được tổ chức theo hệ thống
đại học chuyên ngành, như Đại học Thủy lợi, Đại học Y, Đại học Dược, Đại
học Kinh tế tài chính, Đại học Ngoại thương... Mặc dù đã bắt đầu mở đa ngành,
nhưng về cơ bản, đây vẫn là đại học chuyên ngành. Chương trình giáo dục vẫn
“nặng” về lý thuyết, “nhẹ” về thực hành và vận dụng kiến thức.
Thứ hai, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thiếu sự gắn kết với thị trường lao động.
Hiện nay, nhiều trường đại học mới chỉ cung cấp những gì mình có, chứ chưa
phải những gì xã hội cần. Đó là một trong những lý do khiến năm 2020, Việt
Nam có 225.000 cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ tốt nghiệp ra trường nhưng chưa tìm
được việc làm, hoặc chấp nhận làm không đúng nghề nghiệp được đào tạo, gây
ra một sự lãng phí rất lớn. Theo kết quả khảo sát tại 60 doanh nghiệp trong lĩnh
vực dịch vụ công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh về “Đánh giá mức độ hài
lòng của doanh nghiệp về chất lượng của sinh viên được đào tạo trong năm
đầu tiên sau khi tốt nghiệp” (bộ tiêu chí để đánh giá là kiến thức lý thuyết, kỹ
năng thực hành, trình độ ngoại ngữ, tác phong làm việc và kỹ năng nghề
nghiệp), chỉ có 5% tổng số sinh viên tham gia khảo sát được đánh giá ở mức
độ tốt, 15% ở mức khá, 30% ở mức độ trung bình và 40% ở mức độ không đạt(3).
Thứ ba, về phương pháp và hình thức dạy học, nhiều trường đại học chưa
tiếp cận phương pháp “lấy người học làm trung tâm”, người thầy vẫn đóng vai
trò chủ đạo, người học vẫn rất thụ động và sự tương tác giữa thầy và trò không
nhiều. Tình trạng “quá tải” về kiến thức và thay đổi giáo trình liên tục cũng là
hậu quả của cách dạy thiên về cung cấp kiến thức cụ thể, trong khi những kiến
thức này không ngừng được bổ sung. Mặc dù trong những năm gần đây, theo
chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hầu hết các trường đại học đã bắt đầu
giảng dạy theo chương trình tín chỉ như ở các nước trên thế giới, tuy nhiên, về
thực chất vẫn chưa thực sự đổi mới so với phương pháp giảng dạy trước đây,
chưa khác nhiều cách dạy ở các cấp giáo dục phổ thông. Cụ thể là, tính chủ
động của sinh viên chưa được phát huy; phương pháp giáo dục, kiểm tra và
đánh giá còn lạc hậu, thiếu thực chất; việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ
năng làm việc chưa được chú trọng đúng mức... Đây là điểm chưa hợp lý, bởi
mục tiêu của giáo dục phổ thông và giáo dục đại học là khác nhau. Giáo dục
phổ thông là trang bị tri thức nền và rèn luyện những phẩm chất cơ bản cho
người học. Giáo dục đại học là rèn luyện kỹ năng thực hành và tư duy sáng tạo,
là dạy cách học, cách nghiên cứu. Do đó, phải nhanh chóng khắc phục tình
trạng “thầy đọc, trò chép” ở bậc đại học hiện nay.
Thứ tư, giáo dục đại học Việt Nam tương đối “khép kín”, chưa tạo được sự
liên thông giữa các chuẩn mực giáo dục đại học trong nước và quốc tế. Ngay
cả trong nước, mặc dù được đặt dưới sự quản lý chung của Bộ Giáo dục và Đào
tạo nhưng trên thực tế khả năng liên thông kiến thức giữa các cơ sở giáo dục lOMoAR cPSD| 58562220
đại học vẫn còn hạn chế. Các trường đại học và các chuyên ngành ít thừa nhận
kết quả đào tạo của nhau nên người học gặp nhiều khó khăn khi chuyển trường,
chuyển ngành học. Việc liên thông kiến thức giữa cơ sở giáo dục đại học trong
nước và nước ngoài lại càng khó khăn hơn do có sự khác biệt về mục tiêu, nội
dung và phương pháp đào tạo (trừ các chương trình liên kết quốc tế theo thỏa
thuận). Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới chưa công nhận văn bằng,
chứng chỉ đại học do Việt Nam đào tạo; do đó, người Việt Nam rất khó khăn
khi muốn ra nước ngoài tiếp tục học tập hay định cư, công tác.
