-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Bài tiểu luận môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Bài tiểu luận môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tài liệu gồm 13 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác - Lênin (USSH.VNU) 7 tài liệu
Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội 18 tài liệu
Bài tiểu luận môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Bài tiểu luận môn Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tài liệu gồm 13 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lênin (USSH.VNU) 7 tài liệu
Trường: Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội 18 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Preview text:
Câu hỏi : Hãy phân biệt nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính ? Cho vd minh họa ?
1/ Khái niệm nhận thức cảm tính và nhận thứ lý tính
Nhận thức là quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan và bản thân con người thông qua các giác quan và dựa trên kinh nghiệm hiểu biết của bản thân . Nhận thức ở mức độ thấp là nhận thức cảm tính, ở mức độ cao hơn là nhận thức lý tính . Nhận thức lý tính và nhận thức cảm tính có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, cho phối lẫn nhau trong cùng 1 hoạt động thống nhất của con người
Nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên, thấp nhất của con người . Trong đó con người phản ánh những thuộc tính bên ngoài, những cái đang trực tiếp tác động đến giác quan của họ . Nhận thức cảm tính bao gồm : cảm giác và tri giác
Nhận thức lý tinh là mức độ nhận thức cao ở con người, trong đó con người phản ánh những thuộc tính bên trong , những mối quan hệ có tính quy luật của hiện thực khách quan 1 cách gián tiếp . Nhận thức lý tính bao gồm : tư duy và tưởng tượng
2/ Phân biệt nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Giống nhau :
_ Đều là quá trình tâm lý nên có mở đầu, diễn biến và kết thúc 1 cách tương đối rõ ràng
_ Chỉ phản ánh thuộc tính bên ngoài của sự vật , hiện tượng
_ Phản ánh hiện thực khách quan 1 cách trực tiếp
_ Đều có ở động vật và con người
_ Là mức độ nhận thức đầu tiên sơ đẳng, cảm giác có vai trò nhất định trong hoạt động nhận thức và toàn bộ đời sống con người
Khác nhau :
Nhận thức cảm tính | Nhận thức lý tính | |
Về nguồn gốc | _ Nảy sinh khi có hiện thực khác quan tác động vào các giác quan tới ngưỡng Vd : Khi tôi nói nhỏ thì những bạn ở xa không nghe được, hay các bạn cảm thấy nhói tai khi nghe những âm thanh với những tần số lớn như : Tiếng hú của micro, tiếng còi ô tô … | _ Nảy sinh khi gặp tình huống có vấn đề Vd : Trong giờ học thầy giáo cho bạn giải bài phương trình : Ax + By + C = 0 . Đây là dạng bài tập mà ta chưa giải qua, từ đó chúng ta phải phân tích, suy luận , tìm ra phương pháp giải phù hợp
|
Về nội dung phản ánh | _ Chỉ phản ánh những thuộc tính bề ngoài, trực quan cụ thể, những mối liên hệ quan hệ không gian và thời gian Vd : Khi ta nhìn 1 chiếc điện thoại , ta chỉ biết vẻ bề ngoài của nó là hãng SamSung, màu đỏ, nhỏ gọn w… | _ Phản ánh những thuộc tính bản chất những mối quan hệ có tính quy luật Vd : Khi ta nhìn 1 chiếc điện thoại , nhận thức lý tính sẽ cho ta biết điện thoại đó có chức năng chụp hình, quay phim, nghe nhạc w… |
