lOMoARcPSD| 59691467
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI: Ý THỨC XÃ HỘI THƯỜNG LẠC HẬU HƠN TỒN TẠI XÃ
HỘI
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PHẠM VĂN HÙNG
HỌC VIÊN: HOÀNG THỊ MAI
HOÀNG TRỌNG HUY
PHẠM THỊ XUÂN ĐOAN
PHẠM THÙY DUNG
LỚP: CAO HỌC QUẢN LÝ KINH TẾ K10B
Năm học: 2024
lOMoARcPSD| 59691467
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI: Ý THỨC XÃ HỘI THƯỜNG LẠC HẬU HƠN TỒN TẠI XÃ HỘI
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PHẠM VĂN HÙNG
HỌC VIÊN: HOÀNG THỊ MAI
HOÀNG TRỌNG HUY
PHẠM THỊ XUÂN ĐOAN
PHẠM THÙY DUNG
lOMoARcPSD| 59691467
Mục lục
Lời mở đầu
Phần I: Ý thức xã hội lạc hậu hơn với tồn tại xã hội .
1. Khái niệm ý thức xã hội và tồn tại xã hội
2. Mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội
3. Tại sao ý thức xã hội lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội 4. Ảnh hưởng
của ý thức xã hội lạc hậu hơn so với
tồn tại xã hội đối với xã hội
Phần II: Biểu hiện, nguyên nhân và giải pháp của tình trạng ý thức xã hội .
lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội ở Việt Nam
1. Biểu hiện
2. Nguyên nhân
3. Giải pháp
Phần III: Vì sao nho giáo tồn tại trải qua các triều đại phong kiến đến hiện
nay ở Việt Nam.
Kết luận
Danh sách tài liệu tham khảo
lOMoARcPSD| 59691467
Lời mở đầu
Ở mọi thời đại thì triết học luôn có một vai trò quan trọng trong cuộc sống.
làm cho con người hiểu vthế giới; về vai trò, vị trí của con người trong thế
giới ấy. Ngày nay nhiều vấn đề con người đề cập đến trong triết học. Một
trong số đó là mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội, đặc biệt ý thức xã
hội có thể lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
Khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì bản sắc
dân tộc lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Chúng ta chỉ có thể lấy bản sắc dân
tộc để hoà nhập vào tổ chức lớn nhất toàn cầu này thôi. Tuy nhiên chúng ta
phải cái nhìn đúng đắn giữa một bên bản sắc dân tộc với một bên phong
tục, tập quán lạc hậu kìm hãm sự phát triển một đất nước
Với đề tài “Ý thức hội thlạc hậu hơn so với tồn tại hội” nhằm
nghiên cứu, tìm hiểu để có cái nhìn đúng đắn về nó từ đó đưa ra một số giải phải
nhằm xoá bỏ những tàn cũ, đồng thời ra sức phát huy những truyền thống
tưởng tốt đẹp
Do kiến thức còn thiếu, trình độ còn hạn chế nên trong bài viết của em còn
nhiều thiếu sót. Em mong được sự góp ý kiến của thầy Phạm Văn Hùng để bài
tiểu luận của em hoàn thiện hơn
Chúng em xin chân thành cảm ơn /.
Phần I: Ý thức xã hội có thể lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
1. Khái niệm ý thức xã hội và tồn tại xã hội:
1.1. Khái niệm tồn tại xã hội:
Tồn tại hội là toàn bsinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vt
chất của xã hội
V.I. Lênin khi nghiên cứu tồn tại hội với tính cách vừa đời sống vật
chất vừa những quan hệ vật chất giữa người với người đã cho rằng: việc anh
sống, anh hoạt động kinh tế, anh sinh con đẻ cái và anh chế tạo ra các sản phẩm,
anh trao tặng sản phẩm, làm nảy sinh ra một chuỗi tất yếu khách quan gồm những
biến cố, những sự phát triển, không phụ thuộc vào ý thức hội của anh ý thức
lOMoARcPSD| 59691467
này không bao giờ bao quát được toàn vẹn cái chuỗi đó Các yếu tố chính tạo thành
tồn tại hội phương thức sản xuất, điều kiện tự nhiên- hoàn cảnh địa lý, dân
số và mật độ dân số… trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất.
1.2. Khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội:
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những
quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng… của những cộng đồng
hội, nảy sinh từ tồn tại hội phản ánh tồn tại hội trong những giai đoạn
phát triển nhất định
Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội có cấu trúc hết sức phức tạp. Có thể
tiếp cận kết cấu của ý thức hội từ những phương diện khác nhau. Theo nội dung
lĩnh vực phản ánh đời sống hội, ý thức hội bao gồm các hình thái khác
nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức
thẩm mỹ, triết học…Theo trình độ phản ánh có thể phân biệt ý thức xã hội thông
thường và ý thức lý luận
Ý thức hội thông thường toàn bộ những tri thức, những quan niệm…
của những con người trong một cộng đồng người nhất định, được hình thành một
cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát
hoá thành lý luận. Trong ý thức xã hội thông thường, tâm lý xã hội là bộ phận rất
quan trọng
Ý thức hội thông thường, thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều
mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Ý
thức xã hội thông thường tuy là trình độ thấp so với ý thức lý luận, nhưng những
tri thức kinh nghiệm phong phú đó có thể trở thành tiền đề quan trọng cho sự hình
thành các lý thuyết xã hội
Ý thức lý luận những tưởng, quan điểm đã được hthống hoá, khái
quát hoá thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm,
phạm trù, quy luật. Ý thức luận đạt trình độ cao mang tính hệ thống tạo thành
các hệ tư tưởng. Hệ tư tưởng là trình độ nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ
thống những quan điểm, tưởng( chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn
giáo), kết quả của sự khái quát hoá những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được
lOMoARcPSD| 59691467
tạo thành một cách tgiác nghĩa là tạo ra bởi các nhà tưởng của những giai cấp
nhất định và được truyền bá trong xã hội. Hệ tư tưởng gồm hệ tư tưởng khoa học
hệ tưởng không khoa học. Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh
các mối quan hệ vật chất của hội, nhưng dưới một hình thức sai lầm, ảo
hoặc xuyên tạc.
