Bài tiểu luận môn pháp luật đại cương chuyên đề pháp luật về luật thừa kế | Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Trong bất kỳ hệ thống xã hội định hướng giai cấp nào, vấn đề thừa kếcũng chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật và là hình thức pháp lý chủ yếu để bảo vệ quyền lợi của công dân và xã hội. Mỗi quốc gia, dù có khuynh hướng chính trị khác nhau, đều coi thừa kế là quyền cơ bản của công dân và được ghi nhận và ghi nhận trong hiến pháp.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 46672053
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC XÃ HỘI
NGHÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
CHUYÊN ĐỀ:
PHÁP LUẬT VỀ LUẬT THỪA KẾ
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Bích Hồng
Lớp : MT26.01
Mã sinh viên : 2621231279
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Văn Hoan
Hà Nội, ngày 17 tháng 12 năm 2021
...................................................................
MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU...................................................................................................4
1.Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................................4
2.Mục đích nghiên cứu..............................................................................................5
3.Đối tượng nghiên cứu.............................................................................................5
lOMoARcPSD| 46672053
4.Phạm vi nghiên cứu................................................................................................5
5.Cơ cấu bài tiểu luận................................................................................................6
PHẦN 2: NỘI DUNG...............................................................................................7
CHƯƠNG I: MỘT SỐ QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM................................................................................................................7
I.Các Khái Niệm........................................................................................................7
1.Khái niệm thừa kế...................................................................................................7
2.Khái niệm quyền thừa kế........................................................................................7
II.Một Số Quy Định Chung Về Thừa Kế..................................................................7
1.Người để lại di sản thừa kế.....................................................................................7
2.Di sản thừa kế:........................................................................................................7
3.Người thừa kế:........................................................................................................7
4 .Thời điểm,địa điểm mở thừa kế..............................................................................
7
4.1 Thời điểm mở thừa kế:........................................................................................7
4.2 Địa điểm mở thừa kế:..........................................................................................7
5 .Người quản lý di sản,nghĩa vụ và quyền của người quản lý di sản........................
8
5.1.Người quản lý di sản............................................................................................8
5.2 .Nghĩa vụ của người quản lý di sản......................................................................
8
5.3 .Quyền của người quản lý di sản..........................................................................
9
6 .Thời hiệu khởi kiện về thừa kế...............................................................................
9
7.Các hình thức thừa kế.............................................................................................9
7.1. Thừa kế theo di chúc.........................................................................................9
7.2 Thừa kế theo pháp luật.....................................................................................10
7.2.1. Hình thức thừa kế theo hàng thừa kế được áp dụng trong những trường
hợp:..........................................................................................................................11
lOMoARcPSD| 46672053
7.2.2 . Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản
:............11
7.2.3. Những người thừa kế theo pháp luật ( hàng thừa kế) được qui định thứ tự
như sau:....................................................................................................................11
7.3 . Di tặng và từ chối nhận di sản..........................................................................
12
7.4 .Những người không được quyền hưởng di sản.................................................
13
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THỪA KẾ VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ…14
I. Thực trạng về những quy định của pháp luật về thừa kế.....................................14
1. Nhiều quy định của pháp luật còn mâu thuẫn..................................................... 14
2. Pháp luật còn nhiều vướng mắc.......................................................................... 15
3 .Một số vấn đề trong thực tiễn giải quyết tranh chấp............................................
17
II. Những giải pháp hoàn thiện chế định thừa kế....................................................18
1.Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật có thể được sử
dụng trong Tư pháp quốc tế Việt Nam....................................................................18
1.1 . Giải pháp hoàn thiện bằng cách khai thác những quy phạm xung đột đã tồn tại
.................................................................................................................................18
1.2 . Giải pháp hoàn thiện bằng cách thiết lập quy phạm xung đột mới..................
19
1.2.1 . Không phân biệt di sản là động sản hay bất động sản......,,,,........................
19
1.2.2 . Phân biệt di sản là động sản hay bất động sản..............................................
20 2 .Một số giải pháp khác nhằm hoàn thiện chế định thừa
kế................................... 21
PHẦN 3: KẾT LUẬN.............................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................23
lOMoARcPSD| 46672053
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1 .Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kỳ hệ thống xã hội định hướng giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng
chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật và là hình thức pháp lý ch
yếu để bảo vệ quyền lợi của công dân và xã hội. Mỗi quốc gia, dù có khuynh
hướng chính trị khác nhau, đều coi thừa kế là quyền cơ bản của công dân và được
ghi nhận và ghi nhận trong hiến pháp.
Việt Nam đã sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của thừa kế, trong
giai đoạn đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa, các quy định về thừa kế tại Điều 19 Hiến
pháp năm 1959 của Nhà nước đã được xây dựng và thực hiện nhằm bảo hộ công
n. 'Quyền thừa kế tài sản riêng. "Điều 27 đHiến pháp 1980" Nhà nước bảo hộ
quyền thừa kế tài sản của công dân ", Điều 58 Hiến pháp 1992" Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế dân sự "... Bộ luật Dân sự năm 1995, và
sau đó là Bộ luật Dân sự của Năm 2005, đánh dấu nền pháp luật Việt Nam nói
chung, đặc biệt là luật thừa kế, là một giai đoạn phát triển. Bộ luật dân sự năm
2005 được coi là kết quả quan trọng của quá trình pháp điển hóa luật thừa kế, và
bảo vệ cuộc sống của mọi người một cách hiệu quả nhất.
Nhưng trên thực tế, do đời sống kinh tế xã hội của đất nước phát triển nhanh
chóng, pháp luật thừa kế hiện hành không thể lường trước được tất cả các trường
hợp, tình huống xảy ra trên thế giới. Một số quy định của pháp luật về thừa kế còn
chung chung, chưa rõ ràng, chưa có văn bản hướng dẫn từng vấn đề cụ thể nên còn
nhiều ý kiến phản đối nên không thống nhất trong thực tiễn. Vì vậy,còn nhiều quan
điểm trái ngược nhau, nên khi áp dụng vào thực tế xảy ra tình trạng không nhất
quán trong cách hiểu cũng như cách giải quyết. Điều này vi phạm quyền thừa kế
của công dân và nhiều khi dẫn đến những bất ổn trong đời sống hàng ngày của mỗi
gia đình, cộng đồng và xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng kinh tế thị trường và xây dựng đất nước
pháp quyền, vấn đề tài sản tư nhân ngày càng trở nên phong phú, đồng thời nảy
sinh nhiều tranh chấp phức tạp từ thừa kế. Hàng nghìn vụ án thừa kế đã được giải
quyết, nhiều vụ tranh chấp thừa kế phải trải qua nhiều lần xét xử nhưng tỷ lệ kết án
không cao, các bản án của Tòa án vẫn bị coi là chưa “thấu tình đạt lý”, những
nguyên nhân bất cập này là biểu hiện của pháp luật về thừa kế chưa đồng bộ, cụ
1
thể.
Chính vì điều đó, nên trong thời gian gần đây nhiều Văn kiện của Đảng như
Nghịquyết 48 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm
2011, Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu, sự cần thiết phải
hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đổi mới, trong đó có pháp luật và thừa
kế.
lOMoARcPSD| 46672053
1
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề: “Pháp luật về thừa kế ” để làm đề
tài tiểu luận. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng cấp bách cả về phương diện lý
luậncũng như thực tiễn.
2 .Mục đích nghiên cứu
Tôi xác định chọn đề tài này cũng dựa trên cơ sở có những mục đích nghiên
cứurõ ràng như quy định về người để lại di sản thừa kế, người thừa kế, thời
điểm,thời gianmở thừa kế, di sản thừa kế,người quản lý di sản và những điểm mới
trong chế định thừa kế. Sự thừa kế, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác là một
quy luật khách quan, nhưng các quan hệ thừa kế ở mỗi chế độ xã hội được giải
quyết như thế nào là do chủ quan con người quyết định. Quyền sở hữu cá nhân là
cơ sở khách quan của việcthừa kế.Vì vậy quyền thừa kế trong điều kiện của nước ta
hiện nay được thể hiện như một phương tiện để củng cố sở hữu của công dân,cũng
cố quan hệ hôn nhân và gia đình,bảo vệ lợi ích của những người chưa thành niên
hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Pháp luật của nước ta bảo
vệ những lợi ích cơ bản của mỗi người lao động trên cơ sở bảo vệ lợi ích của nhà
nước,lợi ích chung của toàn xã hội ,góp phần xóa bỏ những tàn tích của chế độ
phong kiến để lại.Tạo môi trường pháp lý thuận lợi làm cho nhân dân lao động yên
tâm sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội.Quyền thừa kế xuất phát từ
quan điểm xem gia đình là tế bào của xã hội, phải đảm bảo quyền lợi chính đáng
của mỗi thành viên và sự ổn định của từng gia đình. Mặc khác thông qua quyền
thừa kế,giáo dục tinh thần trách nhiệm của mỗi thành viên đối với gia đình. Do đó
xácđịnh được diện những người thừa kế cũng như phương thức chia tài sản trong
pháp luậtvề thừa kế có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các chức năng vai
trò của xã hội.
3 .Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng của thừa kế là các tài sản, quyền tài sản thuộc quyền của người đã
chết để lại (trong đó một số trường hợp người để lại di sản có thể chỉ là hoa lợi
tức,phát sinhtừ tài sản). Tuy nhiên ,một số quyền tài sản gắn liền với nhân thân đã
chết không thể chuyển cho những người thừa kế (tiền cấp dưỡng) vì pháp luật quy
định chỉ có người đó mới có quyền hưởng.
4 .Phạm vi nghiên cứu.
Việc nghiên cứu đề tài này được xác định trong phạm vi các quy phạm pháp
luậtvề thừa kế ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Nhưng đặc biệt tập trung
nghiên cứu các quy phạm pháp luật về thừa kế từ năm 1996 đến nay. Qua đó chúng
ta có thể so sánh đối chiếu với những quy định pháp luật trước khi Bộ luật dân sự
được ban hành để làm nổi bật tính hiện đại của những quy định về thừa kế và thực
tiễn áp dụng chúng trongquá trình thực thi pháp luật.
5 .Cơ cấu bài tiểu luận.
lOMoARcPSD| 46672053
Bài tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Một số quy định chung về thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng những quy định của pháp luật về thừa kế và những giải
pháp hoàn thiện chế định thừa kế.
LỜI KẾT:
Để giải quyết vấn đề đặt ra không những phải có kiến thức, năng lực mà còn
phải có kinh nghiệm thực tế. Mặc dù đã rất cố gắng nghiên cứu nhưng do trình độ
và kinh nghiệm còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót.Vì vậy tôi rất
mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn.
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP
LUẬTVIỆT NAM
lOMoARcPSD| 46672053
I.Các Khái Niệm
1 .Khái niệm thừa kế
- Thừa kế là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho những người còn sống.
2 .Khái niệm quyền thừa kế
- Theo nghĩa khách quan: Là một phạm trù pháp lý bao gồm các quy phạm
pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống
theo di chúchoặc theo trình tự do pháp luật quy định.
- Theo nghĩa chủ quan: Là các quyền năng dân sự cụ thể của các chủ thể có
liên quan đến quan hệ thừa kế.
II.Một Số Quy Định Chung Về Thừa Kế.
1.Người để lại di sản thừa kế: là người mà sau khi chết có tài sản để lại cho
người khác theo trình tự thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
2.Di sản thừa kế: ( theo khoản 1 điều 637- Bộ luật Dân Sự )
- Di sản thừa kế bao gồm: tài sản riêng,phần tài sản của người chết trong tài
sản chung với người khác, quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để
lại thừa kế.
- Tài sản riêng tức là những tài sản thuộc phần sở hữu riêng của người chết
đứng tên lúc còn sống. Tài sản chung với người khác là phần tài sản do lúc còn
sống người chết đã đồng tạo ra cùng chung với một người khác, thì lúc chết phần
tài sản đó cũng được đưa vào di sản của người chết.
3.Người thừa kế:
- Nếu là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh
ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại
di sản chết. Nếu là tổ chức thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
- Người thừa kế nhận di sản của người chết thì phải thực hiện những nghĩa vụ
tài sản của người chết để lại.
