TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LUẬT
BÀI TẬP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đề tài: HÌNH THỨC PHÁP LUẬT
Sinh viên thực hiện:
Hà Thị Mai Phương 11218207
Nguyễn Trương Nhật Huy 11212627
Phạm Thị Phương Quỳnh 11218211
Vũ Thị Thanh Tâm 11218215
Nguyễn Thị Thanh Thảo 11218219
Học phần: Pháp luật đại cương 27
Giảng viên giảng dạy: Thạc sĩ Phạm Đức Chung
Hà Nội, 2021
Hà Nội, Tháng / Năm
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LUẬT
BÀI TẬP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đề tài: HÌNH THỨC PHÁP LUẬT
Sinh viên thực hiện:
Hà Thị Mai Phương 11218207
Nguyễn Trương Nhật Huy 11212627
Phạm Thị Phương Quỳnh 11218211
Vũ Thị Thanh Tâm 11218215
Nguyễn Thị Thanh Thảo 11218219
Học phần: Pháp luật đại cương 27
Giảng viên giảng dạy: Thạc sĩ Phạm Đức Chung
Hà Nội, 2021
Hà Nội, Tháng / Năm
MỤC LỤC
1. HÌNH THỨC PHÁP LUẬT...................................................................................2
1.1 Khái niệm, đặc điểm của hình thức pháp luật...................................................2
1.2. Các loại hình thức pháp luật.............................................................................3
1.2.1. Tập quán pháp...........................................................................................3
1.2.2. Tiền lệ pháp...............................................................................................3
1.2.3. Văn bản quy phạm pháp luật.....................................................................6
1.2.4. Các loại hình thức khác.............................................................................7
1.3. Nguồn pháp luật của một số nước trên thế giới................................................7
1.3.1. Trung Quốc................................................................................................7
1.3.2. Nhật Bản....................................................................................................8
1.3.3. Pháp.........................................................................................................10
1.4. Văn bản quy phạm pháp luật Hình thức pháp luật của Nhà nước Cộng hòa
hội chủ nghĩa Việt Nam........................................................................................10
1.4.1. Khái niệm và đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật........................10
1.4.2. Nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.................12
1.4.3. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật...............................................17
1.5. Điều ước quốc tế............................................................................................20
1.5.1. Khái niệm điều ước quốc tế.....................................................................20
1.5.2. Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia.......................21
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………25
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................25
PHỤ LỤC…………………………………………………………………………...27
1
CHƯƠNG 3. HÌNH THỨC PHÁP LUẬT VÀ HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT
1. HÌNH THỨC PHÁP LUẬT
1.1 Khái niệm, đặc điểm của hình thức pháp luật
Ý chí của giai cấp thống trị gắn liền với những mục tiêu, phương pháp duy trì
trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chung của họ. Bản chất của pháp luật là sự thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị trong hội. Nhưng ý chí của giai cấp thống trị
chưa phải luật pháp. Để ý chí đó trở thành luật pháp, giai cấp thống trị tìm cách
thể hiện ý chí của mình thành ý chí của Nhà nước biểu hiện dưới hình thức cụ
thể nhất định. Trong khoa học pháp lý, người ta gọi cách thức biểu hiện ý chí của
giai cấp thống trị là hình thức pháp luật.
Hình thức pháp luật biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, phương thức
tồn tại của pháp luật và cách thức thể hiện ý chí của giai cấp thống trị.
Dựa vào hình thức pháp luật, người ta có thể biết luật tồn tại trong thực tế dưới
dạng nào, nằm đâu. Hình thức pháp luật được tiếp cận trong mối tương quan với
nội dung của nó. Nếu như nội dung của pháp luật những yếu tố tạo nên pháp luật
thì hình thức pháp luật là yếu tố chứa đựng, thể hiện nội dung.
“Hình thức bên ngoài sự biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, cái chứa
đựng nội dung, các quy tắc pháp luật- quy tắc hành vi theo ý chí nhà nước. Hình
thức bên ngoài của pháp luật còn được gọi nguồn pháp luật”. Nguồn của pháp
1
luật cung cấp căn cứ pháp cho các nhà chức trách thẩm quyền giải quyết vụ
án.
Các đặc điểm của hình thức pháp luật:
- Hình thức pháp luật là sản phẩm của tư duy trên cơ sở những điều kiện kinh
tế khách quan, chế độ chính trị, nền tảng đạo đức hội sự nghiên cứu thực tế.
Hình thức pháp luật thường xuất hiện muộn hơn so với thực tế của đời sống xã hội.
Nó không phải là ý muốn chủ quan của các nhà làm luật.
Sự ra đời của Luật An ninh mạng thể hiện rất đặc điểm này. Cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với công tác an ninh
mạng trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn hội. Ngày
12/6/2018, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua Luật An ninh mạng
1 PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế (2005) chủ biên, , Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (trang 303).
2
số 24/2018/QH14, hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019. Luật thành quả
nghiên cứu thực tế của các quan chức năng như Bộ Công an, Bộ Thông tin
Truyền thông,… Với 7 chương, 43 điều, Luật An ninh mạng quy định về hoạt động
bảo vệ an ninh quốc gia bảo đảm trật tự, an toàn hội trên không gian mạng;
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
2
- Hình thức pháp luật được biểu hiện dưới những dạng nhất định. Chính vì thế,
nó đã giản lược việc nhận thức pháp luật, giúp con người trong xã hội thể ý thức
những hành vi phải làm, được làm và không được làm.
- Hình thức pháp luật là công cụ để luận hội, nhà làm luật can thiệp
hiệu quả vào những tình huống cần thiết hướng hội đến mục đích cụ thể
mà giai cấp thống trị đã đặt ra.
1.2. Các loại hình thức pháp luật
Trong lịch sử xã hội loài người đã tồn tại 3 loại hình thức pháp luật chủ yếu là
tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật.
1.2.1. Tập quán pháp
Tập quán pháp những phong tục, tập quán trong hội phù hợp với lợi ích
của giai cấp thống trị, được Nhà nước thừa nhận giá trị pháp lý, trở thành quy tắc xử
sự chung và được đảm bảo thi hành bằng sức cưỡng chế của Nhà nước.
Nhà nước thừa nhận một tập quán nào tập quán pháp phụ thuộc nhiều vào
điều kiện kinh tế - hội của đất nước. Liệt danh mục các tập quán được Nhà
nước thừa nhận, đưa các tập quán vào pháp luật thành văn, áp dụng tập quán để giải
quyết các vụ việc phát sinh trong thực tiễn là các cách Nhà nước thừa nhận tập quán
pháp.
1.2.2. Tiền lệ pháp
Tiền lệ pháp (án lệ) hình thức Nhà nước thừa nhận các quyết định của
quan hành chính hoặc các bản án của Tòa án làmsở để áp dụng, giải quyết các
trường hợp có tình tiết tương tự.
sở hình thành án lệ những khuyết điểm của hệ thống pháp luật. So với
các quan hệ xã hội luôn vận động, phát triển không ngừng với muôn hình vạn trạng,
pháp luật được lập ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội, lại mang tính chuẩn mực, ổn
2 PV (2018), Luật an ninh mạng: Sự cần thiết, mục đích, ý nghĩa và nội dung cơ bản,
https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/201806/luat-an-ninh-mang-su-can-thiet-muc-dich-y-nghia-va-
noi-dung-co-ban-304109/, thứ sáu 22/06/2018, 15:43 [GMT +7].
3
định tương đối. Do đó, khoảng cách giữa pháp luật và thực tiễn luôn tồn tại. Tòa án
với tư cách là quan áp dụng pháp luật sẽ gặp những khó khăn khi giải quyết các
tranh chấp không có luật để áp dụng. Điều này đặt ra cho các cơ quan lập pháp của
Nhà nước phải nghiên cứu thấu đáo, tổng kết quá trình giải quyết một số vụ việc cụ
thể, điển hình để kịp thời ban hành những quy phạm pháp luật thích hợp.
Để trở thành án lệ, một bản án phải đáp ứng các yếu tố cơ bản:
Nội dung của bản án phải liên quan đến vấn đề pháp lý mới nảy sinh hoặc một
nghi vấn pháp luật: Luật cần áp dụng đối với sự kiện thực tế trong vụ án
được áp dụng vào các sự kiện thực tế trong vụ án như thế nào? Khi xét xử, thẩm
phán đã tìm ra lời giải của câu hỏi này, như vậy thẩm phán đã sáng tạo ra pháp luật.
Phán quyết của thẩm phán trong vụ việc cụ thể đã tạo ra một án lệ cho các vụ việc
tương tự.
Bản án phải thể hiện thái độ, quan điểm ràng, dứt khoát, logic pháp luật
của thẩm phán hoặc hội đồng xét xử về các vấn đề pháp luật được đặt ra. Bởi án lệ
là một đường lối xét xử. Án lệ do thẩm phán tạo ra phải xuất phát từ tranh chấp giữa
các bên trong vụ án. Bằng cách đưa ra phán quyết trong tranh chấp giữa các bên,
thẩm phán đã tạo ra luật trong trường hợp cụ thể. Đối với những trường hợp đã
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ phát sinh tranh chấp, án lệ được tạo ra chính
lời giải cho việc áp dụng các quy định pháp luật chứa đựng những nguyên tắc
chung trong một trường hợp cụ thể.
Án lệ được tạo ra bởi tòa án thẩm quyền, tuy nhiên không phải tòa án nào
cũng tạo ra án lệ.nước Anh, việc hình thành án lệ, hệ thống thứ bậc, hiệu lực án
lệ gắn bó mật thiết với tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án.
4
Các phán quyết phải được công bố hệ thống hóa theo một trình tự thủ tục
chặt chẽ. Đây là hoạt động quan trọng để một bản án trở thành án lệ.
3
Vụ kiện Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc là án lệ về tranh chấp giữa
các quốc gia trên biển. Năm 1947, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đưa ra yêu sách
chủ quyền trên Biển Đông với đường lưỡi bò 11 đoạn, sau này chính phủ Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa sử dụng lại đường lưỡi này nhưng chỉ còn 9 đoạn. Đường
lưỡi bao trọn bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên Biển Đông (biển Nam
Trung Hoa) quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, quần đảo Đông Sa bãi
Macclesfield với khoảng 75% diện tích mặt nước của Biển Đông, chỉ chừa lại
khoảng 25% cho tất cả các nước Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia Việt
Nam, tức mỗi nước được trung bình 5%.
một quốc gia thành viên Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982
(UNCLOS), ngày 22/1/2013, Philippines đã đệ đơn kiện về việc Trung Quốc đã giải
thích và áp dụng sai UNCLOS theo Điều 279, Điều 283, Điều 284 lên Tòa Trọng tài
Thường trực The Haye (PCA). Tháng 3 năm 2014, Philipine đã nộp hồ chi tiết,
tuy rằng Trung Quốc đã từ chối tham dự phiên tòa quốc tế này. Ngày 12/7/2016,
Phán quyết của Hội đồng Trọng tài đã chính thức được công bố: Trung Quốc không
căn cứ pháp về “quyền lịch sử với các tài nguyên nằm trong vùng biển trong
Đường Chín Đoạn"; bác bỏ khả năng Trung Quốc được yêu sách vùng biển từ các
đảo nhân tạo nước này đã xây dựng trái phép Trường Sa; đồng thời xác định
Trung Quốc đã gây tổn hại nghiêm trọng đến môi trường biển, mở rộng làm
phức tạp thêm tranh chấp.
4
Bản án này có những đặc điểm của 1 án lệ như sau:
- Nội dung của bản án tranh chấp giữa Philippines Trung Quốc trên biển.
Luật được áp dụng trong bản án là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982
(UNCLOS).
- Tòa Trọng tài Thường trực The Haye (PCA) thể hiện thái độ giải quyết tranh
chấp bằng biện pháp hòa bình.
- Án lệ được tạo ra bởi Hội đồng Trọng tài Thường trực The Haye (PCA).
3 Wikipedia,Tiền lệ pháp, https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%81n_l%E1%BB%87_ph
%C3%A1p
4 Tiến sĩ Trần Công Trục (2016), Tìm hiểu vụ Philippines kiện Trung Quốc và Phán quyết của PCA,
https://vov.vn/the-gioi/ho-so/tim-hieu-vu-philippines-kien-trung-quoc-va-phan-quyet-cua-pca-
531292.vov, thứ Hai, 6:30, 18/07/2016.
5
- Các phán quyết phải được công bố và hệ thống hóa theo một trình tự thủ tục
chặt chẽ.
Các ưu – khuyết điểm của tiền lệ án :
Tiền lệ pháp là một hình thức pháp luật chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống
pháp luật Anh - Mỹ (Anglo- Sacxon). Hình thức này được sử dụng rộng rãi trên thế
giới, nguồn chủ yếu quan trọng trong hệ thống pháp luật của các quốc gia
trong Khối Thịnh vượng chung Anh, hầu hết các tiểu bang của Hoa Kỳ (ngoại trừ
tiểu bang Louisiana), Canada (ngoại trừ tỉnh bang Québec) các thuộc địa trước
kia của Anh cũng như các lãnh thổ được ủy trị của Hoa Kỳ.
Việt Nam, tiền lệ pháp đã đang tồn tại dưới các hình thức như các nghị
quyết hướng dẫn xét xử, trao đổi nghiệp vụ tại các buổi tổng kết ngành dễ thấy
nhất thông qua các quyết định giám đốc thẩm được tập hợp phát hành. Qua
đây, nhiều vướng mắc đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao gỡ
vướng định hướng cho các tòa cấp dưới làm theo. Điều 3 Bộ luật Dân sự nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 14/6/2005 quy định: “Trong trường hợp pháp luật không quy định các bên
không thỏa thuận thì thể áp dụng tập quán, nếu không tập quán thì thể
áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán quy định tương tự của pháp
luật không được trái với những nguyên tắc quy định trong bộ luật này”.
1.2.3. Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật văn bản do quan Nhà nước thẩm quyền
ban hành theo thủ tục, trình tự luật định trong đó chứa các quy tắc sử dụng
chung, được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Văn bản quy phạm pháp luật hình thức pháp luật tiến bộ hoàn thiện
mức độ cao so với tập quán tiền lệ pháp. Văn bản quy phạm pháp luật thể hiện
cao độ ý chí của giai cấp thống trị, thể hiện bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa;
6
là cơ sở tạo nên sự thống nhất trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa thức
pháp luật cơ bản của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1.2.4. Các loại hình thức khác
- Điều ước quốc tế
- Các quan niệm, chuẩn mực đạo đức xã hội
Các quan niệm, chuẩn mực đạo đức hội nguồn quan trọng bổ sung cho
những hạn chế trong hệ thống pháp luật của quốc gia. Bởi thực tế có những hành vi
xử sự trong đời sống hội chưa được pháp luật dự liệu để xử lý, không tập
quán pháp hay chưa án lệ ; trong khi nhu cầu chính đáng của hội cần phải
xử lý đối với hành vi đó. Trong trường hợp này, nhà chức trách cần căn cứ vào các
chuẩn mực đạo đức lẽ phải, lẽ công bằng trong cuộc sống phần lớn thành
viên xã hội đều công nhận để giải quyết.
- Đường lối, chính sách của lực lượng cầm quyền
Đối với một số quốc gia, đường lối, chính sách là một nguồn đặc biệt của pháp
luật, có vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc gia. Đường lối, chính sách
của giai cấp cầm quyền đôi khi có thể được viện dẫn để thay thế các bản quy phạm
pháp luật.
