



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601608
Đ Ạ I H Ọ C BÁCH KHOA HÀ N Ộ I
KHOA LÝ LU Ậ N CHÍNH TR Ị
──────── * ─────── BÀI THU HO ẠCH
TƯ TƯ NG H CHÍ MINH Ở Ồ CHUYÊN Đ Ề
VI Ệ T NAM CHI Ế N Đ Ấ U VÀ CHI Ế N TH Ắ NG 1946 -
1954 VAI TRÒ C Ủ
A CH Ủ T Ị CH H Ồ CHÍ MINH
TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH Đ Ạ O KHÁNG CHI Ế N
CH Ố NG PHÁP
Sinh viên th ự c hi ệ n: Nguy ễ n T u ấ n Anh – 202 13238 L ớ p: QLCN 02 – K66
Mã l ớ p bài t ậ p: 1 51000
Giáo viên hư ớ ng d ẫ n: ThS. Nguy ễ
n Th ị Thu Hà HÀ N Ộ I 6/2024
Đ Ạ I H Ọ C BÁCH KHOA HÀ N Ộ I 1 lOMoAR cPSD| 61601608 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5
CHƯƠNG I. BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ VÀ ĐỜI SỐNG CỦA NHÂN DÂN VIỆT
NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ........................................................... 6
GIỚI THIỆU CHUNG ..................................................................................... 6
BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ VÀ ĐỜI SỐNG CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM .... 6
KẾT QUẢ & Ý NGHĨA .............................................................................. 11
CHƯƠNG II. LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN. CHIẾN DỊCH
VIỆT BẮC THU ĐÔNG 1947. CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI THU ĐÔNG 1950.
.............................................................................................................................. 12
GIỚI THIỆU CHUNG ................................................................................... 12
LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN ........................................... 12
1. Nội dung .................................................................................................... 12
2. Bối cảnh..................................................................................................... 13
CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU – ĐÔNG 1947 ........................................... 14
1. Khái quát ................................................................................................... 14
2. Bối cảnh..................................................................................................... 14
3. Diễn biến ................................................................................................... 14
4. Kết quả & ý nghĩa ...................................................................................... 16
CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI THU ĐÔNG 1950 ............................................. 17 1. Khái quát
................................................................................................... 17 2. Bối
cảnh..................................................................................................... 17 3. Diễn biến
................................................................................................... 18 4. Ý nghĩa
...................................................................................................... 20 TỔNG
KẾT .................................................................................................. 21
CHƯƠNG III. CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HIỆP ĐỊNH GENÈVE
1954 ...................................................................................................................... 22
GIỚI THIỆU CHUNG ................................................................................... 22
CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ .................................................................. 22
1. Kế hoạch Navarre của Pháp ....................................................................... 22
2. Kế hoạch của Việt Nam ............................................................................. 23
3. Diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ........................................................... 24 lOMoAR cPSD| 61601608
4. Ý nghĩa của chiến dịch Điện Biên Phủ ....................................................... 25 HIỆP ĐỊNH GENÈVE 1954
........................................................................ 26
1. Bối cảnh..................................................................................................... 26
2. Hội nghị Genève và ký kết hiệp định Genève 1954 .................................... 26
3. Ý nghĩa của hiệp định Genève 1954 ........................................................... 27
Kết luận ....................................................................................................... 28
CHƯƠNG IV. VAI TRÒ CỦA BÁC TRONG CÁC CHIẾN THẮNG CHIẾN
THẮNG Ở GIAI ĐOẠN 1945-1954 .................................................................... 29
GIỚI THIỆU CHUNG ................................................................................... 29
NỘI DUNG CHÍNH ..................................................................................... 29
1. Chỉ đạo xây dựng, củng cố Nhà nước Dân chủ Cộng hòa, chủ động phá vỡ thế
bao vây, cô lập, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế ................................. 29
2. Quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân trong kháng chiến ................................................. 31
3. Tác động tích cực tới tinh thần của toàn dân tộc ......................................... 33
KẾT LUẬN ................................................................................................. 34
KẾT LUẬN CHUNG........................................................................................... 35 lOMoAR cPSD| 61601608
DANH MỤC HÌNH ẢNH .............. Lỗi! Thẻ đánh dấu không được xác định.
Hình 2. Quốc hội khóa I họp ngày 6/1/1946................................................................. 7
Hình 3. Phong trào tăng gia sản xuất ở Thái Bình ........................................................ 8
Hình 4. Nha Bình dân học vụ xóa mù chữ năm 1945 ................................................... 8
Hình 5. Phát động “Tuần lễ vàng” trên báo chí ............................................................ 9
Hình 6. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Pháp kí kết Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 .................. 10
Hình 7. Bút tích “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
.................................................................................................................................... 12
Hình 8. Lược đồ chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947 ............................................... 14
Hình 9. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 ........... 16
Hình 10. Quân đội Nhân dân Việt Nam phất cờ chiến thắng trên nóc trung tâm phòng
ngự tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ......................................................................... 20
Hình 11. Lược đồ chiến dịch Điện Biên Phủ .............................................................. 22
Hình 12. Chủ tịch Hồ Chí Minh họp với Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết
định mở Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 .......................................................... 26
Hình 13. Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc tại chiến khu Việt Bắc .............................. 30
Hình 1. Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 lOMoAR cPSD| 61601608 MỞ ĐẦU
Cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đẩng và
nhân dân Việt Nam ta đã có bộ máy chính quyền nhà nước làm công cụ để xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Nhân dân ta có truyền thống yêu nước và truyền thống cách mạng
lâu đời, đã có từ 4000 năm văn hiến, và giờ đây càng trở nên sục sôi hơi bao giờ hết
khi liên tiếp nhứng thắng lợi nối tiếp nhau giúp dân ta giành lại chính quyền ở khắp
các tỉnh thành. Nhưng bên cạnh đó nước ta vẫn còn nhiều khó khăn giang dở phía
trước. Mỹ đã công khai ủng hộ, giúp đỡ Pháp quay lại xâm lược Việt Nam và Đông
Dương. Đế quốc Anh xuất phát từ quyền lợi thực dân và theo quỹ đạo của Mỹ cũng
ra sức ủng hộ ý đồ của thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương. Đất nước ta đứng trước
muôn vàn khó khăn, thử thách. Theo thỏa thuận giữa các nước đồng minh thắng trận,
quân đội Tưởng Giới Thạch vào đóng tại miền Bắc, quân Anh (theo sau là quân Pháp)
vào đóng tại miền Nam Việt Nam làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật (lấy vĩ tuyến
16 làm ranh giới), nhưng đều nuôi dưỡng ý đồ tiêu diệt lực lượng cách mạng và Đảng
Cộng sản Đông Dương, thành lập chính quyền phản động tay sai.