Phương thức phản ánh | _ Nhận thức phản ánh trực tiếp bằng các giác quan Vd : Khi ta nghe nhạc 1 bản nhạc, ta dùng thính giác để nghe nó và biết bản nhạc có hay không | _ Nhận thức lý tính phản ánh khái quát, gián tiếp bằng ngôn ngữ, bằng biểu tượng, bằng khái niệm, w… Vd : Khi ta nghe nhạc 1 bản nhạc, nhận thức lý tính không chỉ nghe thấy mà còn cảm nhận từng nốt nhạc, cảm nhận được điều mà nhạc sĩ muốn nói, ca sĩ muốn thể hiện |
Về khả năng phản ánh | _ Chỉ phản ánh được những sự vật hiện tượng cụ thể tác động trực tiếp vào các giác quan Vd : Khi ta nấu chè , để biết chè đủ ngọt hay chưa ta dùng lưỡi ( vị giác ) nếm thử nó | _ Phản ánh những sự vật hiện tượng không còn tác động, thậm chí là chưa tác động Vd : Khi ta nấu chè, để nếm thử thì ta phải thổi nguội vì nồi chè còn đang nóng, nếu không ta sẽ bị phỏng ( Có thể bạn đã từng bị hoặc thấy ai đó bị trước nên rút kinh nghiệm ) |
Về kết quả phản ánh | _ Nhận thức cảm tính cho ta những hình ảnh trực quan cụ thể Vd : Thông qua giác quant a biết chiếc điện thoại này màu đen, hình chữ nhật | _ Nhận thức lý tính cho ta những khái niệm, những phán đoán, những cái chung, cái bản chất về những hình ảnh mới Vd : Nhờ vào nhận thức lý tính cho ta biết đây là cái ti vi hang , có cấu tạo, chức năng như thế nào . |
Câu hỏi :Ý thức là gì ? phân biệt ý thức và vô thức, ý thức được hình thành và phát triển như thế nào ?
*Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ con người mới có, phản ánh bằng ngôn ngữ,là khả năng con người, hiểu được các tri thức ( hiểu biết ) mà con người đã tiếp thu được.
* Phân biệt ý thức và vô thức
Ý thức
- Thể hiện năng lực nhận thức cao nhất của con người và thế giới.
- Bản chất, nhận thức khái quát bằng ngôn ngữ.
- Dự kiến trước kế hoạch hành vi.
- Thể hiện năng lực điều khiển điều chỉnh hành vi.
- Thái độ của con người đối với thế giới.
- Khả năng tự nhận thức,tự điều khiển ,điều chỉnh hành vi, tự hoàn thiện.
Vô thức
- Chưa ý thức những hiện tượng tâm lý chưa có sự chia phối của ý thức
- Hiện tượng tâm lý không ý thức được , chưa nhận thức được .
- Không kiểm soát được tâm lý.
- Các bản năng vô thức.
- Hiện tượng tâm lý dưới ngưỡng ý thức.
- Hiện tượng tâm thế
- Tiềm thức.
* ý thức được hình thành và phát triển như thế nào ?
- Phương diện loài người: Vai trò của lao động,ý thức được hình thành , biểu hiện và phát triển trong suốt quá trình lao động,thống nhất với quá trình lao động và sản phẩm của lao động.
- Trước khi lao động con người luôn có ý thức về cái sẽ làm ra sản phẩm
-Trong lao động con người luôn có ý thức về việc chế tạo sử dụng âm cụ lao động và các thao tác lao động để tạo ra sản phẩm .
Vai trò của ngôn ngữ và giao tiếp:ra đời cùng với lao động,ngôn ngữ là công cụ để con người thực hiện tất ca giai đoạn của lao động một cách có ý thức .
- Lao động nhờ ngôn ngữ giao tiếp mà con người thong báo trao đổi thông tin , phối hợp động tác để cùng tạo ra sản phẩm chung.
- Cá nhân : ý thức của cá nhân được hình thành trong hoa ạt động và thể hiện trong sản phẩm của hoạt động .
- Ý thức của cá nhân được hình thành trong mối quan hệ giao tiếp của cá nhân với người khác và xã hội .
- Ý thức của cá nhân được hình thành bằng con đường tiếp thu nền văn hóa xã hội , ý thức xã hội.
- Cá nhân được hình thành bằng con đường ậư nhận thức , đánh giá ,tự phân tích hành vi của mình.
Câu hỏi : Giao tiếp là gì ? Phân loại và chức năng của giao tiếp ?
+) Giao tiếp : là một quá trình hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe nhằm đạt được một mục đích nào đó. Thông thường, giao tiếp trải qua 3 trạng thái:
- Trao đổi thông tin, tiếp xúc tâm lý.
