Bài tiểu luận - Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lenin về con người vào công cuộc xây | Trường đại học Điện Lực

Bài tiểu luận - Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lenin về con người vào công cuộc xây | Trường đại học Điện Lực được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về con người vấn đề xây dựng nguồn lực
con người trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
A. Mở đầu
B. Nội dung
I. Cơ sở lý luận
1. Quan điểm triết học của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin về con người
2. Nguồn nhân lực và vai trò quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa
II. Vận dụng
1. Tất yếu khách quan của công nghiệp hóa và hiện đại hóa
- Khái niệm về công nghiệp hóa và hiện đại hóa
- Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa và hiện đại hóa
2. Thực trạng của nguồn nhân lực trong thời kỳ Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa ở Việt
Nam hiện nay
3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa hiện đại
hóa
C. Kết luận
D. Tài liệu tham khảo
A. Mở đầu
Con người yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của hội, nhân tố
chính mang tính quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới hội. Thấm nhuần
tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin về con người, Đảng ta nhấn mạnh con ngườitrung tâm của
chiến lược phát triển, đồng thời chủ thể phát triển. Đường lối đó đã được khẳng định
nhiều lần trong các văn kiện của Đảng như Nghị quyết đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VII của Đảng: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng phát huy nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Để đóng góp và ủng hộ đường lối của Đảng trong công cuộc xây dựng, phát triển đất
nước tôi xin chọn đề tài “Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề
xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước
ta” làm nghiên cứu. Hoàn thành tiểu luận này tôi hy vọng có thể góp phần làm rõ thực trạng
của nguồn nhân lực Việt Nam đưa ra một số giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta hiện nay.
B. Nội dung
I. Cơ sở lý luận
1. Quan điểm triết học của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin về con người
a) Con người là thực thể sinh vật – xã hội
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành tựu của khoa
học tự nhiên, trực tiếp thuyết tiến hóa thuyết tế bào, triết học Mác khẳng định con
người vừa sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa sản phẩm hoạt động của
chính bản thân con người. Con người là thực thể thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và các
yếu tố xã hội – là thực thể sinh vật – xã hội.
thực thể sinh vật, con người cho phát triển đến đâu cũng một động vật.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã
quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của
con vật” . Cũng như những động vật khác, con người một bộ phận của tự nhiên, “Giới tự
1
nhiên…là thân thể của con người…đời sống thể xác đời sống tinh thần của con
người gắn liền với giới tự nhiên”, nhưng con người khác với động vật con người còn
một thực thể xã hội.
Là thực thể xã hội vì các hoạt động xã hội, trước hết và quan trọng nhất là hoạt động lao
động sản xuất, đã làm cho con người trở thành con người với đúng nghĩa của nó. “Người là
giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật . Theo
2
Mác, hội suy cho cùng sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người. Con
người tạo ra xã hội, là thành viên của hội. Mọi biểu hiện sinh hoạt của con người là biểu
hiện và là khẳng định của xã hội.
Như vậy, con người không phải là một động vật thuần túy mà là một “động vật xã hội” –
một thực thể sinh vật – xã hội; con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội”. Thực thể
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn t p, Nxb. Chính tr quốốc gia, Hà N i, 2002, t.20, tr.146.
2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn t p, Nxb. Chính tr quốốc gia, Hà N i, 1994, t.20, tr.673.
sinh vật và thực thể xã hội ở con người không tách khỏi nhau, trong đó thực thể sinh vật là
tiền đề mà trên cái tiền đề đó thực thể xã hội tồn tại và phát triển.
b) Con người là chủ thể của lịch sử
Con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử với tư cách là sản phẩm quá trình tiến hóa
lâu dài của tự nhiên, mà con người còn là chủ thể của lịch sử. Lịch sử, hiểu theo nghĩa rộng
là những quá trình đan xen, nối tiếp nhau với tất cả những bảo tồn và biến đổi diễn ra trong
quá trình ấy. Hoạt động của con người làm ra lịch sử nên để có lịch sử trước hết phải có con
người. Tiền đề đầu tiên của lịch sử sự tồn tại của những nhân con người sống,vậy,
hành động lịch sử đầu tiên là hành động lao động sản xuất để con người tách khỏi động vật.
Con người tách khỏi động vật như thế nào thì họ bước vào lịch sử như thế vậy.
Con người làm ra lịch sử, song không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong
những điều kiện mình có quyền tự lựa chọn mà trong những điều kiện có sẵn do quá khứ
để lại. Với những điều kiện ấy, mỗi người, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động cũ của
thế hệ trước trong những hoàn cảnh mới; một mặt tiếp tục các hoạt động mới của mình để
biến đổi hoàn cảnh cũ. Xét mối quan hệ giữa các thế hệ và hoàn cảnh sống của con người thì
“bản thân xã hội sản xuất ra con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế”.
Như vậy, trong quá trình phát triển của thế giới nói chung và quá trình phát triển của con
người nói riêng, thì từ khi con người ra đời cho đến lúc nào con người còn tồn tại, con người
vẫn luôn vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử”.
Trong khi khẳng định: “Con người thực thể sinh vật hội” chủ thể của lịch
sử, Các Mác đồng thời khẳng định: “Bản chất con người không phải một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người tổng hòa
những quan hệ xã hội”. Quan điểm của Các Mác cho thấy bản chất con người hình thành và
thể hiện những con người hiện thực. Đấy những con người cụ thể, sống trong những
điều kiện cụ thể mà ở đó những mặt khác nhau tạo nên bản chất của con người sẽ được bộc
lộ ở những mức độ cụ thể.
Tất cả các quan hệ hội đều góp phần hình thành nên bản chất của con người. Các
quan hệ này không kết hợp với nhau theo phép tính cộng mà chúng tổng hòa, nghĩa là chúng
có vị trí, vai trò khác nhau nhưng chúng không tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau,
thâm nhập lẫn nhau.
Có nhiều cách tiếp cận để tìm hiểu về tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Nếu xét theo
thời gian thì đó những quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại quan hệ tương lai, trong đó
suy cho đến cùng thì những quan hệ hiện tại giữ vai trò quyết định. Nếu xét theo các loại
quan hệ thì đó những quan hệ vật chất những quan hệ tinh thần trong đó những quan
hệ vật chất giữ vai trò quyết định. Nếu xét theo tính chất, đó là những quan hệ trực tiếp, gián
tiếp, ngẫu nhiên, ổn định, không ổn định,…trong đó quan hệ trực tiếp, tất nhiên, ổn định giữ
vai trò quyết định. Nếu cụ thể hóa các quan hệ (quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,
quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ tôn giáo, quan hệ đạo đức,…) thì con người
bao nhiêu quan hệ sẽ có bấy nhiêu quan hệ góp phần hình thành nên bản chất của con người.
Trong đó suy cho đến cùng thì các quan hệ kinh tế hiện tại, trực tiếp, ổn định giữ vai trò
quyết định. Trong quan hệ kinh tế thì quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng hơn cả.
Khi các quan hệ hội thay đổi thì sớm hay muộn bản chất của con người cũng sự
thay đổi. Như vậy, bản chất của con người không phải được sinh ra mà được sinh thành,
hình thành và thay đổi theo sự hình thành và thay đổi của các quan hệ xã hội, trong đó trước
hết và quan trọng nhất là các quan hệ thuộc lĩnh vực kinh tế.
2. Nguồn nhân lực vai trò quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hóa
2.1 Các khái niệm về nguồn nhân lực
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực.
Theo Liên Hợp quốc thì “Nguồn nhân lực tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm, năng lực tính sáng tạo của con người quan hệ tới sự phát triển của mỗi
nhân của đất nước”. Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực toàn bộ vốn con
người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi nhân. Như vậy, đây
nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn
tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế, nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những
người trong độ tuổi khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được hiểu theo hai
nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất
hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn
bộ dân thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực khả năng lao
động của hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - hội, bao gồm các nhóm dân
trong độ tuổi lao động, khả năng tham gia vào lao động, sản xuất hội, tức toàn bộ
các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực
của họ được huy động vào quá trình lao động.