Trong khi đó, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước rơi vào khủng hoảng trầm
trọng: Sản xuất trì trệ, ngân khố quốc gia trống rỗng, nạn đói năm 1945 làm gần 2
triệu người chết chưa khắc phục xong, hơn 90% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội còn rất
phổ biến, các thế lực phản động ra sức hoạt động chống phá... "Giặc đói", "giặc dốt",
"giặc ngoại xâm" đang đe dọa, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Suốt từ
năm 1946-1954 đất nước ta đã trải qua rất nhiều cuộc kháng chiến để đánh đuổi thực
dân pháp. Bài thu hoạch này sẽ đi vào làm rõ các chiến tahwnsg của Việt Nam trong
thời kì này, phân tích ý nghĩa của những chiến thắng và sự kiện lịch sử. Đồng thời
phân tích vai trò và sự quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những chiến thắng
vang dội của nước ta. Trong đó, Bài báo cáo đi sâu tìm hiểu về bối cảnh lịch sử và
diễn biến của từng cuộc kháng chiến từ đó phân tích ý nghĩa của những chiến thắng
này đối với nước ta. Từ đó hiều được những quyết sách kháng chiến của Bác và làm
rõ được vai trò, tầm ảnh hướng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những cuộc kháng chiến này
Bài thu hoạch này sẽ gồm có 4 chương, trong đó bao gồm:
▪ Chương I: Bối cảnh chính trị và đời sống nhân dân Việt Nam sau cách mạng tháng 8.
▪ Chương II: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và các chiến thắng
▪ Chương III: Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève
▪ Chương IV: Vai trò của Bác trong các chiến thắng trong giai đoạn 19461954.
CHƯƠNG I. BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ VÀ ĐỜI SỐNG CỦA NHÂN
DÂN VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM GIỚI THIỆU CHUNG
Đến giữa tháng Tám năm 1945, khí thế Cách mạng sục sôi khắp cả nước.
Những thắng lợi nối tiếp nhau giúp nhân dân ta giành lại chính quyền ở các tỉnh thành
góp phần tạo nên thắng lợi cho Cách mạng tháng Tám. Ngày 2/9/1945, tại quảng
trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính thức khép lại thời kì phong kiến ở nước ta lOMoAR cPSD| 61601608
và kết thúc hơn 80 năm dài chịu ách thống trị của thực dân Pháp, mở ra kỉ nguyên
mới cho dân tộc Việt Nam: kỉ nguyên độc lập, tự do; kỉ nguyên nhân dân lao động lên
nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh dân tộc; kỉ nguyên giải phóng
dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội.
Hình 1. Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945
BỐI CẢNH CHÍNH TRỊ VÀ ĐỜI SỐNG CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
Sau khi được thành lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối mặt với rất nhiều
khó khăn, cả về mặt chính trị và xã hội. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân
Trung Hoa Dân quốc lấy danh nghĩa là giải giáp quân Nhật nhưng âm mưu chính là
lật đổ chính quyền cách mạng, đem theo bọn phản động Việt Nam Quốc Dân đảng và
Việt Nam Cách Mạng đảng tìm mọi cách chống phá chính quyền cách mạng.
Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân Anh với danh nghĩa là giải giáp quân Nhật, nhưng
âm mưu là giúp đỡ quân Pháp quay lại xâm lược miền Nam. Ngoài ra, trên cả nước
ta còn 6 vạn quân Nhật chờ giải giáp. Trong khi đó, bộ máy chính quyền cách mạng
của ta vừa mới thành lập, lực lượng vũ trang còn yếu. Nền kinh tế nước ta chủ yếu
phụ thuộc vào nông nghiệp vốn đã lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Hậu quả
của nạn đói cuối năm 1944 – đầu năm 1945 chưa được khắc phục. Thiên tai liên tiếp
hoành hành: lụt lớn làm vỡ đê ở chín tỉnh Bắc Bộ, hạn hán kéo dài khiến ruộng đất
không thể canh tác được,…. Ngân sách Nhà nước trống rỗng, kho bạc Nhà nước chỉ
có hơn 1,2 triệu đồng. Trong lúc đó, tiền mất giá của Trung Hoa Dân Quốc được tung
ra thị trường càng làm tình hình tài chính nước ta rối loạn. Văn hóa nước ta cũng bị
ảnh hưởng nặng nề bởi tàn dư văn hóa lạc hậu của chế độ thực dân phong kiến, hơn 90% dân số mù chữ.
Đối mặt với những khó khăn đưa đất nước vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng và
Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã có những quyết định,
đường lối sáng suốt để đưa đất nước đi lên. Bước đầu là xây dựng chính quyền cách
mạng. Ngày 6/1/1946, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bầu Quốc hội và đã bầu ra 333
đại biểu. Ngày 2/3/1946, Quốc hội thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng
chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, lập ra Ban dự thảo Hiến pháp. Ngày
9/11/1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa được Quốc
hội thông qua. Bên cạnh đó, lực lượng vũ trang được xây dựng, lực lượng dân quân lOMoAR cPSD| 61601608
tự vệ tăng lên hàng chục vạn người và đổi tên Việt Nam Giải phóng quân thành Vệ
quốc đoàn (9/1945) rồi Quân đội Quốc gia Việt Nam (22/5/1946). Đây là những điều
kiện ban đầu để Đảng và Nhà nước vượt qua được tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” lúc bấy giờ.