4 .Thời điểm,địa điểm mở thừa kế
4.1 Thời điểm mở thừa kế:
Là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người
là đã chết thì tùy từng trường hợp, Tòa án xác định ngày chết của người đó; nếu
không xác định được ngày chết thì ngày mà quyết định của Tòa án tuyên bố người
đó là đã chết có hiệu luật pháp luật được coi là ngày người đó chết và thời điểm mở
thừa kế là ngày này.
4.2 Địa điểm mở thừa kế:
lOMoARcPSD| 46672053
Là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, nếu không xác định được nơi cư
trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản.
5 .Người quản lý di sản, nghĩa vụ và quyền của người quản lý di sản
5.1 .Người quản lý di sản ( chương XXII điều 638- Bộ luật dân sự )
- Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những
người thừa kế thỏa thuận cử ra.
- Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những
người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử
dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử
được người quản lý di sản.
- Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người
quản lý thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
5.2.Nghĩa vụ của người quản lý di sản
*.Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và 3 điều 638 -Bộ luật dân sự có các
nghĩa vụ sau:
- Lập danh mục di sản,thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người
khácđang chiếm hữu,trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Bảo quản di sản,không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và
định đoạt tài sản bằng các hình thức khác, nếu không được người thừa kế đồng ý
bằng văn bản.
- Thông báo về di sản cho những người thừa kế.
- Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại.
- Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.
*.Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 điều
638Bộ luật dân sự có nghĩa vụ sau:
- Bảo quản di sản, không được n, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và
định đoạt tài sản bằng các hình thức khác.
- Thông báo về di sản cho người thừa kế.
- Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại.
- Giao lại di sản theo thoải thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc
theo yêu cầu của người thừa kế.
5.3.Quyền của người quản lý di sản
lOMoARcPSD| 46672053
*.Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và 3 điều 638- Bộ luật dân sự có các
quyền sau:
- Đại diện cho người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di
sản thừa kế.
- Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.
*.Người đang chiếm hữu,sử dụng,quản lý di sản quy định tại khoản 2 điều
638Bộ luậtdân sự có quyền sau:
- Được tiếp tục sử dụng di sản theo thoải thuận trong hợp đồng với người để lại
di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế.
- Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.
6 .Thời hiệu khởi kiện về thừa kế ( chương XXII điều 645-Bộ luật dân sự )
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa
kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời
điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
7 .Các hình thức thừa kế.
7.1. Thừa kế theo di chúc: ( chương XXIII điều 646 đến 673-Bộ luật dân sự)
Di sản của những người đã chết được chuyển cho những người thừa kế theo
dichúc người chết để lại. Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài
sản của mình cho người khác sau khi chết. Người đã thành niên có quyền lập di
chúc,trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không
thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Người lập di chúc có các quyền: chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di
sản của người thừa kế, phân định phần di sản cho từng người thừa kế, dành một
phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng, giao nghĩa vụ cho người thừa kế
trong phạm vi di sản, chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân
chia di sản.
Di chúc phải được lập thành văn bản, nếu không thể lập được di chúc bằng văn
bản, thì có thể di chúc miệng. Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc
bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình. Trong trường hợp tính mạng một
người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập
di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Di chúc miệng được coi là hợp
pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất
hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký
lOMoARcPSD| 46672053
tên hoặc điểm chỉ. Sau 3 tháng, kể từthời điểm lập di chúc miệng mà người lập di
chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc miệng bị hủy bỏ.
- Di chúc được coi là hợp pháp nếu:
Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị
lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép.
Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội, hình thức di chúc
không trái quy định của pháp luật. Nội dung của di chúc được quy định
tại điều 656 Bộ luật dân sự. Trong trường hợp người lập di chúc không
thể tự mình viết bản di chúc, thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải
có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm
chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng, những người làm
chứng xác nhận chữ ký ,điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di
chúc. Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng nhà nước chứngnhận
hoặc ủy ban nhân dân xã, phường,thị trấn chứng thực bản di chúc. Di
chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế.
- Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu
khác nhau, thì người công bố di chúc và những người thừa kế phải cùng nhau
giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người
chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di
chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc, thì
coi như không có di chúc và di sản được thừa kếtheo pháp luật.
7.2 Thừa kế theo pháp luật ( chương XXIV- điều 674 đến 680 Bộ luật dân sự )
7.2.1. Hình thức thừa kế theo hàng thừa kế được áp dụng trong những trường
hợp:
- Người chết không để lại di chúc.
- Di chúc không hợp pháp.
- Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng một thời
điểm với người lập di chúc, cơ quan được hưởng thừa kế theo di chúc không
còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
- Những người được chỉ định là người thừa kế theo di chúc mà không có quyền
hưởng di sản hoặc từ chối hưởng quyền di sản.
7.2.2 . Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản :
- Phần di sản không được định đoạt trong di chúc.
- Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực.
- Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không
có quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản, chết trước hoặc chết cùng
lOMoARcPSD| 46672053
thời điểm với người lập di chúc, liên quan đến cơ quan tổ chức được hưởng di
sản theo di chúc nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.
7.2.3 . Những người thừa kế theo pháp luật ( hàng thừa kế) được qui định thứ tự
như sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
để, con nuôi của người chết.
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em
ruột, cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại.
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột,
cô ruột ,cậu ruột, dì ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người
chết là bác ruột, chú ruột,cô ruột, cậu ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà
người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di chúc bằng
nhau.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng nếu không còn ai ở
hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản,bị truất
quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
- Thừa kế thế vị pháp luật quy định: Trong trường hợp con của người để lại di
sản chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống, nếu cháu
cũng chết trước hoặc cùngthời điểm với người để lại di sản thì chắt được
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ củachắt được hưởng nếu còn sống.
VÍ DỤ MINH HỌA:
Tình huống 1:
Khi còn sống bố mẹ A phân chia đất đai cho các em A đâu vào đấy và ngôi
nhà bố mẹ A ở trước khi qua đời,bố mẹ A di chúc lại để cho A là trai cả để làm
nơi thờ cúng và nuôi dưỡng đứa em út bị tâm thần từ bé. Nay anh em A nảy
sinh mâu thuẫn, các em Ađặt vấn đề đất ( phần của bố mẹ) và nhà là của
chung, chỉ giao cho A quản lý không có quyền thừa kế. Tài sản trong nhà
không có trong di chúc ( tivi, tủ, quạt, thóc, lúa…) là của chung. Xin hỏi những
ý kến của các em A có đúng không? Việc này giải quyết như thế nào?
Về pháp luật căn cứ vào những câu chữ ghi lại trong di chúc thì A là người
được quản lý di sản theo di chúc và được hưởng thù lao theo thoải thuận với
những người được thừa kế. Mặc khác theo điều 670 bộ luật dân sự,phần di sản
theo di chúc dùng vào việc thờ cúng thì không được chia thừa kế và được giao
cho một người khác đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc
thờ cúng (chính là A). Các tài sản khác thuộc di sản thừa kế không ghi trong di
lOMoARcPSD| 46672053
chúc thì được chia thừa kế theo pháp luật. Tuy vậy, theo di chúc để lại thì phần
nhà đất ghi trong di chúc được để cho A lo liệu cuộc sống, trông nom mồ mả tổ
tiên, chăm sóc đứa em bị tật. Nếu nội dung di chúc không rõ ràng cần thỏa
thuận giải thích nội dung giữa những người thừa kế dựa trên ý nguyện đích
thực của những người đã khuất.
Tình huống 2:
Anh cả ông B chết cách đây 5 năm. Anh của ông không có con trai chỉ có 2
đứa con gái đã đi lấy chồng. Năm ngoái cha ông mất nhưng không để lại di
chúc. Nay anh em ông muốn chia thừa kế phần tài sản của cha để lại cho con
cháu nhưng mà bà chị dâu không chấp nhận đòi giữ tài sản, vì khi còn sống
cha ông ở với anh cả. Hỏi bà chị dâu có quyền như vậy không?
Theo điều 676 thì con dâu không được quyền thừa kế của cha mẹ chồng. Di
sản củangười đã khuất phải được chia theo pháp luật nếu không có di chúc.
Vậy anh em của ông B đều được hưởng một phần bằng nhau số di sản thừa kế
do cha mẹ để lại. Riêng ông anh cả đã chết theo điều 677 thì trong trường hợp,
con của người để lại di sản đã chết trước người để lại di sản thì cháu được
hưởng một phần mà cha mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống. Theo qui định
thì 2 đứa con gái của ông anh c sẽ được hưởng một phần di sản thừa kế.
7.3 . Di tặng và từ chối nhận di sản
Di tặng:
- Di tặng là trường hợp khác của di chúc, là việc người lập di chúc dành
một phần di sản để tặng người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di
chúc.
- Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với
phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa
vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện
phần nghĩa vụ còn lại của người này.
Từ chối nhận di sản:
Về việc từ chối nhận di sản pháp luật quy định như sau: Người thừa kế có
quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc
thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Khi từ chối nhận di
sản, người thừa kế phải lập thành văn bản và phải báo cho những người thừa kế
khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, công chứng nhà nước hoặc
UBND cấp xã nơi mở thừa kế biết về việc từ chối nhận di sản. Tuy nhiên người
thừa kế chỉ có quyền từ chối nhận di sản trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày mở
thừa kế (tức là ngày người có tài sản chết hoặc là ngày tòa án tuyên bố người
để lại di sản là đã chết)
7.4 .Những người không được quyền hưởng di sản
lOMoARcPSD| 46672053
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc
về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế
khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có
quyền hưởng.
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sữa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Những người này vẫn được hưởng di sản thừa kế nếu người để lại di
sản đã biết các hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng di sản
theo di chúc.
Tài sản không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước trong trường
hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có những
không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau
khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế sẽ
thuộc Nhà nước.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ THỪA KẾ VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH
THỪA KẾ.
I. Thực trạng về những quy định của pháp luật về thừa kế.
1 . Nhiều quy định của pháp luật còn mâu thuẫn.
Hiện nay trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật xảy ra tình
trạng các luật quy định cùng một nội dung giống nhau nhưng lại không thống
nhất với nhau. Việc không thống nhất giữa quy định của pháp luật dẫn đến k
khăn khi vận dụng vào thức tiễn.
Ví Dụ: Khoản 1 điều 651 và khoản 5 điều 652 Bộ luật dân sự quy định về
hình thức di chúc miệng như sau: “trong trường hợp tính mạng của một người
bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di
chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Và “di chúc miệng được coi là hợp
pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít
lOMoARcPSD| 46672053
nhất hai người làm chứng và ngay sau đó người làm chứng ghi chép lại, cùng
ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày kể từ ngày người di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng”.
Như vậy, theo quy định thì di chúc miệng chỉ được lập trong hoàn cảnh hết
sức đặc biệt, đó là tính mạng của người để lại di chúc bị đe dọa, được hiểu là
người di chúc không còn khả năng hoặc không thể lập di chúc bằng văn bản.
nếu sau thời gian pháp luật quy định mà người lập di chúc còn sống minh
mẫn thì di chúc miệng đó mặc nhiên vô hiệu. Di chúc miệng phải trước ít nhất
hai người làm chứng và những lời di chúc sẽ được ghi chép lại và công chứng
trong thời hạn năm ngày, sau thời hạn này thì coi như không hợp pháp. Tuy
nhiên Luật Công chứng được Quốc hội thông qua ngày 29.11.2006 có hiệu lực
thi hành ngày 1.7.2007 quy định rất cụ thể về thủ tục công chứng. Điều 48 luật
này quy định về công chứng di chúc thì người lập di chúc phải tự mình yêu cầu
công chứng di chúc, không ủy quyền cho người khác công chứng di chúc. Quy
định này chỉ đúng với trường hợp thực hiện công chứng đối với di chúc được
lập thành văn bản. Còn đối với di chúc miệng thì người lập di chúc không thể
tự yêu cầu cống chứng được trong khi tính mạng bị đe dọa. Như vậy có thể
thấy rằng với quy định trên Luật công chứng đã phủ nhận hoàn toàn tính hợp
pháp của loại hình di chúc miệng.