1.3 Mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội:
Tâm lý xã hội hệ tưởng hội tuy hai trình độ,hai phương thức
phản ánh khác nhau của ý thức hội, nhưng mối quan hệ tác động qua lại với
nhau, chúng có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội.
Tâm hội tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên giai cấp tiếp thu hệ
tưởng của giai cấp. Mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ tưởng(đặc biệt tưởng
khoa học tiến bộ) với tâm hội, với thực tiễn cuộc sống sinh động phong
phú sẽ giúp cho hệ tư tưởng xã hội, cho lý luận bớt xơ cứng, bớt sai lầm.
Bất kỳ tưởng nào khi phản ánh các mối quan hệ đương thời thì đồng thời
cũng kế thừa những học thuyết hội, những tư tưởng quan điểm đã tồn tại
trước đó. C.Mác Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của
hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, rằng không thể tìm
nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý hội trong bản thân nó, nghĩa không thể tìm
trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một
thời đại nào đó ng sẽ không thể giải tch được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của
thời đại ấy.
Những quan điểm trên đã bác bỏ quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm
muốn đi tìm nguồn gốc của ý thức tư tưởng trong bản thân ý thức tư tưởng, xem
tinh thần, tưởng nguồn gốc của mọi hiện tượng hội, quyết định sự phát
triển xã hôi và trình bày lịch sử các hình thái ý thức xã hội tách rời cơ sở kinh tế-
hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng
luận hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức,
văn hoá, nghệ thuật… sớm muộn sẽ biến đổi theo.
lOMoARcPSD| 59691467
Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức hội không phải dừng
lại ở chỗ xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại hội, mà còn chỉ ra
rằng, tồn tại hội quyết định ý thức hội không phải một cách đơn giản trực
tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan
niệm, luận hình thái ý thức hội nào cũng phản ánh ràng trực tiếp những
quan hệ kinh tế của thời đại, chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy
những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các
tư tưởng ấy
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại hội đối với ý thức xã hội,
ý thức hội sự phản ánh của tồn tại hội, phụ thuộc vào tồn tại hội,
chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ động, trái
lại còn nhấn mạnh tác dụng tích cực của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tếxã
hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức hội trong mối quan hệ với
tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt
đối hoá vai trò của ý thức xã hội, còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường,
hay chủ nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong
đời sống hội. Ph.Ăngghen viết:” Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật… đều dựa trên sở sphát triển kinh tế. Nhưng
tất cả chúng cũng ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến sở kinh tế” Mức
độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều
kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng
nảy sinh; vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tưởng; vào mức độ phản
ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; vào mức độ mở
rộng của tư tưởng trong quần chúng.
1.4 Tại sao ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội:
Lịch sử cho thấy, nhiều khi hội đã mất đi, thậm chí đã mất rất lâu,
nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương
đối này biểu hiện đặc biệt trong lĩnh vực tâm hội ( trong truyền thống, tập
lOMoARcPSD| 59691467
quán, thói quen… ) V.I.Lênin cho rằng, sức mạnh của tập quán được tạo ra qua
nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê gớm nhất
Khuynh hướng lạc hậu của ý thức xã hội cũng biểu hiện rõ trong điều kiện
của chủ nghĩa hội. Nhiều hiện tượng ý thức có nguồn gốc sâu xa trong hội
vẫn tồn tại trong hội mới như lối sống ăn bám, lười lao động, tệ tham
nhũng…
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do những nguyên
nhân sau đây:
Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên
Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên
Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực
tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ nhanh
ý thức hội thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức
xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến
đổi của tồn tại xã hội
Do sức mạnh của thói quen, truyền thống tập quán cũng như do
Do sức mạnh của thói quen, truền thống tập quán cũng như do tính lạc
hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội
Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập
Y thức hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người,
những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường
được các lực lượng hội phản tiến bộ lưu giữ truyền nhằm chống lại các
lực lượng xã hội tiến bộ.
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan
điểm luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không được
tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.
1.5 Ảnh hưởng của ý thức xã hội lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội đến xã
hội:
Nhận thức về tính giới hạn của sự lạc hậu tương đối của văn hóa thể hiện
sự khôn ngoan của con người trong việc phân loại những công cụ hỗ trợ sự phát
triển. thể nói, sự lạc hậu về mặt văn hoá, nếu nhìn tgóc độ này, sẽ ảnh hưởng
lOMoARcPSD| 59691467
đáng kể đến tiến trình phát triển của mỗi thể, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc, thậm
chí, tạo ra những trở ngại rất lớn trên phạm vi toàn cầu.