Hình 2. Quốc hội khóa I họp ngày 6/1/1946
Để giải quyết nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945, Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân
cả nước “nhường cơm sẻ áo”. Hưởng ứng lời kêu gọi đó, nhân dân ta lập “Hũ gạo cứu
đói”, tổ chức “Ngày đồng tâm”, không dùng gạo, ngô, khoai, sắn để nấu rượu. Nhận
thấy tăng gia sản xuất mới là biện pháp hàng đầu và có tính lâu dài để giải quyết căn
bản nạn đói, Bác kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản
xuất nữa!”. Các phong trào thi đua tăng gia sản xuất nổi lên toàn quốc dưới khẩu hiệu
“Tấc đất tấc vàng”, “Không một tấc đất bỏ hoang”, … Chính quyền Cách mạng bãi
bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác; giảm 25% tô, thuế ruộng đất, chia lại ruộng
đất cho nông dân thiếu ruộng theo nguyên tắc công bằng dân chủ. Nhờ các biện pháp
tích cực đó, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng phục hồi và nạn đói dần bị đẩy lùi. lOMoAR cPSD| 61601608
Hình 3. Phong trào tăng gia sản xuất ở Thái Bình
Với quan niệm “Một dân tộc yếu là một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, Chủ tịch Hồ
Chí Minh kêu gọi toàn dân xóa nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hóa. Ngày
8/9/1945, Bác kí sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ và kêu gọi cả nước tham gia
phong trào chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ. Chỉ trong vòng một năm, toàn quốc đã
tổ chức gần 76000 lớp học, xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người, 95% người Việt Nam
khi đó biết chữ. Các nội dung và phương pháp giáo dục bước đầu được đổi mới theo
tinh thần dân tộc dân chủ.
Hình 4. Nha Bình dân học vụ xóa mù chữ năm 1945
Để giải quyết bài toán ngân sách, Chính phủ kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp
của nhân dân cả nước thông qua các phong trào “Quỹ độc lập”, “Tuần lễ vàng”. Chỉ
trong thời gian ngắn, nhân dân ta dã tự nguyện đóng góp 370 kg vàng, 20 triệu đồng
vào “Quỹ độc lập”, 40 triệu đồng vào “ Quỹ đảm phụ quốc phòng”. Ngày 23/11/1946,
Quốc hội cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước. Những chính sách, đường lối
sáng suốt của Đảng và Nhà nước, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, giúp đất nước
ta cơ bản giải quyết được giặc đói, giặc dốt và thành công khôi phục ngân sách Nhà nước. lOMoAR cPSD| 61601608
Hình 5. Phát động “Tuần lễ vàng” trên báo chí
Tuy vậy, chúng ta còn một mối lo ngại rất lớn: quân Pháp và quân Trung Hoa
Dân Quốc. Đêm 22 rạng sáng 23/9/1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân
Pháp cho quân đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố
Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần hai. Quân dân Nam Bộ đồng
lòng đứng lên chống Pháp: đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp vừa
cập bến Sài Gòn, đánh phá kho tàng, phá nhà giam; phối hợp với lực lượng vũ trang
phá nguồn tiếp tế của địch, dựng chướng ngại vật và chiến lũy trên đường phố. Các
công sở, nhà máy, trường học, hãng buôn,… đóng cửa khiến quân Pháp trong thành
phố luôn bị bao vây và bị tấn công. Từ ngày 5/10/1945, quân Pháp có thêm viện binh
đã phá vòng vây Sài Gòn – Chợ Lớn, mở rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung
Bộ. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết
tâm lãnh đạo kháng chiến, huy động lực lượng cả nước chi viện cho Nam Bộ và Nam
Trung Bộ. Hàng vạn thanh niên xung phong cùng các cán bộ chiến sĩ hăng hái, có
kinh nghiệm chiến đấu đều gia nhập đội quân “Nam Tiến”. Nhân dân Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ cũng tích cực chi viện tiền, lương thực, thuốc men, … cho Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến.
Mặt trận miền Bắc ta cũng phải đối đầu với quân Trung Hoa Dân Quốc và bọn phản
cách mạng. Với tình hình khi đó, Chính quyền Cách mạng của nước ta còn non trẻ lại
phải vừa chống thực dân Pháp xâm lược vừa đấu tranh với quân Trung Hoa Dân Quốc
và bọn phản cách mạng. Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ: tránh
trường hợp một mình đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc. Từ đó, chúng ta chủ
trương tạm thời hòa hoãn, tránh xung đột với Trung Hoa Dân Quốc. Tháng 3/1946,
Quốc hội khóa I đồng ý nhượng cho Việt Quốc, Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội, 4
ghế Bộ trưởng trong Chính phủ liên hiệp, cho Nguyễn Hải Thần (cầm đầu Việt Cách)
giữ chức Phó Chủ tịch nước; cung cấp một phần lương thực thực phẩm, phương tiện
giao thông vận tải, nhận tiêu tiền mất giá của Trung Quốc. Để giảm bớt sức ép của kẻ
thù, tránh hiểu lầm, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, Đảng
Cộng sản Đông Dương tuyên bố ”tự giải tán” (11/1945), nhưng là tạm thời rút vào
hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo chính quyền cách mạng. Đối với các tổ chức phản
cách mạng, tay sai,chính quyền dựa vào quần chúng, kiên quyết vạch trần âm mưu và
hành động chia rẽ, phá hoại của chúng, nếu có đủ bằng chứng thì trừng trị theo pháp
luật; ban hành một số sắc lệnh trấn áp bè lũ phản cách mạng. Từ đó hạn chế được hoạt
động chống phá của Trung Hoa Dân Quốc và tay sai và phá hỏng âm mưu lật đổ cách mạng của chúng. lOMoAR cPSD| 61601608
Hình 6. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Pháp kí kết Hiệp định sơ bộ 6/3/1946
Sau khi chiếm đóng được một số đô thị trong Nam Bộ, Pháp tiến quân ra Bắc
muốn thôn tính cả nước ta. Ngày 28/2/1946, Pháp và Trung Hoa Dân Quốc ký Hiệp
ước Hoa – Pháp: Pháp trả lại một số quyền lợi về kinh tế chính trị cho Trung Hoa Dân
Quốc và cho Trung Quốc vận chuyển hàng hóa qua cảng Hải Phòng miễn thuế; cho
Pháp đưa quân ra Bắc giải giáp đội quân Nhật. Hiệp ước này đưa Việt Nam vào hai
sự lựa chọn: cầm súng đứng lên chiến đấu với thực dân Pháp hoặc hòa hoãn với
