Bài thuyết trình đề tài: Phân tích các giai đoạn hình thành và phát triển TTHCM và luận giải những vấn đề đánh dấu sự chuyển biến về “chất” trong tư tưởng của Người
Bài thuyết trình về đề tài Phân tích các giai đoạn hình thành và phát triểnTTHCM và luận giải những vấn đề đánh dấu sự chuyển biến về “chất” trong tư tưởng của Người giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ----- ----- BÀI THUYẾT TRÌNH T ên đề tài :
“Phân tích các giai đoạn hình thành và phát triển
TTHCM và luận giải những vấn đề đánh dấu sự chuyển
biến về “chất” trong tư tưởng của Người” hcm, tháng 09/2023 PAGE \* MERGEFORMAT 15 LỜI NÓI ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống tư tưởng chính trị, kinh tế, xã
hội và văn hóa được Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo vĩ đại của Việt Nam,
xây dựng và phát triển trong suốt cuộc đời ông. Tư tưởng này không chỉ
có ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc cách mạng và sự phát triển của Việt
Nam, mà còn có giá trị và tầm ảnh hưởng to lớn đối với cả nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển thông qua quá
trình đúc kết, trải nghiệm của ông trong cuộc sống khi ông bôn ba nơi xứ
người và cuộc đấu tranh cho độc lập và tự do của dân tộc Việt Nam.
Ông tin rằng tình yêu và tôn trọng con người là trọng tâm của mọi hoạt
động chính trị và xã hội. Tư tưởng của ông tập trung vào việc thực hiện
công bằng xã hội, bình đẳng giữa các tầng lớp, và sự phát triển toàn diện của con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở phạm vi Việt Nam mà còn
có tầm ảnh hưởng quốc tế. Ông là một nhà lãnh đạo và triết gia với tầm
nhìn toàn cầu, và ông đã đóng góp tích cực vào phong trào giải phóng
dân tộc và công bằng xã hội trên khắp thế giới.
Trong bài báo cáo này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu sâu hơn về các
khía cạnh hình thành của Tư tưởng Hồ Chí Minh, như các giai đoạn hình
thành và phát triển TTHCM và luận giải những vấn đề đánh dấu sự
chuyển biến về "chất" trong tư trường của Người.
I/ Sự kiện chính diễn ra trong 5 giai đoạn hình thành và phát triển TTHCM.
1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và có
chí hướng tìm con đường cứu nước mới.
- Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh sinh ra, lớn lên và cảm nhận được nổi
đau nước mất nhà tan, tiếp thu sự giáo dục của gia đình, quê hương, dân
tộc về lòng yêu nước, thương dân: Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia
đình nhà nho hiếu học, yêu nước cấp tiến, có lòng yêu nước thương dân
sâu sắc, tư tưởng đổi mới; có nề nếp gia phong, giàu lòng yêu nước, gắn
bó, gần gũi với nhân dân lao động. Thân sinh của Người là tấm gương PAGE \* MERGEFORMAT 15
sáng về sự lao động cần cù và ý chí kiên cường vượt qua khó khăn gian
khổ, đặc biệt là tư tưởng yêu nước của Người.
- Quê hương Nghệ An là vùng đất giàu truyền thống văn hoá,
địa linh nhân kiệt và sản sinh ra rất nhiều người tài.
- Đồng thời tận mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức,
bóc lột đến cùng cực của đồng bào mình: Người được thấy cảnh khổ ải,
cùng cực của dân phu làm con đường Cửa Rào - Trấn Ninh, thấy được
sự đối lập giữa cuộc sống lao động vất vả, chật vật, nghèo khó của nhân
dân với cảnh sống xa hoa, phè phỡn của bọn thực dân Pháp và quan lại Nam triều.