Thứ năm, dù đã có chuyển biến trong thời gian gần đây nhưng số lượng các
công bố quốc tế của các trường đại học ở Việt Nam vẫn còn thua kém nhiều
nước trong khu vực. Cùng với xu thế hội nhập quốc tế, số lượng và chất lượng
các công trình công bố trên các ấn phẩm khoa học quốc tế đã trở thành thước
đo quan trọng về chất lượng giáo dục đại học ở các quốc gia. Việt Nam hiện có
khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ,
nhưng số lượng công bố quốc tế còn khá hạn chế, chỉ số ảnh hưởng của các
công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam cũng thấp hơn so với một số
nước trong khu vực, như Thái Lan, Malaysia, Singapore...
Thứ sáu, số lượng các cơ sở đào tạo đại học gia tăng, quy mô tuyển sinh lớn,
đa dạng các ngành nghề. Tuy nhiên nhiều cơ sở GDĐH chất lượng đào tạo chưa
đảm bảo, chưa xây dựng được chuẩn đầu vào, đầu ra, chưa xây dựng được nội
dung, chương trình giảng dạy; vẫn còn tình trạng “đem con bỏ chợ”, chạy theo
hình thức, hư danh, quảng bá thương hiệu nhà trường sai với thực tế, đánh lừa
tâm lí người học. Một số cơ sở GDĐH xuống cấp về cơ sở hạ tầng, thiếu trang
thiết bị thực hành; thiếu diện tích mặt bằng, không gian phục vụ cho việc học
tập, nghiên cứu, giảng dạy, phải thuê mượn, phân tán ở nhiều địa điểm, cơ sở
khác nhau. Một số trường trong diện quy hoạch phải di rời ra khỏi nội đô nhưng
chậm thực hiện, gây những xáo trộn, lo lắng trong tâm lí giảng viên, sinh viên.
Một số trường đại học được xây dựng với quy mô lớn, được cấp phép đào tạo,
tuyển sinh nhưng do thiếu tầm nhìn, thiếu đánh giá thị trường, nhu cầu của
người học, thiếu bộ máy, cơ cấu tổ chức nên không thể tuyển sinh, trường bị bỏ
hoang, gây lãng phí lớn. Cùng với đó là tình trạng chạy theo thành tích, lợi ích
cá nhân, vì đồng tiền, lợi ích nhóm, một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhân viên
dưới quyền của một số cơ sở, đơn vị đào tạo đã lợi dụng hình ảnh nhà trường,
chức vụ cá nhân để “dụ dỗ, lôi kéo” số học viên “lười học nhưng sính bằng cấp,
chứng chỉ” để đào tạo chui; người học chỉ cần ghi danh, đóng tiền, hợp lý hóa
hồ sơ là được cấp bằng.
Thứ bảy, tình trạng học nhưng không có việc làm là một trong những căn
nguyên khiến nhiều học sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông không
muốn học lên đại học mà chọn con đường học nghề, du học, xuất khẩu lao động,
lao động tự do. Vì thiếu nguồn tuyển sinh đầu vào, vì phải tự chủ tài chính,
nhiều trường đã hạ điểm chuẩn, tiến hành nhiều phương thức xét tuyển, thậm lOMoAR cPSD| 58562220
chí mời gọi người học nhưng vẫn không đủ chỉ tiêu. Việc chạy theo số lượng,
hạ thấp chuẩn đầu vào cộng với tâm lí bất an của giảng viên, khiến cho chất
lượng đào tạo ngày càng thấp.
Thứ tám, tự chủ đại học dù đã trở thành chủ trương lớn nhưng việc phân định
giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các trường đại học còn chưa
rõ ràng. Ngày 24-10-2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 77/NQ-CP,
“Về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công
lập giai đoạn 2014 - 2017”, nhưng đến nay vẫn thiếu các hành lang pháp lý cụ
thể để thực hiện. Vai trò của hội đồng nhà trường trong các trường đại học còn
mờ nhạt; vai trò các cơ quan quản lý của Nhà nước vẫn còn rất lớn trong nhiều
nội dung, hoạt động của nhà trường, như bổ nhiệm chủ tịch hội đồng trường,
hiệu trưởng, biên chế, mức lương, định mức chi cho các nhiệm vụ khoa học...
