lOMoARcPSD| 61197966
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE (AEP)
-------------oOo--------------
BÀI TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI
:
hiện nay
Nhóm sinh viên thực hiện:
Nhóm
1
Giảng viên:
Nguyễn Thị Mai Lan
Mã lớp học phần:
LLNL1107(125)CLC_17
Hà Nội - 2025
lOMoARcPSD| 61197966
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................1
NỘI DUNG CHÍNH......................................................................................2
Chương 1: NỀN DÂN CHỦ VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA2
1.1 Tổng quan về nền dân chủ.................................................................2
1.2. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa...........................................................4
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN - THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ VẬN
HÀNH NỀN DÂN CHỦ XHCN Ở NƯỚC VIỆT NAM TA..................................7
2.1. Tớc thời kỳ đổi mới 1986..............................................................7
2.2. Sau thời kỳ đổi mới (1986).............................................................10
2.3. Thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế..............................................12
Chương 3: LIÊN HỆ NỀN DÂN CHỦ XHCN CỦA VIỆT NAM VỚI THẾ
GIỚI.....................................................................................................................15
3.1. Tư bản chủ nghĩa ...........................................................................15
3.2. So sánh nền dân chủ Việt Nam với nền dân chủ Tư bản chủ nghĩa tại
Hoa Kỳ.............................................................................................................18
Chương 4: THỰC TRẠNG HIỆN NAY CỦA NỀN DÂN CHỦ VIỆT
NAM VÀ CÂU HỎI CÁ NHÂN VÀ CỘNG ĐỒNG PHẢI LÀM GÌ ĐỂ GIỮ
NỀN DÂN CHỦ ĐÓ............................................................................................22
4.1. Nhìn nhận về một số những thực trạng hiện nay............................22
4.2. Nghĩa vụ của cộng đồng và cá nhân trong việc giữ gìn nền dân chủ
XHCN..............................................................................................................24
KẾT LUẬN..................................................................................................27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................28
BẢNG PHÂN CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THÀNH CÔNG VIỆC
ST
T
Mã sinh viên
Họ và tên
Nhiệm vụ
Mức độ
đóng góp
1
11240670
Bùi Minh Hà
Nhóm trưởng, phân chia
nhiệm vụ và điều hành
hoạt động của nhóm
100%
lOMoARcPSD| 61197966
2
11244591
Đinh Thị Cẩm
Tìm nội dung chương
3,4.Hỗ trợ thuyết trình
100%
3
11248187
Lê Đức Trung
Tìm nội dung chương
3,4. Hỗ trợ về thuyết
trình
100%
4
11245132
Đoàn Ngọc Tuấn
Tìm nội dung chương
1,2. Hỗ trợ về hình thức
100%
5
11245444
Nguyễn Văn Ngọc
Tìm nội dung chương
3,4. Hỗ trợ về hình thức
100%
6
11244094
Lê Thùy Linh
Tìm nội dung chương
1,2. Hỗ trợ về hình thức
100%
7
11241726
Đinh Phương Anh
Tìm nội dung chương
3,4. Hỗ trợ về thuyết
trình
100%
8
11248033
Nguyễn Khánh
Ngân
Tìm nội dung chương
1,2. Hỗ trợ về thuyết
trình
100%
9
11247370
Nông Thế Việt
Tìm nội dung chương
3,4. Hỗ trợ về hình thức
100%
lOMoARcPSD| 61197966
LỜI MỞ ĐẦU
Trong dòng chảy lịch sử của dân tộc Việt Nam, khát vọng về một nền dân chủ
chân chính luôn là ngọn lửa thiêng liêng cháy bỏng qua mọi thăng trầm của thời đại.
Từ buổi bình minh của cách mạng tháng m năm 1945, khi bản Tuyên ngôn Độc lập
khẳng định quyền tự do, bình đẳng của mỗi con người, đến chiến thắng lịch sử m
1975 thống nhất non sông, đặc biệt công cuộc Đổi mới năm 1986 mang tính
bước ngoặt, dân tộc ta đã kiên trì xây dựng và phát triển một mô hình dân chủ độc đáo
- nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - ở đó, quyền làm chủ của nhân dân được đặt ở vị
trí trung tâm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bước vào thế kỷ XXI, trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ đang làm thay đổi sâu sắc diện mạo thế giới, Việt
Nam tiếp tục khẳng định bản lĩnh trí tuệ khi vừa giữ vững định hướng hội chủ
nghĩa, vừa chủ động, sáng tạo hội nhập quốc tế. Sự nghiệp xây dựng nền dân chủ
hội chủ nghĩa ngày càng đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi phải nhận thức sâu sắc,
toàn diện cả về mặt luận thực tiễn, đồng thời phải có tầm nhìn soi chiếu, đối sánh
với các mô hình dân chủ trên thế giới.
Việc nghiên cứu, đánh giá một cách khách quan, khoa học về nền n chủ
hội chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ có ý nghĩa lý luận quan trọng, mà còn mang giá
trị thực tiễn sâu sắc, p phần hoàn thiện thể chế, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới. Bài tiểu luận
này được thực hiện với mong muốn góp thêm một góc nhìn phân tích về vấn đề hệ
trọng đó.
1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng trọng tâm của bài tiểu luận nền dân
chủ hội chủ nghĩa ở Việt Nam, được xem xét trên cả phương diện lý luận
và thực tiễn. Về phạm vi nghiên cứu, bài tiểu luận tập trung phân tích quá
trình hình thành, phát triển vận hành của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam từ khi đất nước thống nhất đến nay, với trọng tâm giai đoạn
từ Đổi mới (1986) đến nay. Đồng thời cũng mở rộng phạm vi đối sánh với
hình n chủ bản chủ nghĩa tại Hoa Kỳ - một hình dân chủ tiêu
biểu trong thế giới hiện đại
2. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, bài tiểu luận
vận dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận khoa học. Phương pháp luận
lOMoARcPSD| 61197966
duy vật biện chứng duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin được sử
dụng như kim chỉ nam trong phân tích và đánh giá các vấn đề. Các phương
pháp cụ thể được áp dụng bao gồm: phương pháp phân tích - tổng hợp tài
liệu để kế thừa chọn lọc các nghiên cứu đi trước; phương pháp so sánh
đối chiếu để làm sự tương đồng và khác biệt giữa các mô hình dân chủ;
phương pháp thống - tả để xử các dữ liệu thực tiễn; phương
pháp hệ thống - cấu trúc để xem xét vấn đề một cách toàn diện, có tính đến
mối liên hệ biện chứng giữa các yếu tố.
Với cách tiếp cận này, bài tiểu luận kỳ vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận và thực tiễn về nền dân chủ hội chủ nghĩa ở Việt Nam, từ đó khẳng
định tính tất yếu và giá trị của mô hình dân chủ mà dân tộc ta đã lựa chọn, đồng thời
đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện mới.
lOMoARcPSD| 61197966
NỘI DUNG CHÍNH Chương 1: DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA
1.1 Tổng quan về nền dân chủ
Khái niệm nền dân chủ dùng để chỉ hệ thống các thiết chế được xác lập thực
thi trong hiện thực xã hội theo mục tiêu thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong
xã hội đó. Nền dân chủ được hiểu một chỉnh thể hội trong đó các giá trị, chuẩn
mực, yêu cầu, các nguyên tắc n chủ được ghi nhận và thực thi trên các lĩnh vực cơ
bản của đời sống xã hội.
Một nền dân chủ toàn diện phải được xây dựng dựa trên sự thực thi các nguyên
tắc cốt lõi trên nhiều lĩnh vực:
Lĩnh vực chính trị: Quyền lực tối cao phải thuộc về nhân dân. Mọi quyền năng
của nhà nước đều xuất phát từ sự ủy quyền của nhân dân thông qua cơ chế bầu cử tự
do và công bằng. Để đảm bảo quyền lực không bị lạm dụng, nhà nước phải hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của nhân dân
các tổ chức đại diện. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật quyền tham
gia vào các công việc nhà nước, xã hội.
Lĩnh vực kinh tế: Nền kinh tế phải được tổ chức nhằm phục vụ lợi ích nhu
cầu chính đáng của nhân dân. Các thiết chế kinh tế cần tạo điều kiện để người dân và
người lao động được làm chủ, tham gia vào quá trình sở hữu quản lý, đồng thời
được thụ hưởng thành quả lao động một cách xứng đáng. Điều này đòi hỏi sự kết hợp
hài hòa giữa vai trò quản của nhà ớc với việc phát huy tối đa tiềm năng kinh tế
của các cá nhân và doanh nghiệp.
Lĩnh vực xã hội: Dân chủ đòi hỏi sự thống nhất trong tính đa dạng. Nguyên tắc
bản thiểu số phải tuân thủ quyết định của đa số, nhưng quyền lợi của thiểu số
cũng phải được tôn trọng bảo vệ. Một hội dân chủ cần nlực xóa bỏ sự khác
biệt bất bình đẳng giữa các tầng lớp ng miền, đảm bảo quyền con người quyền
công dân được thực thi đầy đủ trên thực tế.
Lĩnh vực văn hóa: Dân chủ trong văn hóa bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo
chí, tự do tư tưởng trong khuôn khổ pháp luật. Nó tạo điều kiện cho sự phát triển của
khoa học sáng tạo nghệ thuật. Đồng thời, nền dân chủ văn hóa thúc đẩy sự hòa giải,
hợp tác, đối thoại khoan dung như những phương thức chủ yếu đgiải quyết các
mâu thuẫn xã hội.
lOMoARcPSD| 61197966
Thực tế cho thấy, sự ra đời, phát triển của các nền dân chủ quá trình vận
động, phát triển theo logic lịch sử - tự nhiên của nó. Tiến trình phát triển của hội
loài người đồng thời là tiến trình không ngừng xây dựng và hoàn thiện các giá trị dân
chủ. Đây một xu thế tất yếu, khách quan, phản ánh sự tiến a của lịch sử. y
dựng nền dân chủ không phải là một hoạt động tự phát mà là một quá trình có ý thức,
được dẫn dắt bởi các cá nhân và tổ chức, đặc biệt là đảng cầm quyền, dựa trên sự nhận
thức sâu sắc về các điều kiện khách quan chủ quan. Mục tiêu cuối cùng tạo lập
những sở lịch sử vững chắc để thực thi các nguyên tắc dân chủ, qua đó bảo đảm
quyền lực và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Để thực hiện mục tiêu này, quá trình xây dựng dân chủ cần tập trung vào bốn
lĩnh vực chính:
Thứ nhất, xây dựng các điều kiện kinh tế của nền dân chủ. Cốt lõi của công
việc này là phát triển và hoàn thiện nền kinh tế thị trường. Một nền kinh tế thị trường
lành mạnh không chỉ tạo ra của cải còn nền tảng vật chất để dân chủ hóa các
quan hệ xã hội, đảm bảo quyền làm chủ và lợi ích chính đáng của người lao động.
Thứ hai, xây dựng các điều kiện chính trị của nền dân chủ. Trọng tâm của lĩnh
vực này việc xây dựng một nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền thiết
chế đảm bảo quyền lực của nhân dân được thực thi một cách hiệu quả, đồng thời giới
hạn quyền lực của nhà nước bằng Hiến pháp và pháp luật, ngăn chặn sự lạm quyền
độc đoán.
Thứ ba, xây dựng các điều kiện văn hóa của nền dân chủ. Yếu tố cốt lõi việc
nâng cao dân trí, thúc đẩy tự do ởng, tự do ngôn luận và khuyến khích sự đa dạng
văn hóa. Một nền văn hóa dân chủ sẽ tạo ra môi trường cho sự phát triển của tri thức
và sáng tạo, đồng thời thúc đẩy đối thoại và khoan dung.