Dưới góc độ kinh tế phát triển: nguồn nhân lực một bộ phận dân số trong độ tuổi
quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số
lượng đó tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của nhà
nước thời gian lao động thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó sức khoẻ
trình độ chuyên môn, kiến thức trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động
tổng số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang
tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng chất
lượng. Như vậy, theo khái niệm này, có một số được tính là nguồn nhân lực nhưng lại không
phải nguồn lao động, đó là: những người không việc làm nhưng không tích cực tìm
kiếm việc làm, tức những người không nhu cầu tìm việc làm, những người trong độ
tuổi lao động quy định nhưng đang đi học…
Tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị, thể hiểu: nguồn nhân lực tổng hoà thể
lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết
tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử, được vận
dụng để sản xuất ra của cải vật chất tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại tương lai
của đất nước.
2.2 Vai trò quyết định của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Theo các nhà triết học kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người vừa là điểm khởi
đầu vừasự kết thúc, đồng thời lại lại trung tâm của sự biến đổi lịch sử, nói cách khác
con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Trong xã hội con người không chỉ
tạo ra các hệ thống và các quá trình khác nhau của xã hội (giai cấp, đảng phái, nhà nước, sản
xuất, văn hoá), mà chính họ còn làm người đã in đậm dấu ấn của tiến trình lịch sử. Lịch sử
(suy đến cùng) cũng chính lịch sử phát triển nhân của con người, họ nhận thức
được điều đó hay không. Từ đây cho phép tách ra một bình diện đặc biệt trong việc xem xét
"con người chủ thể" bình diện " con người nhân" nghĩa nâng nhận thức lên một
trình độ mới - quan niệm "cái cá nhân" là sự thể hiện (hiện thân) một cách cụ thể sinh động
của "cái hội" khi con người trở thành chủ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến đổi căn bản và sâu sắc toàn bộ đời sống
xã hội, nó đòi hỏi vật chất cao với người "chủ thể", ở đây chỉ sự cần cù, trung thành, nhiệt
tình quyết tâm cách mạng chưa đủ điều quan trọng hơn trí tuệ khoa học, ý chí chiến
thắng cái nghèo nàn lạc hậu, tính năng động luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật,
bản lĩnh lãnh đạo, nghệ thuật quản lý, kỹ thuật kinh doanh…Như vậy trong điều kiện mới
cần xem xét đánh giá bồi dưỡng "con người chủ thể" không chỉ trên bình diện "con người -
xã hội" mà còn trên cả bình diện "con người cá nhân". Hơn nữa là "con người - chuyên môn
nghề nghiệp" nhất định (như nhà lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, công
nhân…). Bởi ấn dấu đằng sau những chủ thể cụ thể này lợi ích tương ứng với chúng.
Chỉ có quan niệm và cách làm như vậy chúng ta mới biết tác động vào đâu và tác động như
thế nào để nâng cao tích cực của chủ thể hành động.
Nói đến nguồn nhân lực tức nói đến chủ thể tham gia vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên không phải chủ thể biệt lập riêng rẽ,chủ thể được
tổ chức thành lực lượng thống nhất về tư tưởng hành động. Nói cách khác công nghiệp hoá,
hiện đại hoá tổng hợp những chủ thể với những phẩm chất nhất định tham gia vào quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng cần phải hiểu rằng tổng hợp những chủ thể này
không phải tập hợp giản đơn số lượng người sức mạnh tổng hợp của chỉnh thể
người trong hành động. Sức mạnh này bắt nguồn trước hết là những phẩm chất vốn bên
trong của mỗi chủ thể được nhân lên gấp đôi trong hoạt động thực tiễn. Động lực
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là những gì thúc đẩy quá trình vận động và phát triển. Vì vậy
khi nói "nguồn lực với tính cách là động lực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá"
chủ yếu nói đến những phẩm chất tích cực của tổng hợp những chủ thể được bộc lộ trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy quá trình này vận động phát triển và thể
hiện mặt tích cực, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực tối đa của mình.
Mặt khác để xem xét vai trò nguồn lực của con người, cần đặt trong quan hệ so
sánh với các nguồn lực khác mức độ chi phối của đến sự thành bại của công cuộc
đổi mới đất nước. Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghiệp hiện đại phát triển
mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng trở thành xu thế phổ biến của nhân loại.
Khi công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá thực chất hiện đại hoá lực lượng sản
xuất với cách tiếp cận như vậy vai trò quyết định nguồn lực của con người được biểu hiện
những điểm như sau:
Thứ nhất: các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự
chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ tác dụng khi có ý thức của con người. Bởi lẽ
con người nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ ý chí, biết lợi dụng các nguồn lực
khác, gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể chịu sự cải tạo, khai
thác của con ngườinói chung thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên
con người biết cách tác động chi phối. thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản
xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất.
Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác. Trong khi đó
nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực tận. Tính vô tận của trí tuệ con
người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh mà còn tự sản sinh về mặt sinh học
và còn đổi mới không ngừng phát triển về chất trong con người xã hội nếu biết chăm lo, bồi
dưỡng khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn
của con người phát triển như một quá trình tận xét trên bình diện cộng đồng nhân loại.
Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên mới
sáng tạo ra những tài nguyên vốn không sẵn trong tự nhiên. Với bản chất hoạt động
mục đích, sáng tạo ra những hệ thống, công cụ sản xuất mới đã tác động vào tự nhiên một
cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ
khí và ngày nay là tự động hoá đưa xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp
đến cao, từ đó nói lên trình độ vô tận của con người.
Thứ ba: Ttuệ con người sức mạnh cùng to lớn một khi được vật thể hoá,
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và đang trở thành hiện thực.
Sự phát triển bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang dẫn
các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi
tri thức). những nước này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển chiếm tỷ
trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản
quốc gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức con người có thể tạo ra những máy móc
"bắt chước" hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. ràng bằng
những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay, khối óc con người tạo ra mà ngày nay
nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ của mình.
Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự
thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường
lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện nghĩa phụ thuộc o năng lực nhận thức
hoạt động thực tiễn của con người. vậy, phát triển nguồn nhân lực, tạo ra lực lượng lao
động tri thức, tay nghề, chuyên môn kỹ thuật khả năng thích ứng nhanh với những
thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất là một yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng
phát triển bền vững.
II. Vận dụng
1. Tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiê ~p hóa, hiê ~n đại hóa theo quan niê ~m hiê ~n đại mà Đảng ta xác định là: Quá
trình chuyển đổi ~t cách căn bản và toàn diê ~n các hoạt đô ~ng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế xã hô ~i từ sử dụng lao đô ~ng thủ công là chính sang sử dụng ~t cách phổ
biến sức lao đô ~ng cùng với phương tiê ~n, phương pháp tiên tiến, hiê ~n đại dựa trên sự phát
triển của công nghiê ~p và khoa học công nghê ~, tạo ra năng suất lao đô ~ng xã hô ~i cao và tạo ra
những biến đổi về chất trong toàn bộ các hoạt động của đời sống xã hội.
Đó là quá trình sử dụng năng lực, kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của con người để tạo
ra và sử dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại kết hợp với giá trị truyền
thống của dân tộc để đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hướng tới một xã hội
văn minh, hiện đại. Ngày nay, công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đã trở thành tất yếu
của sự phát triển, làn sóng mạnh mẽ tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới cũng
như mọi mặt của đời sống xã hội.
1.2Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá xu hướng phát triển của các nước trên thế giới. Đó
cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu "Xã hội công bằng văn
minh, dân giàu nước mạnh" công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng
kinh tế chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh
tế, chính trị, khoa học của con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về
chất.
Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta xuất phát từ các
nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do yêu cầu phải xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Cơ
sở vật chất – kỹ thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp
với trình độ kỹ thuật công nghiệp thích ứng của nó mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để
sản xuất ra của cải vật chất. Đối với các nước đang phát triển, việc xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một trong những nhiệm vụ kinh tế to lớn và là một
yêu cầu khách quan. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một nền sản xuất lớn đòi hỏi phải dựa trên
trình độ kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại và không ngừng hoàn thiện.