-Tư tưởng yêu nước, thương dân được biểu hiện với những
hành động cụ thể: Người đã tham gia và chứng kiến cuộc biểu tình
chống sưu thuế của nhân dân miền Trung (4/1908); làm thầy giáo ở
trường Dục Thanh (Phan Thiết) để tuyên truyền cách mạng; nhận xét,
phê phán con đường cứu nước của các bậc tiền bối; Quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước.
- Bước đầu tiếp xúc với văn hóa Phương Tây: khi mới 13 tuổi
người đã ngắm nhìn, hoài nghi về tự do, bình đẳng, bác ái của người
Pháp để trên bảng hiệu Trường Quốc Học Huế; nhận xét, phê phán con
đường cứu nước của các bậc tiền bối, đã sớm hình thành nên chí hướng
cách mạng của Hồ Chí Minh. Điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận
thức được và nó dẫn người đi đúng hướng là: Nguồn gốc những đau khổ
và áp bức dân tộc là ở ngay tại “chính quốc”, ở các nước đế quốc đang
thống trị dân tộc mình”.
- Đây là thời kì rất quan trọng trong quá trình hình thành và phát
triển của tư tưởng Hồ Chính Minh vì đây là thời kì tư tưởng yêu nước,
thương dân tha thiết, bảo vệ những giá trị tinh thần truyền thống của dân
tộc, ham học hỏi những tư tưởng tiến bộ cử nhân loại.
2. Thời kỳ 1911 - 1920: Hình thành tư tưởng cứu nước, giải
phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc theo con
đường của cách mạng vô sản được hình thành từng bước trong quá trình
Hồ Chí Minh đi tìm con đường cứu nước; đó là quá trình sống, làm việc, PAGE \* MERGEFORMAT 15
học tập, nghiên cứu lý luận và tham gia đấu tranh trong thực tế cách
mạng ở nhiều nước trên thế giới.
Trước hết, người xác định đúng bản chất, thủ đoạn, tội ác của chủ
nghĩa thực dân và tình cảnh nhân dân các nước thuộc địa. Từ năm 1911
đến năm 1917, từ Pháp, Hồ Chí Minh đến nhiều nước trên thế giới. Qua
cuộc hành trình này, ở người hình thành một nhận thức mới: bọn đế
quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi cắm ở các nước thuộc địa và một
vòi ở chính quốc nên nhân dân lao động các nước, trong đó có giai cấp
công nhân bị bóc lột đều là bạn của nhau; còn chủ nghĩa đế quốc, bọn
thực dân ở đâu cũng là kẻ bóc lột, là kẻ thù của nhân dân lao động.
Năm 1917 trở lại Pháp, Hồ Chí Minh tham gia phong trào công nhân
Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Năm 1919, Người gia nhập
Đảng Xã Hội của giai cấp công nhân Pháp, bởi theo Người, đây là tổ
chức theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại Cách mạng Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái.
Bước nhận thức mới về quyền tự do, dân chủ của nhân dân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh diễn ra qua hoạt động Người thay mặt những người
Việt Nam yêu nước ở Pháp, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, gửi 12 bản Yêu
sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Vécxây (ngày 18/6/1919), đòi
quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Đây là tiếng nói chính
nghĩa đầu tiên của đại biểu phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam trên
diễn đàn quốc tế. Tiếng nói chính nghĩa đó có ảnh hưởng lớn tới các
phong trào yêu nước ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã tìm thấy và xác định rõ phương hướng đấu tranh giải
phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản qua nghiên
cứu Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa (để trình bày tại Đại hội II Quốc tế Cộng sản) V.I. Lênin và
nhiều tài liệu liên quan đến Quốc tế Cộng sản vào tháng 7/1920. Cùng
với việc tích cực tham gia các hoạt động thực tế trong Đảng Xã hội
Pháp, Người hiểu biết sâu sắc hơn về chủ nghĩa Lênin, Quốc tế Cộng
sản, về cách mạng vô sản, về phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Với những nhận thức cách mạng mới, Hồ Chí Minh cùng những người
phái tả trong Đảng Xã hội Pháp tại Đại hội ở thành phố Tua (từ ngày 25
đến ngày 30/12/1920), bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản.
Tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản
Việt Nam đầu tiên. Đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Hồ PAGE \* MERGEFORMAT 15
Chí Minh, bước ngoặt chủ nghĩa yêu nước kết hợp chặt chẽ với lập
trường cách mạng vô sản.
3. Thời kỳ 1920 - 1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng
về cách mạng Việt Nam
Trong giai đoạn này Nguyễn Ái Quốc hoạt động rất phong phú, và
tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước, chuẩn bị về mặt chính
trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đây là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc hoạt động lý luận trên địa bàn Pháp
(1921 – 1923), Liên Xô (1923 – 1924), Trung Quốc (1924 – 1927), Thái
Lan (1928 – 1929)… Trong giai đoạn này, Tư Tưởng hồ Chí Minh về
cách mạng Việt Nam đã được hình thành về cơ bản. Những công trình
như “ Bản Án Chế Độ Thực Dân (1925)”, “Đường kách mệnh(1927)” và
những bài viết của người trong thời kì này đã thể hiện những quan điểm
lớn, sáng tạo về con người cách mạng Việt Nam. Có thể tóm tắt nội
dung chính của những quan điểm đó như sau:
- Bản chất của chủ nghĩa thực dân là “ăn cướp” và “giết người” vì
vậy chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên khắp thế giới.
- Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con
đường cách mạng vô sản.
- Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và và cách mạng vô sản
ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cách mạng thuộc địa
không lệ thuộc vào cách mạng ở chính quốc mà có tính chủ động và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc
- Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mệnh”,
đánh đuổi thực dân, giành lại độc lập tự do cho các dân tộc thuộc địa
- Cách mạng giải phóng dân tộc là việc chung của cả toàn dân, phải
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh công nông
- Cách mạng muốn thành công trước hết phải có Đảng cách mạng
lãnh đạo. Đảng có vững, cách mạng mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững phải lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nòng cốt.
- Phương pháp đấu tranh cách mạng là bằng bạo lực của quần chúng
và có thể bằng phương thức khởi nghĩa dân tộc. PAGE \* MERGEFORMAT 15
4. Thời kỳ 1930 - 1941: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối,
phương pháp cách mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo.
Những thử thách lớn với Hồ Chí Minh xuất hiện không chỉ từ phía kẻ
thù, mà còn từ trong nội bộ những người cách mạng. Một số người trong
Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Đông Dương có những nhìn nhận
sai lầm về Hồ Chí Minh do chịu ảnh hưởng quan điểm giáo điều tả
khuynh xuất hiện trong Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản. Do không
nắm vững tình hình các dân tộc thuộc địa và ở Đông Dương, nên tư
tưởng mới mẻ, đúng đắn, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên chẳng những không được hiểu và chấp nhận mà còn bị
phê phán, bị coi là “hữu khuynh”, “dân tộc chủ nghĩa”.
Hội nghị Trung ương Đảng họp tháng 10/1930 ra nghị quyết cho rằng:
Hội nghị hợp nhất Đảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì có nhiều sai lầm,
“chỉ lo đến việc phản đế, mà quên mất lợi ích giai cấp tranh đấu ấy là
một sự rất nguy hiểm”; việc phân chia thành trung, tiểu, đại địa chủ
trong sách lược của Đảng là không đúng. Hội nghị ra Án nghị quyết:
“Thủ tiêu Chánh cương, Sách lược và Điều lệ Đảng”; bỏ tên Đảng Cộng
sản Việt Nam do Hồ Chí Minh và những người tham gia Hội nghị thành
lập Đảng xác định, lấy tên là Đảng Cộng sản Đông Dương, hoạt động
theo như chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, v.v..