Hạn chế của giáo dục đại học ở Việt Nam còn thể hiện qua một số vấn đề
khác, như xu hướng thương mại hóa giáo dục, thiếu cơ sở vật chất, sự đãi ngộ
chưa thỏa đáng đối với những người làm công tác giáo dục đại học...
Giải pháp thúc đẩy tiến trình đổi mới giáo dục đại học ở Việt Nam
Để đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam, cần tập
trung thực hiện một số giải pháp sau đây:
Để đảm bảo và nâng cao chất lượng GDĐH đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tình
hình mới, cần tiếp tục phát huy những thành tựu, kết quả đã được, đồng thời
khắc phục những bất cập, hạn chế để GDĐH xứng đáng là bậc học kiểu mẫu,
tiên phong, dẫn dắt các bậc học khác cùng nỗ lực, cố gắng, hoàn thành tốt trọng
trách, sứ mệnh mà Đảng, Nhà nước, Nhân dân giao cho. Muốn thực hiện tốt
nhiệm vụ đó cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, như:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, cải cách về mặt thể chế, cơ chế; có chính sách đặc
thù, thông thoáng, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của lĩnh vực giáo dục
nói chung và GDĐH nói riêng. Hiện nay, các cơ quan quản lý, các cơ sở GDĐH
cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc, vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, phù
hợp, hiệu quả tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW cũng như các chính sách mà
Nhà nước đã ban hành (Luật giáo dục đại học, Luật Giáo dục). Khẩn trương
hoàn thiện và ban hành Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2021-
2030, tầm nhìn đến năm 2045, tiến đến xây dựng chiến lược, kế hoạch về phát
triển giáo dục đại học Việt Nam, trong đó xác định rõ mục tiêu, triết lý, tầm
nhìn, sứ mệnh và những nguyên tắc của GDĐH.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình,
phương thức, phương pháp giảng dạy, thi cử, kiểm tra, đánh giá ở bậc GDĐH
theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, đáp ứng những yêu cầu mới của phát
triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư. lOMoAR cPSD| 58562220
Đối với GDĐH, cùng với việc trang bị kiến thức, nâng cao trình độ chuyên
môn, rèn luyện kỹ năng, nâng cao tay nghề, cần không ngừng chú trọng giáo
dục đạo đức, hình thành nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất
là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử
dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các thế hệ sinh viên; khơi dậy trong thế
hệ trẻ khát vọng, lý tưởng cống hiến, phát triển vì sự phồn vinh, hạnh phúc của đất nước, nhân dân.
Thứ hai, thực hành tốt tinh thần dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, giữ gìn
môi trường nhà trường luôn trong sạch, lành mạnh với những giá trị khoa học,
nhân văn, tiến bộ, vì sự phát triển toàn diện con người; tất cả vì tương lai của
thế hệ trẻ. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ đó, người đứng đầu cơ sở GDĐH ngoài
năng lực, trình độ, uy tín chuyên môn phải luôn gương mẫu, đi đầu trong mọi
công việc, biết phát huy tinh thần đoàn kết, sức mạnh của tập thể, tôn trọng,
lắng nghe, tiếp thu những tiếng nói phản biện, tạo bầu không khí cởi mở, tạo sự
đồng cảm, chia sẻ, vì mục tiêu, sứ mệnh của nhà trường.
Việc tổ chức, thực thi chính sách giáo dục, như chính sách tuyển sinh, đào
tạo, hướng nghiệp, về công tác tổ chức cán bộ, tuyển dụng, đãi ngộ với giảng
viên,… phải đảm bảo đúng chủ trương của Đảng và những quy định của Nhà
nước và các cơ quan, bộ ngành liên quan. Tránh tâm lý độc đoán, chuyên quyền,
tham nhũng, thương mại hóa và kinh doanh giáo dục. Để tránh những sai sót,
những vi phạm trong lĩnh vực giáo dục, cơ quan thanh tra cần thường xuyên
bám sát cơ sở, nắm bắt kịp thời phản ánh của dư luận để có biện pháp ngăn
chặn, xử lý, tránh những vụ việc, hiện tượng đáng tiếc xảy ra. Thực thi tốt mô
hình quản trị GDĐH hiện đại, trong đó phát huy sự tham gia tích cực của các
chủ thể: cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, Hội đồng trường, ban lãnh đạo
nhà trường, đội ngũ cán bộ, giảng viên, sinh viên, gia đình, xã hội và sự tham
gia của các công ty, doanh nghiệp, đối tác liên kết, hợp tác trong GDĐH.