- Quan điểm, học thuyết pháp lý
Quan điểm, học thuyết pháp lý là căn cứ để hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc
gia. Trong một số trường hợp khi những sự việc xảy ra nhưng chưa được quy
định bởi pháp luật, không tập quán, chưa án lệ,… làm cơ sở cho việc giải
quyết, các nhà chức trách cần căn cứ vào các quan điểm, lập luận khoa học của các
học giả, các nhà khoa học để đưa ra phương án giải quyết.
1.3. Nguồn pháp luật của một số nước trên thế giới
Đầu tiên, nguồn pháp luật sở hình thành nên nội dung pháp luật. Ngoài
pháp luật tập quán, pháp luật án lệ, văn bản quy phạm pháp luật, nguồn của pháp
luật còn bao gồm: Các học thuyết chính trị - pháp luật, học thuyết về pháp luật,
đường lối chính trị của đảng cầm quyền, …
1.3.1. Trung Quốc
Luật pháp Trung Quốc bắt nguồn từ triết lý Khổng giáo về trật tự hội.
Những ảnh hưởng này thậm chí đến nay vẫn còn đậm nét trong hệ thống luật
pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
7
Những giáo lý đạo Khổng có ảnh hưởng lâu dài tới đời sống người Trung Quốc
tạo lập sở cho trật tự hội trong suốt chiều dài lịch sử của đất nướcy.
Những người theo đạo Khổng tin vào tính thiện của con người ủng hộ đức trị
bằng luân lý cùng với khái niệm lễ.
Khổng giáo cho rằng luật pháp được san định không đủ để cung cấp hướng
dẫn ý nghĩa cho toàn bộ các hoạt động của con người, nhưng họ không chống lại
việc sử dụng luật pháp để kiểm soát các thành phần cần được giáo hóa trong xã hội.
Bộ luật hình sự đầu tiên được ban hành trong khoảng năm 455 395 TCN. Cũng
luật pháp dân sự, chủ yếu liên quan đến chuyển nhượng đất đai. Khổng giáo
cho rằng đạo đức kỷ luật tự giác tốt hơn bất kỳ một bộ luật nào đã khiến cho
nhiều nhà sử học, thí dụ như Max Weber, cho đến giữa thế kỷ 20 kết luận rằng luật
pháp không phải phần quan trọng trong hội phong kiến Trung Quốc. Tuy
nhiên, cách hiểu này đã hứng chịu nhiều chỉ trích kịch liệt và hiện không còn thịnh
hành trong giới Trung Quốc học, những người đã kết luận rằng Trung Quốc phong
kiến có một hệ thống luật pháp hình sự và dân sự tinh vi.
Pháp gia, một trường phái tưởng ảnh hưởng lớn trong thời kỳ Chiến
Quốc, cho rằng con người có bản tính ác và cần phải được kiểm soát bởi luật lệ
khắc và công chính thống nhất. Trường phái Pháp gia ảnh hưởng lớn nhất trong
thời nhà Tần.
Nhà Hán duy trì một hệ thống luật pháp được thiết lập dưới thời nhà Tần,
nhưng sửa đổi một số phương diện hà khắc theo triết lý Khổng giáo về kiểm soát xã
hội dựa trên luân thường đạo lý. Hầu hết thư lại không phải luật sư mà những
người được đào tạo về triết học văn học. Tầng lớp quý tộc Khổng giáo địa
phương, được đào tạo bài bản, đóng vai trò quan trọng như những người hòa giải và
giải quyết tất cả các vụ việc ngoại trừ những vụ nghiêm trọng nhất tại địa phương
mình.
5
1.3.2. Nhật Bản
Pháp luật các thiết chế chính quyền của Nhật Bản thời tiền cổ đại
(khoảng từ năm 250 TCN đến năm 603) mang tính “thuần Nhật”, chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ củatưởng, triết lí tôn giáo và không bị ảnh hưởng của các yếu tố ngoại
lai. Pháp luật Nhật Bản ở thời tiền cổ đại hầu như khôngsự phân biệt rạch ròi
5 Wikipedia, Luật pháp Trung Quốc https://vi.wikipedia.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt_ph
%C3%A1p_Trung_Qu%E1%BB%91c
8
giữa quy phạm pháp luật với quy phạm hội các quy phạm tôn giáo khác.
thời cổ đại trung đại pháp luật Nhật Bản đã chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi pháp
luật phong kiến Trung Hoa. Hệ thống pháp luật Nhật Bản trong thời này còn
được gọi hệ thống “ritsu - ryo” bởi do nhiều bộ luật (bao gồm hai phần, phần
“ritsu” các quy định về hình sự phần “ryo” bao gồm các quy định mang tính
chất khuyến cáo) phỏng một cách trung thực các bộ luật của nhà Đường - triều
đại hưng thịnh của phong kiến Trung Hoa. Pháp luật phong kiến Trung Quốc lúc đó
được Nhật Bản vận dụng, phỏng do lịch sử để lại được cho phù hợp với
thời phong kiến trong bối cảnh Trung Hoa quốc gia trung tâm của khu vực
Đông Á. Nhưng theo thời gian, pháp luật phong kiến Trung Hoa đã trở nên lạc hậu,
kìm hãm sự phát triển toàn diện của đất nước với những đặc trưng về tính chuyên
chế, áp đặt về tư tưởng thần quyền, khép kín, khắc, thiếu tính dân chủ, kém phát
triển lĩnh vực luật tư, giao lưu dân sự, không sự tham khảo học hỏi pháp
luật các quốc gia khác trên thế giới. vậy, khó bắt kịp với sự vận động của pháp
luật thế giới, đặc biệt pháp luật phương Tây tiến bộ, không khuyến khích sự giao
lưu, phát triển kinh tế, tiếp nhận tư tưởng tiến bộ, giải phóng sức lao động, tư tưởng
của con người. Nhận diện rõ những nguy cơ tụt hậu, những bất cập của triết lí pháp
luật Trung Hoa, đến thời kì cận đại hiện đại, Nhật Bản đã tiếp nhận và vận dụng
thành công pháp luật phương Tây để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của
riêng mình, “xây dựng một nền văn minh đặc biệt, không theo kiểu châu Âu
cũng không theo kiểu châu Á”. Pháp luật Pháp Đức ảnh hưởng đến Nhật Bản
6
thông qua những cố vấn người Nhật mời đến. Tiêu biểu là: các cố vấn người
Pháp, đặc biệt Boissonade, Bousquet, and Benet Roesler cùng các đồng sự
người Đức của mình như Lorenz von Stein Rudolf von Gneist... Những chuyên
gia đã tham gia vào quá trình xây dựng, phát triển, giáo dục, tuyên truyền pháp luật
phương Tây đến pháp luật Nhật Bản. Pháp luật Mỹ ảnh hưởng đến Nhật Bản với vai
trò rất lớn của Thống chế Douglas MacArthur Bộ Tổng lệnh các lực lượng
Đồng minh tại Nhật Bản trong quá trình xây dựng Hiến pháp 1946 và cải cách dân
chủ. Những người ngoại quốc đã mang những tư tưởng tiến bộ, dân chủ của phương
Tây tới pháp luật Nhật Bản.
7
1.3.3. Pháp
6 Hoàng Văn Đoàn, Mai Văn Thắng (2018), Ảnh hưởng của Pháp luật phương Tây đến Pháp luật Nhật
Bản, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 34, Số 3 (2018) 60-70 (trang 61)
7 Wikipedia, Luật pháp Nhật Bản https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADt_B%E1%BA%A3n
9
Pháp là quốc gia điển hình của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil law).
Civil law một hệ thống pháp luật trên thế giới có nguồn gốc từ châu Âu và được
áp dụng tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. Hệ thống dân luật được phát triển từ
bộ khung luật La Mã, trong đó đã luật hóa các nguyên tắc chủ đạo để trở thành
một hệ thống mà con người có thể viện dẫn được, đóng vai trò là nguồn luật cơ bản.
Hệ thống Civil law thông thường trái ngược hoàn toàn với hệ thống common law có
nguồn gốc từ nước Anh vào thời kỳ Trung cổ. Khác biệt chủ yếu thường được đưa
ra giữa hai hệ thống này chỗ common law đề ra các quy tắc trừu tượng từ các
vụ việc cụ thể, trong khi Civil law bắt đầu từ các quy tắc trừu tượng để sau đó các
quan tòa hay trọng tài phải áp dụng các quy tắc đó cho các vụ việc cụ thể.
Civil law nguồn gốc từ Luật La Mã, luật giáo hội phong trào khai sáng,
cùng với các ảnh hưởng từ các luật tôn giáo khác, chẳng hạn như luật Hồi giáo. Các
hệ thống luật pháp tại nhiều quốc gia theo hệ thống Civil law dựa trên một hay vài
bộ luật, trong đó đề ra các nguyên tắc chính để hướng dẫn chung về luật. Các dụ
nổi tiếng nhất lẽ bộ luật Dân sự Pháp, mặc dầu Bürgerliches Gesetzbuch của
Đức (BGB) và luật Dân sự Thụy Sĩ cũngcác sự kiện mang tính bước ngoặt trong
lịch sử dân luật. Các hệ thống Civil law/hỗn hợp của Scotland và Nam Phi là không
pháp điển hóa, còn các hệ thống dân luật của các quốc gia khu vực Scandinavia chủ
yếu tồn tại dưới dạng không pháp điển hóa.
8
1.3.4. Hợp chủng quốc Hoa Kì
Người Anh xuất hiện Bắc M vào thế kỷ XVII đến năm 1722 Bắc
Mỹ đã 13 thuộc địa của Anh, nhưng lúc y pháp luật của Anh không phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước Mỹ lúc đó. Xã hội Mỹ lúc đó có những
nét đặc thù do đó phải áp dụng luật riêng được xây dựng trên cơ sở kinh thánh.
Sau khi Mỹ tuyên bố độc lập năm 1776 pháp luật Anh và pháp luật Mỹ đã trở
thành hai hệ thống pháp luật độc lập, hệ thống pháp luật Mỹ vừa tính ổn
định tương đối (dựa trên Hiến pháp Mỹ) vừa tính điều chỉnh linh hoạt (dựa
trên sở án lệ), hệ thống pháp luật Mỹ hệ thống pháp luật liên bang còn
đối với hệ thống pháp luật Anh là hệ thống pháp luật đơn nhất; tuy nhiên hai hệ
thống pháp luật này vẫn nền tảng chung, pháp luật Mỹ vẫn sử dụng khái
niệm, cách thức lập luận, thuyết nguồn luật của pháp luật Anh. Nguồn
8 Luật Minh Khuê (2021), , Một số vấn đề về luật pháp nước Pháp https://luatminhkhue.vn/mot-so-van-
de-phap-ly-ve-nuoc-phap-bo-may-nha-nuoc-he-thong-phap-luat.aspx, 07/08/2021
10
của pháp luật Mỹ chủ yếu là luật thành văn, Hiến pháp Mỹ (1787) là hiến pháp
thành văn đầu tiên trong lịch sử lập hiến thế giới là Hiến pháp lâu đời nhất
đến nay vẫn còn hiệu lực. Hiến pháp Mỹ không chỉ có giá trị nghi thức mà trên
thực tế sở của hệ thống pháp luật Mỹ. Các bang của Mỹ cũng hiến
pháp riêng được soạn thảo và ban hành dựa trên hiến pháp liên bang. Pháp luật
của liên bang cao hơn pháp luật của bang, nhưng về nguyên tắc thì quyền lập
pháp chủ yếu thuộc về các bang. Mỹ 50 bang tương đương với 50 hệ
thống pháp luật nhưng chúng cũng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất
khi soạn thảo các văn bản pháp luật, các bang thường tham khảo luật của các
bang khác và thường không ban hành các qui phạm pháp luật quá khác biệt.
9
1.4. Văn bản quy phạm pháp luật Hình thức pháp luật của Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.4.1. Khái niệm và đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật
Điều 2, Khoản 1 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 đã xác
định: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban
hành đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này”.
Văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm sau:
Một là, văn bản quy phạm pháp luật phải do quan Nhà nước, người thẩm
quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành.
Hai là, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải tuân theo trình tự, thủ tục
mà pháp luật quy định
Ba , nội dung của văn bản quy phạm pháp luật phải chứa các quy phạm
pháp luật. Trong đó, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc
chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với quan, tổ chức, nhân trong
phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định.
, Nhà nước bảo đảm việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật bằngBốn là
các biện pháp thích hợp như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, các biện pháp về tổ
chức, hành chính, kinh tế trong trường hợp cần thiết biện pháp cưỡng chế bắt
buộc thi hành.
9 Luật Dương Gia, Sự phát triển của hệ thống pháp luật Mỹ https://luatduonggia.vn/su-phat-trien-cua-
he-thong-phap-luat-my/ 10/02/2021
11
Những đặc điểm trên cho phép phân biệt văn bản quy phạm pháp luật với các
văn bản do cơ quan nhà nước, ngườithẩm quyền ban hành nhưng không có đủ các
đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật như không chứa đựng quy phạm pháp luật,
hoặc không tuân thủ đúng trình tự, thủ tục luật định. Những trường hợp văn bản được
ban hành không đủ các đặc điểm nêu trên thì không phải văn bản quy phạm
pháp luật. Trong số những loại văn bản đó loại văn bản xuất hiện tương đối phổ
biến văn bản áp dụng quy phạm pháp luật, như: Nghị quyết của Quốc hội về
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; Nghị quyết của Quốc hội về miễn nhiệm, bãi
nhiệm hoặc phê duyệt kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội các chức vụ khác; Đó
thường các văn bản biệt để giải quyết vụ việc cụ thể, áp dụng một lần cho một
hoặc một số đối tượng cụ thể.
10
Ví dụ: Đâu là văn bản quy phạm pháp luật? Tại sao?
a) Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với sinh viên A không đội bảo
hiểm khi đi xe máy Sai. Đây văn bản áp dụng pháp luật được ban hành để giải
quyết các tình huống cụ thể.
b) Điều lệ Đoàn thanh niên Sai. Vì Đoàn thanh niên không phảiquan nhà nước
có thẩm quyền.
c) Thông báo số 195/TB-UBND của UBND thành phố Nội ngày 15/8/2018 về
việc treo cờ tổ quốc Sai. không chứa nguyên tắc xử sự chung không được
Nhà nước bảo đảm thực hiện, không được áp dụng nhiều lần trong đời sống thực tế.
d) Luật Sở hữu trí tuệ Đúng
1.4.2. Nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Để đảm bảo cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nói riêng hệ thống
pháp luật nói chung phản ánh đúng quy luật khách quan, thể hiện đúng đắn ý chí
nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với yêu cầu của hội, việc ban hành văn bản
quy phạm pháp luật phải dựa trên những nguyên tắc chỉ đạo thống nhất. Điều 5, Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 đã xác định 06 nguyên tắc cụ thể trong
việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm:
10 Đoàn Thị Tố Uyên, , Tạp chí Luật học số 4, 2002.Bàn về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật
12
-Nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản
quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật. Bảo đảm tính hợp hiến trong xây dựng
VBQPPL tức là đảm bảo cho các VBQPPL được ban hành không trái với các quy định
cơ bản nhất, quan trọng nhất trong Hiến pháp, bởi lẽ, Hiến pháp có tính tối cao nhất
trong hệ thống pháp luật, nếu một VBQPPL lại trái với những quy định quan trọng nhất
thì liệu những quy định trong VBQP sai trái đó có thi hành được trên thực tế không?