Thoát khỏi nhà tù của thực dân Anh ở Hồng Kông, năm 1934, Hồ Chí
Minh trở lại Liên Xô, vào học Trường quốc tế Lênin. Sau đó, Người làm
nghiên cứu sinh tại Ban Sử của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Quốc tế Cộng sản. Trong khoảng thời gian từ năm 1934
đến năm 1938, Hồ Chí Minh vẫn còn bị hiểu lầm về một số hoạt động
thực tế và quan điểm cách mạng.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nhận thấy thời cuộc sẽ có
những chuyển biến lớn, nên cần phải trở về nước trực tiếp gia lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, ngày 6/6/1938, Hồ Chí Minh gửi thư cho một lãnh
đạo Quốc tế Cộng sản, đề nghị cho phép trở về nước hoạt động, trong đó có đoạn viết:
“Xin đồng chí giúp đỡ tôi thay đổi tình cảnh đau buồn này... Đừng để
tôi sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở
bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng”. Đề nghị này được chấp nhận.
Tháng 10/1938, Hồ Chí Minh rời Liên Xô, đi qua Trung Quốc để trở
về Việt Nam. Tháng 12/1940, Hồ Chí Minh về gần biên giới Việt Nam - PAGE \* MERGEFORMAT 15
Trung Quốc, liên lạc với Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, trực
tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Người mở lớp huấn luyện cán bộ, viết
sách Con đường giải phóng, trong đó nêu ra phương pháp cách mạng
giành chính quyền (tháng 1/1941).
Tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng
định, trở thành yếu tố chỉ đạo cách mạng Việt Nam từ Hội nghị Trung
ương Đảng tháng 5/1941. Cuối tháng 1/1941, Hồ Chí Minh về nước.
Tháng 5/1941, tại Pác Bó (huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng), với tư cách
cán bộ Quốc tế Cộng sản, Người chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng. Hội nghị này đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu. Người khẳng định rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng
cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn
Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”.
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng nêu rõ: “Trong lúc này
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong
của quốc gia, của dân tộc.
Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của
bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Hội nghị Trung ương Đảng đã tạm thời gác lại khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất, xóa bỏ vấn đề lập Chính phủ Liên bang Cộng hòa dân chủ
Đông Dương, thay vào đó là chủ trương sẽ thành lập Chính phủ nhân
dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nêu chủ trương lập Mặt trận
Việt Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở nòng cốt liên minh
công nông, nêu ra phương hướng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, v.v..
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5/1941 đã hoàn chỉnh
thêm một bước sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của cách mạng
Việt Nam được vạch ra từ Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1939. Sự
chuyển hướng được vạch ra từ hai Hội nghị này thực chất là sự trở về
với quan điểm của Hồ Chí Minh đã nêu ra từ trong Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.
Trải qua sóng gió, thử thách, những quan điểm cơ bản nhất về
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam của Hồ Chí Minh PAGE \* MERGEFORMAT 15
được Đảng khẳng định đưa vào thực tiễn tổ chức nhân dân biến thành
các phong trào cách mạng để dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
5. Thời kỳ 1941 - 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển,
soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
-Tháng 5-1941, Người chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ VIII. hội
nghị đã đánh giá những chuyển biến mới của tình hình và đưa ra nhận
định hết sức quan trọng và đúng đắn về mối quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng
những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền
lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.” Hội
nghị đã dứt khoát khẳng định sự chuyển hướng chiến lược: Đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, là nhiệm vụ trước tiên, tạm gác
nhiệm vụ cách mạng điền địa lại.
-Trong thời kì này, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng cơ
bản là thống nhất. Trong những lần làm việc với các Bộ, ngành, địa
phương, Hồ Chí Minh nhiều lần đưa ra quan điểm sáng tạo, đi trước thời
gian. Và đây cũng là thời kỳ mà Hồ Chí Minh cùng trung ương Đảng
lãnh đạo nhân dân ta vừa tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp,
vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân mà đỉnh cao là chiến thắng Điện
Biên Phủ; tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh có bước phát triển mới:
-Ngày 19/5/1941, sáng lập ra Mặt trận Việt Nam. 22/12/1944, sáng
lập Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam.