Nếu bề dày kinh nghiệmn hoá, chúng ta sẽ khả năng đồng cảm với
những cộng đồng khác trong quá trình tương tác. Sự hiểu biết lẫn nhau sẽ khiến
mỗi cộng đồng trở nên tinh tế hơn trong các hành vi tìm kiếm lợi ích của mình.
Ngược lại, sự phát triển qnhanh sẽ không tạo điều kiện cho sự ngưng tụ của
các kinh nghiệm văn hóa và tạo ra trạng thái hời hợt về mặt văn hoá. Điều này sẽ
khiến cho các hành vi tìm kiếm lợi ích của mỗi cộng đồng trở nên khó chấp nhận
trong mắt những cộng đồng khác.
Thực tế cho thấy, ở những cộng đồng có nền văn hóa lạc hậu, thái độ cứng
nhắc, không cởi mở không khách quan đối với văn hóa tạo ra sự đối kháng
không phải chỉ giữa tầng lớp này với tầng lớp kia, giữa thế hệ này với thế hệ kia
trong cộng đồng mà hơn thế giữa chính cộng đồng đó với thế giới bên ngoài.
Trong thời đại hội nhập toàn cầu hóa hiện nay, mỗi một nền văn hoá,
mỗi một quốc gia không thể tồn tại độc lập với thế giới bên ngoài. Nền văn hóa
lạc hậu, không cởi mở chắc chắn không đủ khả năng giúp con người vượt qua
ngưỡng của schậm phát triển do cản trở sự đồng thuận trong nhận thức của
cộng đồng. Văn hóa tạo ra môi trường sống không gian tinh thần để nâng đỡ
các không gian chính trị và không gian kinhtế. Chính bởi vậy, sự phát triển về
kinh tế chính trị phụ thuộc đáng kể vào không gian tinh thần đó. Nếu không
gian tinh thần lạc hậu, con người sẽ nảy sinh tâm tự mãn về những giá trị của
mình, rất khó khăn trong việc nhận ra cái mới và tiếp cận cái mới, do đó, sbỏ
lỡ các cơ hội phát triển.
Các quốc gia đang kém phát triển thường khuynh hướng duy trì bản
sắc văn hóa như một bằng chứng về sựkhác biệt, thậm chí lo ngại rằng, toàn cầu
hóa sẽ xói mòn bản sắc văn hóa bản lĩnh văn hoá, quên mất rằng bản sắc văn
hóa hay bản lĩnh văn hóa đều được hình thành sau những quá trình lâu dài, tự
nhiên không thể biến mất trước những tương tác về văn hoá. Chính những lo
ngại không sở phản ứng tự vphi này đã gây ra những xung đột về
văn hoá, thể hiện qua những xung đột tôn giáo, xung đột sắc tộc, ảnh hưởng
lOMoARcPSD| 59691467
nghiêm trọng đến tiến trình phát triển tạo nên những phản ứng cực đoan đối
với vấn đề toàn cầu hoá. Mặt khác, các quốc gia đang phát triển luôn cảm thấy
mình bị thua thiệt khi tham gia vào quá trình hội nhập toàn cầu hoá, cho đến
khi nhận ra rằng các hội bị bỏ lỡ do sự dị biệt về văn hóa chính thông điệp
về ảnh hưởng của văn hóa lạc hậu đối với sự phát triển.
Phần II: Biểu hiện và nguyên nhân ý thức xã hội thường lạc hậu
hơn so với tồn tại xã hội ở Việt Nam:
2.1 Biểu hiện:
Trong truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam, nhiều thuần phong
mỹ tục cần cho đạo làm người, kỷ cương hội. Phong tục thứ trở thành
luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân rất bền chặt, sức mạnh hơn cả những
đạo luật.Một cuộc cách mạng thể thay đổi chính thể nhanh chóng, tiếp theo sau
hàng loạt hệ thống pháp luật được thay đổi. Phong tục cũng không ngừng biến đổi
theo trào lưu biến đổi văn hoá hội, nhưng dai dẳng hơn và quy luật riêng
của , không dễ một sớm một chiều đã được mọi người, mọi nhà, mọi tầng
lớp tuân theo.
Bản thân các phong tục cũng nằm trong cuộc đấu tranh xã hội đã, đang
sẽ tiếp diễn mãi giữa cái cái mới. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ.
Hiện nay, đời sống kinh tế, văn hóa, hội của dân tộc thiểu số Việt Nam đã tốt
hơn. Tuy nhiên, vẫn còn một số tập tục lạc hậu trong tang lễ, cưới xin…tồn tại hết
sức dai dẳng.