Bảo đảm tính hợp pháp chính là sự phù hợp của dự án VBQPPL với các quy định của
pháp luật hiện hành về thẩm quyền ban hành, hình thức, nội dung, thủ tục, thời hạn ban
hành. Nếu như bảo đảm tính hợp hiến là sự phù hợp của VBQPPL với văn bản có hiệu
lực pháp lý cao hơn(một hướng) thì bảo đảm tính
hợp pháp là sự phù hợp của VBQPPL với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn hoặc là
ngang bằng về hiệu lực, chẳng hạn như: giữa Luật với Pháp lệnh hoặc giữa Luật Đất
đai với Luật Nhà ở
Thực tế cho thấy nhiều văn bản quy phạm pháp luật do vi phạm nguyên tắc bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật nên đã bị đình chỉ, hủy
bỏ, thực thi không hiệu quả.
dụ: Quyết định 51/2009/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố Nội cấm
vận chuyển gia súc, gia cầm sản phẩm gia súc, gia cầm trên xe máy, xích lô, xe đạp
hoặc các phương tiện thô sơ trên địa bàn thành phố Hà Nội có hiệu lực thi hành từ ngày
2/2 chưa bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp cũng như bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân có hoạt động liên quan.
Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật khẳng định Quyết định 51 một số quy
định mang tính cấm đoán không căn cứ, có biểu hiện “ngăn sông cấm chợ” đối với
các cá nhân, công dân tham gia hoạt động giết mổ, vận chuyển, chế biến, buôn bán gia
súc, gia cầm. Cụ thể như “cấm vận chuyển gia súc, gia cầm vào khu vực nội thành, nội
thị; cấm vận chuyển gia súc, gia cầm sản phẩm gia súc, gia cầm trên xe máy, xích
lô, xe đạp hoặc các phương tiện khác”…..
13
Trước đó năm 2007, công văn số 283 của Cục Nghệ thuật biểu diễn gửi tới các
trường văn hóa nghệ thuật trên toàn quốc. quy định "không cho phép học sinh, sinh
viên tham gia biểu diễn nghệ thuật tại quán bar, vũ trường, quán karaoke" của Bộ Văn
hóa Thông tin cũng đã phải thu hồi
Hiện nay, việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp pháp luật đối với các văn bản
quy phạm pháp luật được giao cho nhiều quan thực hiện như: Ủy ban Pháp luật,
Bộ Tư pháp (ở giai đoạn thẩm định); Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội (khi
chủ trì thẩm tra)., hoạt động xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các VBQPPL đã
đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp khi xây dựng, ban hành tổ chức thực hiện các VBQPPL trong giai đoạn hiện
nay còn nhiều bất cập.Nội dung của một số dự án luật, pháp lệnh còn những mâu
thuẫn, chồng chéo. Tồn tại này đang được các nhà chức trách tìm cách giải quyết.
-Nguyên tắc tuân thủ đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo nguyên tắc này, việc ban hành văn bản
quy phạm pháp luật phải tuân thủ đúng các quy định về thẩm quyền của mỗiquan
Nhà nước được ban hành loại văn bản quy phạm pháp luật, hình thức, trình tự, thủ tục
soạn thảo và ban hành. Việc tuân thủ nguyên tắc này góp phần đảm bảo sự thống nhất,
đồng bộ trong việc xây dựng ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn, không có tính
khả thi khi thực hiện văn bản quy phạm pháp luật.
dụ: Quyết định s 33/2008/QĐ-BYT của Bộ Y tế về việc ban nh Tiêu
chuẩn sức khỏe của người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ trong
đó nội dung người dưới 40kg hoặc dưới 1,45m không đủ điều kiện điều khiển
môtô từ 50 phân khối trở lên; người chiều cao dưới 1,5m hoặc nặng dưới 40kg
không đủ điều kiện lấy giấy phép lái xe hạng B1. Đây là quyết định vô lý,. Theo Điều
55 của Luật Giao thông đường bộ thì “Người lái xe phải có sức khỏe phù hợp với loại
xe, công dụng của xe. Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải thống nhất với Bộ trưởng Bộ
Y tế quy định cụ thể về tiêu chuẩn sức khỏe của người lái xe”, do vậy việc Bộ Y tế ra
văn bản như vậy sai luật. Việc Bộ Y tế tự ban hành quyết định này là "không đúng
14
thẩm quyền” Văn bản này phải là thông tư liên tịch giữa Bộ Y tế, bộ Giao thông và bộ
Công an. Ngày 24/10, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật - Bộ pháp
Công văn số 120/KTrVB gửi Bộ Y tế đề nghị bộ này “đình chỉ ngay việc lưu hành,
tạm ngưng hiệu lực áp dụng” đối với bản tiêu chuẩn sức khỏe. 5 ngày sau bị Bộ
pháp phản bác, Bộ Y tế đã báo cáo Chính phủ, đề nghị dừng thi hành quy định trên.
Tháng 11/2008, Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân yêu cầu Bộ trưởng Y tế rút kinh
nghiệm.
-Nguyên tắc bảo đảm tính minh bạch trong quy định của văn bản quy phạm
pháp luật. Nguyên tắc này có ý nghĩa tạo ra một hệ thống pháp luật ổn định và có thể
dự đoán, đồng thời còn giúp nâng cao tính quyền lực của các quan Nhà nước.
minh bạch nghĩa sáng rõ, không che giấu Để bảo đảm tính minh bạch của hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật, các quan nhà nước phải thường xuyên soát
các quy phạm pháp luật đã được ban hành nhằm loại bỏ các quy phạm pháp luật
không phù hợp và không rõ ràng với sự phát triển không ngừng của cuộc sống.
- Nguyên tắc bảo đảm tính khả thi, tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời, dễ tiếp cận, dễ
thực hiện của văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới
trong văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.
Nguyên tắc này đòi hỏi các quy phạm pháp luật từ khi soạn thảo đã phải được xây
dựng cụ thể, chi tiết phù hợp với điều kiện kinh tế- hội khách quan để khi được
ban hành, văn bản quy phạm pháp luật thể được áp dụng, đi vào đời sống hội,
thực hiện ngay từng sở. Cần tránh việc ban hành quá nhiều văn bản quy phạm
pháp luật để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một văn bản quy phạm pháp luật.
quan soạn thảo ban hành pháp luật phải dự liệu đầy đủ những điều kiện thực
tiễn cho việc áp dụng quy phạm pháp luật khi được ban hành, phải chịu trách nhiệm
đối với việc ban hành những quy phạm pháp luật không có tính khả thi. Đồng thời cần
áp dụng cơ chế tham vấn ý kiến của nhân dân trong quá trình xây dựng, ban hành để
thực hiện nguyên tắc này.
15
Ví dụ: Chẳng hạn, trong lĩnh vực môi trường, tội gây ô nhiễm môi trường trong
Bộ luật Hình sự Khoản 1, Điều 235 mặc cho các quy định về tội phạm gây ô nhiễm
môi trường đã tồn tại khoảng 14 năm và thực tế tình trạng môi trường ngày càng ô
nhiễm, ảnh hưởng cuộc sống của hàng triệu người nhưng hầu như rất ít có vụ việc nào
được xử lý theo hướng áp dụng trực tiếp các quy định về tội danh này trong Bộ luật
Hình sự.
-Nguyên tắc bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến,
kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản
quy phạm pháp luật. Nguyên tắc này yêu cầu các quan nhà nước thẩm quyền
phải tạo điều kiện để nhân dân tham gia góp ý kiến rộng rãi vào các dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật tùy thuộc vào tính chất nội dung của dự thảo văn bản đó (trừ
trường hợp văn bản quy phạm pháp luật chứa nội dung thuộc mật Nhà nước).
Đồng thời với việc tổ chức lấy ý kiến, phản hồi ý kiến, kiến nghị của nhân,
quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các
quan chủ trì soạn thảo phải tiếp nhận các ý kiến đó, nghiên cứu chỉnh dự thảo.
như vậy mới đảm bảo được tính dân chủ thực sự, đảm bảo rằng sau khi văn bản
quy phạm pháp luật được ban hành thì việc thực hiện các văn bản đó mới được sự
hưởng ứng sâu rộng trong phạm vi cả nước.
Ví dụ: Quyết định 6074/QĐ-BGDĐT năm 2013 Kế hoạch thực hiện Luật Phòng,
chống tham nhũng sửa đổi và văn bản hướng dẫn thi hành do Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo ban hành
-Nguyên tắc bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường,
không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thành viên. Hiện nay, Việt Nam đang tăng cường phát triển kinh tế-
hội, nhưng cần phải gắn các mục tiêu phát triển với việc bảo đảm yêu cầu về quốc
phòng, an ninh bảo vệ môi trường nhằm phát triển bền vững. Các văn bản quy
phạm pháp luật phải có tính toàn diện, đưa ra các quy phạm pháp luật sau khi đã thực
16
hiện đánh giá tác động của quy phạm pháp luật đó trên các phương diện phát triển
kinh tế, yêu cầu quốc phòng, an ninh bảo vệ môi trường. Đồng thời, trong mối
quan hệ quốc tế và khu vực, Việt Nam chủ trương thực hiện đầy đủ các cam kết quốc
tế, do vậy việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo sự phù
hợp, đồng thời xử thích đáng những nội dung được quy định khác nhau giữa điều
ước quốc tế với văn bản quy phạm pháp luật mà Nhà nước ta ban hành là việc làm hết
sức cần thiết.
1.4.3. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
1.4.3.1. Hiệu lực về thời gian
- Hiệu lực về thời gian của văn bản quy phạm pháp luật giá trị tác động của
văn bản lên các quan hệ hội phát sinh trong phạm vi kể từ khi bắt đầu (thời
điểm phát sinh) đến khi chấm dứt (thời điểm chấm dứt) hiệu lực.
Thời điểm có hiệu lực của toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật
được quy định tại văn bản đó nhưng không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày thông qua
hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của quan nhà nước trung
ương; không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày ban hành đối với văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; không sớmn 07
ngày kể từ ngày ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã.
Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn thì có
thể có hiệu lực kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành.
Ví dụ: Quyết định của UBND tỉnh ban hành ngày 01/01/2020 thì theo quy định
này hiệu lực của Quyết định không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày ban hành
cũng phải xác định cụ thể ngày có hiệu lực tức là ngày 10/01/2020.
- Hiệu lực trở về trước (Hồi tố):
Về nguyên tắc, văn bản quy phạm pháp luật chỉ có hiệu lực điều chỉnh những
quan hệ hội phát sinh từ thời điểm hiệu lực trở về sau. Nói cách khác, thông
thường văn bản quy phạm pháp luật không có hiệu lực trở về trước (hiệu lực hồi tố).
Chỉ trong những trường hợp thật cần thiết, văn bản quy phạm pháp luật mới
được quy định hiệu lực trở về trước. Không được quy định hiệu lực trở về trước đối
với các trường hợp sau đây:
17
a. Quy định trách nhiệm pháp mới đối với hành vi vào thời điểm thực
hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý
b. Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn
dụ: Bộ Luật hình sự 1999 quy định Tội báo cáo sai trong quản kinh tế
(Điều 167). Tuy nhiên, Bộ Luật hình sự 2015 hiệu lực ngày 01/01/2018 đã bỏ
quy định về tội này. Như vậy, khi áp dụng hiệu lực hồi tố, nếu hành vi phạm tội Tội
báo cáo sai trong quản kinh tế diễn ra sau khi Bộ Luật hình sự 2015 hiệu lực
thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này nữa.*
- Thời điểm ngưng hiệu lực:
Văn bản quy phạm pháp luật đang hiệu lực thể bị tạm đình chỉ để xem
xét tính hợp hiến, hợp pháp, hợp lý. Kể từ thời điểm nó bị tạm thi hành cho đến khi
có quyết định xử của cơ quan có thẩm quyền là khoảng thời gian văn bản bị tạm
ngưng hiệu lực. Văn bản đó thể tiếp tục hiệu lực hay bị huỷ bỏ do quyết
định của cơ quan xử lý có thẩm quyền.
Thời điểm ngưng hiệu lực, tiếp tục hiệu lực của văn bản hoặc hết hiệu lực
của văn bản phải được quy định tại quyết định đình chỉ việc thi hành, quyết định
xử lý văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quyết định
đình chỉ việc thi hành, quyết định xử lý văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng
Công báo, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Thời gian chấm dứt hiệu lực:
Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong các
trường hợp sau đây:
1. Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản.
2. Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật mới của
chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó.
3. Bị bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
4. Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy
định chi tiết thi hành văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực.
1.4.3.2. Hiệu lực về không gian và đối tượng tác động
Phạm vi áp dụng theo không gian của văn bản quy phạm pháp luật thể
trên toàn lãnh thổ quốc gia, một địa phương hoặc trong một vùng nhất định. Đối
tượng tác động của văn bản quy phạm pháp luật bao gồm cá nhân, tổ chức và những
quan hệ xã hội mà văn bản đó điều chỉnh.
18
Theo quy định hiện hành của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các
văn bản quy phạm pháp luật của các quan nhà nước trung ương hiệu lực
trong phạm vi cả nước và được áp dụng đối với mọi quan, tổ chức, nhân trừ
trường hợp văn bản có quy định khác hoặc điều ước quốc tế Cộng hòa hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
n bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ban hành có hiệu lực trong
phạm vi địa phương đó.
Văn bản quy phạm pháp luật cũng hiệu lực đối với quan, tổ chức, người
nước ngoài ở Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật của Việt Nam hoặc điều ước quốc
tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Ví dụ: Huyện A được tách thành hai huyện B C thì văn bản của huyện A
hiệu lực cho đến khi Hội đồng nhân n, Ủy ban nhân dân huyện B C ban hành
văn bản quy phạm pháp luật mới thay thế.
Ví dụ trên trường hợp một đơn vị hành chính được chia thành nhiều đơn vị
hành chính mới cùng cấp thì văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân của đơn vị hành chính được chia vẫn hiệu lực đối với đơn vị
hành chính mới cho đến khi Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân của đơn vị hành
chính mới ban hành văn bản quy phạm pháp luật thay thế.
1.5. Điều ước quốc tế
1.5.1. Khái niệm điều ước quốc tế
- Trong Công ước Viên
+ Cho đến hiện nay hai Công ước điều chỉnh quan hệ điều ước quốc tế
trong luật pháp quốc tế, cụ thể Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm
1969Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế giữa quốc gia tổ chức quốc tế
giữa các tổ chức quốc tế năm 1986 (gọi tắt Công ước Viên 1969 1986).
Định nghĩa điều ước quốc tế được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 2 của hai Công ước
trên, gần như giống nhau trừ chủ thể ký kết điều ước quốc tế. Khoản 1 Điều 2 Công
ước Viên m 1969 quy định Điều ước quốc tế một thoả thuận bằng văn bản
được kết giữa các quốc gia chịu sự điều chỉnh của luật pháp quốc tế bất kể
được chứa đựng trong một hay nhiều văn kiện liên quan tên gọi của chúng”.