Từ phân tích trên cho thấy, giữa các luật quy định cùng một nội dung đã xảy
ra những sự mâu thuẫn với nhau. Chính sự mâu thuẫn này đã dẫn đến tình trạng
vô hiệu hóa các quy định của pháp luật trong các luật khác nhau, gây ra tình
trạng khó áp dụng trong thực tiễn những quy định của pháp luật. Đây là vấn đề
cần được xem xét kỹ lưỡng trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật để bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật hiện
nay.
2 . Pháp luật còn nhiều vướng mắc
Việc áp dụng chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự 2005 trong thực tiễn vẫn
còn nhiều vấn đề gây tranh cãi như sau:
Người thừa kế: Pháp luật dân sự ghi nhận quyền thừa kế cá nhân,tổ chức.
Điều 638 Bộ luật dân sự quy định:
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống o thời điểm mở
thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã
hình thành thai trước thời điểm người để lại di sản chết.
Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức, thì
phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Tất nhiên, người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân,còn người thừa
kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Vấn đề dặt ra cần làm rõ là:
lOMoARcPSD| 46672053
Thứ nhất: Hiểu thế nào về “người còn sống vào thời điểm thừa kế” đặc biệt
trong trường hợp những người thừa kế chết mà không xác định ai chết trước, ai
chết sau. Thực tế chỉ ra rằng, có nhiều trường hợp những người có quyền thừa
kế di sản của nhau chết cách nhau một khoảng thời gian rất ngắn, vụ việc tranh
chấp thừa kế một thời gian dài sau đó mới phát sinh, do vậy việc xác minh thời
điểm chết của từng người rất khó khăn, tạo phức tạp trong quá trình giải quyết
vụ án (có lẽ trường hợp này căn cứ pháp lý duy nhất là giấy chứng tử nhưng
trong nhiều trường hợp giấy chứng tử không ghi cụ thểgiờ,phút chết của cá
nhân)
Thứ hai: Điều luật cho phép người đã thành thai trước thời điểm mở thừa kế
nhưng sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế vẫn có quyền thừa kế tài
sản. Vấn đề ở chỗtrường hợp nào được coi là sinh ra và còn sống? Đứa trẻ ra
đời có thể chỉ sống được 30 phút, 01 giờ, 24 giờ, 7 ngày sau đó mới chết. Việc
xác định khi nào đứa trẻ đó được coi là người thừa kế có ảnh hưởng rất lớn đối
với tỷ phần thừa kế của người khác. Điều luật chưa có quy định cụ thể về vấn
đề này nên có nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng. Theo tôi nên
áp dụng Nghị định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch: đứa
trẻ sinh ra và còn sống được 24 giờ rồi chết thì phải khai sinh và khai tử để từ
đó xác định được thời gian được coi là sinh ra và còn sống của đứa trẻ (24
giờ).Tuy nhiên điều này phải cần được ghi rõ trong Bộ luật dân sự.
Thứ ba: Quyền thừa kế của các tổ chức (pháp nhân) đã sáp nhập, hợp nhất,
chia tách, giải thể,phá sản.
- Theo quy định của luật dân sự, các pháp nhân cùng loại có thể bị
chấm dứt khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách. Nhưng trong trường hợp pháp nhân
không chấm dứt tuyệt đối mà quyền và nghĩa vụ của nó được chuyển giao cho
các pháp nhân khác. Vậy nhữngpháp nhân này có được thừa kế không?
- Pháp nhân cũng có thể bị chấm dứt theo quy định về giải thể hoặc phá
sản. Lúc này pháp nhân chấm dứt tuyệt đối. Sau khi chấm dứt một thời gian
sau mới phát sinh vụ việc tranh chấp thừa kế mà pháp nhân đó được chỉ định là
người thừa kế và tại thời điểm mở thừa kế pháp nhân chưa bị giải thể hoặc p
sản thì ai, cơ quan nào sẽ thay mặt pháp nhân để nhận di sản hay khi này tài sản
được coi là vô chủ và thuộc về nhà nước. Mặt khác theo quy định của luật dân
sự, pháp nhân bị giải thể, vị tuyên bố phá sản có thể được thành lập lại theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vậy trường hợp pháp nhân đó
bị giải thể trước thời điểm mở thừa kế nhưng sau thời điểm mở thừa kê lại
được thành lập lại thì pháp nhân đó có được quyền thừa kế không?
- Từ chối nhận di sản :
Điều 645 Bộ luật dân sự quy định: Người thừa kế có quyền từ chối nhận di
sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản
của mình đốivới người khác. Khi từ chối nhận di sản, người thừa kế phải lập
lOMoARcPSD| 46672053
thành văn bản và phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao
nhiệm vụ phân chia di sản, công chứng nhà nước hoặc UBND cấp xã nơi m
thừa kế biết về việc từ chối nhận di sản. Tuy nhiên người thừa kế chỉ có quyền
từ chối nhận di sản trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngàymở thừa kế (tức là ngày
người có tài sản chết hoặc là ngày tòa án tuyên bố người để lại di sản là đã
chết). Quy định này đặt ra một số vấn đề:
Thứ nhất: Điều luật quy định người từ chối nhận di sản phải thông báo cho
một số người, cơ quan có liên quan. Vậy trong trường hợp người từ chối nhận
di sản đã thống báo nhưng không thông báo đủ cho những người này ( ví dụ:
chỉ thông báo cho những người thừa kế, không thông báo cho Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi mở thừa kế…), sau đó người này lại thay đổi ý kiến,
yêu cầu được nhận di sản thừa kế thì có cho phép hay không? Bộ luật dân sự
chưa quy định cụ thể vấn đề này.
Thứ hai: Thời hạn từ chối là 6 kể từ ngày mở thừa kế. Như vậy, theo tinh
thần của điều luật, nếu người thừa kế từ chối nhận di sản sau thời hạn trên thì
không chấp nhậnviệc từ chối đó.Vậy hậu quả pháp lý đối với phần thừa kế của
người đó được giải quyết như thế nào trong trường hợp họ nhất quyết từ chối
nhận di sản? Thêm nữa, trường hợp người thừa kế từ chối nhận di sản đúng
thời hạn trên, nhưng sau đó họ lại thay đổi ý kiến, xin nhận di sản thì giải quyết
như thế nào, chấp nhận hay không chấp nhận cho họ nhận di sản?
Đây là những vấn đề hết sức bức thiết cần phải sửa đổi bổ sung trong luật
dân sự. Theo quan điểm của tôi là: trong trường hợp di sản chưa chia thì cho
phép người từ chối nhận di sản có quyền thay đổi ý kiến, trường hợp di sản đã
phân chia thì để bảo vệ quyền lợicho những người thừa kế khác, thúc đẩy quan
hệ dân sự phát triển, thì không cho phépngười đã từ chối nhận di sản thay đổi ý
kiến.
3 .Một số vấn đề trong thực tiễn giải quyết tranh chấp
Sau khi Bộ luật Dân sự hiệu lực thi hành, số vụ tranh chấp thừa kế mà Tòa
án nhân dân các cấp thụ lý có phần giảm hơn trước. Theo số liệu thống kê thì:
- m 1998 toàn ngành thụ lý sơ thẩm 1055 vụ thừa kế, giải quyết 633
vụ, đình chỉ, tạm đình chỉ, cho rút đơn 249 vụ, chuyển cơ quan có thẩm quyền
34 vụ, hòa giải 112 vụ, xét xử 268 vụ. Thụ lý phúc thẩm toàn ngành 226 vụ,
giải quyết 153 vụ, giữ nguyên bản án sơ thẩm 54 vụ, sửa một phần bản án sơ
thẩm 46 vụ, sửa toàn bộ bản án 12 vụ, hủy án và đình chỉ 3 vụ, hủy để xét xử
lại 23 vụ, hủy chuyển vụ án sang cơ quan khác 3 vụ, còn lại là hình thức giải
quyết khác.
- m 1999 toàn ngành thụ lý sơ thẩm 2234 vụ thừa kế, giải quyết 1190
vụ, tạm đình chỉ, đình chỉ, cho rút đơn 390 vụ, chuyển cơ quan có thẩm quyền
78 vụ, hòa giải 235 vụ, xét xử 487 vụ.
lOMoARcPSD| 46672053
- m 2000 (theo số liệu tháng 9) toàn ngành thụ lý sơ thẩm 1438 vụ
thừa kế, giải quyết 917 vụ, tạm đình chỉ, đình chỉ, cho rút đơn 331 vụ, chuyển
cơ quan có thẩm quyền 52 vụ, hòa giải 133 vụ, xét xử 401 vụ.
Mặc dù vậy, nhưng do tính chất của các vụ án lại có phần ngày càng khó
khăn và phức tạp, phát sinh nhiều vấn đề mới, nhiều tranh cải hơn đã làm cho
các cơ quan tòa án khó giải quyết trọn vẹn hết tất cả. Mặc khác cũng do sự lơ là
làm ngơ của các tòa án đã làm cho các vụ tranh chấp ngày càng kéo dài. Chẳng
hạn như vụ tranh chấp thừa kế tại phường Tân Chánh Hiệp-quận 12-tp Hồ C
Minh đã phải hủy án nhiều lần để xét xử lại.Tranh chấp kéo dài từ năm 2004
đến nay, đã qua nhiều lần xét xử. Vụ việc cụ thể như sau:
Cụ Lê Văn Sáu và Cụ Trần Thị Hai có ba người con chung là ông Lê Văn
Lang, bà Lê Thị Lá, ông Lê Văn Ngọt. Năm 1949 cụ Sáu mất, cụ Hai được
người bà con cho mảnh đất 200m2. Năm 1963 cụ Hai xây dựng thành nhà
tường gạch ngói, nền xi măng, tọa lạc tại số 11/6 ấp Chánh, xã Tân Chánh
Hiệp, huyện Hóc Môn, nay là 11/6 tổ 41, khu phố 3, phường Tân Chánh Hiệp.
Năm 1999 bà Lá và ông Ngọt đồng ý giao cho con ông Lang là Lê Văn Minh ở
trông coi nhà đất nói trên. Năm 2001 cụ Hai mất, không để lại di chúc. Năm
2004 bắt đầu phát sinh tranh chấp căn nhà 11/6, khi anh Minh và vợ chồng
ông Lang bà Mát tiến hành làm thủ tục kê khai đăng ký nhà đất tại phường Tân
Chánh Hiệp để xin UBND quận 12 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nhưng giấy chứng nhận này có những điểm bất bình thường như: từ căn n
mang địa chỉ 11/6,tổ 41 lại được chuyển sang địa chỉ 5/6,tổ 39 (cách nhau
500m) ,nhà là tài sản thừa kế chung của 3 người nhưng lại đứng tên 1 người.
Sau đó ông Lang bán căn nhà trên cho vợ chồng ông Nguyễn Đăng Ánh và bà
Đỗ Thị Xuyến. Ngày 04/06/2004 bà Lá, ông Ngọt làm đơn đề nghị UBND
phường Tân Chánh Hiệp đình chỉ việc mua bán căn nhà trên. Nhưng không
hiểu sao tiến trình mua bán sang nhượng vẫn diễn ra bình thường? Quá bức
xúc, ngày 19/07/2004 bà Lá, ông Ngọt làm đơn khởi kiện tại TAND quận 12.
Việc tranh chấp đã được tòa sơ thẩm, phúc thẩm xét xử nhưng do có nhiều sai
sót, Tòa Dân sự (Tòa án Nhân dân tối cao) đã có quyết định giám đốc thẩm
hủy án và yêu cầu xét xử sơ thẩm lại. Ngày 02/12/2010, TAND quận 12 đã xét
xử sơ thẩm vụ án trên và ra bản án số313/2010/DS-ST. Theo đó, quyết định
chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn về việc chia thừa kế căn nhà 11/6.