Về việc tang, quan niệm của không ít đồng bào dân tộc thiểu smời thầy
Tào, thầy Mo, thầy cúng yểm bùa, trừ ma con cháu lăn đường, đội rơm;
một số gia đình dân tộc Tày ở tỉnh Lạng Sơn có tục viếng thông gia tế lễ riêng,
khi cha mẹ mất thì các con (đã trưởng thành) phải mỗi người một lễ, Tế rườm rà,
tốn kém; rồi tục đưa đám trước 12 giờ đêm ảnh hưởng cộng đồng dân cư; một số
bản, làng dân tộc Mông tỉnh Sơn La để người chết trong nhà nhiều ngày; nơi
ngoài việc làm ma tươi cho người chết, còn phải làm ma khô cúng bằng trâu, bò.
Về việc cưới, một bộ phận thanh niên dân tộc thiểu số tin vào lá số, số
mệnh việc "nhập ma" dâu về nhà chồng; các dân tộc Dao Sán Chỉ vùng
lOMoARcPSD| 59691467
sâu, vùng xa tỉnh Quảng Ninh còn tục tảo hôn, ép gả, mua bán, thách cưới cao, t
chức cưới dài ngày; dân tộc Sán Dìu tục một nhà trong một năm không được
đẻ hai người, nếu người cưới dâu thì người đến kỳ sinh đẻ phải ra ngoài rừng
đẻ con; tỉnh Ðiện Biên, tại một số thôn, bản của dân tộc Nhì Si La việc
cưới, việc tang quá nhiều thủ tục phức tạp. Nhiều bản, làng, thôn, ấp còn tình
trạng trọng nam, khinh nữ; em dâu, con dâu không được ngồi ăn cơm chung mâm
với anh chồng, bố chồng; con gái không được học lên lớp trên; một số gia đình có
người đau ốm đã làm Then, cúng ma đgiải hạn không đưa tới trạm y tế xã;
tập quán dùng thuốc phiện lưu cữu ở vùng cao.
Ðồng bào nhiều bản, làng, nhất vùng sâu, vùng xa vẫn giữ cách nghĩ,
nếp sống tuy không phải là hủ tục, nhưng không phù hợp cuộc sống thời nay, đó
thói quen sử dụng nhà vsinh, nhà tắm ngoài trời; ít trồng rau xanh trong khi
đất rừng rộng; thói quen uống nhiều rượu làm trễ sản xuất; tục tôn thờ đạo giáo
ngoại nhập tăng lên ở một số vùng cao, v.v.
Riêng đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng
sâu, vùng xa thực chất còn rất nhiều hạn chế, càng ở xa càng thiếu thông tin, càng
khao khát các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Các hủ tục mê tín dị đoan như thầy
cúng, thầy bói vẫn còn lén lút hoạt động. Trong khi đó sinh hoạt văn hóa mang
đậm các sắc tộc bản địa đang bị lấn át và mai một.
Hiện nay, việc thách cưới đã trở nên nhẹ nhàng hơn, đặc biệt là ở những gia
đình tri thức, thị dân thì tục thách cưới chỉ như một hình thức ước lệ. Tuy nhiên,
ở những vùng nông thôn thì tục thách cưới vẫn còn tồn tại với nhiều thủ tục nặng
nề. Nhà trai và nhà gái vẫn chưa hoàn toàn bỏ được tính hư danh hoa hoè để khổ
cho con cái. Việc trai gái lấy nhau, trước hết phải chờ cho đến tuổi khôn lớn, biết
cách lập thân, rồi hãy cho lấy nhau, mà hãy để cho con cái tuỳ ý kén chọn, cha mẹ
không nên nài ép lòng con, trừ khi con không biết đường kén, chọn phải kẻ chẳng
ra gì thì cũng nên ngăn cấm lại mà thôi.
Qua bức phác thảo trên, có thể rút ra mấy nhận xét sau:
Một là, tình trạng tập tục lạc hậu tuy chiếm tỷ lệ nhỏ so với toàn
lOMoARcPSD| 59691467
Một là, tình trạng tập tục lạc hậu tuy chiếm tỷ lệ nhỏ so với toàn cảnh đời
sống văn hóa, hội khu vực miền núi, vùng dân tộc thiểu số, nhưng tiềm ẩn nguy
lan rộng, kể cả nguy do kxấu lợi dụng kích động, tạo thành "rào chắn" cản
trở sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Hai là, tình trạng tập tục lạc hậu tồn tại không tập trung, không
Hai là, tình trạng tập tục lạc hậu tồn tại không tập chung, không có tính hệ
thống rải rác những bản, làng thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng cao, nơi điều
kiện vật chất tinh thần khó khăn, nhiều hơn những trị trấn, thị tứ, thị xã,
thành phố miền núi.
Ba là, căn cứ vào tính chất và nguồn gốc hình thành các tập tục,
Ba căn cứ tính chất nguồn gốc hình thành các tập tục, thphân chia
thành loại tập tục liên quan mê tín dị đoan và loại tập tục hình thành từ thói quen
và nếp sống hằng ngày.
2.2 Nguyên nhân:
*Nguyên nhân làm cho ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội:
- Thứ nhất, do sự tác động mạnh mẽ nhiều mặt trong hoạt động
thựctiễn của con người.
- Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống và do cả
tínhbảo thủ của hình thái ý thức hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại hội
mới c ng chưa đủ để làm cho những thói quen, tập quán truyền thống
hoàn toàn mất đi
- Thứ ba, do ý thức hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn
người,của các giai cấp nào đó trong hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu
thường níu kéo, bám víu lấy những tưởng lạc hậu để bảo vệ duy tquyền
lợi ích kỉ của họ, để chống lại các lực lượng tiến bộ trong xã hội
=> Muốn xây dựng được hôi mới thì nhất định phải từng bước xóa bỏ
những tàn dư, những tưởng ý thức xã hội song song với việc bồi đắp, xây
dựng phát triển ý thức hội mới. Tuy nhiên khi thực hiện không được nóng
vội, không dùng các biện pháp hành chính đã từng xảy ra các nước XHCN
cả ở nước ta nhiều năm trước đây.
dụ: Muốn xây dựng được 1 hội công bằng, bình đẳng, bác ái thì chúng
ta phải từng bước xóa bỏ những tàn trong suy nghĩ của con người thời đại
phong kiến ở ngày nay như tư tưởng trọng nam khinh nữ, tục lệ “cha mẹ đặt đâu
lOMoARcPSD| 59691467
con ngồi đấy”,… bằng 1 số cách chẳng hạn như tuyên truyền, đẩy mạnh những
chiến dịch truyền thông về quyền của người phụ nữ, bổ sung những điều khoản
mới về luật,…
2.3. Giải pháp:
Một mặt, phải đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, mở rộng và nâng
cao nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số, công tác này phải đi trước
một bước tại những địa bàn kkhăn, chứ không phải như quan niệm của một vài
người cho là "chờ" khi trên địa bàn đầy đủ cơ sở hạ tầng kinh tế, hội thì mới
phát triển được đời sống văn hóa. Tất nhiên, công tác thông tin, tuyên ruyền
những nơi này cần được đổi mới cả về hình thức nội dung. Nếu như trước đây,
nội dung tuyên truyền một cách chung chung, chỗ nào cũng có thể áp dụng được
hiệu quả lại thấp, thì nay phải lưu ý đến tính đặc thù của từng vùng, miền, từng
dân tộc, kể cả tín ngưỡng và đời sống tâm linh của dân tộc ấy.
Phải cải tạo triệt để những phong tục, tập quán, những ứng xử của cá nhân
cộng đồng với môi trường tự nhiên, môi trường hội đã trở thành tập tục, thói
quen làm kìm hãm sự phát triển kinh tế hội đời sống tinh thần, nhận thức
của đồng bào các dân tộc vùng cao lâu nay. Đặc biệt là các nội dung phi khoa học
trong việc tang, việc cưới, trong tín ngưỡng thờ tự, chữa bệnh, ứng xử với môi
trường và thậm chí cả trong lối sống, sinh hoạt chi tiêu... của đồng bào vùng cao.
Công tác tuyên truyền đóng vai trò quan trọng trong quá trình nâng cao nhận thức,
động viên khích lệ người dân cùng tham gia. Chính vậy, huyện phối hợp với
các quan thông tin đại chúng trên địa bàn, đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ
trương, chính sách của huyện; Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, mở hội nghị
tuyên truyền, tập huấn cho các tuyên truyền viên, tập trung vào các già làng,
trưởng bản, thầy cúng, thầy mo. Đây là lực lượng nòng cốt tại cơ sở, đóng vai trò
quan trọng tác động để thay đổi nếp sống, phong tục tập quán lâu đời của người
dân
Mặt khác, cần phát triển rộng phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa, trong đó phong trào gia đình văn hóa làng, bản văn hóa
những địa bàn này. Bên cạnh điểm mạnh bản của các phong trào, thì điểm
lOMoARcPSD| 59691467
yếu chính chỗ chúng ta chưa cụ thể hóa các tiêu chí chung thành những tiêu
chí riêng, phù hợp từng dân tộc thiểu số.
Ngoài ra, cũng cần xác định các căn nguyên của hủ tục nguồn gốc từ
điều kiện lao động, sản xuất hoặc từ đời sống tâm linh, tín ngưỡng, để trên cơ sở
đó xây dựng nội dung phòng, chống các hủ tục một cách khoa học, chú ý việc xóa
bỏ các điều kiện xấu và mầm mống tạo thành hủ tục.
Việc tổ chức thực hiện nội dung bài trừ các tập tục lạc hậu việc làm
cùng quan trọng và rất cần được đổi mới. Nhưng để xóa bỏ cơ bản các tập tục lạc
hậu trong đồng bào dân tộc thiểu số thì phải xây dựng kế hoạch phòng, chống toàn
diện và tập trung hơn, trong đó có việc phân cấp xử lý vấn đề. Việc này thể làm
được các hủ tục giữ tlệ không nhiều trong đời sống văn hóa hội các dân
tộc, ước hơn 20 hủ tục nét và hơn 10 loại thói quen không phù hợp cuộc sống
hiện tại; việc phân cấp skhoanh được vùng trọng điểm đề cao trách nhiệm
của các nhân, tập thể trong quá trình phòng, chống, giải quyết triệt để các hủ
tục. Ðối với các đơn vị cấp trung ương thì chỉ đạo, tổ chức xử lý những hủ tục và
thói quen sống lạc hậu mang tính phổ biến điển hình về mức độ, tính chất
quy mô rộng; còn đối với các sở văn hóa - thông tin tỉnh miền núi thì tổ chức xử
lý những hủ tục có tính chất, quy hẹp, ít phổ biến hơn và diễn ra ngay trên địa
bàn mình phụ trách. Ðồng thời với việc phân cấp, cần tổ chức xây dựng mô hình
để nhân rộng phong trào bài trừ hủ tục; hình lấy tại chỗ là tốt nhất, hạn chế
việc lấy hình từ các địa bàn khác dân tộc khác đem tới cho vùng này, dân
tộc này học tập.