Công ước Viên năm 1986 mở rộng cụm từ thànhđược kết giữa các quốc gia
được ký kết giữa một hay nhiều quốc gia với một hay nhiều tổ chức quốc tế, hoặc
giữa các tổ chức quốc tế với nhau.’
19
+ Định nghĩa của hai Công ước có thể được giải thích như sau:
Cả hai Công ước đều công nhận quốc gia quyền năngVề chủ thể ký kết.
kết điều ước quốc tế. Công ước Viên năm 1986 mở rộng thêm quyền năng này cho
cả các tổ chức quốc tế liên chính phủ. Tuy nhiên, khác với quyền năng mang tính
chất vốn của các quốc gia dựa trên sở chủ quyền, các tổ chức quốc tế
quyền năng trong giới hạn các quy định của từng tổ chức quốc tế.
11
Về luật điều chỉnh. Hai Công ước đều ghi nhận luật điều chỉnh duy nhất của
điều ước quốc tế là luật quốc tế. Điều ước quốc tế một nguồn của luật pháp quốc
tế, chứa đựng quyềnnghĩa vụ của các quốc gia do đó chỉ thể được điều chỉnh
bởi luật pháp quốc tế. Nếu thoả thuận giữa các quốc gia hay tổ chức quốc tế mà ghi
nhận luật điều chỉnh một hệ thống pháp luật khác, dụ như pháp luật của một
quốc gia nào đó, thì thoả thuận này không phải là điều ước quốc tế Những điều ước.
quốc tế được kết trái với những nguyên tắc bản của Luật quốc tế hiện đại sẽ
không có hiệu lực và phải bị hủy bỏ.
Về hình thức. Hai Công ước quy định điều ước quốc tế dưới hình thức văn bản.
Tuy nhiên hai Công ước cũng không loại trừ điều ước quốc tế dưới hình thức phi-
văn bản, như lời nói. Điều ước quốc tế thể được ghi nhận trong một văn kiện
12
(như các điều ước quốc tế chuẩn mực) hoặc trong nhiều văn kiện liên quan (như
các điều ước quốc tế hình thành qua việc trao đổi công hàm giữa hai nước). Bên
cạnh đó, tên gọi của điều ước quốc tế phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, phụ thuộc vào phạm vinội dung của điều ước,
điều ước quốc tế thể một số tên gọi khác nhau như: Hiệp ước, công ước,
định ước, nghị định thư, hiệp định…
dụ: Công ước về đánh bắt voi (IWC), Hiến chương ASEAN, Hiệp định
thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, năm 2001, Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ giữa Việt Nam và Thuỵ Sỹ, năm 2000 Điều ước quốc tế song phương), …(
- Trong văn bản pháp luật Việt Nam
+ Văn bản pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận định nghĩa về điều ước
quốc tế. Cho đến hiện nay định nghĩa điều ước quốc tế được ghi nhận trong 04 văn
bản quy phạm pháp lý, cụ thể Pháp lệnh về Ký kết và thực hiện điều ước quốc tế
năm 1989 Pháp lệnh về kết thực hiện điều ước quốc tế năm 1998 Luật , ,
11 Công ước Viên năm 1986, Điều 6.
12 Công ước Viên năm 1969, Điều 3; Công ước Viên năm 1986, Điều 3. Xem thêm “Thoả thuận bằng
lời nói”/ “Oral agreement” trong Anthony Aust, Modern Treaty Law and Practice (Cambridge
University Press 2002).
20
kết, gia nhập thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 sau đó được thay thế
bằng Luật điều ước quốc tế năm 2016. Khoản 1 Điều 2 Luật điều ước quốc tế năm
2016 định nghĩa: Điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân
danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòahội chủ nghĩa Việt Nam với bên
ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước
Cộng hòahội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào
tên gọi hiệp ước, công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản
ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác”. Pháp luật Việt Nam đã
ghi nhận định nghĩa điều ước quốc tế đầy đủ bám sát vào định nghĩa trong hai Công
ước Viên, cơ bản giống nhau về chủ thể ký kết, luật điều chỉnh hình thức. Trong
bối cảnh quốc tế hiện nay, giao lưu hợp tác quốc gia ngày càng được tăng cường,
mở rộng. Hòa mình vào sự phát triển chung của thế giới tính từ năm 1955, Việt
Nam đã ký kết rất nhiều các điều ước quốc tế (trong lĩnh vực kinh tế - thương mại là
1082 điều ước). Trong giai đoạn 10 năm thực hiện Luật kết, gia nhập thực
hiện điều ước quốc tế năm 2005, Việt Nam đã ký kết khoảng 2000 điều ước.
13
1.5.2. Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia
1.5.2.1. Một số học thuyết về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc
gia
Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia thường được xem xét
theo hai học thuyết về mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế nói chung pháp luật
quốc gia: thuyết nhất nguyên luận và thuyết nhị nguyên luận.
- Thuyết nhất nguyên luận: Quan niệm pháp luật một hệ thống thống nhất,
đưa ra hai khả năng xác định mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia tùy theo
vị trí ưu tiên hơn: ưu tiên triệt để pháp luật quốc gia; ưu tiên triệt để pháp luật quốc
tế.
- Thuyết nhị nguyên luận: quan niệm pháp luật quốc tế pháp luật quốc gia
hai bộ phận của một thể thống nhất, hoàn toàn độc lập với nhau gồm chủ nghĩa
nhị nguyên cực đoan; chủ nghĩa nhị nguyên luận dung hòa.
Tóm lại, điểm khác biệt duy nhất giữa hai học thuyết này là vị trí độc lập hoặc vị trí
trên dưới của hai hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
1.5.2.2. Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia ở Việt Nam
13 Tờ trình của Chính phủ gửi Quốc hội về dự án Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
(sửa đổi), số 573/TTr-CP, ngày 26/10/2015.
21
Điều 6 Luật điều ước quốc tế 2016 là quy định chính yếu xác định mối quan hệ
giữa điều ước quốc tế Việt Nam thành viên pháp luật Việt Nam. Nhìn
chung các luật, pháp lệnh đều thể hiện thái độ của Nhà nước ta coi trọng các
cam kết quốc tế, ưu tiên thực hiện các quy định của điều ước quốc tế khi các quy
định này khác với quy định của luật hoặc pháp lệnh. Việc ưu tiên thực hiện các điều
ước quốc tế cần thiết để bảo đảm các điều ước quốc tế được thực hiện nghiêm
chỉnh. Thêm vào đó, việc bổ sung cụm từ “trừ Hiến pháp” ý nghĩa quan trọng
trong việc khẳng định Hiến pháp vị trí tối cao, Điều ước quốc tế vị trí sau
Hiến pháp nhưng trên các văn bản luật pháp lệnh.
1.5.2.3. Áp dụng điều ước quốc tế
- Khoản 3 Điều 6 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm
2005 thể hiện Việt Nam chấp nhận cả hai phương pháp thực hiện điều ước quốc tế:
áp dụng trực tiếp và chuyển hoá điều ước vào văn bản quy phạm pháp luật (nội luật
hóa).
Áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế ở Việt Nam: Theo Điều 6 Luật điều ước
quốc tế năm 2016 hai trường hợp quy định điều ước quốc tế thể được áp,
dụng trực tiếp tại Việt Nam. Trường hợp thứ nhất ở khoản 1 khi quy định của điều
14
ước quốc tế xung đột/khác với quy định của pháp luật Việt Nam về cùng một vấn đề
thì áp dụng quy định điều ước quốc tế. Trường hợp thứ hai là khi quyết định cho
phép áp dụng trực tiếp của Quốc hội, Chủ tịch nước hay Chính phủ khi thể hiện sự
đồng ý chịu ràng buộc bởi một điều ước quốc tế. Dưới đây một số các điều ước
quốc tế quyết định của Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ đồng ý chịu ràng
buộc bởi một điều ước quốc tế, cho phép áp dụng trực tiếp.
Năm Điều ước quốc tế
2020
Hiệp định Bảo hộ đầu giữa Việt Nam Liên minh châu Âu (IVIPA)
(xem Điều 2, Nghị quyết sốÁp dụng trực tiếp một phần
103/2020/QH104 của Quốc hội ngày 08 tháng 6 năm 2020).
Ghi chú: Áp dụng trực tiếp toàn bộ nội dung của Hiệp định, trừ các khoản
2, 3, 4 và 5 Điều 3.57 Chương 3 của Hiệp định này.
14 Xem thêm Trần Hữu Duy Minh, Hiệu lực pháp lí và việc áp dụng điều ước quốc tế ở Việt Nam, Tạp
chí Luật học, số 3(189), tháng 3 năm 2016, tr. 38 – 46.
22
2020 Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam Liên minh châu Âu
(EVFTA) (xem Điều 2, NghịÁp dụng trực tiếp một phần điều kiện
quyết số 102/2020/QH14 của Quốc hội ngày 08 tháng 6 năm 2020).
Ghi chú: Áp dụng trực tiếp các quy định của Hiệp định tại Phụ lục 2 kèm
theo Nghị quyết này, và các quy định của Hiệp định tại Phụ lục 3 kèm theo
Nghị quyết
2016 Công hàm thỏa thuận về cấp thị thực giữa Việt Nam Hoa Kỳ năm 2016
(xem Điều 2, Nghị quyết số 135/2016/QH13Áp dụng trực tiếp toàn bộ
của Quốc hội ngày 9 tháng 04 năm 2016).
- Nội luật hóa
“Nội luật hóa điều ước quốc tế” hay “chuyển hóa điều ước quốc tế” được hiểu
chuyển hóa các điều ước quốc tế thành quy phạm pháp luật trong nước thi
hành các điều ước quốc tế đó trên sở các quy phạm pháp luật trong nước vốn
quy phạm của điều ước quốc tế. Việc nội luật hóa thể hiện qua phương thức sau:
+ Sửa đổi, bổ sung, ban hành pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện điều ước
quốc tế. Theo quy định tại khoản 10 Điều 14 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế năm 2005, cơ quan đề xuất ký kết trách nhiệm kiến nghị về việc áp
dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế hoặc sửa đổi, bổ sung, bãi
bỏ, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế
+ Tiến hành chuyển hoá quy phạm của điều ước quốc tế vào pháp luật trong
nước. Nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mật thiết đến vấn đề chuyển
hoá (nội luật hoá) các điều ước quốc tế vào pháp luật trong nước. Mục đíchbản
của vấn đề chuyển hoá bảo đảm thuận lợi cho việc thực hiện các điều ước quốc
tế.
Việt Nam luôn khẳng định vai trò quan trọng của điều ước quốc tế, điều này
thể hiện ở nhiều hành động, có thể kể đến như tích cực tổ chứctham gia vào các
dự án tăng cường hiệu quả thực thi điều ước quốc tế; không ngừng tuyên truyền
phổ biến các điều ước quốc tế và vai trò cũng như nghĩa vụ phải nghiêm chỉnh thực
23
thi các điều ước quốc tế đến nhân, tổ chức đặc biệt chủ thể tham gia trực tiếp
vào việc thực thi các điều ước quốc tế.
KẾT LUẬN
Hình thức pháp luật (hay còn gọi nguồn pháp luật) biểu hiện ra bên
ngoài của pháp luật, là phương thức tồn tại của pháp luật và cách thức thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị. Các loại hình thức pháp luật đã tồn tại trong hội như tập
quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế, . Tuy
nhiên văn bản quy phạm pháp luật là hình thức áp dụng rộng rãi và tiến bộ nhất hiện
nay, thể hiện đầy đủ ý chí quan điểm của nhà nước, mỗi văn bản tên gọi chứa
đựng nội dung và hiệu lực pháp lý riêng biệt. Bên cạnh đó, sự đa dạng các hình thức
pháp luật làm căn cứ trong xử các tình huống pháp khiến cho đời sống pháp
luật phong phú hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng việt
1. Nguyễn Thị Huế (2017) chủ biên, Giáo trình Đại cương về Nhà nước pháp
luật, NXB ĐHKTQD
2. PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế (2005) chủ biên, Giáo trình luận chung về nhà
nước và pháp luật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (trang 303).
3. Hoàng Văn Đoàn, Mai Văn Thắng (2018), Ảnh hưởng của Pháp luật phương
Tây đến Pháp luật Nhật Bản, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 34, Số
3 (2018) 60-70 (trang 61)
4. Giáo trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội,
NXB CAND, Hà Nội, 2008
5. Khoản 1 điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
6. Đoàn Thị Tố Uyên, , Tạp chí LuậtBàn về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật
học số 4, 2002.
7. Quyết định số 33/2008/QĐ-BYT của Bộ Y tế về việc ban hành Tiêu chuẩn sức
khỏe của người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
8. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
9. Công ước Viên năm 1986, Điều 6
10. Tờ trình của Chính phủ gửi Quốc hội về dự án Luật kết, gia nhập thực
hiện điều ước quốc tế (sửa đổi), số 573/TTr-CP, ngày 26/10/2015.
24
11. Xem thêm Trần Hữu Duy Minh, Hiệu lực pháp lí và việc áp dụng điều ước quốc
tế ở Việt Nam Tạp chí Luật học, , số 3(189), tháng 3 năm 2016, tr. 38 – 46
Tài liệu tiếng anh
1. Công ước Viên năm 1969, Điều 3; Công ước Viên năm 1986, Điều 3. Xem thêm
“Thoả thuận bằng lời nói”/ “Oral agreement” trong Anthony Aust, Modern
Treaty Law and Practice (Cambridge University Press 2002)
Tài liệu Internet
1. PV (2018), Luật an ninh mạng: Sự cần thiết, mục đích, ý nghĩa nội dung cơ
bản, https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/201806/luat-an-ninh-mang-su-can-
thiet-muc-dich-y-nghia-va-noi-dung-co-ban-304109/, thứ sáu 22/06/2018, 15:43
[GMT +7].
2. Wikipedia, Tiền lệ pháp, https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%81n_l
%E1%BB%87_ph%C3%A1p
3. Tiến Trần Công Trục (2016), Tìm hiểu vụ Philippines kiện Trung Quốc
Phán quyết của PCA, https://vov.vn/the-gioi/ho-so/tim-hieu-vu-philippines-kien-
trung-quoc-va-phan-quyet-cua-pca-531292.vov, thứ Hai, 6:30, 18/07/2016.
4. Wikipedia, Luật pháp Trung Quốc https://vi.wikipedia.org/wiki/Lu%E1%BA
%ADt_ph%C3%A1p_Trung_Qu%E1%BB%91c
5. Wikipedia, Luật pháp Nhật Bản https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA
%ADt_B%E1%BA%A3n
6. Luật Minh Khuê (2021), ,Một số vấn đề về luật pháp nước Pháp
https://luatminhkhue.vn/mot-so-van-de-phap-ly-ve-nuoc-phap-bo-may-nha-
nuoc-he-thong-phap-luat.aspx, 07/08/2021
7. Luật Dương Gia, Sự phát triển của hệ thống pháp luật Mỹ
https://luatduonggia.vn/su-phat-trien-cua-he-thong-phap-luat-my/ 10/02/2021
25
PHỤ LỤC
Phân chia nội dung:
Họ và tên sinh viên sinh
viên
Nội dung chuẩn bị
Vũ Thị Thanh Tâm 11218215 Khái niệm, đặc điểm các
loại hình thức pháp luật.
NguyễnTrươngNhậtHuy 11212627 Nguồn pháp luật của một số
nước.