-Kêu gọi Tổng khởi nghĩa giành chính quyền và đã thành công lật đổ
sách thống trị của Pháp giành lại độc lập trong cách mạng tháng 8 năm
1945 và đây chính là thắng lợi to lớn đầu tiên của chủ nghĩa Mác Lên
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
-Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập sáng lập
nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa đầu tiên ở vùng Đông Nam Á;
mở ra thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. PAGE \* MERGEFORMAT 15
-Từ 2/9/1945 đến 20/12/1946, Hồ Chí Minh đề ra chiến lược sách lược
cách mang sáng suốt, lãnh đạo Đảng và chính quyền cách mạng non trẻ
trải qua thử thách ngàn cân treo sợi tóc. Với phương châm bất biến ứng
biến, giữ mục tiêu đấu tranh chủ quyền độc lập dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc.
-Từ 1946-1954, Hồ Chí Minh là linh hồn của kháng chiến chống thực
dân Pháp. Trong thời kì này Hồ Chí Minh hoàn thiện lý tưởng cách
mạng dân tc dân chủ nhân dân ở Việt Nam từng bước hình thành tư
tưởng về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Từ 1954 – 1969, Hồ Chí Minh xác định và lãnh đạo thực hiện đường
lối cùng lúc thi hành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng Việt Nam: xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bác; tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam. Trong thời kì này, Hồ Chí mInh bổ sung
hoàn thiện hệ thống quan điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam trên tất
cả các lĩnh vực triết học, chính trị, kinh tế,…
-Từ đó, Hội nghị đề ra chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất
rộng rãi, lấy tên là “Việt Nam độc lập đồng minh”, gọi tắt là Mặt trận
Việt Minh nhằm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng yêu nước chống đế
quốc giành độc lập cho dân tộc, không phân biệt giai cấp, dân tộc ,tôn
giáo… để chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
-Dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Người và Thường vụ Trung ương Đảng,
công tác tuyên truyền vận động cách mạng tổ chức xây dựng lực lượng –
cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; xây dựng và mở rộng căn
cứ địa cách mạng,… được đẩy mạnh. Người cùng với Đảng ta đã nhạy
bén, sáng suốt phân tích tình hình thế giới, trong nước, nắm bắt và tận
dụng thời cơ đã kịp thời phát động Tổng khởi nghĩa, một cuộc Tổng
khởi nghĩa toàn dân chưa từng có trong lịch sử, đưa đến thắng lợi vĩ đại
của Cách mạng tháng Tám.
II/ Xác định và phân tích được những sự kiện đánh dấu sự
chuyển biến về chất trong tư tưởng của Người.
a) Những sự kiện đánh dấu sự chuyển biến về chất trong tư tưởng
của Hồ Chí Minh.
- Sự ra đi tìm đường cứu nước (1911): Đây là bước ngoặt đầu tiên
trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người. Người đã rời khỏi
quê hương, đi qua nhiều nước trên thế giới, tiếp xúc với nhiều văn hóa, PAGE \* MERGEFORMAT 15
lịch sử, chính trị và xã hội khác nhau. Người đã học hỏi, quan sát, so
sánh và phê phán những bất công, áp bức và bóc lột của thực dân, đế
quốc và tư bản. Người đã nhận ra rằng chỉ có cách mạng mới là con đường cứu nước.
- Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930): Đây là bước ngoặt
thứ hai trong tư tưởng của Người. Sau khi tiếp thu và vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người đã thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức lãnh đạo cách mạng duy nhất và
vững mạnh nhất. Người đã đặt ra những nguyên tắc, phương hướng và
mục tiêu cách mạng cho Đảng và nhân dân.