Thứ tư, xây dựng các điều kiện xã hội của nền dân chủ. Trọng tâm là việc hình
thành và phát triển xã hội công dân, xã hội dân sự, cùng với việc đảm bảo an sinh
hội. Đây những thiết chế giúp bảo vệ quyền lợi của người dân, khắc phục sự bất
bình đẳng và tạo ra một môi trường xã hội công bằng, đoàn kết.
1.2. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dựa trên tổng kết thực tiễn quá trình hình thành phát triển các nền dân chủ
trong lịch sử gần nhất nền dân chủ vô sản, các nhà sáng lập của chủ nghĩa Mác
lOMoARcPSD| 61197966
- Lênin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ một quá trình u dài, phức tạp giá trị
của nền dân chủ tư sản chưa phải là hoàn thiện nhất, do đó, tất yếu xuất hiện một nền
dân chủ mới, cao hơn dân chủ sản đó chính nền dân chủ sản hay còn gọi
là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa."
Nền dân chủ hội chủ nghĩa nguồn gốc tthực tiễn đấu tranh giai cấp
Pháp Công Paris năm 1871. Tuy nhiên, chỉ khi Cách mạng Tháng Mười Nga
thành công nhà ớc hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời vào năm 1917, nền dân chủ
hội chủ nghĩa mới chính thức được xác lập. Sự ra đời của đánh dấu một bước
tiến mới về chất của dân chủ. Nền dân chủ này phát triển từ thấp đến cao, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện, sự kế thừa chọn lọc những giá trị dân chủ của các
thời kỳ trước, đặc biệt nền n chủ sản, đồng thời bổ sung làm sâu sắc hơn
những giá trị mới.
Giai cấp sản hoàn thành, duy trì giành thắng lợi trong cuộc cách mạnh
xã hội chủ nghĩa bởi hai yếu tố : tiến hành cuộc cách mạng thông qua cuộc đấu tranh
cho dân chủ và thực hiện đầy đủ dân chủ.
Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là không ngừng mở rộng
dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho những người lao động, khuyến khích họ tự
giác tham gia vào công việc quản lý nhà nước,xã hội. Tuy nhiên, càng hoàn thiện bao
nhiêu, nền dân chủ hội chủ nghĩa lại tự tiêu vong bấy nhiêu. Điều này do tính
chất chính trị của dân chủ sẽ dần mất đi khi dân chủ được mở rộng không ngừng đối
với nhân dân, xác lập địa vị chủ thể quyền lực của họ. Điều đó tạo điều kiện để họ
tham gia ngày càng đông đảo và có vai trò quyết định n vào việc quản lý nhà ớc,
quản lý xã hội (xã hội tự quản). Quá trình này khiến dân chủ trở thành một thói quen,
một tập quán trong đời sống xã hội... để rồi đến một lúc nào đó, nó không còn tồn tại
như một thể chế nhà nước hay một chế độ, tức là mất đi tính chính trị của nó.
Sự tiêu vong của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ chấm dứt khi xã hội đạt đến
trình độ phát triển cao, không còn tồn tại sự phân chia giai cấp, đó chính hội
cộng sản chủ nghĩa đã đạt đến mức độ hoàn thiện.
Từ những phân tích trên ta có thể rút ra: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân
chủ cao hơn về chất so với nền dân chtrong lịch sử nhân loại, nền dân
đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ dân m chú; dân chủ pháp
luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền
xã hội chú nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản". (BGD&ĐT,
lOMoARcPSD| 61197966
Giáo trình CNXHKH, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr134)
Nền dân chủ hội chnghĩa mới chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian
ngắn một số quốc gia điểm khởi đầu về kinh tế, hội rất thấp. Đồng thời,
những quốc gia này lại thường xuyên phải đối mặt với các cuộc tấn công chiến
tranh từ kẻ thù. Chính vì thế, mức độ dân chủ ở các nước này hiện nay vẫn còn nhiều
hạn chế trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân thông
qua nhiều yếu tố. Đó là: sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng
sản, trình độ dân trí của người dân, sự phát triển của hội công dân, việc xây dựng
cơ chế pháp luật để đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền làm chủ nhà nước và quyền
tham gia vào các quyết sách của nhà ớc, cùng với các điều kiện vật chất để thực thi
dân chủ. Trong số đó, slãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản
được coi là yếu tố quan trọng nhất.
1.2.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ vô sản là nền dân chủ dành cho quần chúng lao động và những người
bị bóc lột, một thể chế dân chủ lợi ích của đa số. Trong chủ nghĩa xã hội, dân chủ
bao trùm toàn bộ các mặt của đời sốnghội, trong đó dân chủ trên lĩnh vực kinh tế
là cơ sở.
Dân chủ đó càng hoàn thiện thì càng nhanh chóng tự tiêu vong. Dân chủ sản
loại bỏ quyền dân chủ của tất cả các giai cấp đối tượng của nhà nước vô sản, đồng
thời đưa đông đảo quần chúng nhân dân lên vị trí chủ thể chính của xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa có ba bản chất cơ bản, bao gồm:
Thứ nhất, bản chất chính trị: "Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một chính đảng
của giai cấp công nhân (đảng Mác - Lênin), quyền lực của nhân dân được thực hiện
trên mọi lĩnh vực xã hội, thể hiện qua các quyền dân chủ, quyền làm chủ, quyền con
người, nhằm thỏa mãn ngày càng cao hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân."
Giai cấp công nhân thực hiện lãnh đạo chính trị đối với toàn hội thông qua
chính đảng của mình, thực thi quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân, trong đó có
cả giai cấp ng nhân. Sự lãnh đạo y được gọi sự thống trị chính trị. Đây yếu
tố quan trọng nhất, khiến dân chủ xã hội chủ nghĩa có tính nhất nguyên về chính trị.
Trong nền dân chủ hội chủ nghĩa, nhân dân lao động người m chủ các
quan hệ chính trị trong hội. Họ quyền cđại biểu tham gia o bộ máy chính
lOMoARcPSD| 61197966
quyền từ trung ương đến địa phương, đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật,
và bộ máy nhà nước. Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc quản nhà nước
của nhân dân chính là nội dung dân chủ trên lĩnh vực chính trị.
Xét về bản chất chính trị, dân chủ hội chủ nghĩa vừa bản chất giai cấp
công nhân, vừa mang tính nhân dân rộng rãi tính dân tộc sâu sắc. Do đó, nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa khác biệt về chất so với nền dân chủ tư sản ở: bản chất giai cấp
(giai cấp công nhân và giai cấp tư sản); cơ chế nhất nguyên so với cơ chế đa nguyên;
một đảng hay nhiều đảng; bản chất nhà nước (nhà nước pháp quyền hội chủ
nghĩa so với nhà nước pháp quyền tư sản).
Thứ hai, bản chất kinh tế: "Nền dân chủ này dựa trên chế độ sở hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu của toàn xã hội, nhằm đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực
lượng sản xuất dựa trên sở khoa học - công nghệ hiện đại. Điều này nhằm thỏa
mãn ngày càng cao các nhu cầu vật chất tinh thần của toàn thể nhân dân lao
động."
Nền dân chủ này đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân đối với các tư liệu sản
xuất chủ yếu; quyền làm chủ trong qtrình sản xuất, kinh doanh, quản phân
phối. Việc coi lợi ích kinh tế của người lao động động lực bản nhất sức thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Kinh tế hội chủ nghĩa cũng sự kế thừa phát triển mọi thành tựu
nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời loại bỏ những yếu tố lạc hậu, tiêu cực, kìm
hãm của các chế độ kinh tế trước đó, đặc biệt là bản chất hữu, áp bức, bóc lột, bất
công đối với đa số nhân dân.
Khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ hội chủ nghĩa
thực hiện chế độ công hữu về liệu sản xuất chủ yếu thực hiện chế độ phân
phối lợi ích theo kết quả lao động là chính.
Thứ ba, bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội:"Nền dân chủ này lấy hệtưởng
Mác - Lênin - hệ tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi hình thái
ý thức xã hội khác trong xã hội mới. Đồng thời, nó kế thừa, phát huy những tinh hoa
văn hóa truyền thống dân tộc; tiếp thu những giá trị tưởng - văn hóa, văn minh,
tiến bộ xã hội mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc...".
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ những giá trị văn
hóa tinh thần; được nâng cao trình độ văn hóa, có điều kiện để phát triển cá nhân. Từ
góc độ này, dân chủ là một thành tựu văn hóa, một quá trình sáng tạo văn hóa, thể hiện
khát vọng tự do, sáng tạo và phát triển của con người.
lOMoARcPSD| 61197966
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN - THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ VẬN
HÀNH NỀN DÂN CHỦ XHCN Ở NƯỚC VIỆT NAM TA
2.1. Tớc thời kỳ đổi mới 1986
2.1.1. Bối cảnh
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền về tay nhân dân,
lập ra nnước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 tạm
thời chia Việt Nam thành hai miền. Miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh thống nhất đất
nước trong khi miền Bắc vừa xây dựng hậu phương vững chắc, vừa chi viện cho miền
Nam đánh Hoa Kỳ. Đất nước đối mặt với những hệ quả nghiêm trọng sau chiến tranh,
khát vọng lớn nhất của Đảng và Nhà nước là xây dựng một xã hội công bằng, xóa bỏ
tàn dư của chế độ cũ. Sau năm 1975, nền kinh tế cả nước kiệt quệ do chiến tranh kéo
dài. Cơ sở hạ tầng bị tàn phá nghiêm trọng, sản xuất đình trệ, tài chính thiếu hụt. Bên
cạnh đó, sự đối đầu căng thẳng giữa hai phe: chủ nghĩa hội chủ nghĩa bản
kèm với sự sụp đổ của hình hội chủ nghĩa Liên các nước Đông Âu
diễn ra căng thẳng. Điều này khiến Việt Nam phải đối mặt với chính sách bao vây,
cấm vận từ các thế lực thù địch, gây cản trở cho công cuộc xây dựng đất nước.
2.1.2. Cách thức vận dụng nền dân chủ XHCN
Thời kỳ trước Đổi mới (1975-1986), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
vận hành chủ yếu theo dân chủ tập trung, gắn liền với nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung. Cách thức vận hành của nước ta có những đặc điểm nổi bật mang tính dân chủ
sau:
Về chính trị, ớc ta áp dụng hệ thống một Đảng duy nhất. Đảng Cộng sản Việt
Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà ớc hội. Mọi quyết sách quan trọng
đều do Đảng đề ra, sau đó được thể chế hóa thành pháp luật chính sách của Nhà
nước. Quyền lực nhân dân được thể hiện chủ yếu thông qua các cơ quan đại diện dân
cử bao gồm Quốc hội Hội đồng nhân dân các cấp. Dân chủ còn mang tính hình
thức. Mặc dù về mặt thuyết, người dân quyền tham gia vào các quá trình chính
trị, trên thực tế, quyền lực tiếng nói của họ còn hạn chế. Các cuộc bầu cử được tổ
chức nhưng việc đề cử và lựa chọn ứng viên thường được quyết định bởi các cấp lãnh
đạo. Dù có các hình thức lấy ý kiến, việc phản biện và giám sát của người dân đối với
các chính sách còn gặp nhiều khó khăn do cơ chế tập trung, quan liêu.
lOMoARcPSD| 61197966
Về kinh tế, nước ta áp dụng kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Đây biểu hiện
nhất của việc áp dụng hình XHCN. Nhà nước nắm quyền kiểm soát toàn bộ nền
kinh tế, từ việc đặt ra các chỉ tiêu sản xuất, phân bổ nguồn lực, đến quyết định giá cả
sản phẩm. Ngoài ra, để xóa bỏ hữu về liệu sản xuất, Nhà nước đã tiến hành
quốc hữu hóa các nhà máy, xí nghiệp nhân và tập thể hóa đất đai nông nghiệp thành
các hợp tác xã sản xuất.
