













Preview text:
lOMoAR cPSD| 58478860
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THUỶ LỢI
KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ
BỘ MÔN PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG
- - - - - 🕮🕮🕮- - - - -
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM
MÔN HỌC: Lịch sử đảng
Giáo viên hướng dẫn: Trần Thị Ngọc Thúy Lớp: 64LG2 Nhóm: 6
Tên trưởng nhóm: Vũ Thanh Ngọc
Tên các thành viên: Vũ Dương Bảo Ngọc Vũ Thanh Ngọc Nguyễn Hồng Mai
Nguyễn Đình Mạnh Vũ Tuấn Minh Vũ Hoàng Tố Nga Nguyễn Thị Khánh Nhi Hà Nội, 2024 lOMoAR cPSD| 58478860 Mục lục A. LỜI MỞ ĐẦU 2
B. NỘI DUNGI. Giai đoạn 1 (1954- 1960): Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền 3
Bắc, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công 3
II. Giai đoạn 2 (1960- 1965): Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phát triển thế
tiến công của cách mạng miền Nam 4
III. Đảng lãnh đạo đấu tranh chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965- 1968) 6
IV. Đảng lãnh đạo đấu tranh đánh bại Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (từnăm 1969 đến tháng 4-1975) 7
V. Tình hình cách mạng sau hiệp định Pari: 9 VI. Bài học kinh nghiệm 12
VII. Ưu điểm, nhược điểm của đảng trong quá trình lãnh đạo 13 C. LỜI CẢM ƠN 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO 14 A. LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong năm môn học thuộc khoa học MácLênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh (sau khi hoàn thành các môn Triết học Mác-Lênin; Kinh tế chính trị Mác-
Lênin; chủ nghĩa xã hội khoa học và tư tưởng Hồ Chí Minh) được giảng dạy trong hệ thống giáo
dục Việt Nam và là môn học bắt buộc dành cho mọi sinh viên theo học ở bất kỳ chuyên ngành
nào. Môn học này giúp sinh viên hiểu một cách sâu sắc và có hệ thống quá trình ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam, quá trình lãnh đạo của Đảng ta trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước. Những nội dung lịch sử cơ bản, khách quan và có tính hệ thống về sự lãnh
đạo của Đảng trong hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Một nội dung quan trọng khác
của môn học giúp người đọc có thể nhận thức được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Trải qua hơn nửa thế kỷ hoạt động, Đảng ngày càng nhận thức sâu sắc tính đúng đắn về vai
trò của Đảng và nêu lên bài học cơ bản rằng sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
cho sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nghiên cứu kinh nghiệm lãnh đạo và xây dựng đảng của Đảng ta là việc làm thiết thực,
quan trọng và đảm bảo cho cách mạng phát triển vững chắc để thực hiện được mục tiêu độc lập
và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, nhóm 6 chúng em làm bài tiểu luận này để trả lời câu hỏi: “Phân
tích quá trình đảng lãnh đạo đánh thắng những chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ từ 1954- 1975”. lOMoAR cPSD| 58478860
B. NỘI DUNG I. Giai đoạn 1 (1954- 1960): Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công
1. Bối cảnh lịch sử của cách mạng Việt Nam sau tháng 7-1954:
Sau Hội nghị Giơ-ne-vơ, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới, vừa
đứng trước nhiều khó khăn, phức tạp. Về quốc tế:
Thuận lợi: Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa
học-kỹ thuật, nhất là Liên Xô; phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Á,
châu Phi và khu vực Mỹ La-tinh; phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Khó khăn: Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu làm bá
chủ thế giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng; thế giới buớc vào thời kỳ
chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa;
xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc. Ở trong nước:
Thuận lợi: Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa vững chắc cho cả
nước, hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam. Thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh
hơn sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; có ý chí độc lập thống nhất
Tổ quốc của nhân dân từ Bắc chí Nam.
Khó khăn: Khó khăn lớn nhất là đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, với hai
chế độ chính trị khác nhau. Đế quốc Mỹ can thiệp vào miền Nam Việt Nam, âm mưu chia
cắt lâu dài Việt Nam. Miền Bắc với nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, hậu quả
của chiến tranh để lại rất nặng nề. Miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ và đế
quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta.
Một Đảng lãnh đạo hai cuộc cách mạng khác nhau, ở hai miền đất nước có chế độ
chính trị khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam sau tháng 7-1954. Đặc
điểm bao trùm và các thuận lợi, khó khăn nêu trên là cơ sở để Đảng ta phân tích, hoạch
định đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới.