- Hiểu biết lẫn nhau.
- Tác động và ảnh hưởng lẫn nhau.
+) Phân loại chức năng của giao tiếp
- Chức năng thông tin: qua giao tiếp con người trao đổi truyền đạt tri thức kinh nghiệm với nhau. Mỗi cá nhân vừa là nguồn phát thông tin, vừa là nơi tiếp nhận thông tin. Thu nhận và xử lý thông tin là một con đường quan trọng để phát triển nhân cách
- Chức năng cảm xúc:
Giao tiếp không chỉ bộc lộ cảm xúc mà còn tạo ra những ấn tượng, những cảm xúc mới giữa các chủ thể. Vì vậy giao tiếplà 1 trong những con đường hình thành tình cảm của con người.
- Chức năng nhận thức lẫn nhau và đánh giá lẫnnhau, đánh giá lẫn nhau:
trong giao tiếp mỗi chủ thể tự bộc lộ quan điểm tư tưởng thái độ thói quen,… của mình do đó các chủ thể có thể nhận thức được về nhau làm cơ sở đánh giá lẫn nhau. Điều này quan trọng hơn là trên cơ sở so sánh với người khác và ý kiến đánh giá của người khác, mỗi chủ thể có thể tự đánh giá được về bản thân mình.
- Chức năng tự điều chỉnh hành vi: trên cơ sở nhận thức lẫn nhau, đánh giá lẫn nhau và tự đánh giá được bản thân, trong giao tiếp mỗi chủ thể có khả năng tự điều chỉnh hành vi của mình cũng như có thể tác động đến động cơ, mục đích quá trình ra quyết định và hành động của chủ thể khác.
- Chức năng phối hợp hoạt động : nhờ có quá trình giao tiếp con người có thể phối hợp hoạt động để cùng nhau giải quyết nhiệm vụ nào đó nhằm đạt tới mục tiêu chung. Đây là một chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu chung của xã hội hay của một nhóm người.
Câu 8: Nhân cách là gì? Hãy phân tích cấu trúc của nhân cách. Cho ví dụ minh họa
1. Nhân cách là gì?
Khái niệm: - Con người: Là thành viên của một cộng đồng, một xã hội, vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội.
- Cá nhân: Dùng để chỉ một con người cụ thể của cộng đồng, thành viên của xã hội.
- Cá tính: Dùng để chỉ cái đơn nhất, có một không hai, không lặp lại trong tâm lý của cá thể động vật hoặc cá thể người.
- Marx nhấn mạnh: “ Tiền đề thứ nhất của bất kỳ lịch sử loài người nào rõ ràng cũng là sự tồn tại của cá thể có sinh mệnh”. Cá nhân không chỉ là “tiền đề” của lịch sử loài người, thậm chí còn là mục đích của sự phát triển lịch sử, “ lịch sử xã hội của người ta trước sau chỉ là lịch sử sự phát triển cá thể của họ”.
- Rubinstein: “con người là cá tính do nó có những thuộc tính đặt biệt, không lặp lại, con người là nhân cách do nó xác định được quan hệ của mình với những người xung quanh một cách có ý thức”.
- Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người.
2. Cấu trúc tâm lý của nhân cách:
- Các quan điểm khác nhau về cấu trúc nhân cách
- Bao gồm: các quá trình tâm lý, các trạng thái tâm lý, các thuộc tính tâm lý
- Theo K.K. Platonov:
+ Tiểu cấu trúc có nguồn gốc sinh học
+ Tiểu cấu trúc về các đặc điểm của các quá trình tâm lý
+ Tiểu cấu trúc về vốn kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng, năng lực
+ Tiểu cấu trúc xu hướng nhân cách:
* Gồm bốn nhóm thuộc tính tâm lý điển hình: xu hướng, khí chất, tính cách, năng lực.