Phạm Thị Phương Quỳnh 11218211 Khái niệm đặc điểm, nguyên
tắc xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật.
Nguyễn Thị Thanh Thảo 11218219 Hiệu lực văn bản quy phạm
pháp luật.
Hà Thị Mai Phương 11218207 Điều ước quốc tế.
26

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA LUẬT
BÀI TẬP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đề tài: HÌNH THỨC PHÁP LUẬT Sinh viên thực hiện: Hà Thị Mai Phương 11218207 Nguyễn Trương Nhật Huy 11212627 Phạm Thị Phương Quỳnh 11218211 Vũ Thị Thanh Tâm 11218215 Nguyễn Thị Thanh Thảo 11218219
Học phần: Pháp luật đại cương 27
Giảng viên giảng dạy: Thạc sĩ Phạm Đức Chung Hà Nội, 2021 Hà Nội, Tháng / Năm
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA LUẬT
BÀI TẬP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đề tài: HÌNH THỨC PHÁP LUẬT Sinh viên thực hiện: Hà Thị Mai Phương 11218207 Nguyễn Trương Nhật Huy 11212627 Phạm Thị Phương Quỳnh 11218211 Vũ Thị Thanh Tâm 11218215 Nguyễn Thị Thanh Thảo 11218219
Học phần: Pháp luật đại cương 27
Giảng viên giảng dạy: Thạc sĩ Phạm Đức Chung Hà Nội, 2021 Hà Nội, Tháng / Năm MỤC LỤC
1. HÌNH THỨC PHÁP LUẬT...................................................................................2
1.1 Khái niệm, đặc điểm của hình thức pháp luật...................................................2
1.2. Các loại hình thức pháp luật.............................................................................3
1.2.1. Tập quán pháp...........................................................................................3
1.2.2. Tiền lệ pháp...............................................................................................3
1.2.3. Văn bản quy phạm pháp luật.....................................................................6
1.2.4. Các loại hình thức khác.............................................................................7
1.3. Nguồn pháp luật của một số nước trên thế giới................................................7
1.3.1. Trung Quốc................................................................................................7
1.3.2. Nhật Bản....................................................................................................8
1.3.3. Pháp.........................................................................................................10
1.4. Văn bản quy phạm pháp luật – Hình thức pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam........................................................................................10
1.4.1. Khái niệm và đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật........................10
1.4.2. Nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.................12
1.4.3. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật...............................................17
1.5. Điều ước quốc tế............................................................................................20
1.5.1. Khái niệm điều ước quốc tế.....................................................................20
1.5.2. Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia.......................21
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………25
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................25
PHỤ LỤC…………………………………………………………………………...27 1
CHƯƠNG 3. HÌNH THỨC PHÁP LUẬT VÀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
1. HÌNH THỨC PHÁP LUẬT
1.1 Khái niệm, đặc điểm của hình thức pháp luật

Ý chí của giai cấp thống trị gắn liền với những mục tiêu, phương pháp duy trì
trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chung của họ. Bản chất của pháp luật là sự thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội. Nhưng ý chí của giai cấp thống trị
chưa phải là luật pháp. Để ý chí đó trở thành luật pháp, giai cấp thống trị tìm cách
thể hiện ý chí của mình thành ý chí của Nhà nước và biểu hiện dưới hình thức cụ
thể nhất định. Trong khoa học pháp lý, người ta gọi cách thức biểu hiện ý chí của
giai cấp thống trị là hình thức pháp luật.
Hình thức pháp luật là biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, là phương thức
tồn tại của pháp luật và cách thức thể hiện ý chí của giai cấp thống trị.
Dựa vào hình thức pháp luật, người ta có thể biết luật tồn tại trong thực tế dưới
dạng nào, nằm ở đâu. Hình thức pháp luật được tiếp cận trong mối tương quan với
nội dung của nó. Nếu như nội dung của pháp luật là những yếu tố tạo nên pháp luật
thì hình thức pháp luật là yếu tố chứa đựng, thể hiện nội dung.
“Hình thức bên ngoài là sự biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, là cái chứa
đựng nội dung, các quy tắc pháp luật- quy tắc hành vi theo ý chí nhà nước. Hình
thức bên ngoài của pháp luật còn được gọi là nguồn pháp luật”. 1Nguồn của pháp
luật cung cấp căn cứ pháp lý cho các nhà chức trách có thẩm quyền giải quyết vụ án.
Các đặc điểm của hình thức pháp luật:
- Hình thức pháp luật là sản phẩm của tư duy trên cơ sở những điều kiện kinh
tế khách quan, chế độ chính trị, nền tảng đạo đức xã hội và sự nghiên cứu thực tế.
Hình thức pháp luật thường xuất hiện muộn hơn so với thực tế của đời sống xã hội.
Nó không phải là ý muốn chủ quan của các nhà làm luật.
Sự ra đời của Luật An ninh mạng thể hiện rất rõ đặc điểm này. Cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với công tác an ninh
mạng trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Ngày
12/6/2018, tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XIV đã thông qua Luật An ninh mạng
1 PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế (2005) chủ biên, ,
Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (trang 303). 2
số 24/2018/QH14, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019. Luật là thành quả
nghiên cứu thực tế của các cơ quan chức năng như Bộ Công an, Bộ Thông tin và
Truyền thông,… Với 7 chương, 43 điều, Luật An ninh mạng quy định về hoạt động
bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng;
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.2
- Hình thức pháp luật được biểu hiện dưới những dạng nhất định. Chính vì thế,
nó đã giản lược việc nhận thức pháp luật, giúp con người trong xã hội có thể ý thức
những hành vi phải làm, được làm và không được làm.
- Hình thức pháp luật là công cụ để dư luận và xã hội, nhà làm luật can thiệp
có hiệu quả vào những tình huống cần thiết và hướng xã hội đến mục đích cụ thể
mà giai cấp thống trị đã đặt ra.
1.2. Các loại hình thức pháp luật
Trong lịch sử xã hội loài người đã tồn tại 3 loại hình thức pháp luật chủ yếu là
tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật.
1.2.1. Tập quán pháp
Tập quán pháp là những phong tục, tập quán trong xã hội phù hợp với lợi ích
của giai cấp thống trị, được Nhà nước thừa nhận giá trị pháp lý, trở thành quy tắc xử
sự chung và được đảm bảo thi hành bằng sức cưỡng chế của Nhà nước.
Nhà nước thừa nhận một tập quán nào là tập quán pháp phụ thuộc nhiều vào
điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Liệt kê danh mục các tập quán được Nhà
nước thừa nhận, đưa các tập quán vào pháp luật thành văn, áp dụng tập quán để giải
quyết các vụ việc phát sinh trong thực tiễn là các cách Nhà nước thừa nhận tập quán pháp.
1.2.2. Tiền lệ pháp
Tiền lệ pháp (án lệ) là hình thức Nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ
quan hành chính hoặc các bản án của Tòa án làm cơ sở để áp dụng, giải quyết các
trường hợp có tình tiết tương tự.
Cơ sở hình thành án lệ là những khuyết điểm của hệ thống pháp luật. So với
các quan hệ xã hội luôn vận động, phát triển không ngừng với muôn hình vạn trạng,
pháp luật được lập ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội, lại mang tính chuẩn mực, ổn
2 PV (2018), Luật an ninh mạng: Sự cần thiết, mục đích, ý nghĩa và nội dung cơ bản,
https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/201806/luat-an-ninh-mang-su-can-thiet-muc-dich-y-nghia-va-
noi-dung-co-ban-304109/, thứ sáu 22/06/2018, 15:43 [GMT +7]. 3
định tương đối. Do đó, khoảng cách giữa pháp luật và thực tiễn luôn tồn tại. Tòa án
với tư cách là cơ quan áp dụng pháp luật sẽ gặp những khó khăn khi giải quyết các
tranh chấp không có luật để áp dụng. Điều này đặt ra cho các cơ quan lập pháp của
Nhà nước phải nghiên cứu thấu đáo, tổng kết quá trình giải quyết một số vụ việc cụ
thể, điển hình để kịp thời ban hành những quy phạm pháp luật thích hợp.
Để trở thành án lệ, một bản án phải đáp ứng các yếu tố cơ bản:
Nội dung của bản án phải liên quan đến vấn đề pháp lý mới nảy sinh hoặc một
nghi vấn pháp luật: Luật cần áp dụng đối với sự kiện thực tế trong vụ án là gì và
được áp dụng vào các sự kiện thực tế trong vụ án như thế nào? Khi xét xử, thẩm
phán đã tìm ra lời giải của câu hỏi này, như vậy thẩm phán đã sáng tạo ra pháp luật.
Phán quyết của thẩm phán trong vụ việc cụ thể đã tạo ra một án lệ cho các vụ việc tương tự.
Bản án phải thể hiện thái độ, quan điểm rõ ràng, dứt khoát, có logic pháp luật
của thẩm phán hoặc hội đồng xét xử về các vấn đề pháp luật được đặt ra. Bởi án lệ
là một đường lối xét xử. Án lệ do thẩm phán tạo ra phải xuất phát từ tranh chấp giữa
các bên trong vụ án. Bằng cách đưa ra phán quyết trong tranh chấp giữa các bên,
thẩm phán đã tạo ra luật trong trường hợp cụ thể. Đối với những trường hợp đã có
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ phát sinh tranh chấp, án lệ được tạo ra chính
là lời giải cho việc áp dụng các quy định pháp luật chứa đựng những nguyên tắc
chung trong một trường hợp cụ thể.
Án lệ được tạo ra bởi tòa án có thẩm quyền, tuy nhiên không phải tòa án nào
cũng tạo ra án lệ. Ở nước Anh, việc hình thành án lệ, hệ thống thứ bậc, hiệu lực án
lệ gắn bó mật thiết với tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án. 4
Các phán quyết phải được công bố và hệ thống hóa theo một trình tự thủ tục
chặt chẽ. Đây là hoạt động quan trọng để một bản án trở thành án lệ.3
Vụ kiện Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc là án lệ về tranh chấp giữa
các quốc gia trên biển. Năm 1947, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đưa ra yêu sách
chủ quyền trên Biển Đông với đường lưỡi bò 11 đoạn, sau này chính phủ Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa sử dụng lại đường lưỡi bò này nhưng chỉ còn 9 đoạn. Đường
lưỡi bò bao trọn bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên Biển Đông (biển Nam
Trung Hoa) là quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, quần đảo Đông Sa và bãi
Macclesfield với khoảng 75% diện tích mặt nước của Biển Đông, chỉ chừa lại
khoảng 25% cho tất cả các nước Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia và Việt
Nam, tức mỗi nước được trung bình 5%.
Là một quốc gia thành viên Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982
(UNCLOS), ngày 22/1/2013, Philippines đã đệ đơn kiện về việc Trung Quốc đã giải
thích và áp dụng sai UNCLOS theo Điều 279, Điều 283, Điều 284 lên Tòa Trọng tài
Thường trực The Haye (PCA). Tháng 3 năm 2014, Philipine đã nộp hồ sơ chi tiết,
tuy rằng Trung Quốc đã từ chối tham dự phiên tòa quốc tế này. Ngày 12/7/2016,
Phán quyết của Hội đồng Trọng tài đã chính thức được công bố: Trung Quốc không
có căn cứ pháp lý về “quyền lịch sử với các tài nguyên nằm trong vùng biển trong
Đường Chín Đoạn"; bác bỏ khả năng Trung Quốc được yêu sách vùng biển từ các
đảo nhân tạo mà nước này đã xây dựng trái phép ở Trường Sa; đồng thời xác định
Trung Quốc đã gây tổn hại nghiêm trọng đến môi trường biển, mở rộng và làm
phức tạp thêm tranh chấp.4
Bản án này có những đặc điểm của 1 án lệ như sau:
- Nội dung của bản án tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc trên biển.
Luật được áp dụng trong bản án là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS).
- Tòa Trọng tài Thường trực The Haye (PCA) thể hiện thái độ giải quyết tranh
chấp bằng biện pháp hòa bình.
- Án lệ được tạo ra bởi Hội đồng Trọng tài Thường trực The Haye (PCA).
3 Wikipedia,Tiền lệ pháp, https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%81n_l%E1%BB%87_ph %C3%A1p
4 Tiến sĩ Trần Công Trục (2016), Tìm hiểu vụ Philippines kiện Trung Quốc và Phán quyết của PCA,
https://vov.vn/the-gioi/ho-so/tim-hieu-vu-philippines-kien-trung-quoc-va-phan-quyet-cua-pca-
531292.vov, thứ Hai, 6:30, 18/07/2016. 5
- Các phán quyết phải được công bố và hệ thống hóa theo một trình tự thủ tục chặt chẽ.
Các ưu – khuyết điểm của tiền lệ án :
Tiền lệ pháp là một hình thức pháp luật chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống
pháp luật Anh - Mỹ (Anglo- Sacxon). Hình thức này được sử dụng rộng rãi trên thế
giới, là nguồn chủ yếu và quan trọng trong hệ thống pháp luật của các quốc gia
trong Khối Thịnh vượng chung Anh, hầu hết các tiểu bang của Hoa Kỳ (ngoại trừ
tiểu bang Louisiana), Canada (ngoại trừ tỉnh bang Québec) và các thuộc địa trước
kia của Anh cũng như các lãnh thổ được ủy trị của Hoa Kỳ.
Ở Việt Nam, tiền lệ pháp đã và đang tồn tại dưới các hình thức như các nghị
quyết hướng dẫn xét xử, trao đổi nghiệp vụ tại các buổi tổng kết ngành và dễ thấy
nhất là thông qua các quyết định giám đốc thẩm được tập hợp và phát hành. Qua
đây, nhiều vướng mắc đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao gỡ
vướng và định hướng cho các tòa cấp dưới làm theo. Điều 3 Bộ luật Dân sự nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 14/6/2005 quy định: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên
không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán, nếu không có tập quán thì có thể
áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp
luật không được trái với những nguyên tắc quy định trong bộ luật này”.
1.2.3. Văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
ban hành theo thủ tục, trình tự luật định trong đó có chứa các quy tắc sử dụng
chung, được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp luật tiến bộ và hoàn thiện ở
mức độ cao so với tập quán và tiền lệ pháp. Văn bản quy phạm pháp luật thể hiện
cao độ ý chí của giai cấp thống trị, thể hiện bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa; 6
là cơ sở tạo nên sự thống nhất trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa và là thức
pháp luật cơ bản của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1.2.4. Các loại hình thức khác - Điều ước quốc tế
- Các quan niệm, chuẩn mực đạo đức xã hội
Các quan niệm, chuẩn mực đạo đức xã hội là nguồn quan trọng bổ sung cho
những hạn chế trong hệ thống pháp luật của quốc gia. Bởi thực tế có những hành vi
xử sự trong đời sống xã hội chưa được pháp luật dự liệu để xử lý, không có tập
quán pháp hay chưa có án lệ ; trong khi nhu cầu chính đáng của xã hội là cần phải
xử lý đối với hành vi đó. Trong trường hợp này, nhà chức trách cần căn cứ vào các
chuẩn mực đạo đức và lẽ phải, lẽ công bằng trong cuộc sống mà phần lớn thành
viên xã hội đều công nhận để giải quyết.