Pháp để tránh một lúc đối đầu nhiều kẻ thù. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa
chọn con đường “hòa để tiến” với Pháp khi ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày
6/3/1946. Hiệp định quy định: Pháp phải công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là
một quốc gia tự do, có Chính phủ, Nghị viện, quân đội và tài chính riêng và là thành
viên của Liên bang Đông Dương nằm trong khối Liên hiệp Pháp; Chính phủ Việt Nam
thỏa thuận cho Pháp đem 15.000 quân ra Bắc thay Trung Hoa Dân Quốc, đóng quân
tại địa điểm quy định và rút quân dần trong 5 năm; hai bên ngừng xung đột ở miền
Nam và chuẩn bị cho đàm phán chính thức. Hiệp định Sơ bộ giúp ta tránh được cuộc
chiến với nhiều kẻ thù cùng lúc, đồng thời đẩy được 20 vạn quân Trung Hoa Dân
Quốc và tay sai ra khỏi nước ta; có thêm thời gian hòa bình để củng cố, chuẩn bị mọi
mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài với Pháp. Tuy nhiên, thực dân Pháp liên tiếp vi
phạm hiệp định: gây xung đột ở Nam Bộ, trì hoãn, phá hoại các cuộc đàm phán, …
Điều này đẩy quan hệ Việt – Pháp vào trạng thái vô cùng căng thẳng. Hồ Chủ tịch
buộc phải ký với Pháp Tạm ước 14/9/1946, chấp nhận nhân nhượng cho Pháp một số
quyền lợi kinh tế, văn hóa, từ đó tạo thêm thời gian hòa bình để quân ta chuẩn bị lực
lượng bởi lúc này, xung đột vũ trang là điều không thể tránh khỏi. KẾT QUẢ & Ý NGHĨA
Với những đường lối sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đã phần nào đi lên, thoát khỏi những khó khăn từ những ngày
đầu tiên của kỉ nguyên độc lập tự do. Bên cạnh đó, những nước đi ngoại giao đúng
đắn của Chính phủ Cách mạng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp nước ta
tránh khỏi cảnh một lúc đối đầu nhiều kẻ thù, hòa hoãn với địch đúng thời điểm để lOMoAR cPSD| 61601608
kéo dài thời gian hòa bình, củng cố lực lượng. Đó chính là bàn đạp để quân ta chuẩn
bị lực lượng cho cuộc trường kì kháng chiến chống Pháp.
CHƯƠNG II. LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN.
CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU ĐÔNG 1947. CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI THU ĐÔNG 1950. GIỚI THIỆU CHUNG
Cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Bên
cạnh những thuận lợi trong (Đảng đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh dạn dày kinh
nghiệm lãnh đạo, đã trở thành đảng cầm quyền, là trung tâm đoàn kết toàn dân trong
công cuộc đấu tranh để xây dựng và bảo vệ chế độ cộng hoà dân chủ) và ngoài nước
(Hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành, phong trào giải phóng dân tộc dâng cao ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc, phong trào đấu tranh vì hoà bình, dân chủ phát triển ở
nhiều nước tư bản chủ nghĩa.), chúng ta còn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn về
nhiều mặt như văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị và giặc ngoại xâm. Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng Hòa đứng trước tình thế hiểm nghèo, vận mệnh dân tộc như “Ngàn cân
treo sợi tóc”. Trong hoàn cảnh đó, ngày 25 tháng 11 năm 1945, Trung ương Đảng ra
chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đã xác định: “Tính chất và nhiệm cụ của cách mạng
Việt Nam vẫn là giải phóng dân tộc, khẩu hiệu của nhân dân là dân tộc là trên hết, Tổ
Quốc là trên hết. Kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược!”
LỜI KÊU GỌI TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN 1. Nội dung
Nội dung toàn văn của "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" đã được in trong
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, trang 480, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995 như sau:
Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái,
dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc.
Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,
thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian khổ kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất
định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm
Kháng chiến thắng lợi muôn năm
Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946 Hồ Chí Minh lOMoAR cPSD| 61601608
Hình 7. Bút tích “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh 2. Bối cảnh
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, do Hồ Chí Minh soạn thảo, là lời phát động
cuộc kháng chiến chống Pháp vào cuối năm 1946, sau khi những nỗ lực đàm phán
hòa bình giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Pháp vào giữa năm 1946 để công nhận
một nước Việt Nam độc lập không thành công. Lời kêu gọi này được phát ra vào sáng
ngày 20 tháng 12 năm 1946. Đêm hôm trước - ngày 19 tháng 12, khi chiến sự bùng
nổ - là ngày được gọi là "Toàn quốc kháng chiến".
Sau Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9, chấp hành chủ trương của Chính phủ,
nhân dân ta kiên trì đấu tranh giữ vững hòa bình, tranh thủ thời gian để chuẩn bị lực
lượng, đề phòng khả năng bất trắc phải kháng chiến chống Pháp lâu dài.
Thực dân Pháp bội ước, chúng đã tăng cường các hành động khiêu khích, ngày
27/11/1946 quân Pháp chiếm đóng Hải Phòng. Tại Hà Nội, ngày 17/12/1946, chúng
cho quân bắn đại bác và súng cối vào phố Hàng Bún, chiếm trụ sở Bộ Tài Chính.
Ngày 18/12/1946, chúng láo xược gửi tối hậu thư buộc Chính phủ ta giải tán lực lượng
tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm soát thủ đô cho chúng.
Trước hành động ngang ngược của thực dân Pháp, nhân dân ta chỉ có một con
đường: cầm vũ khí kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập,
tự do.Trong hoàn cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến ngay trong đêm 19/12/1946.
Lời kêu gọi của Người là tiếng gọi của non sông, là mệnh lệnh tiến công cách
mạng, giục giã, soi đường cho nhân dân ta đứng lên đánh giặc, cứu nước.
CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU – ĐÔNG 1947 lOMoAR cPSD| 61601608 1. Khái quát
Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 là chiến dịch phản công của lực lượng
vũ trang nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước Cuộc hành quân Léa do quân đội
Pháp thực hiện tại phía Bắc Việt Nam trong Chiến tranh Đông Dương.
Quân Pháp thu được một số thành công chiến thuật (chiếm giữ được một số
khu vực tại biên giới giáp Trung Quốc), nhưng về chiến lược tổng thể thì đây là một
thất bại của quân Pháp, vì không thể tiêu diệt đầu não chính phủ kháng chiến và quân
chủ lực của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ý đồ "đánh nhanh thắng nhanh" nhằm kết
thúc sớm việc xâm chiến Việt Nam lần thứ 2 của Pháp đã thất bại sau chiến dịch này 2. Bối cảnh
Cuối tháng 10 năm 1946 (trước ngày Toàn quốc kháng chiến), thực hiện chỉ
thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng từ Hà Nội trở lại Việt Bắc chuẩn
bị căn cứ địa kháng chiến. Các huyện Chợ Đồn (Bắc Cạn), Chiêm Hoá, Sơn Dương
(Tuyên Quang), Định Hóa, Đại Từ (Thái Nguyên), được chọn làm An toàn khu (ATK).
Bắt đầu từ tháng 11 năm 1946, để bảo toàn lực lượng, các cơ quan Trung ương Đảng,
Chính phủ, Mặt trận, Bộ Tổng chỉ huy lần lượt rời Hà Nội lên Việt Bắc để lãnh đạo,
tổ chức kháng chiến lâu dài. Các binh công xưởng, xí nghiệp, nhà máy, gần 63 nghìn
nhân dân miền xuôi và hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu được vận chuyển, sơ
tán lên Việt Bắc để vừa sản xuất vừa tiếp tục chiến đấu.
Thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn do thiếu quân và chiến tranh kéo dài sau
khi chiếm các đô thị cũng như các tuyến giao thông quan trọng của nước ta.
Đầu năm 1947, sau khi giải pháp chính trị lập chính phủ bù nhìn bế tắc, thực
dân Pháp đã quyết định dùng quân sự để giải quyết vấn đề Chiến tranh Đông Dương.
Tháng 3/1947, Cao ủy Pháp Bollaert ở Đông Dương, thực hiện kế hoạch tiến công
Việt Bắc, nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và quân chủ lực, triệt đường
liên lạc quốc tế của ta, nhanh chóng giành thắng lợi quân sự, lập chính phủ bù nhìn
và kết thúc nhanh chiến tranh. Mục tiêu của Pháp là: "Diệt và bắt cơ quan đầu não
của Việt Minh, tìm diệt chủ lực, phá tan căn cứ địa Việt Bắc, bịt kín, khóa chặt biên
giới Việt–Trung, ngăn chặn không cho Việt Minh tiếp xúc với Trung Quốc và loại trừ
mọi chi viện từ bên ngoài vào. Truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt, đánh cho tan
tác mọi tiềm lực kháng chiến của họ…" 3. Diễn biến
A. Chủ trương chiến dịch của Việt Nam
▪ Chiến đấu bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc, phá tan âm mưu của địch.
▪ Quân dân ta chiến đấu bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc: bao vây, tập kích quân nhảy dù.
▪ Bẻ gãy hai gọng kìm của địch:
- Đường thủ ở Đoan Hùng ở (25/10/1947).
- Đường bộ ở đèo Bông Lau (30/10/1947). B. Diễn biến lOMoAR cPSD| 61601608
Hình 8. Lược đồ chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947
Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947 diễn ra trong 2 giai đoạn : ▪ Giai đoạn 1 :
- Pháp huy động 12.000 quân cùng với hầu hết máy bay ở Đông Dương.
Chiến dịch này bắt đầu ngày 7 tháng 10 năm 1947 với đạo quân gồm
800 lính đổ bộ xuống Bắc Kạn dưới quyền chỉ huy của đại tá Henri
Sauvagnac, chiếm đóng các công sở, nhà thương, kho bạc, nhà máy đèn...
- 200 lính Pháp tiếp tục đổ bộ đánh chiếm chợ Đồn ngày 8/10/1947.
- Bộ đội Việt Minh của ta đã thực hiện theo chỉ thị của Đảng “Phải phá
tan cuộc tổng tiến công mùa đông của giặc Pháp”.
- Ngày 8/10/1947, du kích Việt Minh liên tục phục kích quấy rối nhiều
vị trí, đồng thời tiêu diệt hai trung đội Pháp.
- Sau trận “Việt Bắc tấn công” của chiến sĩ Nguyễn Danh Lộc bắn rơi
máy bay 12 cán bộ tham mưu chiến lược Pháp, Bộ Tổng chỉ huy Việt
Minh đã điều chỉnh, tổ chức lại lực lượng. chia thành các tiểu đoàn
đánh từng mặt trận cụ thể.
- Chiều ngày 14/10/1947, Trung ương Đảng họp và thống nhất phương
pháp đánh Pháp. Từ các mặt trận, quân ta đã anh dũng chiến đấu đẩy
lùi bước tiến của thực dân Pháp.
+ Việt Minh đánh hơn 20 trận, buộc thực dân Pháp phải rút khỏi chợ
Đồn, chợ Rã vào cuối tháng 11/1947 trên mặt trận đường 3.
+ Quân ta tiếp tục phục kích tại bản Sáo – đèo Bông Lau ngày
30/10/1947, phá hủy 27 xe chuyên dụng và bắt sống 240 lính
Pháp ở mặt trận đường số 4. Isolated đã phải rút khỏi Bản =>
“đường chết” trở thành tên đường số 4. lOMoAR cPSD| 61601608
- Ngày 29/10/1947, 30 xe bọc thép của Pháp lọt vào ổ phục kích của
quân Việt Minh. Khoảng 250 người đã bị giết và bị bắt.
- Trên các mặt trận khác, Việt Minh đã chiến đấu kiềm chế, không cho
quân Pháp tập trung binh lực vào các chiến trường chính. ▪ Giai đoạn 2 :
- Ngày 20 tháng 11 năm 1947, quân Pháp mở cuộc tấn công Ceinture.