Về xã hội, các tổ chức quần chúng đã được phát huy tác dụng. c tổ chức
như Mặt trận Tổ quốc, Tổng Liên đoàn Lao động, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh... đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục huy động quần
chúng tham gia o các phong trào thi đua sản xuất, xây dựng đất nước theo định
hướng của Đảng. Bên cạnh đó, Nhà nước thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo
công bằng hội, cung cấp các dịch vụ thiết yếu như giáo dục, y tế cho mọi người
dân, không phụ thuộc vào khả năng chi trả.
2.1.3. Thành tựu
Trong thời kỳ đánh đuổi quân thù, giành độc lập dân tộc, Đảng ta đã có những
biện pháp tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội và đạt được những thành tựu nhất định
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), với sự lãnh đạo tập trung của Đảng, đã
tạo ra một sự đồng thuận chính trị mạnh mẽ, giúp thống nhất ý chí của toàn dân tộc
sau chiến tranh. Điều này yếu tố then chốt đgiải quyết những khác biệt về tưởng
và lối sống giữa hai miền Nam và Bắc.
Ngoài ra, nước ta đã bước đầu hình thành cấu kinh tế mới cải thiện đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động. Trong đó, về nông nghiệp nước ta đã
tăng cường biện pháp khai hoang, thâm canh, tăng vụ, trang bị thêm 18000 máy móc
các loại, diện tích gieo trồng tăng thêm 2 triệu héc ta, sản xuất nông nghiệp bình quân
hàng năm tăng từ 1,9% (1976) lên 4,9% (1980), sản xuất lương thực tăng bình quân
từ 13,4 triệu tấn lên 17 triệu tấn. Bên cạnh đó, công nghiệp cũng những bước đầu
phát triển, nhiều nhà máy được bắt đầu xây dựng, khôi phục được 1 700 kilomet đường
sắt, 3800 kilomet đường bộ, 30000 mét cầu, 4000 mét bến cảng, sản xuất công nghiệp
tăng bình quân hàng năm từ 0,6% đến 9,5% trong những năm 1976 – 1980. Ngoài ra,
thu nhập quốc dân cũng tăng gấp 6 lần từ 0,4% lên đến 6,4% trong giai đoạn này.
Bên cạnh đó nước ta đã tiến hành xóa bỏ những phản động của chế độ thực
dân, xây dựng nền văn hóa mới cách mạng, đời sống nhân dân có chiều hướng ổn định
hơn. Phong trào xóa chữ được đẩy mạnh trên toàn quốc. Gần 1,5 triệu người ở các
lOMoARcPSD| 61197966
tỉnh miền Nam đã được xóa chữ trong giai đoạn 1975-1977. Đến năm 1985, Việt
Nam đã cơ bản xóa nạn mù chữ trên phạm vi toàn quốc. Ngoài ra, hệ thống y tế được
thiết lập và mở rộng đến tận các xã, phường. Số lượng bệnh viện sở y tế đã tăng
đáng kể, với số giường bệnh trên 1 vạn dân tăng từ 15,6 (năm 1976) lên 21,5 (năm
1985), giúp mọi người dân đều được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
2.1.4. Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu Đảng ta cùng nhân n đã đạt được
thông qua Kế hoạch Nhà nước 5 năm, chúng ta còn không ít khuyết điểm và hạn chế:
Bởi Đảng ta áp dụng hệ thống quản tập trung, bao cấp đã dẫn đến tệ quan
liêu, làm nảy sinh tư tưởng ỷ lại, thiếu dân chủ trong quản lý. Các quyết sách thường
được đưa ra từ trên xuống không sự phản hồi đầy đủ từ sở người dân.
Quyền làm chủ của người dân trên thực tế chưa được phát huy.
Cách áp dụng một cách rập khuôn, thiếu sự sáng tạo hình chủ nghĩa
hội kiểu Liên dẫn đến nhiều khó khăn về nền kinh tế. Trong đó, Đảng ta đã áp
dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp làm giảm động lực, năng suất
và sự sáng tạo của người lao động khiến cho tốc độ và sức cạnh tranh tăng trưởng của
nền kinh tế của nước ta còn thấp. hình cứng nhắc khiến nền kinh tế không thích
ứng kịp với sự thay đổi của tình hình trong ớc và quốc tế, nhiều doanh nghiệp nhà
nước hoạt động kém hiệu quả, lỗ kéo dài. Bên cạnh đó, nhân dân rơi vào cảnh thiếu
hàng tiêu dùng, khan hiếm hàng hóa do hệ thống phân phối yếu kém. Những nguyên
nhân này đã dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - hội nghiêm trọng vào cuối thập
niên 1980.
Người dân không được đáp ứng những mặt hàng tiêu dùng bản trong sinh
hoạt. Do ngân sách nhà nước phân bổ không hiệu quả nên chất lượng các dịch vụ công
như y tế, giáo dục cũng bị suy giảm. sở vật chất nghèo nàn, trang thiết bị thiếu
thốn và chế độ đãi ngộ thấp. Không chỉ vậy, chính sách phân phối tem phiếu gây bất
công trong xã hội dẫn đến sự gia tăng tệ nạn xã hội như tham nhũng, trộm cắp,… nh
hưởng đến trật tự an ninh hội. Ngoài ra, khoảng cách vùng miền trong thời kỳ
này được bộc lộ rõ rệt, người dân ở miền núi, nông thôn ít có điều kiện được tiếp cận
với những nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống. Những hậu quả này không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống vật chất và tinh thần của người n, còn làm giảm
lòng tin vào đường lối lãnh đạo của Đảng ta.
lOMoARcPSD| 61197966
2.1.5. Đánh giá, kết luận
Nguyên nhân khách quan do Đảng ta chưa kinh nghiệm xây dựng chủ
nghĩa xã hội và do ảnh hưởng từ mô hình hội chủ nghĩa của những nước khác. Bên
cạnh đó, nguyên nhân chủ quan là do tư duy giáo điều, bảo thủ, nhận thức chưa đúng
về chủ nghĩa hội thiếu nghiên cứu thực tiễn của Đảng ta đã gây ra nhiều khó
khăn và thách thức trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ đó, những hạn chế làm cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng kéo
dài, trở thành động lực chính thúc đẩy Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng công
cuộc Đổi mới năm 1986, chuyển sang một mô hình kinh tế mới.
2.2. Sau thời kỳ đổi mới (1986)
2.2.1. Cách thức vận dụng nền dân chủ XHCN
Để thoát khỏi tình trạng suy thoái về kinh tế, nghèo n về đời sống, Đảng ta
đã đi đến quyết định đổi mới. Đây một sự nghiệp mang ý nghĩa cách mạng to lớn
đối với Đảng dân tộc. Mỗi kỳ đại hội đánh dấu một bước trưởng thành của Đảng
ta trong việc nhận thức lý luận. Tại Đại hội VI (12 1986) được điều chỉnh, bổ sung
và phát triển tại Đại hội VII (6 - 1991), Đại hội VIII (6 - 1996), Đại hội IX (4 -
2001), Đảng ta xác định đổi mới đất ớc không phải thay đổi mục tiêu lý tưởng
ban đầu là chủ nghĩa xã hội, mà là đưa ra những phương hướng, hình thức, biện pháp
phù hợp để thực hiện mục tiêu ấy có hiệu quả.
Về đổi mới chính trị, Việt Nam từng bước xây dựng Nhà ớc pháp quyền
XHCN. Chức năng quản lý kinh tế của Nnước được tách rời khỏi chức năng kinh
doanh. Nhà nước tập trung vào việc quản lý vĩ mô, tạo ra môi trường pháp lý cho các
thành phần kinh tế (kể cả nhân) phát triển, thay trực tiếp chỉ đạo sản xuất như
thời kỳ bao cấp. Mọi hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức công dân đều phải
tuân thủ Hiến pháp pháp luật. Điều này giúp hạn chế tình trạng quan liêu độc
đoán.
Về đổi mới kinh tế, Nhà nước công nhận khuyến khích nhiều thành phần
kinh tế cùng tồn tại, đặc biệt kinh tế nhân kinh tế vốn đầu nước ngoài.
Quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp pháp luật bảo vệ, tạo ra một môi trường
cạnh tranh lành mạnh. Bên cạnh đó, Nhà nước từ vai trò quản theo chế mệnh
lệnh, bao cấp chuyển sang quản mô, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng,
ổn định để các thành phần kinh tế tự do phát triển. Ngoài ra, Đảng ta tạo điều kiện cho
lOMoARcPSD| 61197966
các doanh nghiệp, từ doanh nghiệp nhà nước đến doanh nghiệp nhân được trao
quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, tự quyết định về sản phẩm, giá cả thị
trường.
Về đổi mới hội, sau Đổi mới, nhiều hình thức dân chủ trực tiếp được khuyến
khích và thể chế hóa ví dụ như trưng cầu ý dân, quy chế dân chủ ở cơ sở, tiếp xúc cử
tri phản biện hội. Các hình thức này đã cho phép người dân trực tiếp tham gia
vào việc quản lý, giám sát các hoạt động của chính quyền địa phương, đóng góp ý
kiến vào các dự thảo chính sách pháp luật. Bên cạnh đó, vai trò của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc phản biện, giám sát xã hội cũng được
nâng cao.
2.2.2. Thành tựu
Trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, Việt Nam ta đã có những ớc
chuyển mình đáng kể. Về kinh tế, từ một nước có nền kinh tế nghèo nàn, Việt Nam đã
có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm, GDP thu nhập bình quân đầu
người cũng được cải thiện. Bên cạnh đó, nước ta đã trở thành thành viên của nhiều tổ
chức kinh tế khu vực thế giới như WTO, ASEAN, APEC,…Môi trường đầu kinh
doanh thu hút lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Về đời sống
– xã hội, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh qua các năm, chất lượng cuộc sống của người dân
được nâng lên, người dân được tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa phát
triển. Ngoài ra, hệ thống an sinh xã hội từng bước được xây dựng và hoàn thiện, góp
phần xóa nhòa đi những tệ nạn hội gây ảnh hưởng xấu đến cộng đồng. Những thành
tựu đổi mới tại Việt Nam trong 35 năm đổi mới đã chứng minh rằng phát triển theo
định hướng chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa lịch sử to lớn, là ớc ngoặt chuyển giao giữa
cái cũ và cái mới, cái lạc hậu và cái hiện đại.
lOMoARcPSD| 61197966
2.2.3. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nước ta còn phải đối mặt với nhiều
thách thức mới trong qtrình phát triển đất nước. Về kinh tế, sức cạnh tranh, chất
lượng tăng trưởng còn thấp, môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi, điều tiết thị trường
còn nhiều bất cập. Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; tình trạng tham nhũng,
suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức diễn ra trong một bộ phận cán bộ đảng viên
gây mất ổn định xã hội. Chất lượng giáo dục, y tế, trường học đã tiến bhơn tuy nhiên
chưa có chất lượng cao so với các nước phát triển trên thế giới.
2.2.4. Đánh giá, kết luận
Có thể thấy, nền dân chủ XHCN Việt Nam sau Đổi Mới đã thể hiện được ưu
điểm của mình, đó kết hợp được hiệu quả của kinh tế thị trường với sự ổn định
chính trị. vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục, Việt Nam vẫn kiên định với con
đường đã chọn, tiếp tục hoàn thiện nền dân chủ để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước trong bối cảnh toàn cầu hóa.