- Đường lối, chính sách của lực lượng cầm quyền
Đối với một số quốc gia, đường lối, chính sách là một nguồn đặc biệt của pháp
luật, có vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc gia. Đường lối, chính sách
của giai cấp cầm quyền đôi khi có thể được viện dẫn để thay thế các bản quy phạm pháp luật.
- Quan điểm, học thuyết pháp lý
Quan điểm, học thuyết pháp lý là căn cứ để hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc
gia. Trong một số trường hợp khi có những sự việc xảy ra nhưng chưa được quy
định bởi pháp luật, không có tập quán, chưa có án lệ,… làm cơ sở cho việc giải
quyết, các nhà chức trách cần căn cứ vào các quan điểm, lập luận khoa học của các
học giả, các nhà khoa học để đưa ra phương án giải quyết.
1.3. Nguồn pháp luật của một số nước trên thế giới
Đầu tiên, nguồn pháp luật là cơ sở hình thành nên nội dung pháp luật. Ngoài
pháp luật tập quán, pháp luật án lệ, văn bản quy phạm pháp luật, nguồn của pháp
luật còn bao gồm: Các học thuyết chính trị - pháp luật, học thuyết về pháp luật,
đường lối chính trị của đảng cầm quyền, … 1.3.1. Trung Quốc
Luật pháp Trung Quốc bắt nguồn từ triết lý Khổng giáo về trật tự xã hội.
Những ảnh hưởng này thậm chí đến nay vẫn còn đậm nét trong hệ thống luật
pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. 7
Những giáo lý đạo Khổng có ảnh hưởng lâu dài tới đời sống người Trung Quốc
và tạo lập cơ sở cho trật tự xã hội trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước này.
Những người theo đạo Khổng tin vào tính thiện của con người và ủng hộ đức trị
bằng luân lý cùng với khái niệm lễ.
Khổng giáo cho rằng luật pháp được san định là không đủ để cung cấp hướng
dẫn ý nghĩa cho toàn bộ các hoạt động của con người, nhưng họ không chống lại
việc sử dụng luật pháp để kiểm soát các thành phần cần được giáo hóa trong xã hội.
Bộ luật hình sự đầu tiên được ban hành trong khoảng năm 455 và 395 TCN. Cũng
có luật pháp dân sự, chủ yếu là liên quan đến chuyển nhượng đất đai. Khổng giáo
cho rằng đạo đức và kỷ luật tự giác là tốt hơn bất kỳ một bộ luật nào đã khiến cho
nhiều nhà sử học, thí dụ như Max Weber, cho đến giữa thế kỷ 20 kết luận rằng luật
pháp không phải là phần quan trọng trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Tuy
nhiên, cách hiểu này đã hứng chịu nhiều chỉ trích kịch liệt và hiện không còn thịnh
hành trong giới Trung Quốc học, những người đã kết luận rằng Trung Quốc phong
kiến có một hệ thống luật pháp hình sự và dân sự tinh vi.
Pháp gia, một trường phái tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong thời kỳ Chiến
Quốc, cho rằng con người có bản tính ác và cần phải được kiểm soát bởi luật lệ hà
khắc và công chính thống nhất. Trường phái Pháp gia có ảnh hưởng lớn nhất trong thời nhà Tần.
Nhà Hán duy trì một hệ thống luật pháp được thiết lập dưới thời nhà Tần,
nhưng sửa đổi một số phương diện hà khắc theo triết lý Khổng giáo về kiểm soát xã
hội dựa trên luân thường đạo lý. Hầu hết thư lại không phải là luật sư mà là những
người được đào tạo về triết học và văn học. Tầng lớp quý tộc Khổng giáo địa
phương, được đào tạo bài bản, đóng vai trò quan trọng như những người hòa giải và
giải quyết tất cả các vụ việc ngoại trừ những vụ nghiêm trọng nhất tại địa phương mình.5 1.3.2. Nhật Bản
Pháp luật và các thiết chế chính quyền của Nhật Bản ở thời kì tiền cổ đại
(khoảng từ năm 250 TCN đến năm 603) mang tính “thuần Nhật”, chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của tư tưởng, triết lí tôn giáo và không bị ảnh hưởng của các yếu tố ngoại
lai. Pháp luật Nhật Bản ở thời kì tiền cổ đại hầu như không có sự phân biệt rạch ròi
5 Wikipedia, Luật pháp Trung Quốc https://vi.wikipedia.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt_ph %C3%A1p_Trung_Qu%E1%BB%91c 8
giữa quy phạm pháp luật với quy phạm xã hội và các quy phạm tôn giáo khác. Ở
thời kì cổ đại và trung đại pháp luật Nhật Bản đã chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi pháp
luật phong kiến Trung Hoa. Hệ thống pháp luật Nhật Bản trong thời kì này còn
được gọi là hệ thống “ritsu - ryo” bởi lí do nhiều bộ luật (bao gồm hai phần, phần
“ritsu” là các quy định về hình sự và phần “ryo” bao gồm các quy định mang tính
chất khuyến cáo) mô phỏng một cách trung thực các bộ luật của nhà Đường - triều
đại hưng thịnh của phong kiến Trung Hoa. Pháp luật phong kiến Trung Quốc lúc đó
được Nhật Bản vận dụng, mô phỏng do lịch sử để lại và được cho là phù hợp với
thời kì phong kiến trong bối cảnh Trung Hoa là quốc gia trung tâm của khu vực
Đông Á. Nhưng theo thời gian, pháp luật phong kiến Trung Hoa đã trở nên lạc hậu,
kìm hãm sự phát triển toàn diện của đất nước với những đặc trưng về tính chuyên
chế, áp đặt về tư tưởng thần quyền, khép kín, hà khắc, thiếu tính dân chủ, kém phát
triển ở lĩnh vực luật tư, giao lưu dân sự, không có sự tham khảo và học hỏi pháp
luật các quốc gia khác trên thế giới. Vì vậy, khó bắt kịp với sự vận động của pháp
luật thế giới, đặc biệt là pháp luật phương Tây tiến bộ, không khuyến khích sự giao
lưu, phát triển kinh tế, tiếp nhận tư tưởng tiến bộ, giải phóng sức lao động, tư tưởng
của con người. Nhận diện rõ những nguy cơ tụt hậu, những bất cập của triết lí pháp
luật Trung Hoa, đến thời kì cận đại và hiện đại, Nhật Bản đã tiếp nhận và vận dụng
thành công pháp luật phương Tây để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của
riêng mình, “xây dựng một nền văn minh đặc biệt, không theo kiểu châu Âu và
cũng không theo kiểu châu Á”.6 Pháp luật Pháp và Đức ảnh hưởng đến Nhật Bản
thông qua những cố vấn mà người Nhật mời đến. Tiêu biểu là: các cố vấn người
Pháp, đặc biệt là Boissonade, Bousquet, and Benet và Roesler cùng các đồng sự
người Đức của mình như Lorenz von Stein và Rudolf von Gneist... Những chuyên
gia đã tham gia vào quá trình xây dựng, phát triển, giáo dục, tuyên truyền pháp luật
phương Tây đến pháp luật Nhật Bản. Pháp luật Mỹ ảnh hưởng đến Nhật Bản với vai
trò rất lớn của Thống chế Douglas MacArthur và Bộ Tổng tư lệnh các lực lượng
Đồng minh tại Nhật Bản trong quá trình xây dựng Hiến pháp 1946 và cải cách dân
chủ. Những người ngoại quốc đã mang những tư tưởng tiến bộ, dân chủ của phương
Tây tới pháp luật Nhật Bản.7 1.3.3. Pháp
6 Hoàng Văn Đoàn, Mai Văn Thắng (2018), Ảnh hưởng của Pháp luật phương Tây đến Pháp luật Nhật
Bản, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 34, Số 3 (2018) 60-70 (trang 61)
7 Wikipedia, Luật pháp Nhật Bản https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADt_B%E1%BA%A3n 9
Pháp là quốc gia điển hình của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil law).
Civil law là một hệ thống pháp luật trên thế giới có nguồn gốc từ châu Âu và được
áp dụng tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. Hệ thống dân luật được phát triển từ
bộ khung là luật La Mã, trong đó đã luật hóa các nguyên tắc chủ đạo để trở thành
một hệ thống mà con người có thể viện dẫn được, đóng vai trò là nguồn luật cơ bản.
Hệ thống Civil law thông thường trái ngược hoàn toàn với hệ thống common law có
nguồn gốc từ nước Anh vào thời kỳ Trung cổ. Khác biệt chủ yếu thường được đưa
ra giữa hai hệ thống này là ở chỗ common law đề ra các quy tắc trừu tượng từ các
vụ việc cụ thể, trong khi Civil law bắt đầu từ các quy tắc trừu tượng để sau đó các
quan tòa hay trọng tài phải áp dụng các quy tắc đó cho các vụ việc cụ thể.
Civil law có nguồn gốc từ Luật La Mã, luật giáo hội và phong trào khai sáng,
cùng với các ảnh hưởng từ các luật tôn giáo khác, chẳng hạn như luật Hồi giáo. Các
hệ thống luật pháp tại nhiều quốc gia theo hệ thống Civil law dựa trên một hay vài
bộ luật, trong đó đề ra các nguyên tắc chính để hướng dẫn chung về luật. Các ví dụ
nổi tiếng nhất có lẽ là bộ luật Dân sự Pháp, mặc dầu Bürgerliches Gesetzbuch của
Đức (BGB) và luật Dân sự Thụy Sĩ cũng là các sự kiện mang tính bước ngoặt trong
lịch sử dân luật. Các hệ thống Civil law/hỗn hợp của Scotland và Nam Phi là không
pháp điển hóa, còn các hệ thống dân luật của các quốc gia khu vực Scandinavia chủ
yếu tồn tại dưới dạng không pháp điển hóa.8
1.3.4. Hợp chủng quốc Hoa Kì
Người Anh xuất hiện ở Bắc Mỹ vào thế kỷ XVII đến năm 1722 ở Bắc
Mỹ đã có 13 thuộc địa của Anh, nhưng lúc này pháp luật của Anh không phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước Mỹ lúc đó. Xã hội Mỹ lúc đó có những
nét đặc thù do đó phải áp dụng luật riêng được xây dựng trên cơ sở kinh thánh.
Sau khi Mỹ tuyên bố độc lập năm 1776 pháp luật Anh và pháp luật Mỹ đã trở
thành hai hệ thống pháp luật độc lập, hệ thống pháp luật Mỹ vừa có tính ổn
định tương đối (dựa trên Hiến pháp Mỹ) vừa có tính điều chỉnh linh hoạt (dựa
trên cơ sở án lệ), hệ thống pháp luật Mỹ là hệ thống pháp luật liên bang còn
đối với hệ thống pháp luật Anh là hệ thống pháp luật đơn nhất; tuy nhiên hai hệ
thống pháp luật này vẫn có nền tảng chung, pháp luật Mỹ vẫn sử dụng khái
niệm, cách thức lập luận, lý thuyết và nguồn luật của pháp luật Anh. Nguồn 8 Luật Minh Khuê (2021), ,
Một số vấn đề về luật pháp nước Pháp https://luatminhkhue.vn/mot-so-van-
de-phap-ly-ve-nuoc-phap-bo-may-nha-nuoc-he-thong-phap-luat.aspx, 07/08/2021 10
của pháp luật Mỹ chủ yếu là luật thành văn, Hiến pháp Mỹ (1787) là hiến pháp
thành văn đầu tiên trong lịch sử lập hiến thế giới và là Hiến pháp lâu đời nhất
đến nay vẫn còn hiệu lực. Hiến pháp Mỹ không chỉ có giá trị nghi thức mà trên
thực tế là cơ sở của hệ thống pháp luật Mỹ. Các bang của Mỹ cũng có hiến
pháp riêng được soạn thảo và ban hành dựa trên hiến pháp liên bang. Pháp luật
của liên bang cao hơn pháp luật của bang, nhưng về nguyên tắc thì quyền lập
pháp chủ yếu thuộc về các bang. Ở Mỹ có 50 bang tương đương với 50 hệ
thống pháp luật nhưng chúng cũng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất vì
khi soạn thảo các văn bản pháp luật, các bang thường tham khảo luật của các
bang khác và thường không ban hành các qui phạm pháp luật quá khác biệt.9
1.4. Văn bản quy phạm pháp luật – Hình thức pháp luật của Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.4.1. Khái niệm và đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật

Điều 2, Khoản 1 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 đã xác
định: “Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban
hành đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này”.
Văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm sau:
Một là, văn bản quy phạm pháp luật phải do cơ quan Nhà nước, người có thẩm
quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành.
Hai là, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải tuân theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định
Ba là, nội dung của văn bản quy phạm pháp luật phải có chứa các quy phạm
pháp luật. Trong đó, quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc
chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định.
Bốn là, Nhà nước bảo đảm việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật bằng
các biện pháp thích hợp như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, các biện pháp về tổ
chức, hành chính, kinh tế và trong trường hợp cần thiết là biện pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành.
9 Luật Dương Gia, Sự phát triển của hệ thống pháp luật Mỹ https://luatduonggia.vn/su-phat-trien-cua-
he-thong-phap-luat-my/ 10/02/2021 11
Những đặc điểm trên cho phép phân biệt văn bản quy phạm pháp luật với các
văn bản do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành nhưng không có đủ các
đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật như không chứa đựng quy phạm pháp luật,
hoặc không tuân thủ đúng trình tự, thủ tục luật định. Những trường hợp văn bản được
ban hành không có đủ các đặc điểm nêu trên thì không phải là văn bản quy phạm
pháp luật. Trong số những loại văn bản đó có loại văn bản xuất hiện tương đối phổ
biến là văn bản áp dụng quy phạm pháp luật, như: Nghị quyết của Quốc hội về
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; Nghị quyết của Quốc hội về miễn nhiệm, bãi
nhiệm hoặc phê duyệt kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội và các chức vụ khác; … Đó
thường là các văn bản cá biệt để giải quyết vụ việc cụ thể, áp dụng một lần cho một
hoặc một số đối tượng cụ thể.10
Ví dụ: Đâu là văn bản quy phạm pháp luật? Tại sao?
a) Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với sinh viên A vì không đội mũ bảo
hiểm khi đi xe máy Sai. Đây là văn bản áp dụng pháp luật được ban hành để giải
quyết các tình huống cụ thể.
b) Điều lệ Đoàn thanh niên Sai. Vì Đoàn thanh niên không phải cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
c) Thông báo số 195/TB-UBND của UBND thành phố Hà Nội ngày 15/8/2018 về
việc treo cờ tổ quốc Sai. Vì không chứa nguyên tắc xử sự chung và không được
Nhà nước bảo đảm thực hiện, không được áp dụng nhiều lần trong đời sống thực tế.
d) Luật Sở hữu trí tuệ Đúng
1.4.2. Nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Để đảm bảo cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nói riêng và hệ thống
pháp luật nói chung phản ánh đúng quy luật khách quan, thể hiện đúng đắn ý chí
nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với yêu cầu của xã hội, việc ban hành văn bản
quy phạm pháp luật phải dựa trên những nguyên tắc chỉ đạo thống nhất. Điều 5, Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 đã xác định 06 nguyên tắc cụ thể trong
việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm:
10 Đoàn Thị Tố Uyên, Bàn về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật, Tạp chí Luật học số 4, 2002. 12
-Nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản
quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật. Bảo đảm tính hợp hiến trong xây dựng
VBQPPL tức là đảm bảo cho các VBQPPL được ban hành không trái với các quy định
cơ bản nhất, quan trọng nhất trong Hiến pháp, bởi lẽ, Hiến pháp có tính tối cao nhất
trong hệ thống pháp luật, nếu một VBQPPL lại trái với những quy định quan trọng nhất
thì liệu những quy định trong VBQP sai trái đó có thi hành được trên thực tế không?