Giao cho bà Lê Thị Lá toàn quyền sử dụng nhà đất số cũ 11/6, số mới 5/6 khu
phố 3, phường Tân Chánh Hiệp, có diện tích 239m2. Bà Lá có trách nhiệm
giao lại cho ông Lang ,ông Ngọt mỗi người 453.030.000 đồng. Bác yêu cầu
của ông Ánh và bà Xuyến,buộc ông Ánh bà xuyến trả căn nhà 5/6 cho các ông
bà Lang, Lá, Ngọt. Tuy nhiên do chưa đồng tình với bản án, vợ chồng ông Ánh
và bà Xuyến kháng cáo.
Dư luận mong chờ phiên tòa phúc thẩm của TAND Tp Hồ Chí Minh xét xử
thấu tình đạt lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
lOMoARcPSD| 46672053
II. Những giải pháp hoàn thiện chế định thừa kế.
1.Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật có thể
được sử dụng trong Tư pháp quốc tế Việt Nam.
1.1. Giải pháp hoàn thiện bằng cách khai thác những quy phạm xung đột đã
tồn tại.
Một trong những quy phạm xung đột đã tồn tại mà chúng ta có thể khai thác
là Điều 833 khoản 1, Bộ luật dân sự. Theo điều khoản này “việc xác lập, chấm
dứt quyền sở hữu, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo
pháp luật của nước nơi cótài sản đó, trừ trường hợp pháp luật nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quyđịnh khác”. Điều 833 khoản 1 không định
nghĩa thế nào là “việc xác lập” quyền sở hữuđối với tài sản. Trước sự chung
chung và trừu tượng này của Điều 833, khoản 1, thông qua việc giải thích pháp
luật, chúng ta có thể coi thừa kế theo pháp luật là một “việc xác lập” quyền sở
hữu đối với tài sản. Cách giải thích này có thể được chấp nhận vì theo Điều
176, khoản 5, Bộ luật dân sự “quyền sở hữu được xác lập với tài sản trong các
trường hợp sau đây […] được thừa kế tài sản”. Vậy thông qua việc giải thích
luật, chúng ta có thể hoàn thiện Tư pháp quốc tế nước ta về vấn đề xung đột
pháp luật về thừa kế theo pháp luật và nếu theo giải pháp này chúng ta có quy
phạm xung đột sau: Vấn đề thừa kế theo pháp luật được điều chỉnh bởi pháp
luật của nước nơi có tài sản. Đây cũnglà giải pháp được thừa nhận tại Mê-hicô,
Pa-na-ma, U-ru-goay và Vê--du-ê-la.
Để hiểu thêm về giải pháp này, tôi xin lấy một ví dụ minh hoạ: Năm 1975
anh T.V.B sang sống cùng gia đình tại Pháp và sau đó nhập quốc tịch Pháp.
Với sự mở của anh T.V.B về Việt Nam cư trú từ năm 1997. Do tai nạn, anh
T.V.B qua đời tại Việt Nam năm 2003 và để lại di sản bao gồm: một ngôi nhà
ở Pháp (di sản P), một căn hộ cùng một số động sản tại Hà Nội (di sản V và v),
một số động sản quý tại một ngân hàng Thụy Sĩ (di sản t) và mt số động sản
gửi chị gái đang làm ăn tại Đức (di sản d). Do không tự thoải thuận được với
nhau, con anh T.V.B quốc tịch Pháp và em trai anh T.V.B quốc tịch Việt Nam
yêu cầu tòa án đứng ra giải quyết.
Áp dụng giải pháp bằng cách giải thích pháp luật, chúng ta dẫn đến kết quả
sau: vấn đề thừa kế nêu trên được điều chỉnh bởi pháp luật nơi có tài sản, cụ thể
là di sản P được điều chỉnh bởi pháp luật Pháp, di sản t được điều chỉnh bởi
pháp luật Thụy Sĩ, di sản d được điều chỉnh bởi pháp luật Đức và di sản V, v
được điều chỉnh bởi pháp luậtViệt Nam. Ngoài giải pháp khai thác quy phạm
xung đột đã tồn tại bằng cách giải thích luật, để hoàn thiện. Tư pháp quốc tế
nước ta về vấn đề xung đột pháp luật về thừa kế, chúng ta có thể xây dựng
thêm quy phạm xung đột mới để điều chỉnh vấn đề này.
1.2 . Giải pháp hoàn thiện bằng cách thiết lập quy phạm xung đột mới
1.2.1 . Không phân biệt di sản là động sản hay bất động sản
lOMoARcPSD| 46672053
- Giải pháp thứ nhất là: chúng ta cho phép pháp luật của nước mà
người để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh vấn đề thừa kế. Đây là giải pháp
được thừa nhận tại An-ba-ni (trừ trường hợp khi di sản là bất động sản ở An-
ba-ni, Angiê-ri, Đức (nhưng luậ tĐức có thể được chọn để áp dụng khi di sản là
bất động sản ở Đức), Andora, Áo, Bun-ga-ri, Cuba, Ai Cập, Tây-ban- nha,
Phần Lan, Gha-na, Hy Lạp, Hung-ga-ri, In-đô--xi-a, I-ran, Ý, Nhật, Gioóc-
đa-ni, Li- băng, Ma-li, Ma-rốc, Mô-ri-ta-ni, Ni-giê-ri-a, Phi-líp-pin, Ba Lan, Bồ
Đào Nha, --gan, Xlo-va-ki, Thụy Điển, Xi-ri, Tiệp Khắc, Thổ Nhĩ Kỳ (trừ
trường hợp di sản là bất động sản ở Thổ Nhĩ Kỳ), Va-ti-căng, Nam Tư
(cũ)…Áp dụng giải pháp này vào ví dụ nêu trên, chúng ta có kết luận sau: Pháp
luật Pháp sẽ là pháp luật điều chỉnh vấn đề thừa kế vì người để lại thừa kế có
quốc tịch Pháp. Điều đó có nghĩa là pháp luật Pháp sẽ điều chỉnh di sản tại
Pháp cũng như di sản ở Đức, ở Thụy Sĩ và ở Việt Nam ngay cả đối với bất
động sản v.
- Giải pháp thứ hai là: chúng ta cho phép pháp luật của nước mà người
để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng điều chỉnh vấn đề thừa kế. Đây là giải
pháp được thừa nhận tại Ac-hen-ti-na, Bra-xin, Cô-xta Ri-ca (trừ trường hợp
đối với di sản là bất động sản ở Cô-xta Ri-ca), Chi lê, Cô-lôm- bia, Đan Mạch,
Ê-cuađo, En-Sa-va-đô, Ai-xlen, Na Uy,Pa-ra-goay (trừ trường hợp đối với di
sản là bất động sản ở Pa-ra-goay), Mông Cổ, Nga(trừ trường hợp đối với di sản
là bất động sản ở Nga), Thụy Sĩ. Áp dụng giải pháp này vào ví dụ nêu trên,
chúng ta có kết luận sau: Pháp luật Việt Nam là pháp luật điều chỉnh quan hệ
thừa kế vì người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng tại Việt Nam. Điều đó
có nghĩa là pháp luật Việt Nam sẽ điều chỉnh di sản V và v ở Việt Nam, di sản t
ở Thụy Sĩ, di sản d ở Đức và di sản P tại Pháp ngay cả khi di sản P là bất động
sản.
1.2.2 . Phân biệt di sản là động sản hay bất động sản
- Giải pháp thứ nhất là: chúng ta cho phép pháp luật của nước mà
người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng điều chỉnh di sản là động sản và
pháp luật của nước nơi có tài sản điều chỉnh di sản là bất động sản. Giải pháp
này được thừa nhận tại Nam Phi,Úc, Ba-ha-ma, Bỉ, Ca-na-da, Trung Phi, Trung
Quốc, Công-gô, Bờ biển Ngà, Mỹ, Pháp, Ga-bông, Ma-li, Ấn Độ, Ix-ra-en, Ai-
len, Luýchc-xăm-bua, Ma-đa-gát-xca, Ca--đô-ni,Anh, Xu-đăng, U-ru-goay...
Áp dụng giải pháp này vào ví dụ nêu trên, chúng ta có kết luận sau: Di sản là
bất động sản được điều chỉnh bởi pháp luật nơi có tài sản, cụ thể ở đây là di sản
P ở Pháp được điều chỉnh bởi pháp luật Pháp và di sản V ở Việt Nam được
điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam. Đối với di sản là động sản, pháp luật Việt
Nam là pháp luật điều chỉnh vì nơi cư trú cuối cùng của người để lại thừa kế là
Việt Nam, cụ thể là pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề thừa kế đối với di
sản d ở Đức, di sản t ở Thụy Sĩ và di sản v ở Việt Nam.
lOMoARcPSD| 46672053
- Giải pháp thứ hai là: chúng ta cho phép pháp luật của nước mà người
để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh thừa kế đối với di sản là động sản và
pháp luật nơi có tài sản để lại điều chỉnh vấn đề thừa kế đối với di sản là bất
động sản. Đây là giải pháp được thừa nhận tại Ca--run, Mô-na-cô, Thái Lan,
Ru-ma-ni…: Di sản là bất động sản được điều chỉnh bởi pháp luật nơi có tài
sản, cụ thể ở đây là di sản P ở Pháp được điều chỉnh bởi pháp luật Pháp và di
sản V ở Việt Nam được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam. Đối với di sản là
động sản, pháp luật Pháp là pháp luật điều chỉnh vì quốc tịch của người để lại
di sản là Pháp, cụ thể là pháp luật Pháp điều chỉnh vấn đề thừa kế đối với di sản
d ở Đức, di sản t ở Thụy Sĩ và di sản v ở Việt Nam.
2. Một số giải pháp khác nhằm hoàn thiện chế định thừa kế
2.1. Tôi cảm thấy Bộ luật Dân sự quy định có phần thiên về hướng dẫn
cách xử sự cho công dân, nhưng hầu hết các quy định trong phần thừa kế lại có
tính chất dứt khoát, đã vậy lại có những quy định chưa sát với tâm lý, tập quán
của người dân, trong khi người dân chưa hiểu biết về các quy định này, không
hành xử đầy đủ như luật yêu cầu về hình thức thể hiện văn bản. Dù nội dung là
đúng ý chí của họ; dẫn đến khó khăn khi áp dụng pháp luật, thậm chí có trường
hợp áp dụng theo thực tế cuộc sống, chứ không theo quy định của luật, ví dụ vấn
đề từ chối nhận di sản (Điều 645). Vì vậy khi quy định phải tính đến yếu tố tâm lý
và trình độ dân trí chung của người dân.
2.2. Cần quy định rõ một số loại quyền cũng thuộc di sản thừa kế ( ngoài
quyền sử dụng đất đã được quy định trong Bộ luật Dân sự thì còn có các quyền
khác như: quyền sử dụng nhà cho thuê…. Ở Việt Nam nhà nước đã chính thức
công nhận quyền chuyển nhượng,quyền sử dụng nhà cho thuê, nên quyền này đã
được chuyển hóa thành một giá trị nhất định). Vấn đề thừa kế tài sản của doanh
nghiệp tư nhân, cần quy định sao cho việc xử lý di sản không làm ảnh hưởng đến
hoạt động bình thường của doanh nghiệp.
2.3. Cần phải quy định rõ hơn nữa về chủ thể trong quan hệ thừa kế mà
người thừa kế là: cơ quan, tổ chức… (đặc biệt nếu là cơ quan, tổ chức nước
ngoài).Những điều quy định về người quản lý di sản cũng cần có sự sửa đổi cho
phù hợp với thực tiễn cuộc sống và thực tiễn xét xử. Không thể để tồn tại quy
định bất hợp lý trong luật là người vừa quản lý, sử dụng di sản cũng được hưởng
thù lao theo cách thức giống như người chỉ quản lý di sản.