2.3. Thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế
2.3.1. Thực trạng
a) Những điểm tích cực:
Thực tiễn gần 40 năm đổi mới cho thấy những tiến bộ rệt trong phát huy dân
chủ và xây dựng nền dân chủ XHCN. Thể chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
ngày càng hoàn thiện, ý thức năng lực làm chủ được nâng cao, nhiều chủ trương
phát huy vai trò nhân dân đạt hiệu quả, củng cniềm tin vào Đảng Nhà nước. Trong
đại dịch COVID-19, ưu thế của dân chủ XHCN cùng sức mạnh đoàn kết toàn dân
được khẳng định.
Thứ nhất, dân chủ trong kinh tế bước phát triển quan trọng, làm nền tảng
cho dân chủ trong các lĩnh vực khác. Đường lối phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và phân phối, hoạt động
bình đẳng, hợp pháp, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh đã tạo điều kiện phát huy dân
chủ. Nhđó, kinh tế Việt Nam tăng trưởng liên tục từ 1986, GDP năm 2024 ước đạt
476,3 tUSD, bình quân đầu người 4.700 USD, năng suất lao động đạt 9.182 USD/lao
động.
Thứ hai, trong chính trị, dân chủ trong Đảng, Nhà nước, đoàn thể hội
ngày càng được phát huy. Quyền lợi ích hợp pháp của công dân được bảo vệ tốt
lOMoARcPSD| 61197966
hơn, hthống chính trị đổi mới tinh gọn, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả. Mặt trận Tổ
quốc các đoàn thể mở rộng dân chủ, tăng cường giám sát, phản biện; các tổ chức
hội, nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu nhân dân; hình thức thực hiện dân chủ cũng ngày
càng đa dạng, hiệu quả.
Thứ ba, dân chủ trong văn hóa – xã hội được đẩy mạnh với hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu phát triển. Nhiều quy định
cụ thể hóa quyền nghĩa vụ công dân, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp
luật, thúc đẩy công bằng xã hội và phát huy hiệu quả quyền con người.
b) Những hạn chế:
Bên cạnh những kết quả tích cực, việc phát huy dân chủ hội chnghĩa
Việt Nam vẫn còn một số hạn chế:
Một , “Quyền làm chủ của nhân dân lúc, nơi còn bị vi phạm; vẫn còn
biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”. Ở một số nơi,
nhận thức và thực hành về dân chủ, thực hiện dân chủ sở còn hình thức, quyền làm
chủ của nhân dân chưa được tôn trọng phát huy, chưa chế đầy đủ bảo đảm
để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực.
Hai là, nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, nhân phụ trách” trên thực tế một số
nơi rơi vào hình thức. Còn tình trạng lạm quyền, lộng quyền, quan liêu, cửa quyền
gây phiền hà cho nhân dân của một số cơ quan công quyền, cán bộ. Chậm thể chế hóa
các chủ trương của Đảng thành pháp luật, quy định. Hệ thống pháp luật của Việt Nam
mặt còn chưa đồng bộ, gây khó khăn cho các quan thi hành pháp luật nhân
dân, ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong xã hội. Những hạn chế đã nêu phải
sớm được khắc phục để nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân và thực hành quyền
làm chủ của nhân dân trong thực tiễn ngày càng rộng rãi và thực chất.
Ba , thể chế để phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn
những bất cập. Một số luật đã được ban hành, nhưng đến nay vẫn chưa được tổ chức
triển khai thực hiện rộng rãi. Một số quan hành chính nhà nước, chính quyền các
cấp tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật chưa tốt, như trên các lĩnh vực quy hoạch,
quản quy hoạch, quản đất đai, tài nguyên, khoáng sản, đền bù, giải phóng mặt
bằng, tổ chức tái định cư.
lOMoARcPSD| 61197966
2.3.2. Cơ hội
Hiện nay, công cuộc xây dựng vận hành nền dân chủ XHCN Việt Nam
đang mở ra nhiều hội to lớn để phát triển hoàn thiện. Cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 tạo ra bước ngoặt quan trọng, với sự phổ cập của internet các nền tảng
số, giúp việc thực hiện dân chủ trực tiếp trở nên khả thi hơn bao giờ hết. Người dân
có nhiều hội để tham gia đóng p ý kiến, giám t quyền lực tiếp cận thông tin
một cách minh bạch, qua đó thúc đẩy một nền dân chủ hiện đại, rộng rãi sâu sắc.
Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, tạo nh lang pháp
vững chắc cho việc bảo đảm mở rộng các quyền tự do, dân chủ của công dân. Ý
thức về quyền làm chủ năng lực tham gia quản nhà nước, quản hội của
người dân ngày càng được nâng cao, trở thành động lực nội sinh mạnh mẽ. Hơn nữa,
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hội nhập quốc tế sâu rộng tạo điều kiện để
Việt Nam học hỏi, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm, hình dân chủ tiến b
trên thế giới, từ đó vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện và bản sắc riêng của đất
nước. Những hội này, nếu được tận dụng khai thác hiệu quả, sẽ góp phần xây
dựng một nền dân chủ thực chất, mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh".
2.3.3. Thách thức
Bên cạnh những hội, công cuộc xây dựng và vận hành nền dân chủ XHCN
Việt Nam hiện nay cũng đối mặt với nhiều thách thức không nhỏ. Một trong những
thách thức lớn nhất tình trạng tham nhũng, tiêu cực sự suy thoái về tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, làm xói n lòng
tin của nhân dân làm giảm hiệu quả của các thiết chế dân chủ. Khoảng cách giàu
nghèo và sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng, miền dẫn đến nguy cơ về
sự bất bình đẳng trong việc thụ hưởng và tham gia thực hiện các quyền dân chủ. Mặt
khác, nhận thức năng lực làm chủ của không ít người dân vẫn còn hạn chế, khiến
cho việc thực hành dân chủ đôi khi chưa thực sự đầy đủ hiệu quả. Các thế lực thù
địch cũng không ngừng lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền" để tiến hành các
hoạt động chống phá, can thiệp vào công việc nội bộ, đòi hỏi phải luôn cảnh giác
bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, trật tự an toàn hội. Hơn nữa, việc hoàn thiện
thể chế để vận hành nền dân chủ một cách đồng bộ, hiệu quả vẫn là một bài toán khó,
đòi hỏi sự đổi mới mạnh mẽ và kiên trì. Những thách thức này đặt ra yêu cầu phải có
các giải pháp đồng bộ, toàn diện để vừa phát huy được bản chất tốt đẹp của dân chủ
XHCN, vừa bảo đảm ổn định chính trị - xã hội.
lOMoARcPSD| 61197966
2.3.4. Kết luận về thực tiễn xây dựng nền dân chủ XHCN
Thực tiễn xây dựng nền dân chủ XHCN Việt Nam một hành trình phát
triển tích cực, tiến bộ nhưng không phải không những khó khăn, phức tạp. Thành
công hay không phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý hiệu lực, hiệu
quả của Nhà nước đặc biệt sự thức tỉnh, tham gia chủ động, tích cực của toàn
dân. Đây một quá trình tự hoàn thiện không ngừng, vừa kế thừa những giá trị truyền
thống, vừa phải đổi mới sáng tạo để xây dựng một nền dân chủ thực chất, phù hợp với
điều kiện cụ thể của Việt Nam và xu thế của thời đại.
Chương 3: XÃ HỘI CHỦ NGHĨATƯ BẢN CHỦ NGHĨ
3.1. Tư bản chủ nghĩa
3.1.1. Khái niệm về chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội đặc thù dựa trên nền tảng sở
hữu nhân về liệu sản xuất, gắn liền với sự vận hành của cơ chế thị trường mục
đích tối đa a lợi nhuận. Trong xã hội bản, giai cấp sản nắm giữ liệu sản xuất,
còn đại bộ phận nhân dân lao động không có tư liệu sản xuất, đặc biệt là giai cấp công
nhân, phải tham gia thị trường lao động thông qua việc bán sức lao động để nhận tiền
công. Trên cơ sở đó nh thành nên quan hệ sản xuất đặc trưng của hội bản, trong
đó giá trị thặng dư do người lao động tạo ra trở thành nguồn lợi nhuận của giai cấp sở
hữu.
Theo C. Mác, điểm đặc trưng của phương thức sản xuất bản chủ nghĩa
việc tư bản tự vận động nhằm sinh ra giá trị thặng dư. Theo ông, quá trình tư bản diễn
ra khi tiền được ng để mua tư liệu sản xuất và sức lao động; những yếu tố này được
sử dụng để sản xuất hàng hóa, và khi hàng hóa được bán sẽ thu về một lượng tiền lớn
hơn so với vốn đầu ban đầu. Vì vậy, mục tiêu trực tiếp của sản xuất trong chế độ tư
bản không phải thỏa mãn nhu cầu hội một cách thuần túy, biến tiền vốn
thành nhiều tiền hơn, tức tối đa hóa giá trthặng lợi nhuận cho giai cấp
sản. Đây bản chất của nền sản xuất bản: sản xuất không phải để thỏa mãn nhu
cầu xã hội một cách trực tiếp, nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho giai cấp sản” (C.
Mác: Tư bản, Quyển I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1998, tr. 167-168).
Chủ nghĩa tư bản đồng thời cũng là một hình thái chính trị – xã hội. Nhà nước
sản ra đời tồn tại như một thiết chế chính trị pháp lý, giữ vai trò quản
hội, duy trì trật tự và bảo vệ sự ổn định của quan hệ sản xuất hiện hành. Trong lịch sử,
lOMoARcPSD| 61197966
chủ nghĩa tư bản đã có ý nghĩa tiến bộ ở chỗ nó góp phần thay thế chế độ phong kiến
lạc hậu, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế,
tạo điều kiện cho khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bậc. Chính sự phát triển này đã
chuẩn bị những tiền đề vật chất hội cần thiết cho sự hình thành của chủ nghĩa
xã hội trong tương lai.
3.1.2. Cơ sở lý luận của chủ nghĩa tư bản
a) Nguồn gốc hình thành
Chủ nghĩa bản không xuất hiện một cách tự phát, mà hình thành trên sở
phát triển của sản xuất hàng hóa giản đơn và sự tích lũy nguyên thủy tư bản. Quá trình
này diễn ra mạnh mẽ vào thế kỷ XV – XVI, khi sự tan rã của chế độ phong kiến châu
Âu dẫn đến sự ra đời của những quan hệ sản xuất mới. Các cuộc phát kiến địa lý, mở
rộng thị trường, sự hình thành các công ty thương mại ngân hàng đã tạo ra điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của sản xuất hàng hóa và thương nghiệp.