Thứ hai, do yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách tụt hậu xa về kinh tế, kỹ thuật công
nghệ giữa Việt Nam và thế giới. Công nghiệp hoá góp phần tạo nên nền kinh tế hiện đại với
những ưu thế nổi bật như: năng suất cao, cơ cấu sản suất đa dạng, công ăn việc làm phong
phú hơn nhiều so với một nền kinh tế bao cấp. Việc có công nghiệp hóa hiện đại hóa giúp xã
hội phát triển kinh tế đi lên. Khoảng cách giàu nghèo cũng được thu hẹp lại.
Thứ ba, do yêu cầu phải tạo ra năng suất lao động hội cao, đảm bảo cho sự tồn tại
phát triển của xã hội.
Các chuyên gia trên thế giới đã khái quát 4 trình độ công nghiệp hóa từ thấp đến cao.
Thấp nhất là trình độ lắp ráp (Assemblement); tiếp đó là trình độ sản xuất với kỹ thuật riêng
(Own Engineering Manufacturing-OEM); cao hơn trình độ sản xuất với thiết kế riêng
(Own Design Manufacturing-ODM) cao nhất trình độ sản xuất với thương hiệu riêng
(Own Brand Manufacturing-OBM). Vậy trình độ công nghiệp hóa của Việt Nam nằm
trình độ nào trong 4 trình độ trên? Nền sản xuất công nghiệp quốc gia về bản dừng lại
trình độ lắp ráp và các ngành công nghiệp phụ trợ cũng không thể phát triển. Quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cũng là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo lợi thế cạnh
tranh; đảm bảo tự chủ kinh tế quốc gia thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao
động và hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
2. Thực trạng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt
Nam hiện nay
Nguồn nhân lực của Việt Nam đang ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của dân số.
Theo số liệu của Tổng cục Thống (TCTK), tính đến năm 2020, quy dân số cả nước
ước đạt 97,58 triệu người, trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên khoảng 54,6 triệu
người, chiếm gần 65% so với quy dân số cả nước. Trung bình mỗi nămkhoảng 500
nghìn người gia nhập lực lượng lao động.
Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đã sự cải thiện, thể hiện trình độ học vấn
cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động tăng qua từng năm, phần nào
đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệpthị trường lao động. Tỷ lệ lao động đã qua đào
tạo đã tăng hơn gấp đôi sau khoảng 20 năm, từ 10,3% (năm 2000) lên 22,8% (năm 2019).
Tỷ lệ dân số chuyên môn kỹ thuật đã tăng lên đáng kể so với năm 2007, tăng 6,3 điểm
phần trăm, từ 17,7% (năm 2007) lên 24% (quý II/2020). Tỷ lệ dân số có trình độ đại học trở
lên tăng mạnh nhất, từ 4,9% (năm 2007) lên 11,1% (quý II/2020). Điều này cho thấy trong
những năm qua, giáo dục đại học trên đại học của Việt Nam đã những thay đổi lớn,
góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước.
Khi so sánh với các quốc gia trong khu vực, NSLĐ của Việt Nam vẫn ở mức tương đối
thấp
chênh lệch tuyệt đối tiếp tục xu hướng gia tăng. NSLĐ của Việt Nam chỉ cao hơn
Campuchia; gần tương đồng với Myanmar và Lào; thấp hơn Ấn Độ, Philippines, Indonesia,
Trung Quốc, Thái Lan và thấp hơn rất nhiều so với Malaysia cũng như Singapore. Điều này
đặt ra những thách thức rất lớn cho Việt Nam trong việc cải thiện chất lượng nguồn nhân
lực, qua đó nâng cao NSLĐ để thể bắt kịp với mức NSLĐ của các quốc gia trong khu
vực.
Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam đã làm chủ được khoa học công nghệ,
đảm nhận được phần lớn các vị trí công việc phức tạp trong sản xuất - kinh doanh; sức khỏe
của người lao động ngày càng được chăm sóc tốt hơn…; qua đó góp phần nâng cao NSLĐ
của Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, lực lượng lao động của Việt Nam cũng còn
bộc lộ những tồn tại, hạn chế, thể hiện ở các điểm sau đây:
Trí lực
Mức độ cải thiện và chênh lệch về trình độ học vấn là đáng kể giữa khu vực thành thị và
nông thôn. Đây là dấu hiệu cho thấy sự phân cấp, mất cân đối nguồn nhân lực giữa các vùng
miền và tất yếu sẽ kéo theo chênh lệch mức sống dân cư, về phát triển kinh tế - hội giữa
các khu vực thể xem lỗ hổng lớn về chất lượng lao động của Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, tỷ trọng lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp. Theo đánh giá
của WB, Việt Nam đang thiếu lao động trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao.
Trong xu hướng phát triển hiện nay, Việt Nam vẫn nhu cầu rất lớn về nguồn nhân lực
chất lượng cao và lành nghề. Tuy nhiên, những bất cập hiện nay không chỉ cản trở tiềm năng
đóng góp của lao động vào tăng năng suất lao động còn đặt ra nhiệm vụ nặng nề cho
những cố gắng nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực lao động phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Thể lực
Mặc dù, công tác y tế - chăm sóc sức khỏe của người dân được cải thiện qua từng năm
tháng, dân số không ngừng tăng, tuổi thọ trung bình được nâng lên… nhưng tốc độ gia tăng
dân số đang có xu hướng giảm, mất câng bằng giới tính tăng, xu hướng già hóa dân số ngày
càng hiện hữu qua gánh nặng bệnh tật của người cao tuổi lớn, đời sống vật chất của người
cao tuổi còn thấp… Chính vì vậy, đi đôi với tuổi thọ trung bình được nâng lên thì vấn đề già
hóa với tốc độ nhanh trong bối cảnh Việt Nam vẫn một quốc gia mức thu nhập trung
bình thấp đang một thách thức không nhỏ. Già hóa dân số sẽ tác động đến hầu hết các
lĩnh vực của đời sống hội bao gồm: thị trường lao động, tài chính, nhu cầu về các hàng
hóa, dịch vụ, giáo dục, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi...
3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa hiện
đại hóa
Sự thành công của quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài môi trường
chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên
nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia
vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng
đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá không giống nhau, trong đó nguồn
nhân lực phải đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở
thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu đó.
Chất lượng nguồn nhân lực trạng thái nhất định của nguồn nhân lực với cách
vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và các quan
hệ hội. Chất lượng nguồn nhân lực tổng thể những nét đặc trưng, phản ánh bản chất,
tính đặc thù liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất phát triển con người. Chất lượng
nguồn nhân lực cao có tác động làm tăng năng suất lao động (NSLĐ). Trong thời đại tiến bộ
kỹ thuật, một quốc gia cần và có thể đưa chất lượng nguồn nhân lực vượt trước trình độ phát
triển của sở vật chất trong nước để sẵn sàng đón nhân tiến bộ kỹ thuật công nghệ, hòa
nhập với nhịp độ phát triển nhân loại. Chất lượng nguồn nhân lực được đánh giá thông qua
các tiêu chí về trạng thái thể lực, trí lực, đạo đức và phẩm chất.
Nâng cao trí lực thông qua nâng cao chất lượng giáo dụcđào tạo. Trong lịch sử
phát triển của nhân loại, giáo dục luôn đóng vai trò rất quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu
của người lao động. Những lao động trình độ chuyên môn lành nghề cao sẽ nhiều
hội tìm được việc làm có thu nhập cao hơn những lao động không có trình độ chuyên môn
lành nghề. Thông qua giáo dục - đào tạo phát triển nguồn nhân lực sẽ thúc đẩy nâng cao
NSLĐ, hiệu quả công việc, giảm bớt sự giám sát, duy trì nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Để tăng cường kiến thức, kỹ năng năng lực thực hiện công việc, nguồn nhân
lực phải được giáo dục, đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề. Kết quả của giáo dục - đào
tạo được thể hiện trình độ học vấn cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn
nhân lực. Do đó, đầu tư cho giáo dục luôn được Đảng ta coi là “quốc sách hàng đầu”, đây là
sự đầu cho tái sản xuất con người một cách an toàn mang lại không chỉ hiệu quả kinh
tế mà còn cả hiệu ứng lan tỏa, hiệu quả xã hội cao nhất.