- Sự khai sinh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hóa (1945): Đây là
bước ngoặt thứ ba trong tư tưởng của Người. Sau khi lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa tháng Tám thành công, Người đã tuyên bố Độc lập cho nước Việt
Nam trước hàng vạn người dân ở Quảng trường Ba Đình. Người đã
khẳng định quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam, quyền sống của con
người và giá trị của chủ nghĩa dân chủ. Người đã tạo ra một nền dân chủ
mới, dân chủ Xã hội chủ nghĩa.
b) Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX các nước tư bản
phương Tây chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Tiến hành
xâm lược các nước lạc hậu, chậm phát triển ở châu Á, châu Phi, khu
vực Mỹ Latinh biến những nước này trở thành thuộc địa, phụ thuộc trong đó Việt Nam.
-Tháng 9/1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược và từng bước thôn
tính Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp và đi đến
đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp (thông qua các Điều ước 1862, 1874, 1883, 1884).
-Nguyễn Tất Thành sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước,
lớn lên ở một địa phương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm.
-Người rất khâm phục lòng yêu nước và đánh giá cao những cống
hiến của các bậc tiền bối cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Người cũng
đã nhận thấy những hạn chế và bế tắc của các bậc tiền bối đương thời
nên khó đi đến thành công.
-Ngày 5/6/1911, trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral
Latouche Tréville) của hãng Năm sao, từ bến cảng Nhà Rồng (thành phố PAGE \* MERGEFORMAT 15
Sài Gòn), người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (bí danh Văn
Ba) rời Tổ quốc bắt đầu cuộc hành trình lịch sử đi tìm đường cứu nước.
-Trong những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành
đã đi nhiều nước trên thế giới để tìm hiểu, khảo sát, phân tích, đánh giá ý
nghĩa các sự kiện lớn trên thế giới và rút ra kết luận là chủ nghĩa đế
quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ cho giai cấp công nhân và
nhân dân ở các nước chính quốc cũng như thuộc địa.
-Bằng tư duy chính trị sắc sảo, tinh tường. Nguyễn Tất Thành đã
kiên quyết không lựa chọn con đường cách mạng tư sản. Người cho rằng
những cuộc cách mạng tư sản đều không đến nơi đến chốn vì không giải
phóng được nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột.
-Năm 1917, một sự kiện làm rung chuyển thế giới, đánh dấu bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử nhân loại đó là thắng lợi của cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga, đã chứng minh học thuyết của Mác-Ănghen từ lý luận
trở thành hiện thực, đưa cách mạng thế giới bước sang thời đại mới, thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong lúc đang
trăn trở tìm một con đường cứu nước cho dân tộc, Nguyễn Tất Thành đã
tiếp nhận những thông tin đầu tiên về Cách mạng Tháng Mười Nga…
Từ chỗ chưa biết V.I.Lênin là ai, dần dần Người nhận ra rằng, Cách
mạng Tháng Mười Nga đã giúp một dân tộc lật đổ bọn áp bức bóc lột
mình, tự tổ chức quản lý mọi công việc đất nước, không cần bọn chủ và bọn toàn quyền.
-Ngày 18/6/1919, Nguyễn Tất Thành thay mặt Hội những người
Việt Nam yêu nước đang hoạt động ở Pháp, gửi đến Hội nghị Versailles
bản “Yêu sách của nhân dân An Nam”, gồm tám điểm để được xem xét
giải quyết quyền lợi của quốc gia dân tộc và được viết bằng tiếng Pháp,
ký tên Nguyễn Ái Quốc. Đây là lần đầu tiên cái tên Nguyễn Ái Quốc
xuất hiện. Bản yêu sách của nhân dân An Nam không được Chính phủ
Pháp, cũng như các nước trong Hội nghị Versailles quan tâm, để ý đến.
-Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của
V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo (L’Humanité). Tác phẩm này đã đưa
đến cho Nguyễn Ái Quốc những nhận thức mới về con đường giải
phóng dân tộc ở thuộc địa. Theo Người: “Cuộc đấu tranh cách mạng của
các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa lại trực tiếp giúp đỡ giai cấp vô
sản các nước tư bản trong cuộc đấu tranh chống các giai cấp thống trị để PAGE \* MERGEFORMAT 15
tự giải phóng khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa tư bản.”[4]. Đó là cơ sở để
cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa có tính độc lập, chủ động không
phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc, nó có thể nổ ra và thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng
chính quốc giành thắng lợi.
-Như vậy, Luận cương của V.I.Lênin đã tác động mạnh mẽ và tạo
sự chuyển biến trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh,
Người đã khẳng định con đường này chẳng những giải phóng hoàn toàn
dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa đế quốc, mà còn giải
phóng nhân dân Việt Nam khỏi mọi sự áp bức bóc lột, đi đến ấm no,
hạnh phúc thực sự. Sự lựa chọn này của Người là sự kiện mang tính chất
bước ngoặt vừa đáp ứng yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam, vừa
phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại.
-Tháng 12/1920, tại Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp diễn
ra ở Tua, với tư cách là đảng viên Đảng Xã hội Pháp, sự kiện Nguyễn Ái
Quốc bỏ phiếu gia nhập Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản, tán thành chủ
trương thành lập Đảng Cộng sản pháp, trở thành một trong những người
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam,
đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường
chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường người yêu nước chân chính
chuyển sang lập trường người cộng sản.
-Sự lựa chọn và hành động của Nguyễn Ái Quốc phù hợp với trào
lưu phát triển của lịch sử, chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa
cộng sản, đã kéo theo cả một lớp người Việt Nam yêu nước chân chính
đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó chủ nghĩa Mác-Lênin bắt đầu thâm
nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
-Tóm lại qua 5 thời kỳ hình thành và phát triển thì sự biến đổi về
chất của Hồ Chí Minh là sự chuyển bến từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ
nghĩa Mác- Lênin, từ giác ngô • dân tô •c đến giác ngô • giai cấp, từ người
yêu nước trở thành người cô •ng sản
Kết luận và nhấn mạnh những đóng góp của HCM đối với lịch sử của CMVN.
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh đưa cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam đến thắng lợi và bắt đầu xây dựng một xã hội mới trên đất nước ta. PAGE \* MERGEFORMAT 15
Hồ Chí Minh tìm thấy con đường giải phóng đất nước, sáng lập,
lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính
toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân đã lãnh đạo cuộc cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở ra một thời
đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - Thời đại độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Với tư tưởng Hồ Chí Minh, Người cùng Đảng
ta lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Sau đó, lãnh đạo
miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân từng bước đi đến thắng lợi. Từ
1975, cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Có
được những thắng lợi to lớn đó là bởi có tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền
với sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng ta biến tư tưởng Hồ Chí Minh thành hiện thực.
Tư tưởng Hồ Chí Minh từ khi ra đời đã trở thành ngọn cờ
tư tưởng dẫn đường cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác, và chính thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam chứng
minh, khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đó là một hệ thống những quan điểm lý luận về chiến lược, sách lược
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, về sự cải biến cách mạng xã hội cũ và xây dựng xã hội mới
trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, về xây
dựng những điều kiện đảm bảo cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi
cuối cùng, đó là xây dựng Đảng cộng sản cầm quyền trong sạch vững
mạnh, xây dựng nhà nước của dân, do dân vì dân, xây dựng Mặt trận
dân tộc thống nhất và các đoàn thể chính trị xã hội, xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế, v,v… Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống mở đầy sức sống được Đảng cộng sản Việt
Nam tiếp tục vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay và trong tương lai.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho cách mạng Việt Nam.
Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng định hướng,
soi đường, chỉ đạo sự phát triển của cách mạng Việt Nam và dân tộc
Việt Nam là của chính người Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục
soi đường cho Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam trên con
đường thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. PAGE \* MERGEFORMAT 15