* Gồm bốn khối: xu hướng, khả năng, phong cách, hệ thống cái tôi
Phẩm chất Năng lực
+ Phẩm chất xã hội + Năng lực xã hội hóa
+ Phẩm chất cá nhân + Năng lực chủ thể hóa
+ Phẩm chất ý chí + Năng lực hành động
+ Cung cách ứng xử + Năng lực giao lưu
Không có xúc cảm của con người thì trước đây, hiện nay và sau này không có sự tìm tòi của con người về chân lý (Lê Nin)
Câu hỏi : hãy phân tích vai trò của các yếu tố di truyền hoạt động cá nhân và giáo dục đối với sự phát triển nhân cách:
Hoạt động cá nhân đóng vai trò quyết định trực tiếp tới sự hình thành và phát triển nhân cách của con người. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm triết học “ tự thân vận động”. Như ta thấy, con đường tác động có mục đích, tự giác của xã hội bằng giáo đến thế hệ trẻ sẽ không có hiệu quả nếu như bản thân cá nhân học sinh không tiếp nhận, không hưởng ứng những tác động đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm phát triển tâm lý, hình thành nhân cách. Bởi vậy, hoạt động mới là nhân tố tác động quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật tự thân vận động, về động lực bên trong của sự phát triển nói chung. Hoạt động của cá nhân nhằm để thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên hay nhu cầu xã hội, vật chất hay tinh thần của đời sống riêng hay đời sống xã hội là những biểu hiện phong phú về tính tích cực của nhân cách. Hoạt động là phương thức tồ tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích,mang tính xã hội, cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định, với những công cụ nhất định. Vì vậy, mỗi loại hoạt động c1 những yêu cầu nhất định và đòi hỏi ở con người những phẩm chất tâm lí nhất định. Qúa trình tham gia hoạt động làm cho con người hình thành những phẩm chất đó. Vì thế, nhân cách của họ được hình thành và phát triển.
1. Phân tích vai trò của các yếu tố di truyền hoạt động cá nhân:
- Yếu tố bẩm sinh di truyền đóng một vai trò đáng kể trong sự hình thành và phát triển tâm lí nhân cách. Chính nó tham gia vào sự tạo thành cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lí – những đặc điểm giải phẩu và sinh lí của cơ thể, trong đó có hệ thần kinh. Từ đó có thể khẳng định vai trò tiền đề vật chất của yếu tố di truyền với sự hình thành và phát triển nhân cách. Làm cho quá trình hình thành nhân cách diễn ra nhanh, thuận lợi hay chậm chạp, khó khăn.
- Do bẩm sinh di truyền là những đặc điểm của giải phẩu sinh lí của hệ thần kinh và các cơ quan cảm giác, vận động. Đối với mỗi cá thể khi ra đời đã nhận được một số đặc điểm và cấu tạo các chức năng của cơ thể từ các thế hệ trước theo con đường di truyền, trong đó có những đặc điểm về cấu tạo và chức năng của các giác quan và não.Những đặc điểm của các hệ thần kinh cấp cao được biểu hiện ngay từ những ngày đầu của cá thể.
Ví dụ: một đứa trẻ sinh ra với zen di truyền tốt, cơ thể khỏe mạnh, đứa trẻ ấy sẽ phát triển tốt, học hỏi những điều xung quanh rất nhanh, như vậy nhân cách của nó sẽ được hoàn thiện . Nhưng nếu đứa trẻ đó sinh ra với một cơ thể không bình thường, bị tật nguyền, hay bị thiếu não thì quá trình hình thành nhân cách sẽ diễn ra rất khó khăn và chậm chạp, chậm hơn rất nhiều so với những đứa trẻ phát triển bình thường hay những đứa trẻ phát triển tốt. Đây chính là một thiệt thòi lớn cho những đứa trẻ sinh ra đã mang trong mình bệnh tật, và bất hạnh cho gia đình.