Các loại hình giáo dục sau phổ thông trung học cần được đa dạng hóa, trong đó
các chương trình đại học không bằng cấp. Xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa nhà trường
doanh nghiệp nhằm giúp các sinh viên hội vừa học vừa làm, trải nghiệm môi
trường thực tế ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Các chương trình đào tạo, phương
pháp giảng dạy cần được đổi mới theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực; bên cạnh các
kiến thức trong sách vở, người học cần được thực hành nhiều hơn, cũng như cần được trang
bị thêm các kỹ năng mềm nhằm đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Định hướng giáo dục theo nhu cầu nhằm tạo ra sự cân bằng trong đào tạo và sử dụng
nhân lực các ngành nghề, vùng, miền và các thành phần kinh tế, tránh lãng phí không cần
thiết khi đào tạo lao động bằng cấp không được sử dụng hay sử dụng sai so với nội
dung đào tạo. Hệ thống giáo dục quốc dân cần được hoàn thiện theo hướng hệ thống giáo
dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Để rút ngắn khoảng cách về trình độ học vấn cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật
của người lao động giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn, các chương trình mục tiêu
quốc gia cần được xây dựng chế hỗ trợ người dân vùng nông thôn, các dân tộc thiểu số
vùng sâu vùng xa… Đầu cho giáo dục đào tạo cần được tăng cường bằng nhiều nguồn
khác nhau, trong đó đầu từ ngân sách nhà nước cần tăng lên, đồng thời huy động nhiều
hơn, tốt hơn sức dân thông qua đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn đụng chạm đến các vấn đề phức tạp
trong quan hệ giữa con người với tự nhiên. đòi hỏi con người phải hiểu biết
trách nhiệm trong việc bảo vệ, cải thiện môi trường thiên nhiên sự phát triển bền vững.
Con người phải nhận thức, thái độ, cách ứng xử đúng đắn đối với tự nhiên cả về phòng
ngừa, ngăn chặn, xử hậu quả do sản xuất gây ra; cải thiện môi trường tự nhiên, bảo tồn
thiên nhiên, thích nghi với tự nhiên và đấu tranh chống lại việc tàn phá tự nhiên.
Nâng cao đời sống tinh thần và sức khỏe cho người dân, đảm bảo gắn kết hài hòa
giữa phát triển kinh tế với phát triển hội. Đầu vào sức khỏe cũng giống như đầu
vào giáo dục, sẽ giúp cải thiện lực lượng lao động. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), sức
khỏe là trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không phải chỉ
không bệnh tật hay tàn phế. Sức khỏe tốt một nhân tố hết sức quan trọng của chất
lượng lao động, làm tăng khả năng làm việc vừa khía cạnh thể chất lẫn tinh thần, qua đó
góp phần tăng NSLĐ.
Mặt khác, sức khỏe và y tế tăng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô dân số và
số lượng lao động của mỗi quốc gia. Số lượng chất lượng nguồn nhân lực chịu ảnh
hưởng của quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số. Quốc gia nào có quy mô dân số lớn thì có
quy nguồn nhân lực lớn ngược lại. cấu tuổi của dân số ảnh hưởng quyết định
đến quy cấu nguồn lao động. Chính sách, pháp luật về dân số cần tiếp tục được
hoàn thiện theo hướng gắn với xây dựng gia đình hạnh phúc; bảo đảm hài hòa giữa quyền
nghĩa vụ của người dân trong thực hiện chính sách dân số. Dịch vụ y tế công phải bảo
đảm các dịch vụ cơ bản; sức khỏe người dân được chăm sóc bảo vệ. Y tế sở, y tế dự
phòng, sàng lọc phát hiện sớm, chữa trị kịp thời cần được đẩy mạnh. Công tác nghiên
cứu ứng dụng khoa học y học cần được tăng cường, trong đó chú trọng phát triển các
ngành khoa học phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe người dân.
Bên cạnh những chế, chính sách, pháp luật về dân số, Việt Nam cần bổ sung
hoàn thiện các chế, chính sách về bảo vệ, chăm sóc phát huy vai trò của người cao
tuổi như: các chính sách nhằm tạo điều kiện cho người cao tuổi phát huy kinh nghiệm của
mình trong quá trình phát triển đất nước, những chính sách khuyến khích người cao tuổi,
đặc biệt những người cao tuổi trình độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực ưu tiên,
tham gia/tiếp tục tham gia hoạt động kinh tế - hội. Nhận thức của xã hội cần được nâng
cao, người dân cần chủ động hơn trong việc chuẩn bị cho tuổi già. Việt Nam cần xây dựng
các chính sách tiếp cận toàn diện hơn về vấn đề già hóa dân số, vừa giải quyết các vấn đề
hiện tại do tác động của già hóa dân số tới cả người cao tuổi và người trẻ tuổi, vừa phù hợp
với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai.
Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo để bứt phá về chất
lượng lao động, nâng cao NSLĐ.
Sự tiến bộ của khoa học công nghệ ảnh hưởng lớn đến phát triển nguồn nhân
lực. Sự phát triển không ngừng và những tiến bộ khoa học kĩ thuật đã cho ra đời những công
nghệ hiện đại mà nó đòi hỏi nguồn nhân lựcchất lượng cao mới đáp ứng được. Do vậy,
phương thức giáo dục - đào tạo cần được cải tiến để tạo điều kiện cho người lao động có thể
nâng cao trình độ trước những thay đổi nhanh chóng của khoa học và công nghệ. Khoa học
công nghệtác động trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, làm thay
đổi quá trình tổ chức, trình độ chuyên môn động lực thúc đẩy người lao động không
ngừng học hỏi, tự đào tạo, tự trao dồi kiến thức. Vì vậy, cần đào tạo, bồi dưỡng thu hút các
nhân tài nhằm tạo ra một đội ngũ các chuyên gia, các nhà khoa có năng lực giỏi phục vụ sự
nghiệp cách mạng công nghiệp của đất nước.
Trình độ khoa học và công nghệ của Việt Nam mặc đã đạt được một số thành tựu
nhưng vẫn còn có khoảng cách khá xa so với các quốc gia dẫn đầu khu vực châu Á, nhất
khoảng cách giữa nghiên cứu khoa học, công nghệ với phát triển ứng dụng khoa học,
công nghệ vào đời sống xã hội, sản xuất. Bên cạnh đó, hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia
của Việt Nam còn non trẻ, manh mún; hoạt động nghiên cứu phát triển trong khu vực
doanh nghiệp còn ít và thiếu kết nối hiệu quả với các trường đại học, viện nghiên cứu; lực
lượng lao động chất lượng cao còn hạn chế. Cơ chế quản khoa học công nghệ cần
được đổi mới, nhất chế tài chính, nhằm giải phóng năng lực sáng tạo của nhà khoa
học, đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, đời sống. Liên kết giữa các tổ
chức khoa học công nghệ với doanh nghiệp cần được tăng cường. Hợp tác quốc tế về
khoa học, công nghệ cao cần được ưu tiên trong hội nhập quốc tế. Việt Nam cần đa dạng
hóa đối tác, lựa chọn đối tác chiến lược các quốc gia nền khoa học, công nghệ tiên
tiến; gắn kết chặt chẽ giữa hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ với hợp tác kinh tế quốc
tế. Đồng thời, phát triển mạng lưới kết nối nhân tài người Việt Nam, thu hút sự tham gia
đóng góp của cộng đồng các nhà khoa học người Việt Nam nước ngoài. như vậy nền
khoa học và công nghệ Việt Nam mới không lạc lõng và tụt hậu so với thế giới.
C. Kết luận
Chiến lược xây dựng là một mục tiêu, động lực quan trọngphát triển con người
của sự nghiệp đổi mới, đồng thời thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa khi
Việt Nam bước vào phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nói, giai
đoạn 2021 - 2030 là giai đoạn phát triển mới mang tính bứt phá của Việt Nam, nhất là trong
bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra với tốc độ nhanh, phát triển nền kinh
tế số, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Bối cảnh này cũng đặt ra những yêu cầu đổi
mới và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Theo đó, con người cần phát triển đồng bộ về
“tâm lực - trí lực - kỹ lực - thể lực - cuộc sống hạnh phúc”, làm chủ một số công nghệ mới,
tạo nền tảng để khoa học - công nghệ thực sự trở thành động lực then chốt, tạo bứt phá về
NSLĐ, chuyển đổi hình tăng trưởng sang phát triển theo chiều sâu, đảm bảo cho đất
nước thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đường lối đúng đắn
này của Đảng ta chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của đất nước ta.