Thực dân Pháp tiến hành càn quét từ ngày 19/11 đến 14/12/1947, thu
giữ nhiều công cụ, vũ khí, phá đài phát thanh và bắt hơn 1.000 người Việt Nam.
- Quân ta tạo ra các trận phục kích trên các tuyến đường thuộc địa phận
Lạng Sơn – Cao Bằng, đồng thời đánh từ Chiêm Hóa đến Lạng
Thương, Hà Giang. Khiến cho thực dân Pháp phải rút khỏi Tuyên Quang.
- Ở các chiến trường khác, quân Việt Minh đã phối hợp nhịp nhàng. Ở
Hà Nội, quân ta chiến đấu dũng cảm.
- Pháo đài Phủ Thông của Pháp bị quân ta tiêu diệt vào đêm 30/11/1947.
- Tháng 12 năm 1947, quân Pháp rút khỏi Việt Bắc cùng với nhiều mặt trận khác.
- Ngày 15/12/1947, Trung đoàn 165 tập kích vào đèo Giăng phá 17 xe,
diệt 60 tên Pháp, thu 2 triệu đồng tiền Đông Dương và vũ khí các loại.
4. Kết quả & ý nghĩa
Pháp chiếm giữ một số khu vực biên giới nhưng thất bại về mặt chiến lược. Sau hơn
hai tháng chiến đấu bền bỉ, anh dũng, đến ngày 19-12-1947, đại bộ phận thực dân
Pháp rút khỏi Việt Bắc. Hơn 6000 lính Pháp và tay sai Việt Nam bị tiêu diệt, bắt sống
hơn 270 lính, phá hủy 16 tàu chiến, 38 ca nô, 18 máy bay chuyên dụng và 255 xe các
loại. Bộ đội Việt Minh đã hoàn thành mục tiêu đề ra là bảo vệ cơ quan đầu não kháng
chiến, bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc và bẻ gãy cuộc tấn công của thực dân Pháp. Binh
lính Pháp hoang mang tột độ, tinh thần lo sợ, quần chúng Pháp dậy sóng.
Trận đánh thất bại buộc quân Pháp phải sớm kết thúc chiến tranh ở Đông Dương,
buộc phải chuyển từ phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” sang đánh lâu dài “dùng
người Việt đánh người Việt”.
Lực lượng chiến đấu dần dần thay đổi có lợi cho quân đội Việt Minh. Chiến dịch Việt
Bắc thu đông năm 1947 kết thúc.
Chiến dịch Việt Bắc được xem là thắng lợi lớn đầu tiên của Việt Minh trong cuộc
chiến, đánh đổ kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh" của Pháp, buộc Pháp phải rơi vào
thế bị động, rơi vào bẫy đánh lâu thắng lâu, kéo căng lực lượng do Việt Minh đã giăng
sẵn. Chiến thắng này cũng khẳng định sức mạnh vật chất và tham vọng quân sự của
thực dân Pháp không thể chiến thắng được bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.
CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI THU ĐÔNG 1950 1. Khái quát
Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950, còn gọi Chiến dịch Lê Hồng Phong 2.
Đây là một chiến dịch thuộc Chiến tranh Đông Dương do Quân đội nhân dân Việt
Nam (Việt Minh) lãnh đạo và thực hiện trong thời gian thừ ngày 6 tháng 9 đến 14
tháng 10 năm 1950. Chiến dịch lập ra nhằm phá vòng vây mà quân viễn chinh của lOMoAR cPSD| 61601608
Đệ tứ Cộng hòa Pháp bố trí để cô lập căn cứ địa Việt Bắc, từ đó khai thông biên giới
Việt – Trung nhằm mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ của Liên bang Xô Viết thông qua
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đồng thời, Việt Minh sẽ mở rộng căn cứ địa làm tiêu
hao sinh lực quân đồn trú Pháp và thử nghiệm các chiến thuật của Quân đội Nhân dân
Việt Nam cho các trận đánh lớn sau này.
Hình 9. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 2. Bối cảnh
Chiến dịch diễn ra vào tháng 10 năm 1949 khi mà cách mạng Trung Quốc
thành công ngay sau đó, các quan hệ ngoại giao với Liên Xô, Trung Quốc và các nước
xã hội chủ nghĩa khác được thiết lập với Việt Nam. Cùng với đó hai nước liền kề, Lào
và Campuchia cũng bắt đầu thành lập ủy ban dân tộc kháng chiến Campuchia và
Chính phủ kháng chiến Lào. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho phong trào giải phóng
dân tộc trong khu vực. Còn trên thế giới, phong trào đấu tranh của nhân dân các nước
đặc biệt là tại Pháp về phản đối cuộc chiến tại Đông Dương, trong đó có Việt Nam dâng cao.
Với mong muốn, tập trung lực lượng để giữ khu vực Đồng Bằng Bắc Bộ đồng
thời không cho giao lưu biên giới Việt Trung, và chia cắt cứ địa Việt Bắc với các khu
vực khác, Pháp tiến hành thông qua kế hoạch Revers cùng Mỹ. Ngoài ra, Pháp còn
mua vũ khí trực tiếp từ Mỹ để gia tăng đổ bộ lên Việt Nam và các nước Đông Dương.
Theo kế hoạch của tướng Revers, quân đội Pháp ở Đông Dương thực hiện chủ trương
xem Bắc Bộ là chiến trường chính; chiếm đóng đồng bằng, củng cố biên giới; đồng
thời ra sức tǎng viện, tổ chức quân đội quốc gia bản xứ để làm giảm ảnh hưởng và thu
hẹp khả năng kiểm soát của lực lượng Việt Minh; tǎng cường lực lượng trên chiến
trường đồng bằng Bắc Bộ; tổ chức một hệ thống phòng ngự mới dựa vào những cứ
điểm lớn và những Binh đoàn ứng chiến (colonne) lớn; và tǎng cường phi cơ và trọng
pháo để chống lại các cuộc tấn công của quân Việt Minh. Trong lúc đó, mở những
cuộc càn quét liên tiếp vào vùng địch hậu, nhất là ở Nam Bộ để củng cố hậu phương. lOMoAR cPSD| 61601608
Để lấy lại thế chủ động, Pháp tăng cường hệ thống phòng ngự , khoá biên giới Việt-
Trung nhằm cô lập căn cứ địa Việt Bắc với bên ngoài, thiết lập hành lang Đông- Tây
với mục đích cô lập Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ, chuẩn bị lực lượng tấn công Việt
Bắc lần 2 để tiêu diệt đầu não Việt Minh, lập ra hệ thống Liên khu Biên thùy.