Việc đầu xây dựng hình nên gọn nhẹ, không quá cầu toàn, vì một gia
đình, một bản, làng làm tốt cũng thể trở thành mô hình xứng đáng để nhiều gia
đình noi theo. Phong trào xây dựng nếp sống văn hoá mới hiện nay, không phải
chỉ đơn thuần dựa vào ý nghĩ chủ quan phải biết vận dụng thuần phong mỹ tục
vào nếp sống, nếp suy nghĩ, hành động, cách đối nhân xử thế, hợp với trào lưu
tiến hoá. những phong tục cổ truyền xuất xứ từ kinh nghiệm thực tiễn trong
cuộc sống thời xưa, đến nay không hợp thời nữa, trở thành đồi phong bại tục, ta
cũng cần nghiên cứu đbiết nguyên do, từ đó mới vận dụng cho thích hợp với
lOMoARcPSD| 59691467
hiện tại tương lai, hoặc tìm những phong tục hay để bổ kết loại trừ dần
những cái dở.
Quan điểm của triết học Mác- Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý
nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của hội chủ
nghĩa. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, văn hoá hội chủ nghĩa cần phải phát huy
những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hoá nhân loại từ cổ c
kim trên cơ sở thế giới quan Macxit. Người viết:”
Văn hoá sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến
hức loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của hội bản, hội
của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu.
Nắm vững quan điểm trên đây của triết học Mác- Lênin về tính kế thừa của
ý thức hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới nước ta hiện nay
trên lĩnh vực văn hoá, tưởng, Đảng ta khẳng định, trong điều kiện kinh tế thị
trường mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn nâng cao
bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt
đẹp lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế giới, làm giàu
đẹp thêm cho nền văn hoá Việt Nam.
Phần III: Vì sao nho giáo tồn tại trải qua các triều đại phong
kiến đến hiện nayViệt Nam.
3.1 Sự tồn tại của nho giáo
tưởng đạo đức Nho giáo ảnh hưởng của nước ta hiện nay Nguyễn
Thị Thanh Mai tóm tắt: Nho giáo một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời
tồn tại đến nay đã n 2500 năm. Trong suốt thời gian tồn tại, Nho giáo đã ảnh
hưởng nhiều nước phương Đông, trong đó Việt Nam. Bài viết đề cập đến
những nội dung đạo đức chủ yếu của Nho giáo như tam cương (đạo đức hội
gồm ba mối quan hệ bản vua-tôi, cha-con, chồng-vợ), ngũ thường (gồm năm
chuẩn mực đạo đức nhân bất di bất dịch nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Đó những
tiền đề để thực hiện thuyết chính danh, làm cho xã hội được ôn định, trật tự. Trên
sphân tích những nội dung đạo đức nói trên, bài viết làm những ảnh hưởng
tích cực cũng như hạn chế của Nho giáo đối với đạo đức con người Việt Nam
trong lịch sử cũng như hiện tại. Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra
đời và tồn tại đến nay đã hơn 2500 năm.
lOMoARcPSD| 59691467
Trong suốt thời gian tồn tại, Nho giáo đã ảnh hưởng nhiều nước
phương Đông, trong đó có Việt Nam. Sự ảnh hưởng này, được thể hiện trên nhiều
phương diện, đặc biệt là trong lĩnh vực đạo đức trước đây cũng như hiện nay. Bài
viết đề cập một vài nét về ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo đối với con
người Việt Nam hiện nay.
Khái quát nội dung tưởng đạo đức Nho giáo Nho giáo được ra đời ở thời
Xuân Thu do Khổng Tử (551 479 TCN) sáng lập. Sau khi ông mất, tưởng của
ông đã được các thế hệ học trò kế thừa. Đến thế kỷ II TCN, Nho giáo mới được
giai cấp phong kiến sử dụng vào việc trị quốc. Ở Trung Quốc, Nho giáo đã tồn tại
trong suốt thời phong kiến và công cụ giúp các triều vua cai trị đất nước. Khổng
Tử các học trò của ông đã thấy được sức mạnh vai trò to lớn của đạo đức
đối với xã hội. Vì vậy, nội dung quan trọng của Nho giáo là luận bàn về đạo đức.