D. Tài liệu tham khảo
Giáo trình triết học….
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/tu-dien-mo/item/788-nguon-nhan-luc-va-
phat-trien-nguon-nhan-luc.html
https://moit.gov.vn/tin-tuc/phat-trien-cong-nghiep/cong-nghiep-hoa-o-viet-nam-va-
qua-trinh-phat-trien-kinh-te-xa-hoi.html
https://daihoi13.dangcongsan.vn/gop-y-van-kien-dai-hoi/du-thao-van-kien/cong-
nghiep-hoa-hien-dai-hoa-phai-la-mot-noi-dung-quan-trong-trong-chu-de-bao-cao-
chinh-tri-2816
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?
dDocName=MOFUCM212408
| 1/18

Preview text:

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực
con người trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta. A. Mở đầu B. Nội dung I. Cơ sở lý luận
1. Quan điểm triết học của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin về con người
2. Nguồn nhân lực và vai trò quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa II. Vận dụng
1. Tất yếu khách quan của công nghiệp hóa và hiện đại hóa
- Khái niệm về công nghiệp hóa và hiện đại hóa
- Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa và hiện đại hóa
2. Thực trạng của nguồn nhân lực trong thời kỳ Công nghiệp hóa và Hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa và hiện đại hóa C. Kết luận
D. Tài liệu tham khảo A. Mở đầu
Con người – yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội, là nhân tố
chính mang tính quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới xã hội. Thấm nhuần tư
tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin về con người, Đảng ta nhấn mạnh con người là trung tâm của
chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Đường lối đó đã được khẳng định
nhiều lần trong các văn kiện của Đảng như Nghị quyết đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VII của Đảng: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Để đóng góp và ủng hộ đường lối của Đảng trong công cuộc xây dựng, phát triển đất
nước tôi xin chọn đề tài “Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề
xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta” làm nghiên cứu. Hoàn thành tiểu luận này tôi hy vọng có thể góp phần làm rõ thực trạng
của nguồn nhân lực Việt Nam và đưa ra một số giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta hiện nay. B. Nội dung I. Cơ sở lý luận
1. Quan điểm triết học của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin về con người
a) Con người là thực thể sinh vật – xã hội
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành tựu của khoa
học tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hóa và thuyết tế bào, triết học Mác khẳng định con
người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động của
chính bản thân con người. Con người là thực thể thống nhất giữa các yếu tố sinh vật và các
yếu tố xã hội – là thực thể sinh vật – xã hội.
Là thực thể sinh vật, vì con người cho dù phát triển đến đâu cũng là một động vật.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã
quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật” .
1 Cũng như những động vật khác, con người là một bộ phận của tự nhiên, “Giới tự
nhiên…là thân thể vô cơ của con người…đời sống thể xác và đời sống tinh thần của con
người gắn liền với giới tự nhiên”, nhưng con người khác với động vật vì con người còn là một thực thể xã hội.
Là thực thể xã hội vì các hoạt động xã hội, trước hết và quan trọng nhất là hoạt động lao
động sản xuất, đã làm cho con người trở thành con người với đúng nghĩa của nó. “Người là
giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật2. Theo
Mác, xã hội suy cho cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người. Con
người tạo ra xã hội, là thành viên của xã hội. Mọi biểu hiện sinh hoạt của con người là biểu
hiện và là khẳng định của xã hội.
Như vậy, con người không phải là một động vật thuần túy mà là một “động vật xã hội” –
một thực thể sinh vật – xã hội; con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội”. Thực thể
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn t p, Nxb. Chính tr ậ quốốc gia, Hà N ị i, 2002, t.20, tr ộ .146.
2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn t p, Nxb. Chính tr ậ quốốc gia, Hà N ị i, 1994, t.20, tr ộ .673.
sinh vật và thực thể xã hội ở con người không tách khỏi nhau, trong đó thực thể sinh vật là
tiền đề mà trên cái tiền đề đó thực thể xã hội tồn tại và phát triển.
b) Con người là chủ thể của lịch sử
Con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử với tư cách là sản phẩm quá trình tiến hóa
lâu dài của tự nhiên, mà con người còn là chủ thể của lịch sử. Lịch sử, hiểu theo nghĩa rộng
là những quá trình đan xen, nối tiếp nhau với tất cả những bảo tồn và biến đổi diễn ra trong
quá trình ấy. Hoạt động của con người làm ra lịch sử nên để có lịch sử trước hết phải có con
người. Tiền đề đầu tiên của lịch sử là sự tồn tại của những cá nhân con người sống, vì vậy,
hành động lịch sử đầu tiên là hành động lao động sản xuất để con người tách khỏi động vật.
Con người tách khỏi động vật như thế nào thì họ bước vào lịch sử như thế vậy.
Con người làm ra lịch sử, song không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong
những điều kiện mình có quyền tự lựa chọn mà là trong những điều kiện có sẵn do quá khứ
để lại. Với những điều kiện ấy, mỗi người, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động cũ của
thế hệ trước trong những hoàn cảnh mới; một mặt tiếp tục các hoạt động mới của mình để
biến đổi hoàn cảnh cũ. Xét mối quan hệ giữa các thế hệ và hoàn cảnh sống của con người thì
“bản thân xã hội sản xuất ra con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế”.
Như vậy, trong quá trình phát triển của thế giới nói chung và quá trình phát triển của con
người nói riêng, thì từ khi con người ra đời cho đến lúc nào con người còn tồn tại, con người
vẫn luôn vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử”.
Trong khi khẳng định: “Con người là thực thể sinh vật – xã hội” và là chủ thể của lịch
sử, Các Mác đồng thời khẳng định: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội”. Quan điểm của Các Mác cho thấy bản chất con người hình thành và
thể hiện ở những con người hiện thực. Đấy là những con người cụ thể, sống trong những
điều kiện cụ thể mà ở đó những mặt khác nhau tạo nên bản chất của con người sẽ được bộc
lộ ở những mức độ cụ thể.
Tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất của con người. Các
quan hệ này không kết hợp với nhau theo phép tính cộng mà chúng tổng hòa, nghĩa là chúng
có vị trí, vai trò khác nhau nhưng chúng không tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau.
Có nhiều cách tiếp cận để tìm hiểu về tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Nếu xét theo
thời gian thì đó là những quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại và quan hệ tương lai, trong đó
suy cho đến cùng thì những quan hệ hiện tại giữ vai trò quyết định. Nếu xét theo các loại
quan hệ thì đó là những quan hệ vật chất và những quan hệ tinh thần trong đó những quan
hệ vật chất giữ vai trò quyết định. Nếu xét theo tính chất, đó là những quan hệ trực tiếp, gián
tiếp, ngẫu nhiên, ổn định, không ổn định,…trong đó quan hệ trực tiếp, tất nhiên, ổn định giữ
vai trò quyết định. Nếu cụ thể hóa các quan hệ (quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,
quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ tôn giáo, quan hệ đạo đức,…) thì con người có
bao nhiêu quan hệ sẽ có bấy nhiêu quan hệ góp phần hình thành nên bản chất của con người.
Trong đó suy cho đến cùng thì các quan hệ kinh tế hiện tại, trực tiếp, ổn định giữ vai trò
quyết định. Trong quan hệ kinh tế thì quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng hơn cả.
Khi các quan hệ xã hội thay đổi thì sớm hay muộn bản chất của con người cũng có sự
thay đổi. Như vậy, bản chất của con người không phải được sinh ra mà được sinh thành, nó
hình thành và thay đổi theo sự hình thành và thay đổi của các quan hệ xã hội, trong đó trước
hết và quan trọng nhất là các quan hệ thuộc lĩnh vực kinh tế.
2. Nguồn nhân lực và vai trò quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa
2.1 Các khái niệm về nguồn nhân lực
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực.
Theo Liên Hợp quốc thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá
nhân và của đất nước”. Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con
người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây
nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn
tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế, nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những
người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được hiểu theo hai
nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã
hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn
bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao
động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư
trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ
các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực
của họ được huy động vào quá trình lao động.