Bộ chỉ huy Việt Minh đã nhận định đúng ý đồ của Pháp, nhanh chóng vạch kế
hoạch chủ động tấn công để khai thông con đường liên lạc quốc tế để nhận viện trợ
từ Trung Quốc, Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Việt Minh có thể tiêu
diệt một bộ phận sinh lực đối phương, mở rộng ảnh hưởng và củng cố địa bàn căn cứ
địa Việt Bắc, tạo điều kiện đẩy mạnh công cuộc kháng chiến. 3. Diễn biến
A. Ý đồ chiến dịch của Việt Nam
Ngày 21/8/1950, qua thảo luận Hội nghị Đảng ủy chiến dịch, cùng với tham
khảo ý kiến của các cố vấn Trung Quốc, Việt Minh quyết tâm như sau:
▪ Tập trung ưu thế binh hỏa lực tiêu diệt Đông Khê đồng thời tiêu diệt
quân ứng chiến đường không và đường bộ.
▪ Chuyển xuống Thất Khê, nếu có điều kiện thì tiêu diệt Thất Khê, chưa
có điều kiện thì đánh vận động quanh Thất Khê hoặc đánh quân Pháp
trên quãng Thất Khê – Đông Khê hay Thất Khê – Lạng Sơn.
▪ Sau khi tiêu diệt được Thất Khê, nghỉ 10 đến 15 ngày sẽ lên đánh Cao
Bằng. Nếu sau khi Đông Khê bị tiêu diệt, Pháp bỏ Cao Bằng rút chạy
về phía nam thì tập trung lực lượng tiêu diệt trên quãng Cao Bằng – Đông Khê.
▪ Các lực lượng bộ đội địa phương và dân quân du kích tỉnh Lạng Sơn và
dọc quốc lộ số 4, cùng 1 đại đội của k và 2000 dân công hoạt động du
kích, phá đường, phục kích, tiêu hao quấy rối, có điều kiện thì tiêu diệt
một bộ phận quân Pháp trên quãng Thất Khê – Lạng Sơn.
▪ Thời gian dự kiến là 30 đến 40 ngày, trong đó phải giải quyết nhanh
Đông Khê, Thất Khê, tốt nhất là từ 7 đến 10 ngày.
▪ 14/9/1950 các lực lượng tham gia chiến dịch phải sẵn sàng ở vị trí tập kết. B. Diễn biến
Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 diễn ra trong 3 đợt :
▪ Đợt 1 (từ ngày 16 đến ngày 20/9/1950): Ta tập trung lực lượng đánh
trận then chốt tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê.
▪ Đợt 2 (từ ngày 21 đến ngày 29/9/1950): Tiến hành trận then chốt quyết
định tiêu diệt hai binh đoàn Le Page và Charton.
▪ Đợt 3 (từ ngày 9 đến ngày 14/10/1950): Địch ở Thất Khê, Na Sầm,
Lạng Sơn rút chạy, ta truy kích địch giải phóng Thất Khê, Na Sầm.
Gồm các mốc thời gian diễn biến như sau :
▪ Sáng 16/9/1950, ta bắt đầu nổ súng đánh cụm cứ điểm Đông Khê mở
màn chiến dịch. Mặc dù địch chống cự hết sức quyết liệt và tình huống
chiến đấu diễn ra rất gay go, phức tạp, song bộ đội ta vẫn dũng cảm
chiến đấu, tổ chức nhiều đợt xung phong, kiên quyết hoàn thành nhiệm lOMoAR cPSD| 61601608
vụ. Sáng ngày 18/9, bộ đội ta chiếm toàn bộ cụm cứ điểm Đông Khê.
Sau thất bại Đông Khê, Tổng chỉ huy Pháp ở Đông Dương vội vàng
thực hiện kế hoạch rút quân khỏi thị xã Cao Bằng, điều động binh đoàn
Le Page ở Thất Khê hành quân tiến lên chiếm lại Đông Khê và đón binh
đoàn Charton từ Cao Bằng rút về. Ngoài ra, Bộ chỉ huy quân Pháp còn
mở 2 cuộc hành quân Tizgnit và Orage đánh lên vùng tự do Thái
Nguyên, nhằm thu hút chủ lực của ta, giải tỏa cho hướng biên giới Cao Bằng - Lạng Sơn.
Nhờ phán đoán từ trước và đã chuẩn bị sẵn sàng để đối phó, ta vẫn tập trung
lực lượng tại biên giới, kiên quyết tiến hành kế hoạch chiến dịch như đã xác định. Bộ
Chỉ huy chiến dịch tập trung gần như toàn bộ lực lượng để đánh quân địch đi tiếp
viện, lấy đó là đòn đánh then chốt quyết định giành toàn thắng.
▪ Từ ngày 1/10 đến 5/10/1950 : Đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt ở khu
vực phía Nam và phía Tây Đông Khê. Binh đoàn Le Page chẳng những
không thực hiện được ý định chiếm Đông Khê mà còn bị ta tiêu diệt
một bộ phận, cuối cùng phải chạy dồn vào khu núi đá Cốc Xá, nơi có
địa hình hiểm trở, dựa vào đó cố thủ và lấy đó làm địa điểm đón quân Sác-tông.
▪ Từ ngày 5/10 đến 7/10/1950 : Với tinh thần chiến đấu dũng cảm, 4 tiểu
đoàn của ta đã liên tục công kích địch ở Cốc Xá. Le Page cùng ban tham
mưu và một bộ phận tàn quân chạy thoát, nhưng đến chiều 8/10/1950 toàn bộ bị bắt gọn.
▪ Ngày 7/10/1950 : Binh đoàn Charton bị quân ta bao vây công kích tại
khu điểm cao 477 (cách Cốc Xá 3km).