Đảm bảo tính nhân văn, nhân bản, tính chuẩn mực trong các cơ sở GDĐH.
Bởi một sai phạm nhỏ trong giáo dục hay những hành vi lệch chuẩn của một số
thầy cô giáo, giảng viên khi bị phát giác, tố cáo, xét xử sẽ để lại những dư chấn
lớn trong đời sống xã hội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân, đặc biệt để lại
những mối hoài nghi, những ấn tượng xấu trong ký ức của nhiều thế hệ học sinh, sinh viên.
Thứ ba, tăng cường nguồn lực đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước,
nguồn vốn xã hội hóa để xây dựng cơ sở hạ tầng, các thiết chế mang tính chuyên
biệt trong các trường đại học, như giảng đường; thư viện; khu thực hành, sản
xuất; không gian đổi mới sáng tạo; khu vui chơi giải trí, dịch vụ mua sắm, ẩm
thực; khu nhà ở công vụ, khu ký túc xá sinh viên, đảm bảm các không gian đó
có tính kết nối, liên thông, đồng bộ, hiện đại, tạo không gian, môi trường học lOMoAR cPSD| 58562220
tập thuận lợi. Tăng cường khả năng kết nối, học tập, trao đổi nhóm, kích thích
khả năng sáng tạo và tinh thần chủ động, tích cực của mỗi sinh viên.
Mở rộng mối quan hệ, giao lưu, hợp tác giữa các cơ sở GDĐH trong và ngoài
nước để trao đổi chuyên môn nghiệp vụ, chuyển giao tri thức, kinh nghiệm.
Đồng thời tăng cường kết nối với các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để xây dựng chương trình đào
tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội, đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp,
từ đó nâng cao tay nghề, trình độ và mở rộng cơ hội việc làm, thu nhập cho sinh
viên. Trong mối quan hệ, hợp tác này phải đảm bảo tính minh bạch, khách quan,
có chiến lược dài hạn, đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan. Để mối quan
hệ, hợp tác giữa cơ sở GDĐH và doanh nghiệp ngày càng bền chặt, ngoài vai
trò chính của hai bên cần sự tham gia, tạo điều kiện của chính quyền địa phương
và các bộ ngành liên quan.
Thứ tư, cải thiện môi trường làm việc khoa học, dân chủ, đảm bảo tự do sáng
tạo. Thiết lập cơ chế về tiền lương, phụ cấp ưu đãi đặc thù, xứng đáng với công
sức và những cống hiến của đội ngũ giảng viên GDĐH. Có chính sách thu hút,
trọng dụng nhân tài, nhất là giảng viên trẻ, tài năng, triển vọng được đào tạo bài
bản ở nước ngoài, có uy tín chuyên môn và học thuật vào làm việc trong các cơ sở GDĐH.
Thứ năm, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong các cơ sở GDĐH,
bằng việc gìn giữ và phát huy truyền thống lịch sử vẻ vang của nhà trường với
những giá trị thiêng liêng mà các thế hệ thầy cô giáo, học sinh, sinh viên qua
các thời kỳ đã sáng tạo lên. Đồng thời xây dựng cảnh quan, không gian nhà
trường sáng, xanh, sạch, đẹp; hình thành phong cách ứng xử văn minh, lịch sự
theo chuẩn mực, quy tắc học đường. Kiến tạo và gìn giữ bản sắc, dấu ấn riêng,
tạo nên sự khác biệt, độc đáo của nhà trường, để những giá trị tinh thần đó trở
thành niềm tự hào và là động lực để mỗi sinh viên không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, trưởng thành.
Thứ 6, phải thay đổi triết lý giáo dục đại học. Thực tiễn cho thấy, muốn “con
tàu” giáo dục tiến lên thì trước hết cần phải có một triết lý giáo dục phù hợp.