Dưới góc độ kinh tế phát triển: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi
quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số
lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của nhà
nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và
trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động
là tổng số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang
tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng và chất
lượng. Như vậy, theo khái niệm này, có một số được tính là nguồn nhân lực nhưng lại không
phải là nguồn lao động, đó là: những người không có việc làm nhưng không tích cực tìm
kiếm việc làm, tức là những người không có nhu cầu tìm việc làm, những người trong độ
tuổi lao động quy định nhưng đang đi học…
Tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị, có thể hiểu: nguồn nhân lực là tổng hoà thể
lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết
tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử, được vận
dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
2.2 Vai trò quyết định của nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Theo các nhà triết học kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người vừa là điểm khởi
đầu vừa là sự kết thúc, đồng thời lại lại là trung tâm của sự biến đổi lịch sử, nói cách khác
con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Trong xã hội con người không chỉ
tạo ra các hệ thống và các quá trình khác nhau của xã hội (giai cấp, đảng phái, nhà nước, sản
xuất, văn hoá), mà chính họ còn làm người đã in đậm dấu ấn của tiến trình lịch sử. Lịch sử
(suy đến cùng) cũng chính là lịch sử phát triển cá nhân của con người, dù họ có nhận thức
được điều đó hay không. Từ đây cho phép tách ra một bình diện đặc biệt trong việc xem xét
"con người chủ thể" bình diện " con người cá nhân" có nghĩa là nâng nhận thức lên một
trình độ mới - quan niệm "cái cá nhân" là sự thể hiện (hiện thân) một cách cụ thể sinh động
của "cái xã hội" khi con người trở thành chủ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến đổi căn bản và sâu sắc toàn bộ đời sống
xã hội, nó đòi hỏi vật chất cao với người "chủ thể", ở đây chỉ sự cần cù, trung thành, nhiệt
tình quyết tâm cách mạng chưa đủ mà điều quan trọng hơn là trí tuệ khoa học, ý chí chiến
thắng cái nghèo nàn lạc hậu, tính năng động luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ luật,
bản lĩnh lãnh đạo, nghệ thuật quản lý, kỹ thuật kinh doanh…Như vậy trong điều kiện mới
cần xem xét đánh giá bồi dưỡng "con người chủ thể" không chỉ trên bình diện "con người -
xã hội" mà còn trên cả bình diện "con người cá nhân". Hơn nữa là "con người - chuyên môn
nghề nghiệp" nhất định (như nhà lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, công
nhân…). Bởi vì ấn dấu đằng sau những chủ thể cụ thể này là lợi ích tương ứng với chúng.
Chỉ có quan niệm và cách làm như vậy chúng ta mới biết tác động vào đâu và tác động như
thế nào để nâng cao tích cực của chủ thể hành động.
Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến chủ thể tham gia vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên nó không phải là chủ thể biệt lập riêng rẽ, mà là chủ thể được
tổ chức thành lực lượng thống nhất về tư tưởng hành động. Nói cách khác công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là tổng hợp những chủ thể với những phẩm chất nhất định tham gia vào quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng cần phải hiểu rằng tổng hợp những chủ thể này
không phải là tập hợp giản đơn số lượng người mà nó là sức mạnh tổng hợp của chỉnh thể
người trong hành động. Sức mạnh này bắt nguồn trước hết là những phẩm chất vốn có bên
trong của mỗi chủ thể và nó được nhân lên gấp đôi trong hoạt động thực tiễn. Động lực
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là những gì thúc đẩy quá trình vận động và phát triển. Vì vậy
khi nói "nguồn lực với tính cách là động lực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá" là
chủ yếu nói đến những phẩm chất tích cực của tổng hợp những chủ thể được bộc lộ trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy quá trình này vận động phát triển và thể
hiện mặt tích cực, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực tối đa của mình.
Mặt khác để xem xét vai trò nguồn lực của con người, cần đặt nó trong quan hệ so
sánh với các nguồn lực khác và ở mức độ chi phối của nó đến sự thành bại của công cuộc
đổi mới đất nước. Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghiệp hiện đại phát triển
mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại.
Khi công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực lượng sản
xuất với cách tiếp cận như vậy vai trò quyết định nguồn lực của con người được biểu hiện ở những điểm như sau:
Thứ nhất: các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó
chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ có tác dụng khi có ý thức của con người. Bởi lẽ
con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết lợi dụng các nguồn lực
khác, gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể chịu sự cải tạo, khai
thác của con người và nói chung thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên
con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản
xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất.
Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác. Trong khi đó
nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận. Tính vô tận của trí tuệ con
người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh mà còn tự sản sinh về mặt sinh học
và còn đổi mới không ngừng phát triển về chất trong con người xã hội nếu biết chăm lo, bồi
dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn
của con người phát triển như một quá trình vô tận xét trên bình diện cộng đồng nhân loại.
Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên mới và
sáng tạo ra những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên. Với bản chất hoạt động có
mục đích, sáng tạo ra những hệ thống, công cụ sản xuất mới đã tác động vào tự nhiên một
cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ
khí và ngày nay là tự động hoá đưa xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp
đến cao, từ đó nói lên trình độ vô tận của con người.
Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá,
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo này của Mác đã và đang trở thành hiện thực.
Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang dẫn
các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà gọi
là tri thức). Ở những nước này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ
trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản
quốc gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức con người có thể tạo ra những máy móc
"bắt chước" hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng bằng
những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay, khối óc con người tạo ra mà ngày nay
nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ của mình.
Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự
thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường
lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực, tạo ra lực lượng lao
động có tri thức, tay nghề, chuyên môn kỹ thuật và khả năng thích ứng nhanh với những
thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất là một yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững. II. Vận dụng
1. Tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1 Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiê ~p hóa, hiê ~n đại hóa theo quan niê ~m hiê ~n đại mà Đảng ta xác định là: Quá
trình chuyển đổi mô ~t cách căn bản và toàn diê ~n các hoạt đô ~ng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế xã hô ~i từ sử dụng lao đô ~ng thủ công là chính sang sử dụng mô ~t cách phổ
biến sức lao đô ~ng cùng với phương tiê ~n, phương pháp tiên tiến, hiê ~n đại dựa trên sự phát
triển của công nghiê ~p và khoa học công nghê ~, tạo ra năng suất lao đô ~ng xã hô ~i cao và tạo ra
những biến đổi về chất trong toàn bộ các hoạt động của đời sống xã hội.
Đó là quá trình sử dụng năng lực, kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của con người để tạo
ra và sử dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại kết hợp với giá trị truyền
thống của dân tộc để đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hướng tới một xã hội
văn minh, hiện đại. Ngày nay, công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đã trở thành tất yếu
của sự phát triển, là làn sóng mạnh mẽ tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới cũng
như mọi mặt của đời sống xã hội.
1.2 Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên thế giới. Đó
cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục tiêu "Xã hội công bằng văn
minh, dân giàu nước mạnh" công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng
kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh
tế, chính trị, khoa học của con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất.
Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do yêu cầu phải xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Cơ
sở vật chất – kỹ thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp
với trình độ kỹ thuật công nghiệp thích ứng của nó mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để
sản xuất ra của cải vật chất. Đối với các nước đang phát triển, việc xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại là một trong những nhiệm vụ kinh tế to lớn và là một
yêu cầu khách quan. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một nền sản xuất lớn đòi hỏi phải dựa trên
trình độ kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại và không ngừng hoàn thiện.
Thứ hai, do yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách tụt hậu xa về kinh tế, kỹ thuật và công
nghệ giữa Việt Nam và thế giới. Công nghiệp hoá góp phần tạo nên nền kinh tế hiện đại với
những ưu thế nổi bật như: năng suất cao, cơ cấu sản suất đa dạng, công ăn việc làm phong
phú hơn nhiều so với một nền kinh tế bao cấp. Việc có công nghiệp hóa hiện đại hóa giúp xã
hội phát triển kinh tế đi lên. Khoảng cách giàu nghèo cũng được thu hẹp lại.
Thứ ba, do yêu cầu phải tạo ra năng suất lao động xã hội cao, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Các chuyên gia trên thế giới đã khái quát 4 trình độ công nghiệp hóa từ thấp đến cao.