2. Đảng lãnh đạo chống chiến tranh đơn phương (1954-1960)
Sau khi thực dân Pháp thất bại, Mĩ trực tiếp can thiệp vào Việt Nam. Ngày
7/11/1954, Mĩ cử tướng Cô-lin sang làm đại sứ ở miền Nam Việt Nam với âm mưu biến
miền Nam thành thuộc địa kiểu mới để làm bàn đạp tiến công miền Bắc và ngăn chặn
làn sóng cách mạng XHCN ở Đông Nam Á. Dựa vào Mĩ, Ngô Đình Diệm đã nhanh lOMoAR cPSD| 58478860
chóng dựng lên một chính quyền độc tài, gia đình trị ở miền Nam và ra sức chống phá cách mạng.
Những quốc sách Mỹ Diệm thực hiện trong chiến tranh đơn phương (1954- 1960):
ráo riết thi hành quốc sách “tố cộng, diệt cộng”, trả thù những người yêu nước cũ, gom
dân vào các “khu trù mật”, “khu dinh điền” để tách cán bộ chiến sĩ ra khỏi quần chúng cách mạng.
Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 6 khóa II (15- 17/7/1954) đã nhận định
kẻ thù chính, trực tiếp là đế quốc Mỹ
Nghị quyết Bộ Chính trị (9/1954) xác định nhiệm vụ của cách mạng miền nam là đấu
tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, tập hợp mọi lực lượng đấu tranh nhằm lật đổ
chính quyền tay sai, hoàn thành thống nhất tổ quốc
Tháng 1/1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp về cách mạng miền Nam với tinh
tần là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sử dụng bạo lực cách mạng
của quần chúng nhân dân, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang, tiến tới khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền về tay nhân dân.
Nghị quyết thứ 15 của Đảng và sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, miền Bắc đã mở
đường chi viện cho cách mạng miền Nam với hai tuyến đường vận tải Hồ Chí Minh cả
trên bộ (559, 19/5/1959) và trên biển (759, 23/10/1961)
Nghị quyết thứ 15 của Ban Chấp hành trung ương Đảng có ý nghĩa hết sức to lớn. Điển
hình là thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” là bước nhảy vọt có ý nghĩa lịch sử của
cách mạng miền Nam, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” đánh giấu bước nhảy vọt của cách mạng miền
Nam, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công và làm
thất bại chiến lược “ chiến tranh đơn phương” của Mỹ-Diệm
Ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập tại
xã Tân Lập (Tây Ninh) do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch, trở thành một tổ chức
chính trị - xã hội đầu tiên của Nhân dân miền Nam.
II. Giai đoạn 2 (1960- 1965): Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phát triển thế
tiến công của cách mạng miền Nam
Đại hội lần thứ III của Đảng họp từ 5 – 10/9/1960 tại thủ đô Hà Nội. Trong diễn
văn Khai mạc, chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”. Đại hội đã thảo luận và thông qua:
Về đường lối chung của cách mạng Việt Nam: Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống
nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. lOMoAR cPSD| 58478860
Về mục tiêu chiến lược chung: giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước
Vai trò, nhiệm vụ, vị trí của mỗi miền: Cách mạnh XHCN ở miền Bắc giữ vai trò quyết
định nhất đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất
nước nhà. Còn CM dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực
tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Về hòa bình thống nhất tổ quốc: kiên trì giữ vững hòa bình nhưng luôn nêu cao cảnh giác
Triển vọng của cuộc cách mạng: tuy gian khổ, phức tạp , lâu dài nhưng nhất định thắng lợi
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được xem là nhiệm vụ trung tâm.
Về đường lối chung là đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước và lao động
cần cù, tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng lãnh đạo đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” từ 1/1961 đến 5/1965
Ngày 20/1/1961, J. Kennedy lên làm Tổng thống hoa kỳ đã thông qua “Chiến tranh đặc
biệt”, triển khai thực hiện bình định miền Nam với Kế hoạch Stalay – Taylo (1961- 1963)
Công thức: cố vấn Mỹ, vũ khí Mỹ và quân chủ lực Việt Nam cộng hòa, Mỹ và chính
quyền Ngô Đình Diệm triển khai thực hiện bình định miền Nam trong vòng 18 tháng.
Xương sống: là hệ thống ấp chiến lược, rộng khắp với chiến thuật “ trực thăng vận” và “thiết xa vận”
Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa dự định lập 17.000 ấp chiến lược trên toàn miền
Nam để thực hiện “tát nước, bắt cá”, tách Nhân dân ra khỏi lực lượng cách mạng, bình
định nông thôn miền Nam.
Trước tình hình đó, tháng 1/1961 và tháng 2/1962, các Hội nghị của Bộ Chính trị ra
Chỉ thị về “Phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam” ,
quyết định cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam từ khởi nghĩa từng phần sang chiến
tranh cách mạng. Để tăng cường sự chỉ đạo của Đảng với cách mạng miền Nam, tháng
10/1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập, do Nguyễn Văn Linh làm Bí thư.