Đặc biệt, sự tích lũy nguyên thủy bản quá trình tước đoạt ruộng đất của
nông dân, biến họ thành công nhân làm thuê là một yếu tố quyết định cho sự ra đời
của chủ nghĩa tư bản. Song song với đó, các cuộc cách mạng tư sản ở Hà Lan, Anh và
Pháp đã lật đổ ách thống trị phong kiến, mở đường cho sự xác lập quyền thống trị của
giai cấp tư sản.
b) Tư tưởng nền tảng
tưởng nền tảng của chủ nghĩa bản dựa trên các giá trị cốt i: quyền
hữu, tự do nhân, tự do kinh doanh cạnh tranh thị trường. Những giá trị này được
hình thành hệ thống hóa thông qua các học thuyết kinh tế chính trị của thời kỳ
cận đại. Adam Smith (1723–1790), với tác phẩm “Sự giàu của các quốc gia”
(1776), đã khẳng định vai trò của “bàn tay hình” chế thị trường tự điều tiết
dựa trên lợi ích cá nhân. Theo ông, khi mỗi cá nhân theo đuổi lợi ích riêng, họtình
thúc đẩy lợi ích chung của toàn xã hội. David Ricardo (1772–1823) bổ sung lý thuyết
về giá trị lao động và lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế, khẳng định sự ưu việt
của trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia. Ngoài ra, tư tưởng về khế ước xã hội (Jean-
Jacques Rousseau, John Locke) chủ quyền nhân dân ng đóng vai trò nền tảng
trong việc hình thành nhà nước sản hiện đại. Vậy nên, những tư tưởng này hợp
thành hệ thống luận chính thống cho chủ nghĩa bản trong giai đoạn tự do cạnh
tranh (thế kỷ XVIII XIX), đến nay vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng trong thuyết
và thực tiễn phát triển kinh tế – chính trị.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61197966
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE (AEP)
-------------oOo-------------- BÀI TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI : Nền dân chủ và nền dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 1 Giảng viên: Nguyễn Thị Mai Lan
Mã lớp học phần: LLNL1107(125)CLC_17 Hà Nội - 2025 lOMoAR cPSD| 61197966 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................1
NỘI DUNG CHÍNH......................................................................................2
Chương 1: NỀN DÂN CHỦ VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA2
1.1 Tổng quan về nền dân chủ.................................................................2
1.2. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa...........................................................4
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN - THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ VẬN
HÀNH NỀN DÂN CHỦ XHCN Ở NƯỚC VIỆT NAM TA..................................7
2.1. Trước thời kỳ đổi mới 1986..............................................................7
2.2. Sau thời kỳ đổi mới (1986).............................................................10
2.3. Thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế..............................................12
Chương 3: LIÊN HỆ NỀN DÂN CHỦ XHCN CỦA VIỆT NAM VỚI THẾ
GIỚI.....................................................................................................................15
3.1. Tư bản chủ nghĩa ...........................................................................15
3.2. So sánh nền dân chủ Việt Nam với nền dân chủ Tư bản chủ nghĩa tại
Hoa Kỳ.............................................................................................................18
Chương 4: THỰC TRẠNG HIỆN NAY CỦA NỀN DÂN CHỦ VIỆT
NAM VÀ CÂU HỎI CÁ NHÂN VÀ CỘNG ĐỒNG PHẢI LÀM GÌ ĐỂ GIỮ
NỀN DÂN CHỦ ĐÓ............................................................................................22
4.1. Nhìn nhận về một số những thực trạng hiện nay............................22
4.2. Nghĩa vụ của cộng đồng và cá nhân trong việc giữ gìn nền dân chủ
XHCN..............................................................................................................24
KẾT LUẬN..................................................................................................27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................28
BẢNG PHÂN CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THÀNH CÔNG VIỆC ST Mã sinh viên Họ và tên Nhiệm vụ Mức độ T đóng góp 1 11240670 Bùi Minh Hà
Nhóm trưởng, phân chia 100%
nhiệm vụ và điều hành
hoạt động của nhóm
lOMoAR cPSD| 61197966 2 11244591
Đinh Thị Cẩm Tú Tìm nội dung chương 100%
3,4.Hỗ trợ thuyết trình 3 11248187 Lê Đức Trung
Tìm nội dung chương 100%
3,4. Hỗ trợ về thuyết trình 4 11245132
Đoàn Ngọc Tuấn Tìm nội dung chương 100%
1,2. Hỗ trợ về hình thức 5 11245444
Nguyễn Văn Ngọc Tìm nội dung chương 100%
3,4. Hỗ trợ về hình thức 6 11244094 Lê Thùy Linh
Tìm nội dung chương 100%
1,2. Hỗ trợ về hình thức 7 11241726
Đinh Phương Anh Tìm nội dung chương 100%
3,4. Hỗ trợ về thuyết trình 8 11248033 Nguyễn Khánh
Tìm nội dung chương 100% Ngân
1,2. Hỗ trợ về thuyết trình 9 11247370 Nông Thế Việt
Tìm nội dung chương 100%
3,4. Hỗ trợ về hình thức lOMoAR cPSD| 61197966 LỜI MỞ ĐẦU
Trong dòng chảy lịch sử của dân tộc Việt Nam, khát vọng về một nền dân chủ
chân chính luôn là ngọn lửa thiêng liêng cháy bỏng qua mọi thăng trầm của thời đại.
Từ buổi bình minh của cách mạng tháng Tám năm 1945, khi bản Tuyên ngôn Độc lập
khẳng định quyền tự do, bình đẳng của mỗi con người, đến chiến thắng lịch sử năm
1975 thống nhất non sông, và đặc biệt là công cuộc Đổi mới năm 1986 mang tính
bước ngoặt, dân tộc ta đã kiên trì xây dựng và phát triển một mô hình dân chủ độc đáo
- nền dân chủ xã hội chủ nghĩa - mà ở đó, quyền làm chủ của nhân dân được đặt ở vị
trí trung tâm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bước vào thế kỷ XXI, trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi sâu sắc diện mạo thế giới, Việt
Nam tiếp tục khẳng định bản lĩnh và trí tuệ khi vừa giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, vừa chủ động, sáng tạo hội nhập quốc tế. Sự nghiệp xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ngày càng đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc,
toàn diện cả về mặt lý luận và thực tiễn, đồng thời phải có tầm nhìn soi chiếu, đối sánh
với các mô hình dân chủ trên thế giới.
Việc nghiên cứu, đánh giá một cách khách quan, khoa học về nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ có ý nghĩa lý luận quan trọng, mà còn mang giá
trị thực tiễn sâu sắc, góp phần hoàn thiện thể chế, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới. Bài tiểu luận
này được thực hiện với mong muốn góp thêm một góc nhìn phân tích về vấn đề hệ trọng đó.
1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng trọng tâm của bài tiểu luận là nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, được xem xét trên cả phương diện lý luận
và thực tiễn. Về phạm vi nghiên cứu, bài tiểu luận tập trung phân tích quá
trình hình thành, phát triển và vận hành của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam từ khi đất nước thống nhất đến nay, với trọng tâm là giai đoạn
từ Đổi mới (1986) đến nay. Đồng thời cũng mở rộng phạm vi đối sánh với
mô hình dân chủ tư bản chủ nghĩa tại Hoa Kỳ - một mô hình dân chủ tiêu
biểu trong thế giới hiện đại
2. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, bài tiểu luận
vận dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận khoa học. Phương pháp luận lOMoAR cPSD| 61197966
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin được sử
dụng như kim chỉ nam trong phân tích và đánh giá các vấn đề. Các phương
pháp cụ thể được áp dụng bao gồm: phương pháp phân tích - tổng hợp tài
liệu để kế thừa có chọn lọc các nghiên cứu đi trước; phương pháp so sánh
đối chiếu để làm rõ sự tương đồng và khác biệt giữa các mô hình dân chủ;
phương pháp thống kê - mô tả để xử lý các dữ liệu thực tiễn; và phương
pháp hệ thống - cấu trúc để xem xét vấn đề một cách toàn diện, có tính đến
mối liên hệ biện chứng giữa các yếu tố.
Với cách tiếp cận này, bài tiểu luận kỳ vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận và thực tiễn về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, từ đó khẳng
định tính tất yếu và giá trị của mô hình dân chủ mà dân tộc ta đã lựa chọn, đồng thời
đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. lOMoAR cPSD| 61197966
NỘI DUNG CHÍNH Chương 1: DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1 Tổng quan về nền dân chủ
Khái niệm nền dân chủ dùng để chỉ hệ thống các thiết chế được xác lập và thực
thi trong hiện thực xã hội theo mục tiêu thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong
xã hội đó. Nền dân chủ được hiểu là một chỉnh thể xã hội trong đó các giá trị, chuẩn
mực, yêu cầu, các nguyên tắc dân chủ được ghi nhận và thực thi trên các lĩnh vực cơ
bản của đời sống xã hội.
Một nền dân chủ toàn diện phải được xây dựng dựa trên sự thực thi các nguyên
tắc cốt lõi trên nhiều lĩnh vực:
Lĩnh vực chính trị: Quyền lực tối cao phải thuộc về nhân dân. Mọi quyền năng
của nhà nước đều xuất phát từ sự ủy quyền của nhân dân thông qua cơ chế bầu cử tự
do và công bằng. Để đảm bảo quyền lực không bị lạm dụng, nhà nước phải hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của nhân dân
và các tổ chức đại diện. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền tham
gia vào các công việc nhà nước, xã hội.
Lĩnh vực kinh tế: Nền kinh tế phải được tổ chức nhằm phục vụ lợi ích và nhu
cầu chính đáng của nhân dân. Các thiết chế kinh tế cần tạo điều kiện để người dân và
người lao động được làm chủ, tham gia vào quá trình sở hữu và quản lý, đồng thời
được thụ hưởng thành quả lao động một cách xứng đáng. Điều này đòi hỏi sự kết hợp
hài hòa giữa vai trò quản lý của nhà nước với việc phát huy tối đa tiềm năng kinh tế
của các cá nhân và doanh nghiệp.
Lĩnh vực xã hội: Dân chủ đòi hỏi sự thống nhất trong tính đa dạng. Nguyên tắc
cơ bản là thiểu số phải tuân thủ quyết định của đa số, nhưng quyền lợi của thiểu số
cũng phải được tôn trọng và bảo vệ. Một xã hội dân chủ cần nỗ lực xóa bỏ sự khác
biệt bất bình đẳng giữa các tầng lớp và vùng miền, đảm bảo quyền con người và quyền
công dân được thực thi đầy đủ trên thực tế.
Lĩnh vực văn hóa: Dân chủ trong văn hóa bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo
chí, tự do tư tưởng trong khuôn khổ pháp luật. Nó tạo điều kiện cho sự phát triển của
khoa học và sáng tạo nghệ thuật. Đồng thời, nền dân chủ văn hóa thúc đẩy sự hòa giải,
hợp tác, đối thoại và khoan dung như những phương thức chủ yếu để giải quyết các mâu thuẫn xã hội. lOMoAR cPSD| 61197966
Thực tế cho thấy, sự ra đời, phát triển của các nền dân chủ là quá trình vận
động, phát triển theo logic lịch sử - tự nhiên của nó. Tiến trình phát triển của xã hội
loài người đồng thời là tiến trình không ngừng xây dựng và hoàn thiện các giá trị dân
chủ. Đây là một xu thế tất yếu, khách quan, phản ánh sự tiến hóa của lịch sử. Xây
dựng nền dân chủ không phải là một hoạt động tự phát mà là một quá trình có ý thức,
được dẫn dắt bởi các cá nhân và tổ chức, đặc biệt là đảng cầm quyền, dựa trên sự nhận
thức sâu sắc về các điều kiện khách quan và chủ quan. Mục tiêu cuối cùng là tạo lập
những cơ sở lịch sử vững chắc để thực thi các nguyên tắc dân chủ, qua đó bảo đảm
quyền lực và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Để thực hiện mục tiêu này, quá trình xây dựng dân chủ cần tập trung vào bốn lĩnh vực chính:
Thứ nhất, xây dựng các điều kiện kinh tế của nền dân chủ. Cốt lõi của công
việc này là phát triển và hoàn thiện nền kinh tế thị trường. Một nền kinh tế thị trường
lành mạnh không chỉ tạo ra của cải mà còn là nền tảng vật chất để dân chủ hóa các
quan hệ xã hội, đảm bảo quyền làm chủ và lợi ích chính đáng của người lao động.
Thứ hai, xây dựng các điều kiện chính trị của nền dân chủ. Trọng tâm của lĩnh
vực này là việc xây dựng một nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền là thiết
chế đảm bảo quyền lực của nhân dân được thực thi một cách hiệu quả, đồng thời giới
hạn quyền lực của nhà nước bằng Hiến pháp và pháp luật, ngăn chặn sự lạm quyền và độc đoán.