Thấp nhất là trình độ lắp ráp (Assemblement); tiếp đó là trình độ sản xuất với kỹ thuật riêng
(Own Engineering Manufacturing-OEM); cao hơn là trình độ sản xuất với thiết kế riêng
(Own Design Manufacturing-ODM) và cao nhất là trình độ sản xuất với thương hiệu riêng
(Own Brand Manufacturing-OBM). Vậy trình độ công nghiệp hóa của Việt Nam nằm ở
trình độ nào trong 4 trình độ trên? Nền sản xuất công nghiệp quốc gia về cơ bản dừng lại ở
trình độ lắp ráp và các ngành công nghiệp phụ trợ cũng không thể phát triển. Quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cũng là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo lợi thế cạnh
tranh; đảm bảo tự chủ kinh tế quốc gia thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao
động và hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
2. Thực trạng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
Nguồn nhân lực của Việt Nam đang ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của dân số.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK), tính đến năm 2020, quy mô dân số cả nước
ước đạt 97,58 triệu người, trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên khoảng 54,6 triệu
người, chiếm gần 65% so với quy mô dân số cả nước. Trung bình mỗi năm có khoảng 500
nghìn người gia nhập lực lượng lao động.
Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đã có sự cải thiện, thể hiện ở trình độ học vấn
cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động tăng qua từng năm, phần nào
đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Tỷ lệ lao động đã qua đào
tạo đã tăng hơn gấp đôi sau khoảng 20 năm, từ 10,3% (năm 2000) lên 22,8% (năm 2019).
Tỷ lệ dân số có chuyên môn kỹ thuật đã tăng lên đáng kể so với năm 2007, tăng 6,3 điểm
phần trăm, từ 17,7% (năm 2007) lên 24% (quý II/2020). Tỷ lệ dân số có trình độ đại học trở
lên tăng mạnh nhất, từ 4,9% (năm 2007) lên 11,1% (quý II/2020). Điều này cho thấy trong
những năm qua, giáo dục đại học và trên đại học của Việt Nam đã có những thay đổi lớn,
góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước.
Khi so sánh với các quốc gia trong khu vực, NSLĐ của Việt Nam vẫn ở mức tương đối
thấp và chênh lệch tuyệt đối tiếp tục xu hướng gia tăng. NSLĐ của Việt Nam chỉ cao hơn
Campuchia; gần tương đồng với Myanmar và Lào; thấp hơn Ấn Độ, Philippines, Indonesia,
Trung Quốc, Thái Lan và thấp hơn rất nhiều so với Malaysia cũng như Singapore. Điều này
đặt ra những thách thức rất lớn cho Việt Nam trong việc cải thiện chất lượng nguồn nhân
lực, qua đó nâng cao NSLĐ để có thể bắt kịp với mức NSLĐ của các quốc gia trong khu vực.
Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam đã làm chủ được khoa học và công nghệ,
đảm nhận được phần lớn các vị trí công việc phức tạp trong sản xuất - kinh doanh; sức khỏe
của người lao động ngày càng được chăm sóc tốt hơn…; qua đó góp phần nâng cao NSLĐ
của Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, lực lượng lao động của Việt Nam cũng còn
bộc lộ những tồn tại, hạn chế, thể hiện ở các điểm sau đây: Trí lực
Mức độ cải thiện và chênh lệch về trình độ học vấn là đáng kể giữa khu vực thành thị và
nông thôn. Đây là dấu hiệu cho thấy sự phân cấp, mất cân đối nguồn nhân lực giữa các vùng
miền và tất yếu sẽ kéo theo chênh lệch mức sống dân cư, về phát triển kinh tế - xã hội giữa
các khu vực và có thể xem là lỗ hổng lớn về chất lượng lao động của Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, tỷ trọng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp. Theo đánh giá
của WB, Việt Nam đang thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao.
Trong xu hướng phát triển hiện nay, Việt Nam vẫn có nhu cầu rất lớn về nguồn nhân lực
chất lượng cao và lành nghề. Tuy nhiên, những bất cập hiện nay không chỉ cản trở tiềm năng
đóng góp của lao động vào tăng năng suất lao động mà còn đặt ra nhiệm vụ nặng nề cho
những cố gắng nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực lao động phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Thể lực
Mặc dù, công tác y tế - chăm sóc sức khỏe của người dân được cải thiện qua từng năm
tháng, dân số không ngừng tăng, tuổi thọ trung bình được nâng lên… nhưng tốc độ gia tăng
dân số đang có xu hướng giảm, mất câng bằng giới tính tăng, xu hướng già hóa dân số ngày
càng hiện hữu qua gánh nặng bệnh tật của người cao tuổi lớn, đời sống vật chất của người
cao tuổi còn thấp… Chính vì vậy, đi đôi với tuổi thọ trung bình được nâng lên thì vấn đề già
hóa với tốc độ nhanh trong bối cảnh Việt Nam vẫn là một quốc gia có mức thu nhập trung
bình thấp đang là một thách thức không nhỏ. Già hóa dân số sẽ tác động đến hầu hết các
lĩnh vực của đời sống xã hội bao gồm: thị trường lao động, tài chính, nhu cầu về các hàng
hóa, dịch vụ, giáo dục, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi...
3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa hiện đại hóa
Sự thành công của quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài môi trường
chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực con người, vốn tài nguyên thiên
nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham gia
vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng
đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá không giống nhau, trong đó nguồn
nhân lực phải đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác nguồn nhân lực phải trở
thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá phải tiến hành để đáp ứng nhu cầu đó.
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực với tư cách
vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và các quan
hệ xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực là tổng thể những nét đặc trưng, phản ánh bản chất,
tính đặc thù liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất và phát triển con người. Chất lượng
nguồn nhân lực cao có tác động làm tăng năng suất lao động (NSLĐ). Trong thời đại tiến bộ
kỹ thuật, một quốc gia cần và có thể đưa chất lượng nguồn nhân lực vượt trước trình độ phát
triển của cơ sở vật chất trong nước để sẵn sàng đón nhân tiến bộ kỹ thuật công nghệ, hòa
nhập với nhịp độ phát triển nhân loại. Chất lượng nguồn nhân lực được đánh giá thông qua
các tiêu chí về trạng thái thể lực, trí lực, đạo đức và phẩm chất.
Nâng cao trí lực thông qua nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo. Trong lịch sử
phát triển của nhân loại, giáo dục luôn đóng vai trò rất quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu
của người lao động. Những lao động có trình độ chuyên môn lành nghề cao sẽ có nhiều cơ
hội tìm được việc làm có thu nhập cao hơn những lao động không có trình độ chuyên môn
lành nghề. Thông qua giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực sẽ thúc đẩy nâng cao
NSLĐ, hiệu quả công việc, giảm bớt sự giám sát, duy trì và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Để tăng cường kiến thức, kỹ năng và năng lực thực hiện công việc, nguồn nhân
lực phải được giáo dục, đào tạo và nâng cao trình độ lành nghề. Kết quả của giáo dục - đào
tạo được thể hiện ở trình độ học vấn cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn
nhân lực. Do đó, đầu tư cho giáo dục luôn được Đảng ta coi là “quốc sách hàng đầu”, đây là
sự đầu tư cho tái sản xuất con người một cách an toàn và mang lại không chỉ hiệu quả kinh
tế mà còn cả hiệu ứng lan tỏa, hiệu quả xã hội cao nhất.
Các loại hình giáo dục sau phổ thông trung học cần được đa dạng hóa, trong đó có
các chương trình đại học không bằng cấp. Xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa nhà trường
và doanh nghiệp nhằm giúp các sinh viên có cơ hội vừa học vừa làm, trải nghiệm môi
trường thực tế ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Các chương trình đào tạo, phương
pháp giảng dạy cần được đổi mới theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực; bên cạnh các
kiến thức trong sách vở, người học cần được thực hành nhiều hơn, cũng như cần được trang
bị thêm các kỹ năng mềm nhằm đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Định hướng giáo dục theo nhu cầu nhằm tạo ra sự cân bằng trong đào tạo và sử dụng
nhân lực ở các ngành nghề, vùng, miền và các thành phần kinh tế, tránh lãng phí không cần
thiết khi đào tạo lao động có bằng cấp mà không được sử dụng hay sử dụng sai so với nội
dung đào tạo. Hệ thống giáo dục quốc dân cần được hoàn thiện theo hướng hệ thống giáo
dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập.