Ngày 15/2/1961, các lực lượng vũ trang ở miền Nam được thống nhất với tên gọi Quân
giải phóng miền Nam Việt Nam.
Thực hiện chủ trương đẩy mạnh cuộc chiến tranh cách mạng, quân và dân miền
Nam đã chiến đấu và lập chiến công ở Ấp Bắc (2/1/1963). lOMoAR cPSD| 58478860
Hội nghị lần thứ 9 của Đảng (12/1963) đã xác định: “ đấu tranh vũ trang đóng vai
trò quyết định trực tiếp” thắng lợi trên chiến trường, thúc đấy phong trào thi đua Ấp Bắc
giết giặc lập công diễn ra khắp miền Nam.
Các chiến thắng Bình Giã (12/1964), Ba Gia (5/1965), Đồng Xoài (7/1965) đã làm
tiếp tục làm thất bại hoàn toàn Kế hoạch quân sự L. Johnson – Robert S McNamara (1964 – 1965)
Với tinh thân chủ động, sáng tạo, sau hơn 4 năm, lực lượng cách mạng đã làm phá
sản chiến lược “ Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam.
III. Đảng lãnh đạo đấu tranh chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965- 1968)
Trước tình hình cách mạng miền Nam diễn biến hết sức phức tạp, Đảng kiên định
lập trường, lãnh đạo nhân dân kiên quyết kháng chiến. Ngày 25-3-1965, Hội nghị lần
thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương khóa III họp, ra Nghị quyết về tình hình và nhiệm
vụ cấp bách trước mắt, quyết định chuyển toàn bộ miền Bắc từ thời bình sang thời chiến
trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng, tổ chức, kinh tế, an ninh, quốc phòng và đối ngoại;
đảm bảo cho miền Bắc có đầy đủ sức mạnh đánh thảng không quân, hải quân Mỹ; duy
trì và giữ vững sản xuất, tăng khả năng chi viện cho chiến trường miền Nam.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12, khoá III (121965) hạ
quyết tâm chiến lược: "Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào"; xác định phương
châm chiến lược chung: "Trên cơ sở đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, cần tranh
thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam".
Trước âm mưu và hành động leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ, ngày 207-
1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta nêu cao
tinh thần cảnh giác cách mạng và chí khí chiến đấu, tăng cường đoàn kết, ra sức thi đua
sản xuất và chiến đấu. Người khẳng định quyết tâm của toàn Dân tộc ta: "Ðứng trước
nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền bắc và đồng bào miền nam đoàn kết một
lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa,
chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn".
Miền bắc chuyển nhanh từ thời bình sang thời chiến: chuyển hướng về tư tưởng,
về tổ chức, về kinh tế; tăng cường sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang ba thứ quân
Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân phát triển cao trên khắp ba vùng chiến
lược, ngay từ khi quân Mỹ vừa triển khai lực lượng, theo chủ trương của Ðảng, quân và
dân ta ở miền nam đã tổ chức những trận đánh phủ đầu quân Mỹ. Các trận tiến công
quân Mỹ ở Núi Thành (tháng 5-1965), Vạn Tường (tháng 8-1965), Plây Me (tháng 11-
1965), Ðất Cuốc, Bầu Bàng (tháng 11-1965)... được mở ra và giành thắng lợi đã giáng lOMoAR cPSD| 58478860
đòn phủ đầu mãnh liệt vào quân xâm lược, hạ uy thế của chúng, đồng thời củng cố và
tăng cường quyết tâm kháng chiến của quân và dân ta.
Bằng sức mạnh của chính nghĩa, quân và dân miền Nam đã làm thất bại hai cuộc
phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 của Mỹ - ngụy. Hai gọng
kìm "tìm diệt" và "bình định" bị bẻ gãy. Mục tiêu mà Mỹ đề ra chẳng những không thực
hiện được mà còn chịu tổn thất nặng cả về sinh lực và phương tiện chiến tranh, làm cho
thế trận của địch nao núng, tinh thần quân địch sút kém, hàng ngũ địch thêm mâu thuẫn.
Trong lúc đó, chúng ta vẫn giữ vững quyền chủ động chiến lược trên chiến trường miền
Nam, vùng giải phóng được củng cố.