Thứ ba, xây dựng các điều kiện văn hóa của nền dân chủ. Yếu tố cốt lõi là việc
nâng cao dân trí, thúc đẩy tự do tư tưởng, tự do ngôn luận và khuyến khích sự đa dạng
văn hóa. Một nền văn hóa dân chủ sẽ tạo ra môi trường cho sự phát triển của tri thức
và sáng tạo, đồng thời thúc đẩy đối thoại và khoan dung.
Thứ tư, xây dựng các điều kiện xã hội của nền dân chủ. Trọng tâm là việc hình
thành và phát triển xã hội công dân, xã hội dân sự, cùng với việc đảm bảo an sinh xã
hội. Đây là những thiết chế giúp bảo vệ quyền lợi của người dân, khắc phục sự bất
bình đẳng và tạo ra một môi trường xã hội công bằng, đoàn kết.
1.2. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dựa trên tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền dân chủ
trong lịch sử và gần nhất là nền dân chủ vô sản, các nhà sáng lập của chủ nghĩa Mác lOMoAR cPSD| 61197966
- Lênin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài, phức tạp và giá trị
của nền dân chủ tư sản chưa phải là hoàn thiện nhất, do đó, tất yếu xuất hiện một nền
dân chủ mới, cao hơn dân chủ tư sản và đó chính là nền dân chủ vô sản hay còn gọi
là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
."
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có nguồn gốc từ thực tiễn đấu tranh giai cấp ở
Pháp và Công xã Paris năm 1871. Tuy nhiên, chỉ khi Cách mạng Tháng Mười Nga
thành công và nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời vào năm 1917, nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa mới chính thức được xác lập. Sự ra đời của nó đánh dấu một bước
tiến mới về chất của dân chủ. Nền dân chủ này phát triển từ thấp đến cao, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện, có sự kế thừa có chọn lọc những giá trị dân chủ của các
thời kỳ trước, đặc biệt là nền dân chủ tư sản, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc hơn những giá trị mới.
Giai cấp vô sản hoàn thành, duy trì và giành thắng lợi trong cuộc cách mạnh
xã hội chủ nghĩa bởi hai yếu tố : tiến hành cuộc cách mạng thông qua cuộc đấu tranh
cho dân chủ và thực hiện đầy đủ dân chủ.
Nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là không ngừng mở rộng
dân chủ, nâng cao mức độ giải phóng cho những người lao động, khuyến khích họ tự
giác tham gia vào công việc quản lý nhà nước,xã hội. Tuy nhiên, càng hoàn thiện bao
nhiêu, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lại tự tiêu vong bấy nhiêu. Điều này là do tính
chất chính trị của dân chủ sẽ dần mất đi khi dân chủ được mở rộng không ngừng đối
với nhân dân, xác lập địa vị chủ thể quyền lực của họ. Điều đó tạo điều kiện để họ
tham gia ngày càng đông đảo và có vai trò quyết định hơn vào việc quản lý nhà nước,
quản lý xã hội (xã hội tự quản). Quá trình này khiến dân chủ trở thành một thói quen,
một tập quán trong đời sống xã hội... để rồi đến một lúc nào đó, nó không còn tồn tại
như một thể chế nhà nước hay một chế độ, tức là mất đi tính chính trị của nó.
Sự tiêu vong của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ chấm dứt khi xã hội đạt đến
trình độ phát triển cao, không còn tồn tại sự phân chia giai cấp, đó chính là xã hội
cộng sản chủ nghĩa đã đạt đến mức độ hoàn thiện.
Từ những phân tích trên ta có thể rút ra: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân
chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ có trong lịch sử nhân loại, là nền dân mà ở
đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chú; dân chủ và pháp
luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền
xã hội chú nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản"
. (BGD&ĐT, lOMoAR cPSD| 61197966
Giáo trình CNXHKH, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr134)
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian
ngắn và ở một số quốc gia có điểm khởi đầu về kinh tế, xã hội rất thấp. Đồng thời,
những quốc gia này lại thường xuyên phải đối mặt với các cuộc tấn công và chiến
tranh từ kẻ thù. Chính vì thế, mức độ dân chủ ở các nước này hiện nay vẫn còn nhiều
hạn chế trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân thông
qua nhiều yếu tố. Đó là: sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng
sản, trình độ dân trí của người dân, sự phát triển của xã hội công dân, việc xây dựng
cơ chế pháp luật để đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền làm chủ nhà nước và quyền
tham gia vào các quyết sách của nhà nước, cùng với các điều kiện vật chất để thực thi
dân chủ. Trong số đó, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản
được coi là yếu tố quan trọng nhất.
1.2.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ vô sản là nền dân chủ dành cho quần chúng lao động và những người
bị bóc lột, là một thể chế dân chủ vì lợi ích của đa số. Trong chủ nghĩa xã hội, dân chủ
bao trùm toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, trong đó dân chủ trên lĩnh vực kinh tế là cơ sở.
Dân chủ đó càng hoàn thiện thì càng nhanh chóng tự tiêu vong. Dân chủ vô sản
loại bỏ quyền dân chủ của tất cả các giai cấp là đối tượng của nhà nước vô sản, đồng
thời đưa đông đảo quần chúng nhân dân lên vị trí chủ thể chính của xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa có ba bản chất cơ bản, bao gồm:
Thứ nhất, bản chất chính trị: "Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một chính đảng
của giai cấp công nhân (đảng Mác - Lênin), quyền lực của nhân dân được thực hiện
trên mọi lĩnh vực xã hội, thể hiện qua các quyền dân chủ, quyền làm chủ, quyền con
người, nhằm thỏa mãn ngày càng cao hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân."

Giai cấp công nhân thực hiện lãnh đạo chính trị đối với toàn xã hội thông qua
chính đảng của mình, thực thi quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân, trong đó có
cả giai cấp công nhân. Sự lãnh đạo này được gọi là sự thống trị chính trị. Đây là yếu
tố quan trọng nhất, khiến dân chủ xã hội chủ nghĩa có tính nhất nguyên về chính trị.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là người làm chủ các
quan hệ chính trị trong xã hội. Họ có quyền cử đại biểu tham gia vào bộ máy chính lOMoAR cPSD| 61197966
quyền từ trung ương đến địa phương, đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật,
và bộ máy nhà nước. Quyền được tham gia rộng rãi vào công việc quản lý nhà nước
của nhân dân chính là nội dung dân chủ trên lĩnh vực chính trị.
Xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp
công nhân, vừa mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Do đó, nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa khác biệt về chất so với nền dân chủ tư sản ở: bản chất giai cấp
(giai cấp công nhân và giai cấp tư sản); cơ chế nhất nguyên so với cơ chế đa nguyên;
một đảng hay nhiều đảng; và ở bản chất nhà nước (nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa so với nhà nước pháp quyền tư sản).
Thứ hai, bản chất kinh tế: "Nền dân chủ này dựa trên chế độ sở hữu về tư liệu
sản xuất chủ yếu của toàn xã hội, nhằm đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực
lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ hiện đại. Điều này nhằm thỏa
mãn ngày càng cao các nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động."

Nền dân chủ này đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân đối với các tư liệu sản
xuất chủ yếu; quyền làm chủ trong quá trình sản xuất, kinh doanh, quản lý và phân
phối. Việc coi lợi ích kinh tế của người lao động là động lực cơ bản nhất có sức thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu mà
nhân loại đã tạo ra trong lịch sử, đồng thời loại bỏ những yếu tố lạc hậu, tiêu cực, kìm
hãm của các chế độ kinh tế trước đó, đặc biệt là bản chất tư hữu, áp bức, bóc lột, bất
công đối với đa số nhân dân.
Khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế độ phân
phối lợi ích theo kết quả lao động là chính.
Thứ ba, bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội:"Nền dân chủ này lấy hệ tư tưởng
Mác - Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi hình thái
ý thức xã hội khác trong xã hội mới. Đồng thời, nó kế thừa, phát huy những tinh hoa
văn hóa truyền thống dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hóa, văn minh,
tiến bộ xã hội mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc...".

Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ những giá trị văn
hóa tinh thần; được nâng cao trình độ văn hóa, có điều kiện để phát triển cá nhân. Từ
góc độ này, dân chủ là một thành tựu văn hóa, một quá trình sáng tạo văn hóa, thể hiện
khát vọng tự do, sáng tạo và phát triển của con người. lOMoAR cPSD| 61197966
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN - THỰC TIỄN XÂY DỰNG VÀ VẬN
HÀNH NỀN DÂN CHỦ XHCN Ở NƯỚC VIỆT NAM TA
2.1. Trước thời kỳ đổi mới 1986 2.1.1. Bối cảnh
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền về tay nhân dân,
lập ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 tạm
thời chia Việt Nam thành hai miền. Miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh thống nhất đất
nước trong khi miền Bắc vừa xây dựng hậu phương vững chắc, vừa chi viện cho miền
Nam đánh Hoa Kỳ. Đất nước đối mặt với những hệ quả nghiêm trọng sau chiến tranh,
khát vọng lớn nhất của Đảng và Nhà nước là xây dựng một xã hội công bằng, xóa bỏ
tàn dư của chế độ cũ. Sau năm 1975, nền kinh tế cả nước kiệt quệ do chiến tranh kéo
dài. Cơ sở hạ tầng bị tàn phá nghiêm trọng, sản xuất đình trệ, tài chính thiếu hụt. Bên
cạnh đó, sự đối đầu căng thẳng giữa hai phe: chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản
kèm với sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu
diễn ra căng thẳng. Điều này khiến Việt Nam phải đối mặt với chính sách bao vây,
cấm vận từ các thế lực thù địch, gây cản trở cho công cuộc xây dựng đất nước.
2.1.2. Cách thức vận dụng nền dân chủ XHCN
Thời kỳ trước Đổi mới (1975-1986), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
vận hành chủ yếu theo dân chủ tập trung, gắn liền với nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung. Cách thức vận hành của nước ta có những đặc điểm nổi bật mang tính dân chủ sau:
Về chính trị, nước ta áp dụng hệ thống một Đảng duy nhất. Đảng Cộng sản Việt
Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi quyết sách quan trọng
đều do Đảng đề ra, sau đó được thể chế hóa thành pháp luật và chính sách của Nhà
nước. Quyền lực nhân dân được thể hiện chủ yếu thông qua các cơ quan đại diện dân
cử bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Dân chủ còn mang tính hình
thức. Mặc dù về mặt lý thuyết, người dân có quyền tham gia vào các quá trình chính
trị, trên thực tế, quyền lực và tiếng nói của họ còn hạn chế. Các cuộc bầu cử được tổ
chức nhưng việc đề cử và lựa chọn ứng viên thường được quyết định bởi các cấp lãnh
đạo. Dù có các hình thức lấy ý kiến, việc phản biện và giám sát của người dân đối với
các chính sách còn gặp nhiều khó khăn do cơ chế tập trung, quan liêu. lOMoAR cPSD| 61197966
Về kinh tế, nước ta áp dụng kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Đây là biểu hiện
rõ nhất của việc áp dụng mô hình XHCN. Nhà nước nắm quyền kiểm soát toàn bộ nền
kinh tế, từ việc đặt ra các chỉ tiêu sản xuất, phân bổ nguồn lực, đến quyết định giá cả
và sản phẩm. Ngoài ra, để xóa bỏ tư hữu về tư liệu sản xuất, Nhà nước đã tiến hành
quốc hữu hóa các nhà máy, xí nghiệp tư nhân và tập thể hóa đất đai nông nghiệp thành
các hợp tác xã sản xuất.