Để rút ngắn khoảng cách về trình độ học vấn cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật
của người lao động giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn, các chương trình mục tiêu
quốc gia cần được xây dựng cơ chế hỗ trợ người dân vùng nông thôn, các dân tộc thiểu số
vùng sâu vùng xa… Đầu tư cho giáo dục đào tạo cần được tăng cường bằng nhiều nguồn
khác nhau, trong đó đầu tư từ ngân sách nhà nước cần tăng lên, đồng thời huy động nhiều
hơn, tốt hơn sức dân thông qua đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn đụng chạm đến các vấn đề phức tạp
trong quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nó đòi hỏi con người phải có hiểu biết và có
trách nhiệm trong việc bảo vệ, cải thiện môi trường thiên nhiên vì sự phát triển bền vững.
Con người phải có nhận thức, thái độ, cách ứng xử đúng đắn đối với tự nhiên cả về phòng
ngừa, ngăn chặn, xử lý hậu quả do sản xuất gây ra; cải thiện môi trường tự nhiên, bảo tồn
thiên nhiên, thích nghi với tự nhiên và đấu tranh chống lại việc tàn phá tự nhiên.
Nâng cao đời sống tinh thần và sức khỏe cho người dân, đảm bảo gắn kết hài hòa
giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội. Đầu tư vào sức khỏe cũng giống như đầu tư
vào giáo dục, sẽ giúp cải thiện lực lượng lao động. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), sức
khỏe là trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không phải chỉ là
không có bệnh tật hay tàn phế. Sức khỏe tốt là một nhân tố hết sức quan trọng của chất
lượng lao động, làm tăng khả năng làm việc vừa ở khía cạnh thể chất lẫn tinh thần, qua đó góp phần tăng NSLĐ.
Mặt khác, sức khỏe và y tế tăng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô dân số và
số lượng lao động của mỗi quốc gia. Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chịu ảnh
hưởng của quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số. Quốc gia nào có quy mô dân số lớn thì có
quy mô nguồn nhân lực lớn và ngược lại. Cơ cấu tuổi của dân số có ảnh hưởng quyết định
đến quy mô và cơ cấu nguồn lao động. Chính sách, pháp luật về dân số cần tiếp tục được
hoàn thiện theo hướng gắn với xây dựng gia đình hạnh phúc; bảo đảm hài hòa giữa quyền
và nghĩa vụ của người dân trong thực hiện chính sách dân số. Dịch vụ y tế công phải bảo
đảm các dịch vụ cơ bản; sức khỏe người dân được chăm sóc và bảo vệ. Y tế cơ sở, y tế dự
phòng, sàng lọc và phát hiện sớm, chữa trị kịp thời cần được đẩy mạnh. Công tác nghiên
cứu và ứng dụng khoa học y học cần được tăng cường, trong đó chú trọng phát triển các
ngành khoa học phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe người dân.
Bên cạnh những cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số, Việt Nam cần bổ sung và
hoàn thiện các cơ chế, chính sách về bảo vệ, chăm sóc và phát huy vai trò của người cao
tuổi như: các chính sách nhằm tạo điều kiện cho người cao tuổi phát huy kinh nghiệm của
mình trong quá trình phát triển đất nước, những chính sách khuyến khích người cao tuổi,
đặc biệt là những người cao tuổi có trình độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực ưu tiên,
tham gia/tiếp tục tham gia hoạt động kinh tế - xã hội. Nhận thức của xã hội cần được nâng
cao, người dân cần chủ động hơn trong việc chuẩn bị cho tuổi già. Việt Nam cần xây dựng
các chính sách tiếp cận toàn diện hơn về vấn đề già hóa dân số, vừa giải quyết các vấn đề
hiện tại do tác động của già hóa dân số tới cả người cao tuổi và người trẻ tuổi, vừa phù hợp
với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai.
Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo để bứt phá về chất
lượng lao động, nâng cao NSLĐ.
Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ có ảnh hưởng lớn đến phát triển nguồn nhân
lực. Sự phát triển không ngừng và những tiến bộ khoa học kĩ thuật đã cho ra đời những công
nghệ hiện đại mà nó đòi hỏi nguồn nhân lực có chất lượng cao mới đáp ứng được. Do vậy,
phương thức giáo dục - đào tạo cần được cải tiến để tạo điều kiện cho người lao động có thể
nâng cao trình độ trước những thay đổi nhanh chóng của khoa học và công nghệ. Khoa học
và công nghệ có tác động trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, làm thay
đổi quá trình tổ chức, trình độ chuyên môn và là động lực thúc đẩy người lao động không
ngừng học hỏi, tự đào tạo, tự trao dồi kiến thức. Vì vậy, cần đào tạo, bồi dưỡng thu hút các
nhân tài nhằm tạo ra một đội ngũ các chuyên gia, các nhà khoa có năng lực giỏi phục vụ sự
nghiệp cách mạng công nghiệp của đất nước.
Trình độ khoa học và công nghệ của Việt Nam mặc dù đã đạt được một số thành tựu
nhưng vẫn còn có khoảng cách khá xa so với các quốc gia dẫn đầu khu vực châu Á, nhất là
khoảng cách giữa nghiên cứu khoa học, công nghệ với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ vào đời sống xã hội, sản xuất. Bên cạnh đó, hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia
của Việt Nam còn non trẻ, manh mún; hoạt động nghiên cứu và phát triển trong khu vực
doanh nghiệp còn ít và thiếu kết nối hiệu quả với các trường đại học, viện nghiên cứu; lực
lượng lao động có chất lượng cao còn hạn chế. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ cần
được đổi mới, nhất là cơ chế tài chính, nhằm giải phóng năng lực sáng tạo của nhà khoa
học, đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất, đời sống. Liên kết giữa các tổ
chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp cần được tăng cường. Hợp tác quốc tế về
khoa học, công nghệ cao cần được ưu tiên trong hội nhập quốc tế. Việt Nam cần đa dạng
hóa đối tác, lựa chọn đối tác chiến lược là các quốc gia có nền khoa học, công nghệ tiên
tiến; gắn kết chặt chẽ giữa hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ với hợp tác kinh tế quốc
tế. Đồng thời, phát triển mạng lưới kết nối nhân tài người Việt Nam, thu hút sự tham gia
đóng góp của cộng đồng các nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài. Có như vậy nền
khoa học và công nghệ Việt Nam mới không lạc lõng và tụt hậu so với thế giới. C. Kết luận
Chiến lược xây dựng và phát triển con người là một mục tiêu, động lực quan trọng
của sự nghiệp đổi mới, đồng thời thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa khi
Việt Nam bước vào phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nói, giai
đoạn 2021 - 2030 là giai đoạn phát triển mới mang tính bứt phá của Việt Nam, nhất là trong
bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra với tốc độ nhanh, phát triển nền kinh
tế số, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Bối cảnh này cũng đặt ra những yêu cầu đổi
mới và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Theo đó, con người cần phát triển đồng bộ về
“tâm lực - trí lực - kỹ lực - thể lực - cuộc sống hạnh phúc”, làm chủ một số công nghệ mới,
tạo nền tảng để khoa học - công nghệ thực sự trở thành động lực then chốt, tạo bứt phá về
NSLĐ, chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển theo chiều sâu, đảm bảo cho đất
nước thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đường lối đúng đắn
này của Đảng ta chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của đất nước ta.
D. Tài liệu tham khảo
Giáo trình triết học….
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/tu-dien-mo/item/788-nguon-nhan-luc-va-
phat-trien-nguon-nhan-luc.html
https://moit.gov.vn/tin-tuc/phat-trien-cong-nghiep/cong-nghiep-hoa-o-viet-nam-va-
qua-trinh-phat-trien-kinh-te-xa-hoi.html
https://daihoi13.dangcongsan.vn/gop-y-van-kien-dai-hoi/du-thao-van-kien/cong-
nghiep-hoa-hien-dai-hoa-phai-la-mot-noi-dung-quan-trong-trong-chu-de-bao-cao- chinh-tri-2816
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin? dDocName=MOFUCM212408