Chiến công của quân và dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc, cùng với khí thế phong
trào đấu tranh của quần chúng dâng cao đã làm xuất hiện tình thế mới trên chiến trường có lợi cho ta.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã dự kiến sớm và đúng xu thế diễn biến
của chiến tranh nên đã đề ra các chủ trương đối phó đúng đắn, chủ động và sáng tạo
Phát huy thắng lợi lớn và toàn diện đã giành được, quân và dân ta tiến lên mở
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, giáng một đòn bất ngờ và
mãnh liệt vào cố gắng chiến tranh đang lên tới đỉnh cao của đế quốc Mỹ trên chiến
trường, làm lung lay ý chí xâm lược của giới lãnh đạo cao cấp Mỹ bên kia bờ đại dương,
làm phá sản chiến lược "Chiến tranh cục bộ", buộc đế quốc Mỹ dù còn rất ngoan cố và
hiếu chiến vẫn phải công khai tuyên bố đơn phương xuống thang chiến tranh, rút dần
quân viễn chinh Mỹ ra khỏi miền nam, ngừng ném bom miền bắc, cử đại diện đi vào
đàm phán với ta tại Hội nghị Paris, khởi đầu quá trình đi xuống về chiến lược trong cuộc
chiến tranh xâm lược của họ ở Việt Nam...
Sau các đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, địch tổ chức phản
kích quyết liệt, đẩy chủ lực ta ra xa khỏi các thành thị, các vùng ven, vùng đồng bằng,
tiến hành bình định trên quy mô lớn, đồng thời triển khai hàng loạt biện pháp nhằm triệt
phá cơ sở cách mạng miền Nam. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968,
Đảng mắc một số sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng: chủ quan trong đánh giá tình hình
nên đề ra yêu cầu quá cao, chưa sát thực tế. Đảng kết luận: “Tết Mậu Thân thắng rất lớn,
mà nhất là đánh bại được ý chí xâm lược của Mỹ, tạo nên bước ngoặt quyết định của
chiến tranh. Nhưng sau đó ta chuyển chậm, chủ trương tiếp tục các đợt tiến công vào đô
thị khi không còn điều kiện là sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để địch gây cho ta nhiều
khó khăn, tổn thất.
IV. Đảng lãnh đạo đấu tranh đánh bại Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (từ
năm 1969 đến tháng 4-1975)
Ngày 20-1-1969, Níchxơn lên làm Tổng thống Mỹ, đưa ra chiến lược chiến tranh
mới: “Việt Nam hóa chiển tranh”, với các nội dung: từng bước rút quân chiến đấu Mỹ
về nước, nỗ lực xây dựng quân đội và bộ máy chính quyền Việt Nam Cộng hòa để thay
thế quân Mỹ; đẩy mạnh thực hiện bình định nông thôn; đánh vào hậu phương quốc tế lOMoAR cPSD| 58478860
của Việt Nam. Thực hiện chiến lược này, Mỹ tăng cường viện trợ, xây dựng quân đội
Sài Gòn về mọi mặt, mặt khác tiến hành các cuộc hành quân càn quét và tiếp tục thực
hiện chương trình bình định. Mỹ coi chương trình bình định là biện pháp và là chìa khóa
của “Việt Nam hóa chiến tranh”, đồng thời Mỹ tìm cách mở rộng chiến tranh trên bán
đảo Đông Dương. Trong thời gian đầu đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh”, do ta không nhận thức đầy đủ, kịp thời tính chất thâm độc của các kế
hoạch bình định nông thôn, không tập trung đúng mức sự chỉ đạo và lực lượng đối phó,
nên trước sự phản kích mãnh liệt của địch, chiến tranh nhân dân địa phương và thế trận
của cuộc kháng chiến bị suy giảm nặng nề.
Tháng 1-1970, Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra
nhiệm vụ: đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên tất cả các mặt, vừa tấn công, vừa xây dựng
lực lượng, giành thắng lợi từng bước đi đến giành thắng lợi quyết định, tiến tới thống nhất nước nhà.
Tại chiến trường Lào, đầu năm 1970, thực hiện chủ trương của lãnh đạo Đảng hai
nước, liên quân Lào - Việt Nam đã phối hợp mở chiến dịch phản công quy mô lớn, đánh
bại cuộc hành quân của kẻ thù, bảo vệ căn cứ địa chủ yếu cùa Lào, phá thế uy hiếp sườn
phía Tây miền Bắc Việt Nam và tuyến vận tải Tây Trường Sơn. Năm 1971, quân và dân
Việt Nam phối hợp với quân và dân Lào chủ động mở chiến dịch phản công Đường 9 -
Nam Lào, đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn “Lam Sơn 719” của Mỹ và quân đội Sài
Gòn đánh ra khu vực Đường 9 - Nam Lào. Đế quốc Mỹ đối phó bằng cách “Mỹ hóa” trở
lại cuộc chiên tranh ở miền
Nam, mở cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đánh phá miền Bắc từ đầu tháng 41972
bằng thủ đoạn hủy diệt tàn bạo. Tổng thống Mỹ Níchxơn đã sử dụng chính sách ngoại
giao thâm độc, chia rẽ và cô lập Việt Nam bằng việc thực hiện hai chuyến thăm Trung
Quốc (2-1972) và Liên Xô (5-1972), khiến cho cuộc kháng chiến của Việt Nam gặp nhiều khó khăn.