- Tuy nhiên, không thể kết luận về vai trò quyết định của di truyền trong sự hình thành và phát triển tâm lí nhân cách. Theo quan điểm tâm lí học của Mác xít thì di truyền với các đặc điểm sinh học nêu trên không quyết định chiều hướng nội dung cũng như giới hạn phát triển của nhân cách con người
Những quan sát khoa học về quá trình phát triển của trẻ sinh đôi cùng trứng đã chỉ ra rằng, sự tương đồng rất cao của trí nhớ hình ảnh và âm thanh ở chúng đã mất dần cùng với sự phát triển nhân cách thôi, chứ không phải cư có yếu tố di truyền tốt thì cá thế đó nhất dịnh sẽ có một nhân cách tốt, một nhân cách hoàn thiện… Bất cứ một chức năng nào mang bản chất con người của nhân cách chỉ có thể được phát triển trong hoạt động của bản thân cá nhân đó và trong điều kiện của xã hội loài người.
Ví dụ: nếu một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình mà bố mẹ toàn là những người có trí thức, khỏe mạnh thì đứa trẻ được sinh ra ấy sẽ có một cơ thể tốt, được thừa hưởng một phần thong minh của bố mẹ, nhưng ta không thể khẳng định chắc chắn rằng đứa trẻ ấy lớn lên cũng sẽ thông minh giống bố mẹ của nó, và hoàn thiện nhân cách,có thể đứa trẻ ấy do ham chơi, đua đòi bạn bè nên học kém, phá phách… đứa trẻ ấy chỉ giỏi và có nhân cách hoàn thiện khi và chỉ khi nó biết phát huy tố chất vốn có của nó, và những hoạt động cố gắng, nỗ lực của mình trong cuộc sống.
Một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình mà bố mẹ chỉ là nông dân chân lấm tay bùn, họ không được thừa hưởng nguồn zen thông minh của bố mẹ, nhưng không có nghĩa là họ kém cỏi. Trong xã hội, không ít những người có xuất thân từ con nhà nông dân thành đạt trong cuộc sống.
Hay những đứa trẻ tật nguyền bẩm sinh, yếu tố di truyền mang lại cho họ những bất hạnh nhưng không phải thế mà nhân cách của họ không hoàn thiện, họ vẫn cố gắng phấn đấu để hoàn thiện nhân cách của mình và xã hội không hiếm những người khuyết tật thành đạt trong cuộc sống…
Một số học giả tư sản đã cho rằng,yếu tố di truyền quyết định đến sự phát triển tâm lí nhân cách. Con người có nguồn gốc phát sinh khác nhau thì có sự phát triển nhân cách khác nhau. Họ cho rằng những người da trắng thì thông minh, xinh đẹp, là người sinh ra để làm ông chủ… còn những người da đen chỉ là loại xấu xí, đáng khinh thường, sinh ra đã là kiếp nô lệ. Đây là một nhận định hoàn toàn sai của các học giả tư sản. Yếu tố di truyền chỉ là yếu tố đóng vai trò làm tiền đề, chứ không quyết định.
2. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách:
Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ được thể hiện ở những điểm sau đây:
- Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo chiều hướng đó.
Ví dụ: giáo dục dạy trẻ biết yêu thương đoàn kết, giúp đỡ bạn bè, quý trọng thầy cô, lễ phép với ông bà, cha mẹ, biết kính trên nhường dưới, chăm ngoan, học giỏi…
- Giáo dục có thể mang lại những cái mà các yếu tố bẩm sinh di truyền hay môi trường tự nhiên không có được.
Ví dụ: nếu đứa trẻ sinh ra không bị khuyết tật thì theo sự tăng trưởng và phát triển và phát triển của cơ thể, đến một giai đoạn nhất định đứa trẻ sẽ biết nói. Nhưng muốn đọc được sách báo thì nhất thiết đứa trẻ phải học.
- Giáo dục có thể bù đắp những chỗ thiếu hụt do bệnh tật đem lại cho con người.
Ví dụ: bằng những phương pháp giáo dục đăc biệt trẻ em và người lớn bị khuyết tật ( câm, mù, điếc…) có thể được phục hồi những chức năng đã mất, hoặc có thể phát triển tài năng và trí tuệ một cách bình thường.