Bảo đảm tính hợp pháp chính là sự phù hợp của dự án VBQPPL với các quy định của
pháp luật hiện hành về thẩm quyền ban hành, hình thức, nội dung, thủ tục, thời hạn ban
hành. Nếu như bảo đảm tính hợp hiến là sự phù hợp của VBQPPL với văn bản có hiệu
lực pháp lý cao hơn(một hướng) thì bảo đảm tính
hợp pháp là sự phù hợp của VBQPPL với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn hoặc là
ngang bằng về hiệu lực, chẳng hạn như: giữa Luật với Pháp lệnh hoặc giữa Luật Đất đai với Luật Nhà ở
Thực tế cho thấy có nhiều văn bản quy phạm pháp luật do vi phạm nguyên tắc bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản quy phạm pháp luật nên đã bị đình chỉ, hủy
bỏ, thực thi không hiệu quả.
Ví dụ: Quyết định 51/2009/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấm
vận chuyển gia súc, gia cầm và sản phẩm gia súc, gia cầm trên xe máy, xích lô, xe đạp
hoặc các phương tiện thô sơ trên địa bàn thành phố Hà Nội có hiệu lực thi hành từ ngày
2/2 chưa bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp cũng như bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân có hoạt động liên quan.
Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật khẳng định Quyết định 51 có một số quy
định mang tính cấm đoán không có căn cứ, có biểu hiện “ngăn sông cấm chợ” đối với
các cá nhân, công dân tham gia hoạt động giết mổ, vận chuyển, chế biến, buôn bán gia
súc, gia cầm. Cụ thể như “cấm vận chuyển gia súc, gia cầm vào khu vực nội thành, nội
thị; cấm vận chuyển gia súc, gia cầm và sản phẩm gia súc, gia cầm trên xe máy, xích
lô, xe đạp hoặc các phương tiện khác”….. 13
Trước đó năm 2007, công văn số 283 của Cục Nghệ thuật biểu diễn gửi tới các
trường văn hóa nghệ thuật trên toàn quốc. quy định "không cho phép học sinh, sinh
viên tham gia biểu diễn nghệ thuật tại quán bar, vũ trường, quán karaoke" của Bộ Văn hóa Thông tin cũng đã phải thu hồi
Hiện nay, việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp pháp luật đối với các văn bản
quy phạm pháp luật được giao cho nhiều cơ quan thực hiện như: Ủy ban Pháp luật,
Bộ Tư pháp (ở giai đoạn thẩm định); Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội (khi
chủ trì thẩm tra)., hoạt động xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các VBQPPL đã
đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp khi xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các VBQPPL trong giai đoạn hiện
nay còn nhiều bất cập.Nội dung của một số dự án luật, pháp lệnh còn có những mâu
thuẫn, chồng chéo. Tồn tại này đang được các nhà chức trách tìm cách giải quyết.
-Nguyên tắc tuân thủ đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo nguyên tắc này, việc ban hành văn bản
quy phạm pháp luật phải tuân thủ đúng các quy định về thẩm quyền của mỗi cơ quan
Nhà nước được ban hành loại văn bản quy phạm pháp luật, hình thức, trình tự, thủ tục
soạn thảo và ban hành. Việc tuân thủ nguyên tắc này góp phần đảm bảo sự thống nhất,
đồng bộ trong việc xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn, không có tính
khả thi khi thực hiện văn bản quy phạm pháp luật.
Ví dụ: Quyết định số 33/2008/QĐ-BYT của Bộ Y tế về việc ban hành Tiêu
chuẩn sức khỏe của người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ trong
đó có nội dung người dưới 40kg hoặc dưới 1,45m không đủ điều kiện điều khiển
môtô từ 50 phân khối trở lên; người có chiều cao dưới 1,5m hoặc nặng dưới 40kg
không đủ điều kiện lấy giấy phép lái xe hạng B1. Đây là quyết định vô lý,. Theo Điều
55 của Luật Giao thông đường bộ thì “Người lái xe phải có sức khỏe phù hợp với loại
xe, công dụng của xe. Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải thống nhất với Bộ trưởng Bộ
Y tế quy định cụ thể về tiêu chuẩn sức khỏe của người lái xe”, do vậy việc Bộ Y tế ra
văn bản như vậy là sai luật. Việc Bộ Y tế tự ban hành quyết định này là "không đúng 14
thẩm quyền” Văn bản này phải là thông tư liên tịch giữa Bộ Y tế, bộ Giao thông và bộ
Công an. Ngày 24/10, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư pháp có
Công văn số 120/KTrVB gửi Bộ Y tế đề nghị bộ này “đình chỉ ngay việc lưu hành,
tạm ngưng hiệu lực áp dụng” đối với bản tiêu chuẩn sức khỏe. 5 ngày sau bị Bộ Tư
pháp phản bác, Bộ Y tế đã báo cáo Chính phủ, đề nghị dừng thi hành quy định trên.
Tháng 11/2008, Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân yêu cầu Bộ trưởng Y tế rút kinh nghiệm.
-Nguyên tắc bảo đảm tính minh bạch trong quy định của văn bản quy phạm
pháp luật. Nguyên tắc này có ý nghĩa tạo ra một hệ thống pháp luật ổn định và có thể
dự đoán, đồng thời còn giúp nâng cao tính quyền lực của các cơ quan Nhà nước.
minh bạch có nghĩa là sáng rõ, không che giấu Để bảo đảm tính minh bạch của hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan nhà nước phải thường xuyên rà soát
các quy phạm pháp luật đã được ban hành nhằm loại bỏ các quy phạm pháp luật
không phù hợp và không rõ ràng với sự phát triển không ngừng của cuộc sống.
- Nguyên tắc bảo đảm tính khả thi, tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời, dễ tiếp cận, dễ
thực hiện của văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới
trong văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.
Nguyên tắc này đòi hỏi các quy phạm pháp luật từ khi soạn thảo đã phải được xây
dựng cụ thể, chi tiết phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội khách quan để khi được
ban hành, văn bản quy phạm pháp luật có thể được áp dụng, đi vào đời sống xã hội,
thực hiện ngay ở từng cơ sở. Cần tránh việc ban hành quá nhiều văn bản quy phạm
pháp luật để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một văn bản quy phạm pháp luật.
Cơ quan soạn thảo và ban hành pháp luật phải dự liệu đầy đủ những điều kiện thực
tiễn cho việc áp dụng quy phạm pháp luật khi được ban hành, phải chịu trách nhiệm
đối với việc ban hành những quy phạm pháp luật không có tính khả thi. Đồng thời cần
áp dụng cơ chế tham vấn ý kiến của nhân dân trong quá trình xây dựng, ban hành để
thực hiện nguyên tắc này. 15
Ví dụ: Chẳng hạn, trong lĩnh vực môi trường, tội gây ô nhiễm môi trường trong
Bộ luật Hình sự Khoản 1, Điều 235 mặc cho các quy định về tội phạm gây ô nhiễm
môi trường đã tồn tại khoảng 14 năm và thực tế tình trạng môi trường ngày càng ô
nhiễm, ảnh hưởng cuộc sống của hàng triệu người nhưng hầu như rất ít có vụ việc nào
được xử lý theo hướng áp dụng trực tiếp các quy định về tội danh này trong Bộ luật Hình sự.
-Nguyên tắc bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến,
kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản
quy phạm pháp luật. Nguyên tắc này yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phải tạo điều kiện để nhân dân tham gia góp ý kiến rộng rãi vào các dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật tùy thuộc vào tính chất và nội dung của dự thảo văn bản đó (trừ
trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có chứa nội dung thuộc bí mật Nhà nước).
Đồng thời với việc tổ chức lấy ý kiến, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các cơ
quan chủ trì soạn thảo phải tiếp nhận các ý kiến đó, nghiên cứu và chỉnh lý dự thảo.
Có như vậy mới đảm bảo được tính dân chủ thực sự, đảm bảo rằng sau khi văn bản
quy phạm pháp luật được ban hành thì việc thực hiện các văn bản đó mới được sự
hưởng ứng sâu rộng trong phạm vi cả nước.
Ví dụ: Quyết định 6074/QĐ-BGDĐT năm 2013 Kế hoạch thực hiện Luật Phòng,
chống tham nhũng sửa đổi và văn bản hướng dẫn thi hành do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
-Nguyên tắc bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường,
không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên. Hiện nay, Việt Nam đang tăng cường phát triển kinh tế- xã
hội, nhưng cần phải gắn các mục tiêu phát triển với việc bảo đảm yêu cầu về quốc
phòng, an ninh và bảo vệ môi trường nhằm phát triển bền vững. Các văn bản quy
phạm pháp luật phải có tính toàn diện, đưa ra các quy phạm pháp luật sau khi đã thực 16
hiện đánh giá tác động của quy phạm pháp luật đó trên các phương diện phát triển
kinh tế, yêu cầu quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường. Đồng thời, trong mối
quan hệ quốc tế và khu vực, Việt Nam chủ trương thực hiện đầy đủ các cam kết quốc
tế, do vậy việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo sự phù
hợp, đồng thời xử lý thích đáng những nội dung được quy định khác nhau giữa điều
ước quốc tế với văn bản quy phạm pháp luật mà Nhà nước ta ban hành là việc làm hết sức cần thiết.
1.4.3. Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
1.4.3.1. Hiệu lực về thời gian

- Hiệu lực về thời gian của văn bản quy phạm pháp luật là giá trị tác động của
văn bản lên các quan hệ xã hội phát sinh trong phạm vi kể từ khi nó bắt đầu (thời
điểm phát sinh) đến khi chấm dứt (thời điểm chấm dứt) hiệu lực.
Thời điểm có hiệu lực của toàn bộ hoặc một phần văn bản quy phạm pháp luật
được quy định tại văn bản đó nhưng không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày thông qua
hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung
ương; không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày ký ban hành đối với văn bản quy phạm
pháp luật của Hội đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; không sớm hơn 07
ngày kể từ ngày ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã.
Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn thì có
thể có hiệu lực kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành.
Ví dụ: Quyết định của UBND tỉnh ban hành ngày 01/01/2020 thì theo quy định
này hiệu lực của Quyết định là không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày ban hành và
cũng phải xác định cụ thể ngày có hiệu lực tức là ngày 10/01/2020.
- Hiệu lực trở về trước (Hồi tố):
Về nguyên tắc, văn bản quy phạm pháp luật chỉ có hiệu lực điều chỉnh những
quan hệ xã hội phát sinh từ thời điểm có hiệu lực trở về sau. Nói cách khác, thông
thường văn bản quy phạm pháp luật không có hiệu lực trở về trước (hiệu lực hồi tố).
Chỉ trong những trường hợp thật cần thiết, văn bản quy phạm pháp luật mới
được quy định hiệu lực trở về trước. Không được quy định hiệu lực trở về trước đối
với các trường hợp sau đây: 17
a. Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực
hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý
b. Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn
Ví dụ: Bộ Luật hình sự 1999 quy định Tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế
(Điều 167). Tuy nhiên, Bộ Luật hình sự 2015 có hiệu lực ngày 01/01/2018 đã bỏ
quy định về tội này. Như vậy, khi áp dụng hiệu lực hồi tố, nếu hành vi phạm tội Tội
báo cáo sai trong quản lý kinh tế diễn ra sau khi Bộ Luật hình sự 2015 có hiệu lực
thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này nữa.*
- Thời điểm ngưng hiệu lực:
Văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực có thể bị tạm đình chỉ để xem
xét tính hợp hiến, hợp pháp, hợp lý. Kể từ thời điểm nó bị tạm thi hành cho đến khi
có quyết định xử lý của cơ quan có thẩm quyền là khoảng thời gian văn bản bị tạm
ngưng hiệu lực. Văn bản đó có thể tiếp tục có hiệu lực hay bị huỷ bỏ là do quyết
định của cơ quan xử lý có thẩm quyền.
Thời điểm ngưng hiệu lực, tiếp tục có hiệu lực của văn bản hoặc hết hiệu lực
của văn bản phải được quy định rõ tại quyết định đình chỉ việc thi hành, quyết định
xử lý văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quyết định
đình chỉ việc thi hành, quyết định xử lý văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng
Công báo, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Thời gian chấm dứt hiệu lực:
Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:
1. Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản.
2. Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật mới của
chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó.
3. Bị bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
4. Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy
định chi tiết thi hành văn bản đó cũng đồng thời hết hiệu lực.
1.4.3.2. Hiệu lực về không gian và đối tượng tác động
Phạm vi áp dụng theo không gian của văn bản quy phạm pháp luật có thể là
trên toàn lãnh thổ quốc gia, ở một địa phương hoặc trong một vùng nhất định. Đối
tượng tác động của văn bản quy phạm pháp luật bao gồm cá nhân, tổ chức và những
quan hệ xã hội mà văn bản đó điều chỉnh. 18
Theo quy định hiện hành của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các
văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương có hiệu lực
trong phạm vi cả nước và được áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trừ
trường hợp văn bản có quy định khác hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.
Văn bản của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ban hành có hiệu lực trong
phạm vi địa phương đó.
Văn bản quy phạm pháp luật cũng có hiệu lực đối với cơ quan, tổ chức, người
nước ngoài ở Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật của Việt Nam hoặc điều ước quốc
tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Ví dụ: Huyện A được tách thành hai huyện B và C thì văn bản của huyện A có
hiệu lực cho đến khi Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện B và C ban hành
văn bản quy phạm pháp luật mới thay thế.
Ví dụ trên là trường hợp một đơn vị hành chính được chia thành nhiều đơn vị
hành chính mới cùng cấp thì văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân của đơn vị hành chính được chia vẫn có hiệu lực đối với đơn vị
hành chính mới cho đến khi Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân của đơn vị hành
chính mới ban hành văn bản quy phạm pháp luật thay thế.
1.5. Điều ước quốc tế
1.5.1. Khái niệm điều ước quốc tế
- Trong Công ước Viên
+ Cho đến hiện nay có hai Công ước điều chỉnh quan hệ điều ước quốc tế
trong luật pháp quốc tế, cụ thể Công
ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm
1969 và Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế giữa quốc gia và tổ chức quốc tế
và giữa các tổ chức quốc tế năm 1986 (gọi tắt là Công ước Viên 1969 và 1986).
Định nghĩa điều ước quốc tế được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 2 của hai Công ước
trên, gần như giống nhau trừ chủ thể ký kết điều ước quốc tế. Khoản 1 Điều 2 Công
ước Viên năm 1969 quy định “Điều ước quốc tế là một thoả thuận bằng văn bản
được ký kết giữa các quốc gia và chịu sự điều chỉnh của luật pháp quốc tế bất kể
được chứa đựng trong một hay nhiều văn kiện có liên quan và tên gọi của chúng”.