Đầu năm 1972, Hội nghị lần thứ 20 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đề ra
nhiệm vụ đẩy mạnh kháng chiến, đoàn kết phối hợp chiến đấu chặt chẽ với quân và dân
Lào, quân và dân Campuchia, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ,
đánh bại học thuyết Níchxơn.
Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ rõ âm mưu, hành động
chống phá Hiệp định Paris ngày càng trắng trợn của Mỹ-Ngụy.Từ đó, Đảng ta khẳng
định dứt khoát con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng,
bất kỳ trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến
lược tiến công, chỉ đạo linh hoạt, mềm dẻo để đưa cách mạng miền Nam tiến lên.
Và trước tình thế cách mạng và thời cơ đã đến, Đảng ta quyết định mở Chiến dịch
Tây Nguyên với trận đột phá chiến lược Buôn Ma Thuột (10/3/1975). Với chiến thắng
này, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương kịp thời bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975. lOMoAR cPSD| 58478860
Sau khi Huế được giải phóng (26/3) và Đà Nẵng được giải phóng (29/3), đến
ngày 3/4, ta giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung, Bộ Chính trị
quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh từ ngày 26/4 và đến 11 giờ 30 phút ngày
30/4/1975, lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tung bay trên
nóc Dinh Độc Lập. Tổng thống Dương Văn Minh và toàn bộ nội các của chính quyền
Sài Gòn bị bắt, phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
V. Tình hình cách mạng sau hiệp định Pari:
Hiệp định Paris về Việt Nam đã đưa cuộc kháng chiến trường kỳ chống Mỹ, cứu
nước của dân tộc Việt Nam sang một cột mốc mới, thực hiện thành công việc “đánh cho
Mỹ cút”. Đây là thắng lợi chiến lược tạo nên “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, tiếp sức
mạnh mẽ cho nhân dân Việt Nam tiến lên “đánh cho ngụy nhào”, kết thúc thắng lợi cuộc
trường kỳ kháng chiến. Kéo dài từ ngày 13-5-1968 đến ngày 27-1-1973, với hơn 200
phiên họp công khai và 45 cuộc gặp riêng cấp cao, 1.000 cuộc phỏng vấn, hàng trăm
cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam, có thể thấy, Hiệp định Paris là sản phẩm của quá trình
kiên định, bền bỉ đấu tranh, vừa thể hiện quyết tâm sắt đá, vừa tỏ rõ thiện chí hòa bình
của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam nhằm mở
đường, tạo ra bước ngoặt mới có lợi để đi đến kết thúc cuộc chiến
Hiệp định Paris mở đường để Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương hoàn chỉnh kế
hoạch chiến lược thần tốc thống nhất đất nước trong thời gian sớm nhất, đồng thời
nhanh chóng chỉnh đốn những biểu hiện hữu khuynh sau Hiệp định Paris trong một bộ
phận quân dân. Hiệp định Paris được ký kết đã làm cho hình thái chiến trường thay đổi
theo hướng có lợi cho cách mạng. Với Hiệp định Paris, Mỹ phải rút, các lực lượng vũ
trang của hai bên ở nguyên tại chỗ. Nhờ đó, ta đánh bại âm mưu “phân tuyến” của đối
phương, bộ đội ta không phải “tập kết” ra một nơi (như thời kỳ Hiệp định Geneva năm
1954), mà ngược lại, ta duy trì trên chiến trường thế xen kẽ “da beo”, một thực trạng rất
có lợi cho ta, bất lợi cho địch
Đảng ta nhận định, sau Hiệp định Paris, chúng ta đã có những nhân tố thắng lợi
và khả năng mới do Hiệp định Paris đưa lại, đó là chính quyền và lực lượng vũ trang
cách mạng, vùng giải phóng, lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh chính trị của
quần chúng trong vùng địch kiểm soát và những quyền cơ bản được Hiệp định thừa
nhận. Do đó, phải tận dụng những nhân tố và khả năng ấy để “tiến lên hoàn thành sự
nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”
Hội nghị Bộ Chính trị ngày 10/10/1974, Đảng ta nhận định, lúc này, chúng ta
đang có thời cơ và nhấn mạnh “ngoài thời cơ này, không có thời cơ nào khác. Nếu để
chậm mười, mười lăm năm nữa, bọn ngụy gượng dậy được, các thế lực xâm lược được
hồi phục… thì hình hình sẽ phức tạp vô cùng”; từ đó, Hội nghị xác định: “Ngay từ giờ,
phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất
đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong hai năm 1975 - 1976” lOMoAR cPSD| 58478860
Tuy nhiên, trước, trong và sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực, chính quyền và
quân đội Việt Nam Cộng hòa vẫn tiến hành hàng loạt kế hoạch ngoan cố, dã tâm lấn
chiếm, bình định, giành đất, giành dân. Việc bình định lấn chiếm trên thực địa của địch
ngày càng trắng trợn, nhưng ở một số nơi, ta lại phản ứng chậm, nên đã để địch chiếm
đất, giành dân. Khi Hiệp định Paris có hiệu lực, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn
Văn Thiệu vẫn trắng trợn tuyên bố: Không thi hành Hiệp định Paris, không hòa hợp,
chống hòa hợp với cộng sản; ra lệnh cho quân đội tiếp tục đánh tới, lấn đất, giành dân,
cắm cờ, tràn ngập lãnh thổ.