Về xã hội, các tổ chức quần chúng đã được phát huy tác dụng. Các tổ chức
như Mặt trận Tổ quốc, Tổng Liên đoàn Lao động, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh... đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục và huy động quần
chúng tham gia vào các phong trào thi đua sản xuất, xây dựng đất nước theo định
hướng của Đảng. Bên cạnh đó, Nhà nước thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo
công bằng xã hội, cung cấp các dịch vụ thiết yếu như giáo dục, y tế cho mọi người
dân, không phụ thuộc vào khả năng chi trả. 2.1.3. Thành tựu
Trong thời kỳ đánh đuổi quân thù, giành độc lập dân tộc, Đảng ta đã có những
biện pháp tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội và đạt được những thành tựu nhất định
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), với sự lãnh đạo tập trung của Đảng, đã
tạo ra một sự đồng thuận chính trị mạnh mẽ, giúp thống nhất ý chí của toàn dân tộc
sau chiến tranh. Điều này là yếu tố then chốt để giải quyết những khác biệt về tư tưởng
và lối sống giữa hai miền Nam và Bắc.
Ngoài ra, nước ta đã bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới và cải thiện đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động. Trong đó, về nông nghiệp nước ta đã
tăng cường biện pháp khai hoang, thâm canh, tăng vụ, trang bị thêm 18000 máy móc
các loại, diện tích gieo trồng tăng thêm 2 triệu héc ta, sản xuất nông nghiệp bình quân
hàng năm tăng từ 1,9% (1976) lên 4,9% (1980), sản xuất lương thực tăng bình quân
từ 13,4 triệu tấn lên 17 triệu tấn. Bên cạnh đó, công nghiệp cũng có những bước đầu
phát triển, nhiều nhà máy được bắt đầu xây dựng, khôi phục được 1 700 kilomet đường
sắt, 3800 kilomet đường bộ, 30000 mét cầu, 4000 mét bến cảng, sản xuất công nghiệp
tăng bình quân hàng năm từ 0,6% đến 9,5% trong những năm 1976 – 1980. Ngoài ra,
thu nhập quốc dân cũng tăng gấp 6 lần từ 0,4% lên đến 6,4% trong giai đoạn này.
Bên cạnh đó nước ta đã tiến hành xóa bỏ những phản động của chế độ thực
dân, xây dựng nền văn hóa mới cách mạng, đời sống nhân dân có chiều hướng ổn định
hơn. Phong trào xóa mù chữ được đẩy mạnh trên toàn quốc. Gần 1,5 triệu người ở các lOMoAR cPSD| 61197966
tỉnh miền Nam đã được xóa mù chữ trong giai đoạn 1975-1977. Đến năm 1985, Việt
Nam đã cơ bản xóa nạn mù chữ trên phạm vi toàn quốc. Ngoài ra, hệ thống y tế được
thiết lập và mở rộng đến tận các xã, phường. Số lượng bệnh viện và cơ sở y tế đã tăng
đáng kể, với số giường bệnh trên 1 vạn dân tăng từ 15,6 (năm 1976) lên 21,5 (năm
1985), giúp mọi người dân đều được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe. 2.1.4. Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu mà Đảng ta cùng nhân dân đã đạt được
thông qua Kế hoạch Nhà nước 5 năm, chúng ta còn không ít khuyết điểm và hạn chế:
Bởi Đảng ta áp dụng hệ thống quản lý tập trung, bao cấp đã dẫn đến tệ quan
liêu, làm nảy sinh tư tưởng ỷ lại, thiếu dân chủ trong quản lý. Các quyết sách thường
được đưa ra từ trên xuống mà không có sự phản hồi đầy đủ từ cơ sở và người dân.
Quyền làm chủ của người dân trên thực tế chưa được phát huy.
Cách áp dụng một cách rập khuôn, thiếu sự sáng tạo mô hình chủ nghĩa xã
hội kiểu Liên Xô dẫn đến nhiều khó khăn về nền kinh tế. Trong đó, Đảng ta đã áp
dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp làm giảm động lực, năng suất
và sự sáng tạo của người lao động khiến cho tốc độ và sức cạnh tranh tăng trưởng của
nền kinh tế của nước ta còn thấp. Mô hình cứng nhắc khiến nền kinh tế không thích
ứng kịp với sự thay đổi của tình hình trong nước và quốc tế, nhiều doanh nghiệp nhà
nước hoạt động kém hiệu quả, lỗ kéo dài. Bên cạnh đó, nhân dân rơi vào cảnh thiếu
hàng tiêu dùng, khan hiếm hàng hóa do hệ thống phân phối yếu kém. Những nguyên
nhân này đã dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng vào cuối thập niên 1980.
Người dân không được đáp ứng những mặt hàng tiêu dùng cơ bản trong sinh
hoạt. Do ngân sách nhà nước phân bổ không hiệu quả nên chất lượng các dịch vụ công
như y tế, giáo dục cũng bị suy giảm. Cơ sở vật chất nghèo nàn, trang thiết bị thiếu
thốn và chế độ đãi ngộ thấp. Không chỉ vậy, chính sách phân phối tem phiếu gây bất
công trong xã hội dẫn đến sự gia tăng tệ nạn xã hội như tham nhũng, trộm cắp,… ảnh
hưởng đến trật tự và an ninh xã hội. Ngoài ra, khoảng cách vùng miền trong thời kỳ
này được bộc lộ rõ rệt, người dân ở miền núi, nông thôn ít có điều kiện được tiếp cận
với những nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống. Những hậu quả này không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân, mà còn làm giảm
lòng tin vào đường lối lãnh đạo của Đảng ta. lOMoAR cPSD| 61197966
2.1.5. Đánh giá, kết luận
Nguyên nhân khách quan là do Đảng ta chưa có kinh nghiệm xây dựng chủ
nghĩa xã hội và do ảnh hưởng từ mô hình xã hội chủ nghĩa của những nước khác. Bên
cạnh đó, nguyên nhân chủ quan là do tư duy giáo điều, bảo thủ, nhận thức chưa đúng
về chủ nghĩa xã hội và thiếu nghiên cứu thực tiễn của Đảng ta đã gây ra nhiều khó
khăn và thách thức trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ đó, những hạn chế làm cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng kéo
dài, trở thành động lực chính thúc đẩy Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng công
cuộc Đổi mới năm 1986, chuyển sang một mô hình kinh tế mới.
2.2. Sau thời kỳ đổi mới (1986)
2.2.1. Cách thức vận dụng nền dân chủ XHCN
Để thoát khỏi tình trạng suy thoái về kinh tế, nghèo nàn về đời sống, Đảng ta
đã đi đến quyết định đổi mới. Đây là một sự nghiệp mang ý nghĩa cách mạng to lớn
đối với Đảng và dân tộc. Mỗi kỳ đại hội đánh dấu một bước trưởng thành của Đảng
ta trong việc nhận thức lý luận. Tại Đại hội VI (12 – 1986) được điều chỉnh, bổ sung
và phát triển tại Đại hội VII (6 - 1991), Đại hội VIII (6 - 1996), Đại hội IX (4 -
2001), Đảng ta xác định đổi mới đất nước không phải là thay đổi mục tiêu và lý tưởng
ban đầu là chủ nghĩa xã hội, mà là đưa ra những phương hướng, hình thức, biện pháp
phù hợp để thực hiện mục tiêu ấy có hiệu quả.
Về đổi mới chính trị, Việt Nam từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN. Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước được tách rời khỏi chức năng kinh
doanh. Nhà nước tập trung vào việc quản lý vĩ mô, tạo ra môi trường pháp lý cho các
thành phần kinh tế (kể cả tư nhân) phát triển, thay vì trực tiếp chỉ đạo sản xuất như
thời kỳ bao cấp. Mọi hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân đều phải
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Điều này giúp hạn chế tình trạng quan liêu và độc đoán.
Về đổi mới kinh tế, Nhà nước công nhận và khuyến khích nhiều thành phần
kinh tế cùng tồn tại, đặc biệt là kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, tạo ra một môi trường
cạnh tranh lành mạnh. Bên cạnh đó, Nhà nước từ vai trò quản lý theo cơ chế mệnh
lệnh, bao cấp chuyển sang quản lý vĩ mô, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng,
ổn định để các thành phần kinh tế tự do phát triển. Ngoài ra, Đảng ta tạo điều kiện cho lOMoAR cPSD| 61197966
các doanh nghiệp, từ doanh nghiệp nhà nước đến doanh nghiệp tư nhân được trao
quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, tự quyết định về sản phẩm, giá cả và thị trường.
Về đổi mới xã hội, sau Đổi mới, nhiều hình thức dân chủ trực tiếp được khuyến
khích và thể chế hóa ví dụ như trưng cầu ý dân, quy chế dân chủ ở cơ sở, tiếp xúc cử
tri và phản biện xã hội. Các hình thức này đã cho phép người dân trực tiếp tham gia
vào việc quản lý, giám sát các hoạt động của chính quyền địa phương, đóng góp ý
kiến vào các dự thảo chính sách và pháp luật. Bên cạnh đó, vai trò của Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc phản biện, giám sát xã hội cũng được nâng cao. 2.2.2. Thành tựu
Trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, Việt Nam ta đã có những bước
chuyển mình đáng kể. Về kinh tế, từ một nước có nền kinh tế nghèo nàn, Việt Nam đã
có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm, GDP thu nhập bình quân đầu
người cũng được cải thiện. Bên cạnh đó, nước ta đã trở thành thành viên của nhiều tổ
chức kinh tế khu vực và thế giới như WTO, ASEAN, APEC,…Môi trường đầu tư kinh
doanh thu hút lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Về đời sống
– xã hội, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh qua các năm, chất lượng cuộc sống của người dân
được nâng lên, người dân được tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa phát
triển. Ngoài ra, hệ thống an sinh xã hội từng bước được xây dựng và hoàn thiện, góp
phần xóa nhòa đi những tệ nạn xã hội gây ảnh hưởng xấu đến cộng đồng. Những thành
tựu đổi mới tại Việt Nam trong 35 năm đổi mới đã chứng minh rằng phát triển theo
định hướng chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa lịch sử to lớn, là bước ngoặt chuyển giao giữa
cái cũ và cái mới, cái lạc hậu và cái hiện đại. lOMoAR cPSD| 61197966 2.2.3. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nước ta còn phải đối mặt với nhiều
thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước. Về kinh tế, sức cạnh tranh, chất
lượng tăng trưởng còn thấp, môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi, điều tiết thị trường
còn nhiều bất cập. Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; tình trạng tham nhũng,
suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức diễn ra trong một bộ phận cán bộ đảng viên
gây mất ổn định xã hội. Chất lượng giáo dục, y tế, trường học đã tiến bộ hơn tuy nhiên
chưa có chất lượng cao so với các nước phát triển trên thế giới.
2.2.4. Đánh giá, kết luận
Có thể thấy, nền dân chủ XHCN ở Việt Nam sau Đổi Mới đã thể hiện được ưu
điểm của mình, đó là kết hợp được hiệu quả của kinh tế thị trường với sự ổn định
chính trị. Dù vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục, Việt Nam vẫn kiên định với con
đường đã chọn, tiếp tục hoàn thiện nền dân chủ để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước trong bối cảnh toàn cầu hóa.
2.3. Thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế 2.3.1. Thực trạng
a) Những điểm tích cực:
Thực tiễn gần 40 năm đổi mới cho thấy những tiến bộ rõ rệt trong phát huy dân
chủ và xây dựng nền dân chủ XHCN. Thể chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
ngày càng hoàn thiện, ý thức và năng lực làm chủ được nâng cao, nhiều chủ trương
phát huy vai trò nhân dân đạt hiệu quả, củng cố niềm tin vào Đảng và Nhà nước. Trong
đại dịch COVID-19, ưu thế của dân chủ XHCN cùng sức mạnh đoàn kết toàn dân được khẳng định.