Đó là những nguyên lý nền tảng chỉ đạo toàn bộ việc xác lập mục tiêu, nội dung,
phương pháp thực hiện hoạt động giáo dục được đúc kết bằng những câu nói
ngắn gọn. Cần chuyển nền giáo dục lấy trang bị kiến thức làm mục tiêu chủ yếu
sang một nền giáo dục dạy kỹ năng, dạy cách tự học, cách tư duy làm chủ yếu.
Trong quy trình dạy học đó, sinh viên đóng vai trò chủ động; giảng viên chỉ là
người hướng dẫn, định hướng cho sinh viên cách thu nhận kiến thức và hỗ trợ,
giải đáp các thắc mắc khi cần thiết. Đi theo sự đổi mới này là hàng loạt các thay
đổi căn bản, từ chương trình khung đến giáo trình và phương pháp giảng dạy...
Nền giáo dục ngày nay là nền giáo dục khai phóng nên giảng viên phải chuyển
từ dạy tri thức sang dạy cách học, dạy cách tư duy. Do đó, người thầy không
nên “nhồi nhét” kiến thức, mà phải trang bị cho người học thói quen “hoài nghi lOMoAR cPSD| 58562220
khoa học”, năng lực phản biện các tri thức có sẵn và sáng tạo ra những tri thức
mới. Cũng phải thay đổi một cách căn bản hệ thống đánh giá từ kiểm tra kiến
thức sang đánh giá năng lực. Các trường đại học phải cam kết “chuẩn đầu ra”
phù hợp với yêu cầu, nhu cầu của xã hội, chứ không phải “chuẩn đầu ra” do
trường, cụ thể hơn nữa là do giáo viên tự xác định. Để giáo dục đại học Việt
Nam gắn kết với nhu cầu xã hội thì giáo dục đại học phải gắn kết chặt chẽ hơn
với các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng lao động.
Thứ 7, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ làm công tác quản lý
giáo dục đại học. Chất lượng của hệ thống giáo dục đại học luôn gắn chặt với
chất lượng của đội ngũ giảng viên. Để xây dựng, phát triển đội ngũ này, cần có
quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có chính sách thu hút các
sinh viên giỏi ở lại trường làm công tác giảng dạy. Tạo điều kiện để các nhà
khoa học Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia quốc tế tham gia vào việc
giảng dạy, nghiên cứu của các trường đại học trong nước. Bên cạnh đó, cần có
những người làm công tác quản lý giáo dục đủ tâm, đủ tầm, đủ tài để sử dụng
đúng người, giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh trong giáo dục đại học theo tinh
thần dân chủ. Cải thiện chế độ, chính sách đãi ngộ giảng viên, cán bộ quản lý
giáo dục, vì đến nay, nghề giáo vẫn là nghề có thu nhập thấp trong xã hội. Tăng
cường hơn nữa công tác thông tin, truyền thông để xã hội thấu hiểu, chia sẻ với
những khó khăn, vất vả của đội ngũ nhà giáo và giữ gìn truyền thống “tôn sư,
trọng đạo” của văn hóa Việt Nam.
Thứ 8, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đại học và tăng cường hợp tác,
hội nhập quốc tế về đào tạo đại học. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, từng bước hoàn
thiện hệ thống chính sách, pháp luật, các quy định khuyến khích các nhà đầu tư
trong và ngoài nước tích cực đầu tư cho giáo dục đại học ở Việt Nam; khuyến
khích và tạo điều kiện để các trường đại học quốc tế hàng đầu mở cơ sở đào tạo
ở Việt Nam, đặc biệt là các cơ sở hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Hiện
nay, một số trường đại học nước ngoài đã mở chi nhánh hoặc liên kết với Việt
Nam, như Đại học RMIT (Úc), Đại học Việt - Nhật, Đại học Công nghệ
Swinburne (Úc) liên kết với tập đoàn FPT Việt Nam, Đại học Staffordshire
(Anh) liên kết với British University Việt Nam (BUV)... Bên cạnh đó, tạo cơ
hội để sinh viên tham gia các chương trình trao đổi hoặc du học tại chỗ, mở các
cuộc hội thảo, tọa đàm quốc tế về chuyên môn và phương pháp giảng dạy đại
học để nâng cao tính học thuật, kỹ năng dạy học tiên tiến cho đội ngũ giảng
viên. Có cơ chế, chính sách động viên, khuyến khích các nhà khoa học tích cực
công bố kết quả nghiên cứu trên các ấn phẩm khoa học quốc tế có uy tín, coi
đó là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công tác nghiên cứu khoa học của
các trường đại học và các giảng viên.