Trong khi đó, về phía ta, một bộ phận cán bộ, đảng viên, chiến sĩ vừa trải qua
những năm tháng chiến tranh ác liệt, nay có Hiệp định Paris đã nảy sinh tư tưởng hữu
khuynh, mất cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Hơn nữa, trong chỉ đạo, lúc
đầu, ta đã đánh giá không hết khả năng thực hiện âm mưu của địch, không dự kiến hết
đế quốc Mỹ tuy thua nhưng vẫn rất ngoan cố, tìm mọi cách o bế quân đội Việt Nam
Cộng hòa tiếp tục chiến tranh. Những tháng đầu năm 1973, trên một số chiến trường,
địch đã giành được chủ động, thực hiện được phần nào chủ trương bình định của chúng,
giành thêm một số dân, lấn thêm một số địa phương, bắt đầu lấn sâu vào các vùng giải phóng toàn B2.
Hội nghị 21 (7/1973):
Tháng 7-1973, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng ta đã họp Hội nghị lần thứ 21
và ra Nghị quyết Về thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và
nhiệm vụ của cách mạng miền nam trong giai đoạn mới. Hội nghị phân tích thắng lợi to
lớn của ta sau 18 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; chỉ ra một số nhược điểm,
khuyết điểm của ta từ sau Hiệp định Paris. Hội nghị khẳng định: "Con đường cách mạng
của miền nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải
nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công, chỉ đạo linh hoạt, đưa cách
mạng miền nam tiến lên."
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền nam trong giai đoạn mới là phải: "Tiếp tục
thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đoàn kết toàn dân, đấu tranh
chống đế quốc Mỹ, giai cấp tư sản mại bản và bọn địa chủ phong kiến, hoàn thành cách
mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân... đẩy lùi và thắng địch từng bước, đi tới xóa bỏ chính
quyền tay sai của Mỹ, xóa bỏ chế độ thực dân mới, thiết lập một chính quyền dân tộc,
dân chủ thực sự, thực hiện hòa hợp dân tộc, thoát ly hẳn sự lệ thuộc vào Mỹ, thực hiện
một miền nam Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, trung lập, phồn vinh, tiến tới hòa
bình thống nhất nước nhà."
Hội nghị chỉ rõ phương châm tiếp tục giữ vững tư tưởng chiến lược tiến công, căn
cứ tình hình cụ thể của từng thời kỳ, từng vùng, thậm chí từng cuộc đấu tranh mà vận
dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh; giữ vững và phát triển lực lượng về mọi mặt, lOMoAR cPSD| 58478860
làm tan rã và suy yếu từng mảng lớn lực lượng quân sự, chính trị của địch, tạo ra những
chuyển biến to lớn về so sánh lực lượng, về cục diện chiến trường có lợi cho ta...
Trước tình hình mới, nhiệm vụ của miền bắc là phải tranh thủ những điều kiện
thuận lợi hiện có, ra sức đẩy mạnh chi viện miền nam, khôi phục và phát triển nền kinh
tế quốc dân, làm cho miền bắc xã hội chủ nghĩa luôn luôn là chỗ dựa vững chắc cho
cuộc đấu tranh cách mạng nhằm hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền nam, tiến tới hòa
bình thống nhất Tổ quốc...
Trung ương còn xác định: Trong bất kỳ tình huống nào cũng phải nắm vững lực
lượng vũ trang; phải kiên quyết phản công và tiến công địch, giữ vững và phát huy thế
chủ động về mọi mặt của ta, đánh bại các cuộc hành quân của địch lấn chiếm các vùng
giải phóng hoặc bình định vùng đồng bằng, vùng giáp ranh; trong đó, phải thực hiện
được yêu cầu giành dân và giành quyền làm chủ nhằm giành lấy thế mạnh để thắng
địch; phải đẩy mạnh công tác binh vận, đẩy mạnh mũi tiến công thành thị, ra sức củng
cố vùng giải phóng, tăng cường công tác mặt trận, đẩy mạnh công tác ngoại giao, tăng
cường công tác Ðảng...