Thứ nhất, dân chủ trong kinh tế có bước phát triển quan trọng, làm nền tảng
cho dân chủ trong các lĩnh vực khác. Đường lối phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và phân phối, hoạt động
bình đẳng, hợp pháp, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh đã tạo điều kiện phát huy dân
chủ. Nhờ đó, kinh tế Việt Nam tăng trưởng liên tục từ 1986, GDP năm 2024 ước đạt
476,3 tỷ USD, bình quân đầu người 4.700 USD, năng suất lao động đạt 9.182 USD/lao động.
Thứ hai, trong chính trị, dân chủ trong Đảng, Nhà nước, đoàn thể và xã hội
ngày càng được phát huy. Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được bảo vệ tốt lOMoAR cPSD| 61197966
hơn, hệ thống chính trị đổi mới tinh gọn, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả. Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể mở rộng dân chủ, tăng cường giám sát, phản biện; các tổ chức
xã hội, nghề nghiệp đáp ứng nhu cầu nhân dân; hình thức thực hiện dân chủ cũng ngày
càng đa dạng, hiệu quả.
Thứ ba, dân chủ trong văn hóa – xã hội được đẩy mạnh với hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu phát triển. Nhiều quy định
cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ công dân, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp
luật, thúc đẩy công bằng xã hội và phát huy hiệu quả quyền con người.
b) Những hạn chế:
Bên cạnh những kết quả tích cực, việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam vẫn còn một số hạn chế:
Một là, “Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn
biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật”. Ở một số nơi,
nhận thức và thực hành về dân chủ, thực hiện dân chủ cơ sở còn hình thức, quyền làm
chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy, chưa có cơ chế đầy đủ bảo đảm
để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực.
Hai là, nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở một số
nơi rơi vào hình thức. Còn tình trạng lạm quyền, lộng quyền, quan liêu, cửa quyền
gây phiền hà cho nhân dân của một số cơ quan công quyền, cán bộ. Chậm thể chế hóa
các chủ trương của Đảng thành pháp luật, quy định. Hệ thống pháp luật của Việt Nam
có mặt còn chưa đồng bộ, gây khó khăn cho các cơ quan thi hành pháp luật và nhân
dân, ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong xã hội. Những hạn chế đã nêu phải
sớm được khắc phục để nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân và thực hành quyền
làm chủ của nhân dân trong thực tiễn ngày càng rộng rãi và thực chất.
Ba là, thể chế để phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn
những bất cập. Một số luật đã được ban hành, nhưng đến nay vẫn chưa được tổ chức
triển khai thực hiện rộng rãi. Một số cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các
cấp tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật chưa tốt, như trên các lĩnh vực quy hoạch,
quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, đền bù, giải phóng mặt
bằng, tổ chức tái định cư. lOMoAR cPSD| 61197966 2.3.2. Cơ hội
Hiện nay, công cuộc xây dựng và vận hành nền dân chủ XHCN ở Việt Nam
đang mở ra nhiều cơ hội to lớn để phát triển và hoàn thiện. Cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 tạo ra bước ngoặt quan trọng, với sự phổ cập của internet và các nền tảng
số, giúp việc thực hiện dân chủ trực tiếp trở nên khả thi hơn bao giờ hết. Người dân
có nhiều cơ hội để tham gia đóng góp ý kiến, giám sát quyền lực và tiếp cận thông tin
một cách minh bạch, qua đó thúc đẩy một nền dân chủ hiện đại, rộng rãi và sâu sắc.
Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý
vững chắc cho việc bảo đảm và mở rộng các quyền tự do, dân chủ của công dân. Ý
thức về quyền làm chủ và năng lực tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của
người dân ngày càng được nâng cao, trở thành động lực nội sinh mạnh mẽ. Hơn nữa,
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng tạo điều kiện để
Việt Nam học hỏi, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm, mô hình dân chủ tiến bộ
trên thế giới, từ đó vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện và bản sắc riêng của đất
nước. Những cơ hội này, nếu được tận dụng và khai thác hiệu quả, sẽ góp phần xây
dựng một nền dân chủ thực chất, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". 2.3.3. Thách thức
Bên cạnh những cơ hội, công cuộc xây dựng và vận hành nền dân chủ XHCN
ở Việt Nam hiện nay cũng đối mặt với nhiều thách thức không nhỏ. Một trong những
thách thức lớn nhất là tình trạng tham nhũng, tiêu cực và sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, làm xói mòn lòng
tin của nhân dân và làm giảm hiệu quả của các thiết chế dân chủ. Khoảng cách giàu
nghèo và sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng, miền dẫn đến nguy cơ về
sự bất bình đẳng trong việc thụ hưởng và tham gia thực hiện các quyền dân chủ. Mặt
khác, nhận thức và năng lực làm chủ của không ít người dân vẫn còn hạn chế, khiến
cho việc thực hành dân chủ đôi khi chưa thực sự đầy đủ và hiệu quả. Các thế lực thù
địch cũng không ngừng lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền" để tiến hành các
hoạt động chống phá, can thiệp vào công việc nội bộ, đòi hỏi phải luôn cảnh giác và
bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Hơn nữa, việc hoàn thiện
thể chế để vận hành nền dân chủ một cách đồng bộ, hiệu quả vẫn là một bài toán khó,
đòi hỏi sự đổi mới mạnh mẽ và kiên trì. Những thách thức này đặt ra yêu cầu phải có
các giải pháp đồng bộ, toàn diện để vừa phát huy được bản chất tốt đẹp của dân chủ
XHCN, vừa bảo đảm ổn định chính trị - xã hội. lOMoAR cPSD| 61197966
2.3.4. Kết luận về thực tiễn xây dựng nền dân chủ XHCN
Thực tiễn xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam là một hành trình phát
triển tích cực, tiến bộ nhưng không phải không có những khó khăn, phức tạp. Thành
công hay không phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý hiệu lực, hiệu
quả của Nhà nước và đặc biệt là sự thức tỉnh, tham gia chủ động, tích cực của toàn
dân. Đây là một quá trình tự hoàn thiện không ngừng, vừa kế thừa những giá trị truyền
thống, vừa phải đổi mới sáng tạo để xây dựng một nền dân chủ thực chất, phù hợp với
điều kiện cụ thể của Việt Nam và xu thế của thời đại.
Chương 3: XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ TƯ BẢN CHỦ NGHĨ
3.1. Tư bản chủ nghĩa
3.1.1. Khái niệm về chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội đặc thù dựa trên nền tảng sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, gắn liền với sự vận hành của cơ chế thị trường và mục
đích tối đa hóa lợi nhuận. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản nắm giữ tư liệu sản xuất,
còn đại bộ phận nhân dân lao động không có tư liệu sản xuất, đặc biệt là giai cấp công
nhân, phải tham gia thị trường lao động thông qua việc bán sức lao động để nhận tiền
công. Trên cơ sở đó hình thành nên quan hệ sản xuất đặc trưng của xã hội tư bản, trong
đó giá trị thặng dư do người lao động tạo ra trở thành nguồn lợi nhuận của giai cấp sở hữu.
Theo C. Mác, điểm đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là
việc tư bản tự vận động nhằm sinh ra giá trị thặng dư. Theo ông, quá trình tư bản diễn
ra khi tiền được dùng để mua tư liệu sản xuất và sức lao động; những yếu tố này được
sử dụng để sản xuất hàng hóa, và khi hàng hóa được bán sẽ thu về một lượng tiền lớn
hơn so với vốn đầu tư ban đầu. Vì vậy, mục tiêu trực tiếp của sản xuất trong chế độ tư
bản không phải là thỏa mãn nhu cầu xã hội một cách thuần túy, mà là biến tiền vốn
thành nhiều tiền hơn, tức là tối đa hóa giá trị thặng dư và lợi nhuận cho giai cấp tư
sản. Đây là bản chất của nền sản xuất tư bản: sản xuất không phải để thỏa mãn nhu
cầu xã hội một cách trực tiếp, mà nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho giai cấp tư sản” (C.
Mác: Tư bản, Quyển I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1998, tr. 167-168).
Chủ nghĩa tư bản đồng thời cũng là một hình thái chính trị – xã hội. Nhà nước
tư sản ra đời và tồn tại như một thiết chế chính trị – pháp lý, giữ vai trò quản lý xã
hội, duy trì trật tự và bảo vệ sự ổn định của quan hệ sản xuất hiện hành. Trong lịch sử, lOMoAR cPSD| 61197966
chủ nghĩa tư bản đã có ý nghĩa tiến bộ ở chỗ nó góp phần thay thế chế độ phong kiến
lạc hậu, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế,
tạo điều kiện cho khoa học và kỹ thuật tiến bộ vượt bậc. Chính sự phát triển này đã
chuẩn bị những tiền đề vật chất và xã hội cần thiết cho sự hình thành của chủ nghĩa xã hội trong tương lai.
3.1.2. Cơ sở lý luận của chủ nghĩa tư bản
a) Nguồn gốc hình thành
Chủ nghĩa tư bản không xuất hiện một cách tự phát, mà hình thành trên cơ sở
phát triển của sản xuất hàng hóa giản đơn và sự tích lũy nguyên thủy tư bản. Quá trình
này diễn ra mạnh mẽ vào thế kỷ XV – XVI, khi sự tan rã của chế độ phong kiến châu
Âu dẫn đến sự ra đời của những quan hệ sản xuất mới. Các cuộc phát kiến địa lý, mở
rộng thị trường, sự hình thành các công ty thương mại và ngân hàng đã tạo ra điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của sản xuất hàng hóa và thương nghiệp.
Đặc biệt, sự tích lũy nguyên thủy tư bản – quá trình tước đoạt ruộng đất của
nông dân, biến họ thành công nhân làm thuê – là một yếu tố quyết định cho sự ra đời
của chủ nghĩa tư bản. Song song với đó, các cuộc cách mạng tư sản ở Hà Lan, Anh và
Pháp đã lật đổ ách thống trị phong kiến, mở đường cho sự xác lập quyền thống trị của giai cấp tư sản.
b) Tư tưởng nền tảng
Tư tưởng nền tảng của chủ nghĩa tư bản dựa trên các giá trị cốt lõi: quyền tư
hữu, tự do cá nhân, tự do kinh doanh và cạnh tranh thị trường. Những giá trị này được
hình thành và hệ thống hóa thông qua các học thuyết kinh tế – chính trị của thời kỳ
cận đại. Adam Smith (1723–1790), với tác phẩm “Sự giàu có của các quốc gia”
(1776), đã khẳng định vai trò của “bàn tay vô hình” – cơ chế thị trường tự điều tiết
dựa trên lợi ích cá nhân. Theo ông, khi mỗi cá nhân theo đuổi lợi ích riêng, họ vô tình
thúc đẩy lợi ích chung của toàn xã hội. David Ricardo (1772–1823) bổ sung lý thuyết
về giá trị lao động và lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế, khẳng định sự ưu việt
của trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia. Ngoài ra, tư tưởng về khế ước xã hội (Jean-
Jacques Rousseau, John Locke) và chủ quyền nhân dân cũng đóng vai trò nền tảng
trong việc hình thành nhà nước tư sản hiện đại. Vậy nên, những tư tưởng này hợp
thành hệ thống lý luận chính thống cho chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn tự do cạnh
tranh (thế kỷ XVIII – XIX), và đến nay vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng trong lý thuyết
và thực tiễn phát triển kinh tế – chính trị.