2.4. Chương thừa kế theo di chúc có nhiều điểm không hợp lý về nội dung
cũng như cách thức thể hiện.Vì vậy cần có sự sửa đổi để có thể thực hiện trên
thực tế việc tôn trọng ý chí đích thực của người để lại di sản, quy định rõ ràng,
đầy đủ và chặt chẽ hơn di chúc miệng và di chúc bằng văn bản, di chúc chung của
vợ chồng, vấn đề giải thích di chúc, di sản dùng vào việc thờ cúng … cho phù
hợp với thực tế cuộc sống.
| 1/24

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46672053
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC XÃ HỘI
NGHÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG CHUYÊN ĐỀ:
PHÁP LUẬT VỀ LUẬT THỪA KẾ
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Bích Hồng Lớp : MT26.01
Mã sinh viên : 2621231279
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Văn Hoan
Hà Nội, ngày 17 tháng 12 năm 2021
................................................................... MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU...................................................................................................4
1.Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................................4
2.Mục đích nghiên cứu..............................................................................................5
3.Đối tượng nghiên cứu.............................................................................................5 lOMoAR cPSD| 46672053
4.Phạm vi nghiên cứu................................................................................................5
5.Cơ cấu bài tiểu luận................................................................................................6
PHẦN 2: NỘI DUNG...............................................................................................7
CHƯƠNG I: MỘT SỐ QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM................................................................................................................7
I.Các Khái Niệm........................................................................................................7
1.Khái niệm thừa kế...................................................................................................7
2.Khái niệm quyền thừa kế........................................................................................7
II.Một Số Quy Định Chung Về Thừa Kế..................................................................7
1.Người để lại di sản thừa kế.....................................................................................7
2.Di sản thừa kế:........................................................................................................7
3.Người thừa kế:........................................................................................................7
4 .Thời điểm,địa điểm mở thừa kế.............................................................................. 7
4.1 Thời điểm mở thừa kế:........................................................................................7
4.2 Địa điểm mở thừa kế:..........................................................................................7
5 .Người quản lý di sản,nghĩa vụ và quyền của người quản lý di sản........................ 8
5.1.Người quản lý di sản............................................................................................8
5.2 .Nghĩa vụ của người quản lý di sản...................................................................... 8
5.3 .Quyền của người quản lý di sản.......................................................................... 9
6 .Thời hiệu khởi kiện về thừa kế............................................................................... 9
7.Các hình thức thừa kế.............................................................................................9
7.1. Thừa kế theo di chúc.........................................................................................9
7.2 Thừa kế theo pháp luật.....................................................................................10
7.2.1. Hình thức thừa kế theo hàng thừa kế được áp dụng trong những trường
hợp:..........................................................................................................................11 lOMoAR cPSD| 46672053
7.2.2 . Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản :............11
7.2.3. Những người thừa kế theo pháp luật ( hàng thừa kế) được qui định thứ tự
như sau:....................................................................................................................11
7.3 . Di tặng và từ chối nhận di sản.......................................................................... 12
7.4 .Những người không được quyền hưởng di sản................................................. 13
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THỪA KẾ VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ…14
I. Thực trạng về những quy định của pháp luật về thừa kế.....................................14
1. Nhiều quy định của pháp luật còn mâu thuẫn..................................................... 14
2. Pháp luật còn nhiều vướng mắc.......................................................................... 15
3 .Một số vấn đề trong thực tiễn giải quyết tranh chấp............................................ 17
II. Những giải pháp hoàn thiện chế định thừa kế....................................................18
1.Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật có thể được sử
dụng trong Tư pháp quốc tế Việt Nam....................................................................18
1.1 . Giải pháp hoàn thiện bằng cách khai thác những quy phạm xung đột đã tồn tại
.................................................................................................................................18
1.2 . Giải pháp hoàn thiện bằng cách thiết lập quy phạm xung đột mới.................. 19
1.2.1 . Không phân biệt di sản là động sản hay bất động sản......,,,,........................ 19
1.2.2 . Phân biệt di sản là động sản hay bất động sản..............................................
20 2 .Một số giải pháp khác nhằm hoàn thiện chế định thừa
kế................................... 21
PHẦN 3: KẾT LUẬN.............................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................23 lOMoAR cPSD| 46672053 PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1 .Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kỳ hệ thống xã hội định hướng giai cấp nào, vấn đề thừa kế cũng
chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật và là hình thức pháp lý chủ
yếu để bảo vệ quyền lợi của công dân và xã hội. Mỗi quốc gia, dù có khuynh
hướng chính trị khác nhau, đều coi thừa kế là quyền cơ bản của công dân và được
ghi nhận và ghi nhận trong hiến pháp.
Việt Nam đã sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của thừa kế, trong
giai đoạn đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa, các quy định về thừa kế tại Điều 19 Hiến
pháp năm 1959 của Nhà nước đã được xây dựng và thực hiện nhằm bảo hộ công
dân. 'Quyền thừa kế tài sản riêng. "Điều 27 đHiến pháp 1980" Nhà nước bảo hộ
quyền thừa kế tài sản của công dân ", Điều 58 Hiến pháp 1992" Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế dân sự "... Bộ luật Dân sự năm 1995, và
sau đó là Bộ luật Dân sự của Năm 2005, đánh dấu nền pháp luật Việt Nam nói
chung, đặc biệt là luật thừa kế, là một giai đoạn phát triển. Bộ luật dân sự năm
2005 được coi là kết quả quan trọng của quá trình pháp điển hóa luật thừa kế, và
bảo vệ cuộc sống của mọi người một cách hiệu quả nhất.
Nhưng trên thực tế, do đời sống kinh tế xã hội của đất nước phát triển nhanh
chóng, pháp luật thừa kế hiện hành không thể lường trước được tất cả các trường
hợp, tình huống xảy ra trên thế giới. Một số quy định của pháp luật về thừa kế còn
chung chung, chưa rõ ràng, chưa có văn bản hướng dẫn từng vấn đề cụ thể nên còn
nhiều ý kiến phản đối nên không thống nhất trong thực tiễn. Vì vậy,còn nhiều quan
điểm trái ngược nhau, nên khi áp dụng vào thực tế xảy ra tình trạng không nhất
quán trong cách hiểu cũng như cách giải quyết. Điều này vi phạm quyền thừa kế
của công dân và nhiều khi dẫn đến những bất ổn trong đời sống hàng ngày của mỗi
gia đình, cộng đồng và xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng kinh tế thị trường và xây dựng đất nước
pháp quyền, vấn đề tài sản tư nhân ngày càng trở nên phong phú, đồng thời nảy
sinh nhiều tranh chấp phức tạp từ thừa kế. Hàng nghìn vụ án thừa kế đã được giải
quyết, nhiều vụ tranh chấp thừa kế phải trải qua nhiều lần xét xử nhưng tỷ lệ kết án
không cao, các bản án của Tòa án vẫn bị coi là chưa “thấu tình đạt lý”, những
nguyên nhân bất cập này là biểu hiện của pháp luật về thừa kế chưa đồng bộ, cụ 1thể.
Chính vì điều đó, nên trong thời gian gần đây nhiều Văn kiện của Đảng như
Nghịquyết 48 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm
2011, Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu, sự cần thiết phải
hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đổi mới, trong đó có pháp luật và thừa kế. lOMoAR cPSD| 46672053
1 Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề: “Pháp luật về thừa kế ” để làm đề
tài tiểu luận. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng cấp bách cả về phương diện lý
luậncũng như thực tiễn.
2 .Mục đích nghiên cứu
Tôi xác định chọn đề tài này cũng dựa trên cơ sở có những mục đích nghiên
cứurõ ràng như quy định về người để lại di sản thừa kế, người thừa kế, thời
điểm,thời gianmở thừa kế, di sản thừa kế,người quản lý di sản và những điểm mới
trong chế định thừa kế. Sự thừa kế, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác là một
quy luật khách quan, nhưng các quan hệ thừa kế ở mỗi chế độ xã hội được giải
quyết như thế nào là do chủ quan con người quyết định. Quyền sở hữu cá nhân là
cơ sở khách quan của việcthừa kế.Vì vậy quyền thừa kế trong điều kiện của nước ta
hiện nay được thể hiện như một phương tiện để củng cố sở hữu của công dân,cũng
cố quan hệ hôn nhân và gia đình,bảo vệ lợi ích của những người chưa thành niên
hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Pháp luật của nước ta bảo
vệ những lợi ích cơ bản của mỗi người lao động trên cơ sở bảo vệ lợi ích của nhà
nước,lợi ích chung của toàn xã hội ,góp phần xóa bỏ những tàn tích của chế độ
phong kiến để lại.Tạo môi trường pháp lý thuận lợi làm cho nhân dân lao động yên
tâm sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội.Quyền thừa kế xuất phát từ
quan điểm xem gia đình là tế bào của xã hội, phải đảm bảo quyền lợi chính đáng
của mỗi thành viên và sự ổn định của từng gia đình. Mặc khác thông qua quyền
thừa kế,giáo dục tinh thần trách nhiệm của mỗi thành viên đối với gia đình. Do đó
xácđịnh được diện những người thừa kế cũng như phương thức chia tài sản trong
pháp luậtvề thừa kế có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các chức năng vai trò của xã hội.
3 .Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng của thừa kế là các tài sản, quyền tài sản thuộc quyền của người đã
chết để lại (trong đó một số trường hợp người để lại di sản có thể chỉ là hoa lợi
tức,phát sinhtừ tài sản). Tuy nhiên ,một số quyền tài sản gắn liền với nhân thân đã
chết không thể chuyển cho những người thừa kế (tiền cấp dưỡng) vì pháp luật quy
định chỉ có người đó mới có quyền hưởng.
4 .Phạm vi nghiên cứu.
Việc nghiên cứu đề tài này được xác định trong phạm vi các quy phạm pháp
luậtvề thừa kế ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử. Nhưng đặc biệt tập trung
nghiên cứu các quy phạm pháp luật về thừa kế từ năm 1996 đến nay. Qua đó chúng
ta có thể so sánh đối chiếu với những quy định pháp luật trước khi Bộ luật dân sự
được ban hành để làm nổi bật tính hiện đại của những quy định về thừa kế và thực
tiễn áp dụng chúng trongquá trình thực thi pháp luật.
5 .Cơ cấu bài tiểu luận. lOMoAR cPSD| 46672053
Bài tiểu luận gồm 2 chương:
Chương 1: Một số quy định chung về thừa kế theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng những quy định của pháp luật về thừa kế và những giải
pháp hoàn thiện chế định thừa kế. LỜI KẾT:
Để giải quyết vấn đề đặt ra không những phải có kiến thức, năng lực mà còn
phải có kinh nghiệm thực tế. Mặc dù đã rất cố gắng nghiên cứu nhưng do trình độ
và kinh nghiệm còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót.Vì vậy tôi rất
mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn. PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬTVIỆT NAM lOMoAR cPSD| 46672053 I.Các Khái Niệm
1 .Khái niệm thừa kế
- Thừa kế là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho những người còn sống.
2 .Khái niệm quyền thừa kế -
Theo nghĩa khách quan: Là một phạm trù pháp lý bao gồm các quy phạm
pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống
theo di chúchoặc theo trình tự do pháp luật quy định. -
Theo nghĩa chủ quan: Là các quyền năng dân sự cụ thể của các chủ thể có
liên quan đến quan hệ thừa kế.
II.Một Số Quy Định Chung Về Thừa Kế.
1.Người để lại di sản thừa kế: là người mà sau khi chết có tài sản để lại cho
người khác theo trình tự thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật.
2.Di sản thừa kế: ( theo khoản 1 điều 637- Bộ luật Dân Sự ) -
Di sản thừa kế bao gồm: tài sản riêng,phần tài sản của người chết trong tài
sản chung với người khác, quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế. -
Tài sản riêng tức là những tài sản thuộc phần sở hữu riêng của người chết
đứng tên lúc còn sống. Tài sản chung với người khác là phần tài sản do lúc còn
sống người chết đã đồng tạo ra cùng chung với một người khác, thì lúc chết phần
tài sản đó cũng được đưa vào di sản của người chết.
3.Người thừa kế: -
Nếu là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh
ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại
di sản chết. Nếu là tổ chức thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. -
Người thừa kế nhận di sản của người chết thì phải thực hiện những nghĩa vụ
tài sản của người chết để lại.
4 .Thời điểm,địa điểm mở thừa kế
4.1 Thời điểm mở thừa kế:
Là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người
là đã chết thì tùy từng trường hợp, Tòa án xác định ngày chết của người đó; nếu
không xác định được ngày chết thì ngày mà quyết định của Tòa án tuyên bố người
đó là đã chết có hiệu luật pháp luật được coi là ngày người đó chết và thời điểm mở thừa kế là ngày này.