Tổng tiến công và nổi dậy đầu năm 1975:
Trên cơ sở nắm vững quy luật “mạnh được, yếu thua” của chiến tranh, với quyết
tâm chiến lược đã xác định, Đảng đã lãnh đạo Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh
chủ động chuẩn bị lực lượng mạnh, bí mật triển khai thế trận hiểm và bất ngờ, buộc địch
mắc mưu, phải bị động đối phó. Từ sự bị động đối phó, chúng dẫn tới liên tiếp mắc sai
lầm về chiến dịch, chiến lược, làm xuất hiện thời cơ có lợi cho ta. Ta nhanh chóng chớp
thời cơ có lợi, tập trung sức đánh mạnh địch, đẩy chúng vào thế tuyệt vọng, buộc phải
đầu hàng vô điều kiện, ta giành thắng lợi sớm hơn dự kiến.
Để thực hiện chiến lược đã đề ra và sẵn sàng đón thời cơ, chuẩn bị cho các đòn
tác chiến chiến dịch quy mô lớn, từ tháng 10/1973, Đảng ta đã có chủ trương cho thành
lập các binh đoàn cơ động chiến lược mạnh để tạo khả năng đánh các đòn quyết định
chiến trường. Tháng 3/1975, ta đã thành lập các Quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232
(tương đương quân đoàn) có sức cơ động mạnh để đánh địch trong các trận quyết chiến chiến lược.
Song song với chuẩn bị lực lượng mạnh, Bộ Chính trị đã chỉ thị cho Quân ủy, Bộ
Tổng tham mưu chủ động chuẩn bị thế trận và chiến trường theo hướng tạo thế hiểm và
bí mật, bất ngờ để chủ động đánh địch. Theo đó, Bộ Chính trị chỉ đạo chọn Tây Nguyên
là chiến trường mở màn trọng điểm với hướng tiến công chiến lược từ phía Nam đánh
lên, miền Đông Nam Bộ là hướng quyết định cuối cùng. Với cách đánh chiến lược,
chiến dịch là kết hợp ba đòn mạnh (chủ lực, nông thôn, đô thị) và bằng 3 mũi giáp công
trên cả ba vùng chiến lược, trong đó các trận đánh của các binh đoàn chủ lực cơ động
mạnh là những đòn quyết định.
Đúng như dự kiến của Đảng, trận mở màn ở Nam Tây Nguyên diễn ra từ ngày 4
đến ngày 24/3/1975 đã giành thắng lợi giòn giã, quân địch hoàn toàn bị bất ngờ, lúng lOMoAR cPSD| 58478860
túng cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, tạo ra sự chấn động mạnh và phá vỡ
một mảng lớn quân địch, buộc chúng phải đảo lộn thế bố trí chiến dịch và chiến lược,
tác động dây truyền đến toàn bộ chiến trường, đẩy chúng đến chỗ cùng quẫn, hoảng
loạn. Chớp thời cơ chiến dịch, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương kịp thời chỉ đạo
quân và dân ta ở miền Nam mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chỉ đạo Quân khu 5 kết hợp
với Bộ tư lệnh Hải quân mở chiến dịch giải phóng các đảo do quân nguỵ Sài Gòn đóng giữ.
Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp và nhận định: “Thời cơ chiến lược tiến hành
tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Cần có sự quyết
tâm lớn hoàn thành trận quyết định chiến lược cuối cùng tốt nhất trong tháng 4/1975”.
Trong bối cảnh ấy, đầu tháng 4/1975, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Tư lệnh chỉ
huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Đảng luôn nắm chắc tình hình chiến
trường, lãnh đạo chỉ đạo kịp thời, linh hoạt các lực lượng thừa thắng xông lên, với tinh
thần “một ngày bằng 20 năm”, với ý chí và quyết tâm “thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo
bạo, táo bạo hơn nữa. Tranh thủ thời gian, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền
Nam, quyết chiến, quyết thắng”, bộ đội và nhân dân ta trên khắp các chiến trường đã
dũng mãnh xông lên với tinh thần “tất cả cho thắng lợi”.
Sau 55 ngày đêm tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, thần tốc truy đuổi
quân địch đến tận sào huyệt cuối cùng, bằng trận quyết chiến chiến lược lịch sử - chiến
dịch Hồ Chí Minh, Sài Gòn - Gia Định được hoàn toàn giải phóng, 11 giờ 30 phút ngày
30/4/1975 lá cờ cách mạng của quân và dân ta tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, đánh
dấu sự thất bại hoàn toàn của bè lũ bán nước và xâm lược.