Thứ 9, tiếp tục đẩy nhanh quá trình “chuyển đổi số” trong giáo dục đại học.
Triển khai xây dựng có hiệu quả cơ sở dữ liệu ngành, đẩy mạnh kỹ năng và
nâng cao chất lượng dạy học trực tuyến, dịch vụ công trực tuyến. Tiếp tục sử lOMoAR cPSD| 58562220
dụng có hiệu quả hệ thống trao đổi văn bản điện tử, chữ ký số liên thông giữa
Bộ Giáo dục và Đào tạo với cơ sở giáo dục, cá nhân có liên quan... để giảm bớt
các thủ tục phiền hà cho các đối tượng tham gia vào hoạt động giáo dục đại học.
Trong bối cảnh internet, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ như hiện nay, những
mối quan hệ, tương tác của sinh viên trên môi trường ảo là tất yếu. Để định
hướng tốt học sinh, sinh viên đến với những giá trị tốt đẹp, tránh xa cái xấu, cái
ác, các cơ quan, đoàn thể chính trị - xã hội, như Đoàn Thanh niên, Hội Sinh
viên, Công đoàn nhà trường, các thầy cô giáo cần có sự phối kết hợp chặt chẽ
để tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho sinh viên về kỹ năng sống, cách thức
giao tiếp, xử lý thông tin trên môi trường mạng. Tổ chức có hiệu quả các hoạt
động, phong trào văn hóa, văn nghệ, thu hút sự tham gia của sinh viên, tạo sự
đoàn kết, chia sẻ, thông hiểu lẫn nhau để cùng xử lý những vấn đề mới, phức
tạp, nảy sinh, hướng đến những giá trị tốt đẹp của chân, thiện, mỹ.
Giáo dục đại học là bậc học quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân
nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Để nâng cao chất lượng GDĐH
cần thực hiện nhiều giải pháp, trong đó đổi mới về cơ chế, chính sách, về năng
lực quản trị, điều hành GDĐH; thực thi tốt tinh thần dân chủ, tạo niềm tin, sức
hấp dẫn đối với cộng đồng, xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ, sẽ là nhân tố, điều kiện
quan trọng để nâng cao chất lượng GDĐH trong bối cảnh hiện nay, góp phần
tạo ra những thế hệ con người Việt Nam mới có trình độ, tri thức, kỹ năng nghề
nghiệp, có năng lực, phẩm chất đạo đức, có tinh thần trách nhiệm xã hội, tạo
sức mạnh, nguồn lực nội sinh để hiện thực khát vọng xây dựng nước Việt Nam
phồn vinh, hạnh phúc như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra.
Với những thay đổi trong xu hướng phát triển giáo dục nói chung và giáo
dục đại học nói riêng, cải cách giáo dục và giáo dục đại học là một xu hướng
tất yếu của mỗi quốc gia. Việc tổng hợp các xu hướng phát triển giáo dục đại
học trong giai đoạn hiện nay giúp các cơ sở giáo dục đại học có góc nhìn tổng
thể từ đó xác định được vai trò, trách nhiệm cũng như chiến lược phát triển,
tránh được những “va đập” giữa mong muốn và thực tế trong quá trình tổ chức
thực hiện các mục tiêu giáo dục. Là đất nước đang phát triển, hiện nay giáo dục
đại học của Việt Nam gặp phải rất nhiều khó khăn, sự cạnh tranh cũng như
những đòi hỏi từ nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội đã đặt ra cho các cơ sở giáo
dục đại học những thách thức phải vượt qua. Điều này đặt ra cho hệ thống giáo
dục và cơ sở giáo dục đại học cần lựa chọn đúng các giải pháp đột phá để lãnh
đạo dẫn dắt quá trình đổi mới giáo dục đại học đạt hiệu quả, thực hiện được vai
trò định hướng sự phát triển của kinh tế xã hội.