4.2 Địa điểm mở thừa kế: lOMoAR cPSD| 46672053
Là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, nếu không xác định được nơi cư
trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản.
5 .Người quản lý di sản, nghĩa vụ và quyền của người quản lý di sản
5.1 .Người quản lý di sản ( chương XXII điều 638- Bộ luật dân sự ) -
Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những
người thừa kế thỏa thuận cử ra. -
Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những
người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử
dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử
được người quản lý di sản. -
Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người
quản lý thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
5.2.Nghĩa vụ của người quản lý di sản
*.Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và 3 điều 638 -Bộ luật dân sự có các nghĩa vụ sau:
- Lập danh mục di sản,thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người
khácđang chiếm hữu,trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Bảo quản di sản,không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và
định đoạt tài sản bằng các hình thức khác, nếu không được người thừa kế đồng ý bằng văn bản.
- Thông báo về di sản cho những người thừa kế.
- Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại.
- Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.
*.Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 điều
638Bộ luật dân sự có nghĩa vụ sau:
- Bảo quản di sản, không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và
định đoạt tài sản bằng các hình thức khác.
- Thông báo về di sản cho người thừa kế.
- Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại.
- Giao lại di sản theo thoải thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc
theo yêu cầu của người thừa kế.
5.3.Quyền của người quản lý di sản lOMoAR cPSD| 46672053
*.Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và 3 điều 638- Bộ luật dân sự có các quyền sau:
- Đại diện cho người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế.
- Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.
*.Người đang chiếm hữu,sử dụng,quản lý di sản quy định tại khoản 2 điều
638Bộ luậtdân sự có quyền sau:
- Được tiếp tục sử dụng di sản theo thoải thuận trong hợp đồng với người để lại
di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế.
- Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.
6 .Thời hiệu khởi kiện về thừa kế ( chương XXII điều 645-Bộ luật dân sự )
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa
kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
7 .Các hình thức thừa kế.
7.1. Thừa kế theo di chúc: ( chương XXIII điều 646 đến 673-Bộ luật dân sự)
Di sản của những người đã chết được chuyển cho những người thừa kế theo
dichúc người chết để lại. Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài
sản của mình cho người khác sau khi chết. Người đã thành niên có quyền lập di
chúc,trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không
thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Người lập di chúc có các quyền: chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di
sản của người thừa kế, phân định phần di sản cho từng người thừa kế, dành một
phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng, giao nghĩa vụ cho người thừa kế
trong phạm vi di sản, chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Di chúc phải được lập thành văn bản, nếu không thể lập được di chúc bằng văn
bản, thì có thể di chúc miệng. Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc
bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình. Trong trường hợp tính mạng một
người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập
di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Di chúc miệng được coi là hợp
pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất
hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký lOMoAR cPSD| 46672053
tên hoặc điểm chỉ. Sau 3 tháng, kể từthời điểm lập di chúc miệng mà người lập di
chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc miệng bị hủy bỏ.
- Di chúc được coi là hợp pháp nếu:
Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị
lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép.
Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội, hình thức di chúc
không trái quy định của pháp luật. Nội dung của di chúc được quy định
tại điều 656 Bộ luật dân sự. Trong trường hợp người lập di chúc không
thể tự mình viết bản di chúc, thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải
có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm
chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng, những người làm
chứng xác nhận chữ ký ,điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di
chúc. Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng nhà nước chứngnhận
hoặc ủy ban nhân dân xã, phường,thị trấn chứng thực bản di chúc. Di
chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế.
- Trong trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu
khác nhau, thì người công bố di chúc và những người thừa kế phải cùng nhau
giải thích nội dung di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người
chết, có xem xét đến mối quan hệ của người chết với người thừa kế theo di
chúc. Khi những người này không nhất trí về cách hiểu nội dung di chúc, thì
coi như không có di chúc và di sản được thừa kếtheo pháp luật.
7.2 Thừa kế theo pháp luật ( chương XXIV- điều 674 đến 680 Bộ luật dân sự )
7.2.1. Hình thức thừa kế theo hàng thừa kế được áp dụng trong những trường hợp:
- Người chết không để lại di chúc.
- Di chúc không hợp pháp.
- Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng một thời
điểm với người lập di chúc, cơ quan được hưởng thừa kế theo di chúc không
còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
- Những người được chỉ định là người thừa kế theo di chúc mà không có quyền
hưởng di sản hoặc từ chối hưởng quyền di sản.
7.2.2 . Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản :
- Phần di sản không được định đoạt trong di chúc.
- Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực.
- Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không
có quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản, chết trước hoặc chết cùng lOMoAR cPSD| 46672053
thời điểm với người lập di chúc, liên quan đến cơ quan tổ chức được hưởng di
sản theo di chúc nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.
7.2.3 . Những người thừa kế theo pháp luật ( hàng thừa kế) được qui định thứ tự như sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con
để, con nuôi của người chết.
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em
ruột, cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột,
cô ruột ,cậu ruột, dì ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người
chết là bác ruột, chú ruột,cô ruột, cậu ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà
người chết là cụ nội, cụ ngoại. •
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di chúc bằng nhau. •
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng nếu không còn ai ở
hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản,bị truất
quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
- Thừa kế thế vị pháp luật quy định: Trong trường hợp con của người để lại di
sản chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống, nếu cháu
cũng chết trước hoặc cùngthời điểm với người để lại di sản thì chắt được
hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ củachắt được hưởng nếu còn sống. VÍ DỤ MINH HỌA:
Tình huống 1:
Khi còn sống bố mẹ A phân chia đất đai cho các em A đâu vào đấy và ngôi
nhà bố mẹ A ở trước khi qua đời,bố mẹ A di chúc lại để cho A là trai cả để làm
nơi thờ cúng và nuôi dưỡng đứa em út bị tâm thần từ bé. Nay anh em A nảy
sinh mâu thuẫn, các em Ađặt vấn đề đất ( phần của bố mẹ) và nhà là của
chung, chỉ giao cho A quản lý không có quyền thừa kế. Tài sản trong nhà
không có trong di chúc ( tivi, tủ, quạt, thóc, lúa…) là của chung. Xin hỏi những
ý kến của các em A có đúng không? Việc này giải quyết như thế nào?

Về pháp luật căn cứ vào những câu chữ ghi lại trong di chúc thì A là người
được quản lý di sản theo di chúc và được hưởng thù lao theo thoải thuận với
những người được thừa kế. Mặc khác theo điều 670 bộ luật dân sự,phần di sản
theo di chúc dùng vào việc thờ cúng thì không được chia thừa kế và được giao
cho một người khác đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc
thờ cúng (chính là A). Các tài sản khác thuộc di sản thừa kế không ghi trong di lOMoAR cPSD| 46672053
chúc thì được chia thừa kế theo pháp luật. Tuy vậy, theo di chúc để lại thì phần
nhà đất ghi trong di chúc được để cho A lo liệu cuộc sống, trông nom mồ mả tổ
tiên, chăm sóc đứa em bị tật. Nếu nội dung di chúc không rõ ràng cần thỏa
thuận giải thích nội dung giữa những người thừa kế dựa trên ý nguyện đích
thực của những người đã khuất.
Tình huống 2:
Anh cả ông B chết cách đây 5 năm. Anh của ông không có con trai chỉ có 2
đứa con gái đã đi lấy chồng. Năm ngoái cha ông mất nhưng không để lại di
chúc. Nay anh em ông muốn chia thừa kế phần tài sản của cha để lại cho con
cháu nhưng mà bà chị dâu không chấp nhận đòi giữ tài sản, vì khi còn sống
cha ông ở với anh cả. Hỏi bà chị dâu có quyền như vậy không?

Theo điều 676 thì con dâu không được quyền thừa kế của cha mẹ chồng. Di
sản củangười đã khuất phải được chia theo pháp luật nếu không có di chúc.
Vậy anh em của ông B đều được hưởng một phần bằng nhau số di sản thừa kế
do cha mẹ để lại. Riêng ông anh cả đã chết theo điều 677 thì trong trường hợp,
con của người để lại di sản đã chết trước người để lại di sản thì cháu được
hưởng một phần mà cha mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống. Theo qui định
thì 2 đứa con gái của ông anh cả sẽ được hưởng một phần di sản thừa kế.
7.3 . Di tặng và từ chối nhận di sản Di tặng: -
Di tặng là trường hợp khác của di chúc, là việc người lập di chúc dành
một phần di sản để tặng người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc. -
Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với
phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa
vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện
phần nghĩa vụ còn lại của người này.
Từ chối nhận di sản:
Về việc từ chối nhận di sản pháp luật quy định như sau: Người thừa kế có
quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc
thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Khi từ chối nhận di
sản, người thừa kế phải lập thành văn bản và phải báo cho những người thừa kế
khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, công chứng nhà nước hoặc
UBND cấp xã nơi mở thừa kế biết về việc từ chối nhận di sản. Tuy nhiên người
thừa kế chỉ có quyền từ chối nhận di sản trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày mở
thừa kế (tức là ngày người có tài sản chết hoặc là ngày tòa án tuyên bố người
để lại di sản là đã chết)
7.4 .Những người không được quyền hưởng di sản lOMoAR cPSD| 46672053 -
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc
về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó. -
Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản. -
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế
khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng. -
Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sữa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
• Những người này vẫn được hưởng di sản thừa kế nếu người để lại di
sản đã biết các hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
• Tài sản không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước trong trường
hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có những
không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau
khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế sẽ thuộc Nhà nước.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ THỪA KẾ VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ.
I. Thực trạng về những quy định của pháp luật về thừa kế.
1 . Nhiều quy định của pháp luật còn mâu thuẫn.
Hiện nay trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật xảy ra tình
trạng các luật quy định cùng một nội dung giống nhau nhưng lại không thống
nhất với nhau. Việc không thống nhất giữa quy định của pháp luật dẫn đến khó
khăn khi vận dụng vào thức tiễn.
Ví Dụ: Khoản 1 điều 651 và khoản 5 điều 652 Bộ luật dân sự quy định về
hình thức di chúc miệng như sau: “trong trường hợp tính mạng của một người
bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di
chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Và “di chúc miệng được coi là hợp
pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít lOMoAR cPSD| 46672053
nhất hai người làm chứng và ngay sau đó người làm chứng ghi chép lại, cùng
ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày kể từ ngày người di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng”.
Như vậy, theo quy định thì di chúc miệng chỉ được lập trong hoàn cảnh hết
sức đặc biệt, đó là tính mạng của người để lại di chúc bị đe dọa, được hiểu là
người di chúc không còn khả năng hoặc không thể lập di chúc bằng văn bản.
Và nếu sau thời gian pháp luật quy định mà người lập di chúc còn sống minh
mẫn thì di chúc miệng đó mặc nhiên vô hiệu. Di chúc miệng phải trước ít nhất
hai người làm chứng và những lời di chúc sẽ được ghi chép lại và công chứng
trong thời hạn năm ngày, sau thời hạn này thì coi như không hợp pháp. Tuy
nhiên Luật Công chứng được Quốc hội thông qua ngày 29.11.2006 có hiệu lực
thi hành ngày 1.7.2007 quy định rất cụ thể về thủ tục công chứng. Điều 48 luật
này quy định về công chứng di chúc thì người lập di chúc phải tự mình yêu cầu
công chứng di chúc, không ủy quyền cho người khác công chứng di chúc. Quy
định này chỉ đúng với trường hợp thực hiện công chứng đối với di chúc được
lập thành văn bản. Còn đối với di chúc miệng thì người lập di chúc không thể
tự yêu cầu cống chứng được trong khi tính mạng bị đe dọa. Như vậy có thể
thấy rằng với quy định trên Luật công chứng đã phủ nhận hoàn toàn tính hợp
pháp của loại hình di chúc miệng.