Thành công nổi bật khác về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta trong đại thắng mùa
Xuân 1975 là đã tạo ra và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh tổng hợp của chiến
tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi trọn vẹn, không để xảy ra đổ
vỡ nghiêm trọng. Đảng chỉ đạo lấy tiến công quân sự của các binh đoàn cơ động chiến
lược mạnh làm “đòn cân não”, kết hợp chặt chẽ với sự nổi dậy của quần chúng đấu tranh
chính trị và binh vận, làm tan rã nhiều bộ phận quân địch, giải phóng từng địa bàn chiến
lược rộng lớn, tiến tới tổng công kích, tổng nổi dậy để giành quyền làm chủ và giành thắng lợi hoàn toàn.
Đảng ta nắm vững quy luật chiến tranh, quy luật phát huy sức mạnh tổng hợp và
quy luật “quyết định chiến trường là lực lượng vũ trang”, tin tưởng vào sức mạnh của
quần chúng nhân dân, vận dụng sáng tạo quy luật chiến tranh và quy luật khởi nghĩa vũ trang.
VI. Bài học kinh nghiệm
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã để lại những bài học
quý giá trong lịch sử giữ nước:
Một là, toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ, đồng thời tiến hành hai chiến lược
cách mạng nhằm mục tiêu chủ yếu là giải phóng miền Nam. lOMoAR cPSD| 58478860
Hai là, chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, tạo ra sức mạnh tổng hợp của chiến tranh.
Ba là, lựa chọn phương thức chiến tranh thích hợp.
Bốn là, ba tầng mặt trận thống nhất chống Mỹ: ở trong nước, giữa ba nước Đông
Dương và trên thế giới.
Năm là, không ngừng nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.
VII. Ưu điểm, nhược điểm của đảng trong quá trình lãnh đạo 1. Ưu điểm
Sớm nhận rõ kẻ thù, đánh giá đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch, có chủ
trương phù hợp với từng thời điểm, từng giai đoạn cụ thể, đánh bại từng bước, tiến lên
giành thắng lợi hoàn toàn
Giải quyết tốt mối quan hệ và đề ra đường lối chiến lược, nhiệm vụ cách mạng
của hai miền Nam, Bắc và nhiệm vụ cách mạng của cả nước, tạo ra sức mạnh to lớn để đánh thắng kẻ thù
Giữ vững độc lập, tự chủ, đồng thời thực hiện đường lối đối ngoại mềm dẻo,
tăng cường đoàn kết và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế, phát huy sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại 2. Nhược điểm
Trong một số thời điểm, bước chuyển của chiến tranh cách mạng, chủ trương,
sự chỉ đạo chiến lược của Đảng có những sai lầm, khuyết điểm: Trong hai năm
1957-1958, chậm chỉ đạo chuyển hướng đấu tranh chính trị, chậm xác định con
đường cách mạng miền Nam. Chủ quan trong đánh giá tình hình, đặt ra yêu cầu cao
so với khả năng thực tế, nhất là sau đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
năm 1968, ta đã không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệp ngay để đánh giá lại tình
hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời, chậm thấy cố gắng mới của địch và
những khó khăn lúc đó của ta, cho nên thế và lực cách mạng miền Nam bị khó khăn ,
tổn thất trong một thời gian. C. LỜI CẢM ƠN
Chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa Kinh tế và Quản lí, Trường
Đại học Thủy Lợi đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng em học tập và hoàn thành đề tài
nghiên cứu này. Đặc biệt, chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô - TS. Trần Thị
Ngọc Thúy đã dày công truyền đạt kiến thức và hướng dẫn chúng em trong quá trình làm bài. lOMoAR cPSD| 58478860
Nhóm em đã cố gắng vận dụng những kiến thức đã học được trong học kỳ qua để
hoàn thành bài tiểu luận. Nhưng do kiến thức còn hạn chế và không có nhiều kinh nghiệm
thực tiễn nên khó tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu và trình bày. Rất
kính mong sự góp ý của quý thầy cô để bài tiểu luận của nhóm em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa, chúng em xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy cô
đã giúp đỡ chúng em trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này. Xin trân trọng cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Website: https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/su-lanh-dao-cua-dang-%E2%80%93-yeu-toquyet-dinh-
lam-nen-chien-thang-vi-dai-1491908001?fbclid=IwAR07e7HpDL9n-
crhbug4Npvso3QmFxr2igxIq_HN2XZt92L3qbgxo5UOcE
2. Website: https://ubkttw.vn/danh-muc/tin-tuc-thoi-su/hiep-dinh-paris-nam-1973cham-
dut-chien-tranh-lap-lai-hoa-binh-o-viet-nam.html