▪ Ngày 8/10/1950 : Pháp cho một tiểu đoàn tiếp viện từ Thất Khê tiến lên
định ứng cứu cho Le Page và Charton cũng bị ta đánh tan. Địch liên
tiếp rút chạy khỏi Na Sầm, Đồng Đăng, thị xã Lạng Sơn, Lạng Giang,
Lộc Bình, Đình Lập, An Châu.
▪ Ngày 14/10/1950, Chiến dịch Biên Giới kết thúc.
C. Kết quả : Chiến dịch Biên giới Thu đông 1950 đã giành thắng lợi. 4. Ý nghĩa
Chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950 đã khẳng định tầm nhìn chiến lược,
những quyết sách sáng tạo, hiệu quả của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được thể
hiện trên một số nội dung cơ bản: nhận định chính xác tình hình, kịp thời hạ quyết
tâm mở chiến dịch, tạo bước ngoặt cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc phát triển;
kịp thời, chính xác chuyển hướng chiến lược tiến công; tập trung lực lượng lãnh đạo
chủ chốt của Đảng và Quân đội, tổ chức chỉ huy chặt chẽ, đoàn kết thống nhất cao.
Thắng lợi của quân và dân ta trong Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 là sự
kết tinh sức mạnh tổng hợp của cả nước, thành quả của cuộc chiến đấu kiên cường
suốt 5 năm (1945 - 1950) trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc.
Quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn khu vực biên giới, từ thị xã Cao Bằng
đến thị trấn Đình Lập (Lạng Sơn) - một địa bàn chiến lược trọng yếu, tạo nên thế trận
mới vững chắc; làm phá sản âm mưu “khóa chặt biên giới Việt-Trung” và chọc thủng
“hành lang Đông-Tây” của thực dân Pháp. lOMoAR cPSD| 61601608
Thủ đô kháng chiến Việt Bắc không những được giữ vững, mà còn được củng
cố, mở rộng, trở thành vùng tự do, an toàn; niềm tin vào thắng lợi của quân và dân cả
nước ngày càng thêm vững chắc; nối liền đường giao thông quốc tế giữa căn cứ địa
Việt Bắc (Việt Nam) với Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam có điều kiện
thuận lợi để tiếp nhận các nguồn viện trợ về vật chất, vũ khí, trang bị quân sự và học
hỏi kinh nghiệm tổ chức chiến đấu của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Cùng với ý nghĩa to lớn đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của
nhân dân ta, Chiến thắng Biên Giới Thu Đông 1950 góp phần thúc đẩy cuộc kháng
chiến của nhân dân Lào và Campuchia từng bước phát triển vững chắc, phối hợp nhịp
nhàng với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam; đồng thời cổ vũ tinh thần chiến
đấu và tăng thêm niềm tin cho các dân tộc đang đấu tranh vì độc lập, tự do, nhất là
trong giai đoạn này đế quốc Mỹ đang mở cuộc chiến tranh xâm lược Bắc Triều Tiên.
Sau Chiến thắng Biên giới Thu Đông 1950, quân và dân ta tiếp tục giữ vững quyền
chủ động, phát huy thế tiến công chiến lược trong những năm 1951 - 1953; tiến tới
giành thắng lợi liên tiếp trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, mà
đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của
thực dân Pháp, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Genève, lập lại hòa bình ở Đông Dương. TỔNG KẾT
Những chiến dịch trên đã mở đường liên lạc quốc tế, kết nối nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa với các ngước Xã hội chủ nghĩa trên thế giới, làm cho cuộc kháng
chiến thoát khỏi tình thế bị bao vây, cô lập. Thêm vào đó mở rộng và củng cố căn cứ
địa Việt Bắc, rèn luyện bộ đội thêm trưởng thành và tích lũy được kinh nghiệm đặt
nền móng cho những cuộc kháng chiến sau này. Đồng thời giành được thế chủ động
trên chiến trường chính Bắc Bộ, mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến. lOMoAR cPSD| 61601608
CHƯƠNG III. CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ HIỆP ĐỊNH GENÈVE 1954 GIỚI THIỆU CHUNG
Trận Điện Biên Phủ, còn gọi là Chiến dịch Trần Đình là chiến thắng quân sự lớn
nhất trong cuộc Chiến tranh Đông Dương (1945 – 1954) của Việt Nam. Với thắng lợi
quyết định này, lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) do Đại tướng
Võ Nguyên Giáp chỉ huy đã buộc quân Pháp tại Điện Biên Phủ phải đầu hàng vào
ngày 7 tháng 5 năm 1954, sau suốt 2 tháng cầm cự. Pháp đã không còn bất kì khả
năng nào để tiếp tục chiến đấu tại Việt Nam sau thảm bại tại trận Điện Biên Phủ, từ
đó buộc phải ký kết hiệp định Genève 1954, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Hiệp định Genève 1954 là hiệp định đình chiến được ký kết tại thành phố
Genève, Thụy Sĩ nhằm khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Hiệp định dẫn đến chấm
dứt sự hiện diện của quân đội Pháp trên bán đảo Đông Dương và chính thức chấm dứt
chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương.
Hình 10. Quân đội Nhân dân Việt Nam phất cờ chiến thắng trên nóc trung tâm phòng ngự
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ
CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
1. Kế hoạch Navarre của Pháp
Từ năm 1953, tình hình chiến trường Đông Dương có nhiều thay đổi bất lợi
cho thực dân Pháp. Đến cuối năm 1953, Chiến tranh Đông Dương đã kéo dài 8 năm,
quân Pháp lâm vào thế bị động và ngày càng lún sâu vào thất bại trên hầu khắp các
chiến trường. Trong khi đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thiết lập được quyền
kiểm soát cực kì vững chắc tại nhiều khu vực rộng lớn ở Tây Nguyên, khu 5, các tỉnh
Cao-Bắc-Lạng... và nhiều khu vực ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nền kinh tế Pháp thời
đó đã hầu như không còn đủ sức gánh chịu, chi trả được cho chiến phí của lính Pháp
và tay sai tại Đông Dương được thêm nữa và Pháp đã phải cầu viện sự trợ giúp về cả
kinh tế lẫn quân sự từ phía Hoa Kỳ.