Từ phân tích trên cho thấy, giữa các luật quy định cùng một nội dung đã xảy
ra những sự mâu thuẫn với nhau. Chính sự mâu thuẫn này đã dẫn đến tình trạng
vô hiệu hóa các quy định của pháp luật trong các luật khác nhau, gây ra tình
trạng khó áp dụng trong thực tiễn những quy định của pháp luật. Đây là vấn đề
cần được xem xét kỹ lưỡng trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật để bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật hiện nay.
2 . Pháp luật còn nhiều vướng mắc
Việc áp dụng chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự 2005 trong thực tiễn vẫn
còn nhiều vấn đề gây tranh cãi như sau:
Người thừa kế: Pháp luật dân sự ghi nhận quyền thừa kế cá nhân,tổ chức.
Điều 638 Bộ luật dân sự quy định:
• Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở
thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã
hình thành thai trước thời điểm người để lại di sản chết.
• Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức, thì
phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Tất nhiên, người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân,còn người thừa
kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Vấn đề dặt ra cần làm rõ là: lOMoAR cPSD| 46672053
Thứ nhất: Hiểu thế nào về “người còn sống vào thời điểm thừa kế” đặc biệt
trong trường hợp những người thừa kế chết mà không xác định ai chết trước, ai
chết sau. Thực tế chỉ ra rằng, có nhiều trường hợp những người có quyền thừa
kế di sản của nhau chết cách nhau một khoảng thời gian rất ngắn, vụ việc tranh
chấp thừa kế một thời gian dài sau đó mới phát sinh, do vậy việc xác minh thời
điểm chết của từng người rất khó khăn, tạo phức tạp trong quá trình giải quyết
vụ án (có lẽ trường hợp này căn cứ pháp lý duy nhất là giấy chứng tử nhưng
trong nhiều trường hợp giấy chứng tử không ghi cụ thểgiờ,phút chết của cá nhân)
Thứ hai: Điều luật cho phép người đã thành thai trước thời điểm mở thừa kế
nhưng sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế vẫn có quyền thừa kế tài
sản. Vấn đề ở chỗtrường hợp nào được coi là sinh ra và còn sống? Đứa trẻ ra
đời có thể chỉ sống được 30 phút, 01 giờ, 24 giờ, 7 ngày sau đó mới chết. Việc
xác định khi nào đứa trẻ đó được coi là người thừa kế có ảnh hưởng rất lớn đối
với tỷ phần thừa kế của người khác. Điều luật chưa có quy định cụ thể về vấn
đề này nên có nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng. Theo tôi nên
áp dụng Nghị định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch: đứa
trẻ sinh ra và còn sống được 24 giờ rồi chết thì phải khai sinh và khai tử để từ
đó xác định được thời gian được coi là sinh ra và còn sống của đứa trẻ (24
giờ).Tuy nhiên điều này phải cần được ghi rõ trong Bộ luật dân sự.
Thứ ba: Quyền thừa kế của các tổ chức (pháp nhân) đã sáp nhập, hợp nhất,
chia tách, giải thể,phá sản. -
Theo quy định của luật dân sự, các pháp nhân cùng loại có thể bị
chấm dứt khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách. Nhưng trong trường hợp pháp nhân
không chấm dứt tuyệt đối mà quyền và nghĩa vụ của nó được chuyển giao cho
các pháp nhân khác. Vậy nhữngpháp nhân này có được thừa kế không? -
Pháp nhân cũng có thể bị chấm dứt theo quy định về giải thể hoặc phá
sản. Lúc này pháp nhân chấm dứt tuyệt đối. Sau khi chấm dứt một thời gian
sau mới phát sinh vụ việc tranh chấp thừa kế mà pháp nhân đó được chỉ định là
người thừa kế và tại thời điểm mở thừa kế pháp nhân chưa bị giải thể hoặc phá
sản thì ai, cơ quan nào sẽ thay mặt pháp nhân để nhận di sản hay khi này tài sản
được coi là vô chủ và thuộc về nhà nước. Mặt khác theo quy định của luật dân
sự, pháp nhân bị giải thể, vị tuyên bố phá sản có thể được thành lập lại theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vậy trường hợp pháp nhân đó
bị giải thể trước thời điểm mở thừa kế nhưng sau thời điểm mở thừa kê lại
được thành lập lại thì pháp nhân đó có được quyền thừa kế không? -
Từ chối nhận di sản :
Điều 645 Bộ luật dân sự quy định: Người thừa kế có quyền từ chối nhận di
sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản
của mình đốivới người khác. Khi từ chối nhận di sản, người thừa kế phải lập lOMoAR cPSD| 46672053
thành văn bản và phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao
nhiệm vụ phân chia di sản, công chứng nhà nước hoặc UBND cấp xã nơi mở
thừa kế biết về việc từ chối nhận di sản. Tuy nhiên người thừa kế chỉ có quyền
từ chối nhận di sản trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngàymở thừa kế (tức là ngày
người có tài sản chết hoặc là ngày tòa án tuyên bố người để lại di sản là đã
chết). Quy định này đặt ra một số vấn đề:
Thứ nhất: Điều luật quy định người từ chối nhận di sản phải thông báo cho
một số người, cơ quan có liên quan. Vậy trong trường hợp người từ chối nhận
di sản đã thống báo nhưng không thông báo đủ cho những người này ( ví dụ:
chỉ thông báo cho những người thừa kế, không thông báo cho Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi mở thừa kế…), sau đó người này lại thay đổi ý kiến,
yêu cầu được nhận di sản thừa kế thì có cho phép hay không? Bộ luật dân sự
chưa quy định cụ thể vấn đề này.
Thứ hai: Thời hạn từ chối là 6 kể từ ngày mở thừa kế. Như vậy, theo tinh
thần của điều luật, nếu người thừa kế từ chối nhận di sản sau thời hạn trên thì
không chấp nhậnviệc từ chối đó.Vậy hậu quả pháp lý đối với phần thừa kế của
người đó được giải quyết như thế nào trong trường hợp họ nhất quyết từ chối
nhận di sản? Thêm nữa, trường hợp người thừa kế từ chối nhận di sản đúng
thời hạn trên, nhưng sau đó họ lại thay đổi ý kiến, xin nhận di sản thì giải quyết
như thế nào, chấp nhận hay không chấp nhận cho họ nhận di sản?
Đây là những vấn đề hết sức bức thiết cần phải sửa đổi bổ sung trong luật
dân sự. Theo quan điểm của tôi là: trong trường hợp di sản chưa chia thì cho
phép người từ chối nhận di sản có quyền thay đổi ý kiến, trường hợp di sản đã
phân chia thì để bảo vệ quyền lợicho những người thừa kế khác, thúc đẩy quan
hệ dân sự phát triển, thì không cho phépngười đã từ chối nhận di sản thay đổi ý kiến.
3 .Một số vấn đề trong thực tiễn giải quyết tranh chấp
Sau khi Bộ luật Dân sự có hiệu lực thi hành, số vụ tranh chấp thừa kế mà Tòa
án nhân dân các cấp thụ lý có phần giảm hơn trước. Theo số liệu thống kê thì: -
Năm 1998 toàn ngành thụ lý sơ thẩm 1055 vụ thừa kế, giải quyết 633
vụ, đình chỉ, tạm đình chỉ, cho rút đơn 249 vụ, chuyển cơ quan có thẩm quyền
34 vụ, hòa giải 112 vụ, xét xử 268 vụ. Thụ lý phúc thẩm toàn ngành 226 vụ,
giải quyết 153 vụ, giữ nguyên bản án sơ thẩm 54 vụ, sửa một phần bản án sơ
thẩm 46 vụ, sửa toàn bộ bản án 12 vụ, hủy án và đình chỉ 3 vụ, hủy để xét xử
lại 23 vụ, hủy chuyển vụ án sang cơ quan khác 3 vụ, còn lại là hình thức giải quyết khác. -
Năm 1999 toàn ngành thụ lý sơ thẩm 2234 vụ thừa kế, giải quyết 1190
vụ, tạm đình chỉ, đình chỉ, cho rút đơn 390 vụ, chuyển cơ quan có thẩm quyền
78 vụ, hòa giải 235 vụ, xét xử 487 vụ. lOMoAR cPSD| 46672053 -
Năm 2000 (theo số liệu tháng 9) toàn ngành thụ lý sơ thẩm 1438 vụ
thừa kế, giải quyết 917 vụ, tạm đình chỉ, đình chỉ, cho rút đơn 331 vụ, chuyển
cơ quan có thẩm quyền 52 vụ, hòa giải 133 vụ, xét xử 401 vụ.
Mặc dù vậy, nhưng do tính chất của các vụ án lại có phần ngày càng khó
khăn và phức tạp, phát sinh nhiều vấn đề mới, nhiều tranh cải hơn đã làm cho
các cơ quan tòa án khó giải quyết trọn vẹn hết tất cả. Mặc khác cũng do sự lơ là
làm ngơ của các tòa án đã làm cho các vụ tranh chấp ngày càng kéo dài. Chẳng
hạn như vụ tranh chấp thừa kế tại phường Tân Chánh Hiệp-quận 12-tp Hồ Chí
Minh đã phải hủy án nhiều lần để xét xử lại.Tranh chấp kéo dài từ năm 2004
đến nay, đã qua nhiều lần xét xử. Vụ việc cụ thể như sau:
Cụ Lê Văn Sáu và Cụ Trần Thị Hai có ba người con chung là ông Lê Văn
Lang, bà Lê Thị Lá, ông Lê Văn Ngọt. Năm 1949 cụ Sáu mất, cụ Hai được
người bà con cho mảnh đất 200m2. Năm 1963 cụ Hai xây dựng thành nhà
tường gạch ngói, nền xi măng, tọa lạc tại số 11/6 ấp Chánh, xã Tân Chánh
Hiệp, huyện Hóc Môn, nay là 11/6 tổ 41, khu phố 3, phường Tân Chánh Hiệp.
Năm 1999 bà Lá và ông Ngọt đồng ý giao cho con ông Lang là Lê Văn Minh ở
trông coi nhà đất nói trên. Năm 2001 cụ Hai mất, không để lại di chúc. Năm
2004 bắt đầu phát sinh tranh chấp căn nhà 11/6, khi anh Minh và vợ chồng
ông Lang bà Mát tiến hành làm thủ tục kê khai đăng ký nhà đất tại phường Tân
Chánh Hiệp để xin UBND quận 12 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nhưng giấy chứng nhận này có những điểm bất bình thường như: từ căn nhà
mang địa chỉ 11/6,tổ 41 lại được chuyển sang địa chỉ 5/6,tổ 39 (cách nhau
500m) ,nhà là tài sản thừa kế chung của 3 người nhưng lại đứng tên 1 người.

Sau đó ông Lang bán căn nhà trên cho vợ chồng ông Nguyễn Đăng Ánh và bà
Đỗ Thị Xuyến. Ngày 04/06/2004 bà Lá, ông Ngọt làm đơn đề nghị UBND
phường Tân Chánh Hiệp đình chỉ việc mua bán căn nhà trên. Nhưng không
hiểu sao tiến trình mua bán sang nhượng vẫn diễn ra bình thường? Quá bức
xúc, ngày 19/07/2004 bà Lá, ông Ngọt làm đơn khởi kiện tại TAND quận 12.
Việc tranh chấp đã được tòa sơ thẩm, phúc thẩm xét xử nhưng do có nhiều sai
sót, Tòa Dân sự (Tòa án Nhân dân tối cao) đã có quyết định giám đốc thẩm
hủy án và yêu cầu xét xử sơ thẩm lại. Ngày 02/12/2010, TAND quận 12 đã xét
xử sơ thẩm vụ án trên và ra bản án số313/2010/DS-ST. Theo đó, quyết định
chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn về việc chia thừa kế căn nhà 11/6.
Giao cho bà Lê Thị Lá toàn quyền sử dụng nhà đất số cũ 11/6, số mới 5/6 khu
phố 3, phường Tân Chánh Hiệp, có diện tích 239m2. Bà Lá có trách nhiệm
giao lại cho ông Lang ,ông Ngọt mỗi người 453.030.000 đồng. Bác yêu cầu
của ông Ánh và bà Xuyến,buộc ông Ánh bà xuyến trả căn nhà 5/6 cho các ông
bà Lang, Lá, Ngọt. Tuy nhiên do chưa đồng tình với bản án, vợ chồng ông Ánh
và bà Xuyến kháng cáo.