Theo Khổng Tử, đạo năm mối quan hệ hội bản của con người được gọi
nhân luân, Mạnh Tử gọi ngũ luân: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh em,
bạn bè. Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản nhất, Đổng Trọng Thư gọi Tam cương
- ba sợi dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia đình đến ngoài xã hội. Đức
chính các phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần phải có để thực hiện tốt
các mối quan hệ cơ bản trên. Khổng Tử nhấn mạnh “Tam đức” (nhân, trí, dũng);
Mạnh Tử “Tứ đức” (nhân, nghĩa, lễ, trí); Đổng Trọng Thư “ngũ thường”
(nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tam cương ngũ thường được kết hợp gọi tắt là đạo
cương - thường. Cương - thường nội dung bản trong đạo làm người của Nho
giáo, nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ, hành động khuôn vàng thước ngọc
để đánh giá phẩm hạnh của con người. Một mặt, đạo cương - thường góp phần
điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép theo chế đlễ
pháp của nhà Chu trước đây các triều đại phong kiến sau này đặt ra. Cương -
thường nhân tố quan trọng làm cho hội ổn định theo thứ bậc, sở đảm
bảo quyền thống trị của thiên tử. Mặt khác, đạo cương - thường với nội dung
“quân xthần tử, thần bất tử bất trung”, “phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”
(vua xử bề tôi chết, bề tôi không chết không lòng trung, cha xử con chết, con
không chết là không hiếu) sợi dây trói buộc con người, làm cho con người
thụ động trong cả suy nghĩ hành động. tưởng này lực cản sự phát triển
của hội một trong những nguyên nhân làm cho hội phương Đông trì
trệ. Phạm trù đạo đức đầu tiên, bản nhất trong đạo cương - thường Nhân
(đức nhân). Tất cả các phạm tđạo đức khác đều xoay quanh phạm trù trung tâm
này. Từ đức nhân mà phát ra các đức khác và các đức khác lại quy tụ về đức này.
Cả cuộc đời mình, Khổng Tử đã dành nhiều tâm huyết để làm cho đức nhân trở
thành hiện thực. Ông mong muốn các học trò rèn luyện để đạt được đức nhân và
ứng dụng trong thực tiễn. Đức nhân được Khổng tử bàn đến với nội dung
bản sau: Nhân nghĩa yêu người : “Phàn Thỏi vngười nhân, Khổng Tử
nói: (đó là người biết) yêu người” (Phàn T vấn nhân, Tử viết: “ái nhân”)(1). -
Nhân nghĩa trung thứ. Bàn về chữ trung, ông giải thích:“Người nhân
người mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn thành đạt thì
lOMoARcPSD| 59691467
cũng giúp người thành đạt” (Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi
đạt nhân)(2). Về chữ thứ, ông viết: “Điều gì mình không muốn, chớ thi hành cho
người khác” (Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân)(3). Như vậy, trung thứ tức từ lòng
mình suy ra ng người, phải giúp người. Khổng Tử khuyên rằng nên làm cho
người những cái mình muốn đừng làm cho người những cái mình không
muốn. - Đối với bản thân mình, người đức nhân phải thực hiện đúng lễ: “Dẹp
bỏ dục, trở về với lễ phát huy điều nhân” (Khắc kphục lễ vi nhân) (4). Lễ
là hình thức thể hiện nhân và cũng một chuẩn mực của Ngũ thường. Phạm t
đức nhân tuy bao chứa nhiều nội hàm khác nhau, song cái gốc cốt lõi của nhân
hiếu đễ. Theo Khổng Tử, tình cảm giữa cha mẹ con cái, giữa chồng vợ,
giữa anh em với nhau (quan hệ gia đình) những tình cảm tự nhiên, vốn thuộc
về bản tính con người. Từ cách hiểu này, ông cho rằng, trong gia đình nếu người
cha đứng đầu thì mở rộng ra trong nước ông vua đứng đầu. Khổng Tử hình
dung quốc gia là một gia đình lớn, ông vua người cha của gia đình ấy. Nho giáo
đặt vua đứng đầu trong tam cương ngũ luân. vậy, đạo làm người phải tận
hiếu với cha mẹ, tận trung với vua. Một người biết yêu thương kính trọng cha mẹ
mình thì mới biết yêu thương người ngoài. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ xuất
phát điểm đầu tiên gia đình, từ đó suy rộng ra đến quốc gia thiên hạ. Coi
trọng vai trò gia đình trong việc hình thành và tu dưỡng đạo đức của con người ở
Nho giáo một khía cạnh hợp và vẫn còn ý nghĩa nhất định đối với ngày
nay, bỡi lẽ, gia đình một tế bào của hội, hội không thể ổn định, thịnh trị
nếu các gia đình lục đục và vô đạo. Vì vậy, người cầm quyền nếu không “tề gia”
(cai quản gia đình) của mình thì cũng không thể “trị quốc” (cai trị đất nước) được.
Nhân còn gắn liền với Nghĩa (nghĩa vụ, thấy việc đúng cần phải làm để giúp
người). Khổng Tử cho rằng người quân tử cần chú ý đến nghĩa và coi thường lợi.
Muốn thực hiện nhân, nghĩa thì cần lòng dũng cảm (dũng) T(trí tuệ).