Công ước Viên năm 1986 mở rộng cụm từ “được ký kết giữa các quốc gia” thành
“được ký kết giữa một hay nhiều quốc gia với một hay nhiều tổ chức quốc tế, hoặc
giữa các tổ chức quốc tế với nhau.’’ 19
+ Định nghĩa của hai Công ước có thể được giải thích như sau:
Về chủ thể ký kết. Cả hai Công ước đều công nhận quốc gia có quyền năng ký
kết điều ước quốc tế. Công ước Viên năm 1986 mở rộng thêm quyền năng này cho
cả các tổ chức quốc tế liên chính phủ. Tuy nhiên, khác với quyền năng mang tính
chất vốn có của các quốc gia dựa trên cơ sở chủ quyền, các tổ chức quốc tế có
quyền năng trong giới hạn các quy định của từng tổ chức quốc tế.11
Về luật điều chỉnh. Hai Công ước đều ghi nhận luật điều chỉnh duy nhất của
điều ước quốc tế là luật quốc tế. Điều ước quốc tế là một nguồn của luật pháp quốc
tế, chứa đựng quyền và nghĩa vụ của các quốc gia do đó chỉ có thể được điều chỉnh
bởi luật pháp quốc tế. Nếu thoả thuận giữa các quốc gia hay tổ chức quốc tế mà ghi
nhận luật điều chỉnh là một hệ thống pháp luật khác, ví dụ như pháp luật của một
quốc gia nào đó, thì thoả thuận này không phải là điều ước quốc tế. Những điều ước
quốc tế được ký kết trái với những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế hiện đại sẽ
không có hiệu lực và phải bị hủy bỏ.
Về hình thức. Hai Công ước quy định điều ước quốc tế dưới hình thức văn bản.
Tuy nhiên hai Công ước cũng không loại trừ điều ước quốc tế dưới hình thức phi-
văn bản, như lời nói.12 Điều ước quốc tế có thể được ghi nhận trong một văn kiện
(như các điều ước quốc tế chuẩn mực) hoặc trong nhiều văn kiện có liên quan (như
các điều ước quốc tế hình thành qua việc trao đổi công hàm giữa hai nước). Bên
cạnh đó, tên gọi của điều ước quốc tế phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, phụ thuộc vào phạm vi và nội dung của điều ước,
mà điều ước quốc tế có thể có một số tên gọi khác nhau như: Hiệp ước, công ước,
định ước, nghị định thư, hiệp định…
Ví dụ: Công ước về đánh bắt cá voi (IWC), Hiến chương ASEAN, Hiệp định
thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, năm 2001, Hiệp định về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ giữa Việt Nam và Thuỵ Sỹ, năm 2000 (Điều ước quốc tế song phương), …
- Trong văn bản pháp luật Việt Nam
+ Văn bản pháp luật Việt Nam cũng có ghi nhận định nghĩa về điều ước
quốc tế. Cho đến hiện nay định nghĩa điều ước quốc tế được ghi nhận trong 04 văn
bản quy phạm pháp lý, cụ thể là Pháp lệnh về Ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1989 Pháp ,
lệnh về Ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998 Luật , ký
11 Công ước Viên năm 1986, Điều 6.
12 Công ước Viên năm 1969, Điều 3; Công ước Viên năm 1986, Điều 3. Xem thêm “Thoả thuận bằng
lời nói”/ “Oral agreement” trong Anthony Aust, Modern Treaty Law and Practice (Cambridge University Press 2002). 20
kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 và sau đó được thay thế
bằng Luật điều ước quốc tế năm 2016. Khoản 1 Điều 2 Luật điều ước quốc tế năm
2016 định nghĩa: “Điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân
danh Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên
ký kết nước ngoài, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào
tên gọi là hiệp ước, công ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản
ghi nhớ, công hàm trao đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác”. Pháp luật Việt Nam đã
ghi nhận định nghĩa điều ước quốc tế đầy đủ bám sát vào định nghĩa trong hai Công
ước Viên, cơ bản giống nhau về chủ thể ký kết, luật điều chỉnh và hình thức. Trong
bối cảnh quốc tế hiện nay, giao lưu hợp tác quốc gia ngày càng được tăng cường,
mở rộng. Hòa mình vào sự phát triển chung của thế giới tính từ năm 1955, Việt
Nam đã ký kết rất nhiều các điều ước quốc tế (trong lĩnh vực kinh tế - thương mại là
1082 điều ước). Trong giai đoạn 10 năm thực hiện Luật ký kết, gia nhập và thực
hiện điều ước quốc tế năm 2005, Việt Nam đã ký kết khoảng 2000 điều ước. 13
1.5.2. Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia
1.5.2.1. Một số học thuyết về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia

Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia thường được xem xét
theo hai học thuyết về mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật
quốc gia: thuyết nhất nguyên luận và thuyết nhị nguyên luận.
- Thuyết nhất nguyên luận: Quan niệm pháp luật là một hệ thống thống nhất,
đưa ra hai khả năng xác định mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia tùy theo
vị trí ưu tiên hơn: ưu tiên triệt để pháp luật quốc gia; ưu tiên triệt để pháp luật quốc tế.
- Thuyết nhị nguyên luận: quan niệm pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia
là hai bộ phận của một thể thống nhất, hoàn toàn độc lập với nhau gồm chủ nghĩa
nhị nguyên cực đoan; chủ nghĩa nhị nguyên luận dung hòa.
Tóm lại, điểm khác biệt duy nhất giữa hai học thuyết này là vị trí độc lập hoặc vị trí
trên dưới của hai hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
1.5.2.2. Mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia ở Việt Nam
13 Tờ trình của Chính phủ gửi Quốc hội về dự án Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
(sửa đổi), số 573/TTr-CP, ngày 26/10/2015. 21
Điều 6 Luật điều ước quốc tế 2016 là quy định chính yếu xác định mối quan hệ
giữa điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và pháp luật Việt Nam. Nhìn
chung các luật, pháp lệnh đều thể hiện rõ thái độ của Nhà nước ta là coi trọng các
cam kết quốc tế, ưu tiên thực hiện các quy định của điều ước quốc tế khi các quy
định này khác với quy định của luật hoặc pháp lệnh. Việc ưu tiên thực hiện các điều
ước quốc tế là cần thiết để bảo đảm các điều ước quốc tế được thực hiện nghiêm
chỉnh. Thêm vào đó, việc bổ sung cụm từ “trừ Hiến pháp” có ý nghĩa quan trọng
trong việc khẳng định Hiến pháp có vị trí tối cao, Điều ước quốc tế có vị trí sau
Hiến pháp nhưng trên các văn bản luật pháp lệnh.
1.5.2.3. Áp dụng điều ước quốc tế
- Khoản 3 Điều 6 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm
2005 thể hiện Việt Nam chấp nhận cả hai phương pháp thực hiện điều ước quốc tế:
áp dụng trực tiếp và chuyển hoá điều ước vào văn bản quy phạm pháp luật (nội luật hóa).
Áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế ở Việt Nam: Theo Điều 6 Luật điều ước quốc tế năm 2016 có
, hai trường hợp quy định điều ước quốc tế có thể được áp
dụng trực tiếp tại Việt Nam.14 Trường hợp thứ nhất ở khoản 1 khi quy định của điều
ước quốc tế xung đột/khác với quy định của pháp luật Việt Nam về cùng một vấn đề
thì áp dụng quy định điều ước quốc tế. Trường hợp thứ hai là khi có quyết định cho
phép áp dụng trực tiếp của Quốc hội, Chủ tịch nước hay Chính phủ khi thể hiện sự
đồng ý chịu ràng buộc bởi một điều ước quốc tế. Dưới đây là một số các điều ước
quốc tế mà quyết định của Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ đồng ý chịu ràng
buộc bởi một điều ước quốc tế, cho phép áp dụng trực tiếp. Năm
Điều ước quốc tế 2020
Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (IVIPA)
– Áp dụng trực tiếp một phần (xem
Điều 2, Nghị quyết số
103/2020/QH104 của Quốc hội ngày 08 tháng 6 năm 2020).
Ghi chú: Áp dụng trực tiếp toàn bộ nội dung của Hiệp định, trừ các khoản
2, 3, 4 và 5 Điều 3.57 Chương 3 của Hiệp định này.
14 Xem thêm Trần Hữu Duy Minh, Hiệu lực pháp lí và việc áp dụng điều ước quốc tế ở Việt Nam, Tạp
chí Luật học, số 3(189), tháng 3 năm 2016, tr. 38 – 46. 22 2020
Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu
(EVFTA) – Áp dụng trực tiếp một phần và có điều kiện (xem Điều 2, Nghị
quyết số 102/2020/QH14 của Quốc hội ngày 08 tháng 6 năm 2020). Ghi
chú: Áp dụng trực tiếp các quy định của Hiệp định tại Phụ lục 2 kèm
theo Nghị quyết này, và các quy định của Hiệp định tại Phụ lục 3 kèm theo Nghị quyết 2016
Công hàm thỏa thuận về cấp thị thực giữa Việt Nam và Hoa Kỳ năm 2016
– Áp dụng trực tiếp toàn bộ (xem
Điều 2, Nghị quyết số 135/2016/QH13
của Quốc hội ngày 9 tháng 04 năm 2016). - Nội luật hóa
“Nội luật hóa điều ước quốc tế” hay “chuyển hóa điều ước quốc tế” được hiểu
là chuyển hóa các điều ước quốc tế thành quy phạm pháp luật trong nước và thi
hành các điều ước quốc tế đó trên cơ sở các quy phạm pháp luật trong nước vốn là
quy phạm của điều ước quốc tế. Việc nội luật hóa thể hiện qua phương thức sau:
+ Sửa đổi, bổ sung, ban hành pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện điều ước
quốc tế. Theo quy định tại khoản 10 Điều 14 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế năm 2005, cơ quan đề xuất ký kết có trách nhiệm kiến nghị về việc áp
dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế hoặc sửa đổi, bổ sung, bãi
bỏ, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế
+ Tiến hành chuyển hoá quy phạm của điều ước quốc tế vào pháp luật trong
nước. Nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mật thiết đến vấn đề chuyển
hoá (nội luật hoá) các điều ước quốc tế vào pháp luật trong nước. Mục đích cơ bản
của vấn đề chuyển hoá là bảo đảm thuận lợi cho việc thực hiện các điều ước quốc tế.
Việt Nam luôn khẳng định vai trò quan trọng của điều ước quốc tế, điều này
thể hiện ở nhiều hành động, có thể kể đến như tích cực tổ chức và tham gia vào các
dự án tăng cường hiệu quả thực thi điều ước quốc tế; không ngừng tuyên truyền và
phổ biến các điều ước quốc tế và vai trò cũng như nghĩa vụ phải nghiêm chỉnh thực 23
thi các điều ước quốc tế đến cá nhân, tổ chức đặc biệt là chủ thể tham gia trực tiếp
vào việc thực thi các điều ước quốc tế. KẾT LUẬN
Hình thức pháp luật (hay còn gọi là nguồn pháp luật) là biểu hiện ra bên
ngoài của pháp luật, là phương thức tồn tại của pháp luật và cách thức thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị. Các loại hình thức pháp luật đã tồn tại trong xã hội như tập
quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế, …. Tuy
nhiên văn bản quy phạm pháp luật là hình thức áp dụng rộng rãi và tiến bộ nhất hiện
nay, thể hiện đầy đủ ý chí quan điểm của nhà nước, mỗi văn bản có tên gọi chứa
đựng nội dung và hiệu lực pháp lý riêng biệt. Bên cạnh đó, sự đa dạng các hình thức
pháp luật làm căn cứ trong xử lý các tình huống pháp lý khiến cho đời sống pháp luật phong phú hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng việt
1. Nguyễn Thị Huế (2017) chủ biên, Giáo trình Đại cương về Nhà nước và pháp luật, NXB ĐHKTQD
2. PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế (2005) chủ biên, Giáo trình Lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (trang 303).
3. Hoàng Văn Đoàn, Mai Văn Thắng (2018), Ảnh hưởng của Pháp luật phương
Tây đến Pháp luật Nhật Bản, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 34, Số 3 (2018) 60-70 (trang 61)
4. Giáo trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND, Hà Nội, 2008
5. Khoản 1 điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
6. Đoàn Thị Tố Uyên, Bàn về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật, Tạp chí Luật học số 4, 2002.
7. Quyết định số 33/2008/QĐ-BYT của Bộ Y tế về việc ban hành Tiêu chuẩn sức
khỏe của người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
8. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015
9. Công ước Viên năm 1986, Điều 6
10. Tờ trình của Chính phủ gửi Quốc hội về dự án Luật Ký kết, gia nhập và thực
hiện điều ước quốc tế (sửa đổi), số 573/TTr-CP, ngày 26/10/2015. 24
11. Xem thêm Trần Hữu Duy Minh, Hiệu lực pháp lí và việc áp dụng điều ước quốc
tế ở Việt Nam Tạp chí Luật học ,
, số 3(189), tháng 3 năm 2016, tr. 38 – 46 Tài liệu tiếng anh
1. Công ước Viên năm 1969, Điều 3; Công ước Viên năm 1986, Điều 3. Xem thêm
“Thoả thuận bằng lời nói”/ “Oral agreement” trong Anthony Aust, Modern
Treaty Law and Practice (Cambridge University Press 2002) Tài liệu Internet
1. PV (2018), Luật an ninh mạng: Sự cần thiết, mục đích, ý nghĩa và nội dung cơ
bản, https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/201806/luat-an-ninh-mang-su-can-
thiet-muc-dich-y-nghia-va-noi-dung-co-ban-304109/, thứ sáu 22/06/2018, 15:43 [GMT +7].
2. Wikipedia, Tiền lệ pháp, https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%81n_l %E1%BB%87_ph%C3%A1p
3. Tiến sĩ Trần Công Trục (2016), Tìm hiểu vụ Philippines kiện Trung Quốc và
Phán quyết của PCA, https://vov.vn/the-gioi/ho-so/tim-hieu-vu-philippines-kien-
trung-quoc-va-phan-quyet-cua-pca-531292.vov, thứ Hai, 6:30, 18/07/2016.
4. Wikipedia, Luật pháp Trung Quốc https://vi.wikipedia.org/wiki/Lu%E1%BA
%ADt_ph%C3%A1p_Trung_Qu%E1%BB%91c
5. Wikipedia, Luật pháp Nhật Bản https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA %ADt_B%E1%BA%A3n
6. Luật Minh Khuê (2021), Một số vấn đề về luật pháp nước Pháp,
https://luatminhkhue.vn/mot-so-van-de-phap-ly-ve-nuoc-phap-bo-may-nha-
nuoc-he-thong-phap-luat.aspx, 07/08/2021
7. Luật Dương Gia, Sự phát triển của hệ thống pháp luật Mỹ
https://luatduonggia.vn/su-phat-trien-cua-he-thong-phap-luat-my/ 10/02/2021 25 PHỤ LỤC Phân chia nội dung: Họ và tên sinh viên Mã sinh Nội dung chuẩn bị viên Vũ Thị Thanh Tâm 11218215
Khái niệm, đặc điểm và các
loại hình thức pháp luật. NguyễnTrươngNhậtHuy 11212627
Nguồn pháp luật của một số nước. Phạm Thị Phương Quỳnh 11218211
Khái niệm đặc điểm, nguyên
tắc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Nguyễn Thị Thanh Thảo 11218219
Hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật. Hà Thị Mai Phương 11218207 Điều ước quốc tế. 26