Ví dụ: nhạc sĩ ghi ta Văn Vượng bị mù từ bé, nhưng nhờ có giáo dục mà trở thành tài năng âm nhạc, nhà giáo Nguyễn Ngọc Kí bị liệt tay bẩm sinh nhưng nhờ giáo dục và nỗ lực bản thân, ông đã trở thành nhà giáo ưu tú viết chữ bằng chân rất đẹp.
- Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lí xấu, do tác động tự phát của môi trường xã hội gây nên và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội.
Ví dụ: công tác giáo dục trẻ em hư hoặc cải tạo lao động đối với người phạm pháp.
- Giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động tự phát của xã hội chỉ ảnh hưởng đến mức độ hiện có của nó.
Ví dụ: mục tiêu giáo dục của chúng ta là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Đây chính là tính chất tiên tiến của giáo dục.
- Những công trình nghiên cứu về tâm lí học và giáo dục học hiện đại đã chứng minh rằng, sự phát triển tâm lí của trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều của sự dạy và giáo dục.
Tuy nhiên, giáo dục chỉ vạch ra đường hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo hướng đó. Còn cá nhân học sinh có phát triển theo hướng đó hay không, phát triển đến mức độ nào… điều này giáo dục không quyết định trực tiếp được, bởi vì còn phụ thuộc rất nhiều ở sự nhận thức và hoạt động của đứa trẻ.
Ví dụ: cùng trong một môi trường giáo dục, nhưng có những đứa trẻ lại học giỏi, phát triển nhân cách rất tốt, sau này trở thành một con người thành đạt trong cuộc sống, nhưng có những đứa trẻ hoc rất dốt, nhân cách phát triển kém, sau này trở thành tội phạm, đi vào con đường tọi lỗi, băng hoại về mặt nhân cách…
Cần phê phán quan điểm cho rằng giáo dục là “ vạn năng “, xem đứa trẻ như tờ giấy trắng mà trên đó nhà giáo dục muốn vẽ sao thì vẽ.
Giáo dục một mặt cung cấp cho con người những trí thức, kỹ năng,kỹ xảo,mặt khác, hình thành trong nhân cách họ những phẩm chất tâm lí cần thiết theo yêu cầu cần của sự phát triển xã hội. Sản phẩm văn hóa của loài người có thể biến thành tài sản tinh thần của nhân cách nhờ hoạt động dạy học và giáo dục. Trong xã hội hiện nay, gia đình, nhà trường và xã hội có thể đạt tới một sự thống nhất cao hơn cao hơn trong việc giáo dục thế hệ trẻ.
Như vậy, có thể kết luận rằng: giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, song không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục. Giáo dục không phải là vạn năng, bởi giáo dục chỉ vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách và thúc đẩy quá trinh hình thành và phát triển nhân cách theo hướng đó. Còn cá nhân có phát triển theo hướng đó hay không và phát triển theo mức độ nào thì giáo dục không quyết định trực tiếp được mà cái quyết định trực tiếp lại chính là hoạt động và giao tiếp của mỗi cá nhân. Do đó, cần phải tiến hành giáo dục trong mố quan hệ hữu cơ với việc tổ chức hoạt động, tổ chức quan hệ giao tiếp, hoạt động cùng nhau trong mối quan hệ xã hội nhóm và tập thể. Đặc biệt, con người là thực thể tích cực, có thể tự hình thành và biến đổi nhân cách của mình một cách có ý thức, có khả năng tự cải tạo chính bản thân mình, có nhu cầu tự khẳng định, tự ý thức, tự điều chỉnh cho nên con người hoạt động giáo dục. Hoạt động này là quá trình con người tự biết kiềm chế bản thân mình, biết hướng nhu cầu, hứng thú, giá trị của mình cho phù hợp với những chuẩn mực đạo đức, giá trị của xã hội. vì vậy giáo dục không được tách rời với tự giáo dục, tự rèn luyện,tự hoàn thiện nhân cách ở mỗi cá nhân. Đó là nguyên nhân tại sao, cùng một môi trường giáo dục mà có những người lại thành công trong cuộc sống, có những người thì lại lâm vào con đường tội lỗi, phạm pháp…