Dư luận mong chờ phiên tòa phúc thẩm của TAND Tp Hồ Chí Minh xét xử
thấu tình đạt lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. lOMoAR cPSD| 46672053
II. Những giải pháp hoàn thiện chế định thừa kế.
1.Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật có thể
được sử dụng trong Tư pháp quốc tế Việt Nam.
1.1. Giải pháp hoàn thiện bằng cách khai thác những quy phạm xung đột đã tồn tại.
Một trong những quy phạm xung đột đã tồn tại mà chúng ta có thể khai thác
là Điều 833 khoản 1, Bộ luật dân sự. Theo điều khoản này “việc xác lập, chấm
dứt quyền sở hữu, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo
pháp luật của nước nơi cótài sản đó, trừ trường hợp pháp luật nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quyđịnh khác”. Điều 833 khoản 1 không định
nghĩa thế nào là “việc xác lập” quyền sở hữuđối với tài sản. Trước sự chung
chung và trừu tượng này của Điều 833, khoản 1, thông qua việc giải thích pháp
luật, chúng ta có thể coi thừa kế theo pháp luật là một “việc xác lập” quyền sở
hữu đối với tài sản. Cách giải thích này có thể được chấp nhận vì theo Điều
176, khoản 5, Bộ luật dân sự “quyền sở hữu được xác lập với tài sản trong các
trường hợp sau đây […] được thừa kế tài sản”. Vậy thông qua việc giải thích
luật, chúng ta có thể hoàn thiện Tư pháp quốc tế nước ta về vấn đề xung đột
pháp luật về thừa kế theo pháp luật và nếu theo giải pháp này chúng ta có quy
phạm xung đột sau: Vấn đề thừa kế theo pháp luật được điều chỉnh bởi pháp
luật của nước nơi có tài sản. Đây cũnglà giải pháp được thừa nhận tại Mê-hicô,
Pa-na-ma, U-ru-goay và Vê-nê-du-ê-la.
Để hiểu thêm về giải pháp này, tôi xin lấy một ví dụ minh hoạ: Năm 1975
anh T.V.B sang sống cùng gia đình tại Pháp và sau đó nhập quốc tịch Pháp.
Với sự mở của anh T.V.B về Việt Nam cư trú từ năm 1997. Do tai nạn, anh
T.V.B qua đời tại Việt Nam năm 2003 và để lại di sản bao gồm: một ngôi nhà
ở Pháp (di sản P), một căn hộ cùng một số động sản tại Hà Nội (di sản V và v),
một số động sản quý tại một ngân hàng Thụy Sĩ (di sản t) và một số động sản
gửi chị gái đang làm ăn tại Đức (di sản d). Do không tự thoải thuận được với
nhau, con anh T.V.B quốc tịch Pháp và em trai anh T.V.B quốc tịch Việt Nam
yêu cầu tòa án đứng ra giải quyết.
Áp dụng giải pháp bằng cách giải thích pháp luật, chúng ta dẫn đến kết quả
sau: vấn đề thừa kế nêu trên được điều chỉnh bởi pháp luật nơi có tài sản, cụ thể
là di sản P được điều chỉnh bởi pháp luật Pháp, di sản t được điều chỉnh bởi
pháp luật Thụy Sĩ, di sản d được điều chỉnh bởi pháp luật Đức và di sản V, v
được điều chỉnh bởi pháp luậtViệt Nam. Ngoài giải pháp khai thác quy phạm
xung đột đã tồn tại bằng cách giải thích luật, để hoàn thiện. Tư pháp quốc tế
nước ta về vấn đề xung đột pháp luật về thừa kế, chúng ta có thể xây dựng
thêm quy phạm xung đột mới để điều chỉnh vấn đề này.
1.2 . Giải pháp hoàn thiện bằng cách thiết lập quy phạm xung đột mới
1.2.1 . Không phân biệt di sản là động sản hay bất động sản lOMoAR cPSD| 46672053 -
Giải pháp thứ nhất là: chúng ta cho phép pháp luật của nước mà
người để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh vấn đề thừa kế. Đây là giải pháp
được thừa nhận tại An-ba-ni (trừ trường hợp khi di sản là bất động sản ở An-
ba-ni, Angiê-ri, Đức (nhưng luậ tĐức có thể được chọn để áp dụng khi di sản là
bất động sản ở Đức), Andora, Áo, Bun-ga-ri, Cuba, Ai Cập, Tây-ban- nha,
Phần Lan, Gha-na, Hy Lạp, Hung-ga-ri, In-đô-nê-xi-a, I-ran, Ý, Nhật, Gioóc-
đa-ni, Li- băng, Ma-li, Ma-rốc, Mô-ri-ta-ni, Ni-giê-ri-a, Phi-líp-pin, Ba Lan, Bồ
Đào Nha, Xê-nê-gan, Xlo-va-ki, Thụy Điển, Xi-ri, Tiệp Khắc, Thổ Nhĩ Kỳ (trừ
trường hợp di sản là bất động sản ở Thổ Nhĩ Kỳ), Va-ti-căng, Nam Tư
(cũ)…Áp dụng giải pháp này vào ví dụ nêu trên, chúng ta có kết luận sau: Pháp
luật Pháp sẽ là pháp luật điều chỉnh vấn đề thừa kế vì người để lại thừa kế có
quốc tịch Pháp. Điều đó có nghĩa là pháp luật Pháp sẽ điều chỉnh di sản tại
Pháp cũng như di sản ở Đức, ở Thụy Sĩ và ở Việt Nam ngay cả đối với bất động sản v. -
Giải pháp thứ hai là: chúng ta cho phép pháp luật của nước mà người
để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng điều chỉnh vấn đề thừa kế. Đây là giải
pháp được thừa nhận tại Ac-hen-ti-na, Bra-xin, Cô-xta Ri-ca (trừ trường hợp
đối với di sản là bất động sản ở Cô-xta Ri-ca), Chi lê, Cô-lôm- bia, Đan Mạch,
Ê-cuađo, En-Sa-va-đô, Ai-xlen, Na Uy,Pa-ra-goay (trừ trường hợp đối với di
sản là bất động sản ở Pa-ra-goay), Mông Cổ, Nga(trừ trường hợp đối với di sản
là bất động sản ở Nga), Thụy Sĩ. Áp dụng giải pháp này vào ví dụ nêu trên,
chúng ta có kết luận sau: Pháp luật Việt Nam là pháp luật điều chỉnh quan hệ
thừa kế vì người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng tại Việt Nam. Điều đó
có nghĩa là pháp luật Việt Nam sẽ điều chỉnh di sản V và v ở Việt Nam, di sản t
ở Thụy Sĩ, di sản d ở Đức và di sản P tại Pháp ngay cả khi di sản P là bất động sản.
1.2.2 . Phân biệt di sản là động sản hay bất động sản -
Giải pháp thứ nhất là: chúng ta cho phép pháp luật của nước mà
người để lại thừa kế có nơi cư trú cuối cùng điều chỉnh di sản là động sản và
pháp luật của nước nơi có tài sản điều chỉnh di sản là bất động sản. Giải pháp
này được thừa nhận tại Nam Phi,Úc, Ba-ha-ma, Bỉ, Ca-na-da, Trung Phi, Trung
Quốc, Công-gô, Bờ biển Ngà, Mỹ, Pháp, Ga-bông, Ma-li, Ấn Độ, Ix-ra-en, Ai-
len, Luýchc-xăm-bua, Ma-đa-gát-xca, Ca-lê-đô-ni,Anh, Xu-đăng, U-ru-goay...
Áp dụng giải pháp này vào ví dụ nêu trên, chúng ta có kết luận sau: Di sản là
bất động sản được điều chỉnh bởi pháp luật nơi có tài sản, cụ thể ở đây là di sản
P ở Pháp được điều chỉnh bởi pháp luật Pháp và di sản V ở Việt Nam được
điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam. Đối với di sản là động sản, pháp luật Việt
Nam là pháp luật điều chỉnh vì nơi cư trú cuối cùng của người để lại thừa kế là
Việt Nam, cụ thể là pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề thừa kế đối với di
sản d ở Đức, di sản t ở Thụy Sĩ và di sản v ở Việt Nam. lOMoAR cPSD| 46672053 -
Giải pháp thứ hai là: chúng ta cho phép pháp luật của nước mà người
để lại thừa kế có quốc tịch điều chỉnh thừa kế đối với di sản là động sản và
pháp luật nơi có tài sản để lại điều chỉnh vấn đề thừa kế đối với di sản là bất
động sản. Đây là giải pháp được thừa nhận tại Ca-mơ-run, Mô-na-cô, Thái Lan,
Ru-ma-ni…: Di sản là bất động sản được điều chỉnh bởi pháp luật nơi có tài
sản, cụ thể ở đây là di sản P ở Pháp được điều chỉnh bởi pháp luật Pháp và di
sản V ở Việt Nam được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam. Đối với di sản là
động sản, pháp luật Pháp là pháp luật điều chỉnh vì quốc tịch của người để lại
di sản là Pháp, cụ thể là pháp luật Pháp điều chỉnh vấn đề thừa kế đối với di sản
d ở Đức, di sản t ở Thụy Sĩ và di sản v ở Việt Nam.
2. Một số giải pháp khác nhằm hoàn thiện chế định thừa kế 2.1.
Tôi cảm thấy Bộ luật Dân sự quy định có phần thiên về hướng dẫn
cách xử sự cho công dân, nhưng hầu hết các quy định trong phần thừa kế lại có
tính chất dứt khoát, đã vậy lại có những quy định chưa sát với tâm lý, tập quán
của người dân, trong khi người dân chưa hiểu biết về các quy định này, không
hành xử đầy đủ như luật yêu cầu về hình thức thể hiện văn bản. Dù nội dung là
đúng ý chí của họ; dẫn đến khó khăn khi áp dụng pháp luật, thậm chí có trường
hợp áp dụng theo thực tế cuộc sống, chứ không theo quy định của luật, ví dụ vấn
đề từ chối nhận di sản (Điều 645). Vì vậy khi quy định phải tính đến yếu tố tâm lý
và trình độ dân trí chung của người dân. 2.2.
Cần quy định rõ một số loại quyền cũng thuộc di sản thừa kế ( ngoài
quyền sử dụng đất đã được quy định trong Bộ luật Dân sự thì còn có các quyền
khác như: quyền sử dụng nhà cho thuê…. Ở Việt Nam nhà nước đã chính thức
công nhận quyền chuyển nhượng,quyền sử dụng nhà cho thuê, nên quyền này đã
được chuyển hóa thành một giá trị nhất định). Vấn đề thừa kế tài sản của doanh
nghiệp tư nhân, cần quy định sao cho việc xử lý di sản không làm ảnh hưởng đến
hoạt động bình thường của doanh nghiệp. 2.3.
Cần phải quy định rõ hơn nữa về chủ thể trong quan hệ thừa kế mà
người thừa kế là: cơ quan, tổ chức… (đặc biệt nếu là cơ quan, tổ chức nước
ngoài).Những điều quy định về người quản lý di sản cũng cần có sự sửa đổi cho
phù hợp với thực tiễn cuộc sống và thực tiễn xét xử. Không thể để tồn tại quy
định bất hợp lý trong luật là người vừa quản lý, sử dụng di sản cũng được hưởng
thù lao theo cách thức giống như người chỉ quản lý di sản. 2.4.
Chương thừa kế theo di chúc có nhiều điểm không hợp lý về nội dung
cũng như cách thức thể hiện.Vì vậy cần có sự sửa đổi để có thể thực hiện trên
thực tế việc tôn trọng ý chí đích thực của người để lại di sản, quy định rõ ràng,
đầy đủ và chặt chẽ hơn di chúc miệng và di chúc bằng văn bản, di chúc chung của
vợ chồng, vấn đề giải thích di chúc, di sản dùng vào việc thờ cúng … cho phù
hợp với thực tế cuộc sống.