Có trí mới biết cách giúp người mà không làm hại đến người, đến mình, mới biết
yêu và ghét người, mới biết đề bạt người chính trực và gạt bỏ người không ngay
thẳng. Tuy nhiên, trí theo Khổng Tử và các môn đệ của ông không phải là những
tri thức phản ánh thực tại khách quan của tự nhiên hội để từ đó chỉ đạo hành
động của con người là những tri thức mang tính giáo điều, chỉ gói gọn trong
sự hiểu biết sách vở của Nho giáo (Tứ thư và Ngũ kinh). Như vậy, đối với Khổng
Tử, nhân chính đạo làm người, vừa thương người (ái nhân), vừa phải giúp
người (cứu nhân). Ông cho rằng, khi thi hành điều nhân phái phân biệt thân sơ,
trên dưới. Nếu Khổng Tử đức nhân mang tính phức tạp rất khó thực hiện,
vừa tưởng nhưng lại mang yếu tố không tưởng tđến thời Hán, đức nhân lại
được khoác thêm cái vỏ tôn giáo thần bí, do vậy càng không tưởng hơn. Về phạm
trù Lễ, theo Nho giáo, lễ quy định về mặt đạo đức trong quan hệ ứng xử giữa
người với người. Con cái phải hiếu với cha mẹ, bề tôi phải trung với vua, chồng
vợ nghĩa với nhau, anh em phải trên kính dưới nhường, bạn bè phải giữ được
lòng tin. Những quy tắc này là bất di bất dịch mà ai cũng phải tuân theo. Lễ sợi
dây buộc chặt con người với chế độ phong kiến tập quyền. Khổng Tử yêu cầu, từ
lOMoARcPSD| 59691467
vua cho đến dân phải rèn luyện và thực hiện theo lễ. Đến Đổng Trọng Thư, lễ đã
được đẩy lên đến cực điểm của sự khắt khe. Chỉ giữ lễdẫn đến những hành
vi ngu trung, ngu hiếu một cách quáng không ít người trong hội trước
đây. tưởng lễ của Nho giáo tính hai mặt. Về ý nghĩa tích cực, tư tưởng lễ đã
đạt tới mức độ sâu sắc, trở thành thước đo, đánh gphẩm hạnh con người. Sự
giáo dục con người theo lễ đã tạo thành một luận hội rộng lớn, biết quý
trọng người lễ khinh ghét người vô lễ. Lễ không dừng lại thuyết,
những lời giáo huấn mà đã đi vào lương tâm của con người. Từ lương tâm đã dẫn
đến hành động đến mức trong các triều đại phong kiến xưa, nhiều người thà chết
chứ không bỏ lễ: chết đói việc nhỏ, nhưng thất tiết mới là việc lớn (Chu Hy).
Nhờ tin và làm theo lễ mà các xã hội theo Nho giáo đã giữ được yên ổn trong gia
đình và trật tự ngoài xã hội trong khuôn khổ của chế độ phong kiến. Lễ trở thành
điều kiện bậc nhất trong việc quản đất nước gia đình. Yếu thợp lý này
chúng ta thể học tập. Về mặt hạn chế, lễ sợi dây ràng buộc con người làm
cho suy nghĩ hành động của con người trở nên cứng nhắc theo một khuôn phép
cũ; lễ đã kìm hãn sự phát triển của xã hội, làm cho xã hội trì trệ. Điều này nói lên
rằng, tưởng Nho giáo mang tính bảo thủ, tiêu cực, phản lịch sử. Khổng Tử đã
từng nói: “ Ta theo lễ của nhà Chu vì lễ đó rực rỡ lắm thay” và ông luôn mong xã
hội lúc đó quay về thời đại Nghiêu, Thuấn. Khách quan mà đánh giá, thì hạn chế
trên của Nho giáo có nguyên nhân từ thực tế lịch sử. Bởi vì, Khổng Tử sống trong
thời đại xã hội loạn lạc, người ta tranh giành nhau, chém giết nhau không từ một
thủ đoạn tàn ác nào để tranh bá, tranh vương, để có bổng lộc chức tước. Ông hoài
cổ, muốn quay ngược bánh xe lịch sử cũngđiều dễ hiểu. Tuy nhiên, chính mặt
hạn chế này của Nho giáo đã để lại tàn cho đến tận ngày nay, trở thành
phong tục, lối sống, nó thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của không ít người ở
các nước phương Đông, nơi tiếp nhận chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Tín đức
tính thứ năm trong Ngũ thường. Tín nghĩa lời nói việc làm phải thống
nhất với nhau, là lòng tin của con người với nhau. Tín góp phần củng cố lòng tin
giữa người với người. Trong ngũ luân thì tín điều kiện đầu tiên trong quan hệ
bè bạn. Tuy nhiên, nội hàm của đức tín không chỉ hẹp trong mối quan hệ duy
nhất này mà nó còn bao gồm cả lòng tin vô hạn vào đạo lý của bậc thánh hiền và
các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ. Theo quan niệm của Nho giáo tđức
tín là nền tảng của trật tự hội. Để thực hiện nhân và lễ, Khổng tử đã nêu ra tư
tưởng chính danh (danh nghĩa tên gọi, danh phận, địa vị; chính nghĩa đúng,
chấn chỉnh lại cho đúng tên gọi danh phận). Do đó, chính danh làm cho
mọi người ai địa vị nào, danh phận nào thì giữ đúng vị trí danh phận của
mình, cũng không dành vị trí của người khác, không lấn vượt làm rối loạn. Ông
cho rằng nguyên nhân hỗn loạn thời Xuân Thu do thiên tnhà Chu không
làm tròn trách nhiệm (không làm đúng danh) đquyền lợi vào tay chư hầu; chư
hầu không làm đúng danh nên đã lấn át. Vì vậy, để hội ổn định thì mọi người
cần làm đúng danh phận. Theo ông, “Danh không chính thì lời nói chẳng thuận,
lời nói không thuận thì việc chẳng nên, việc không nên thì lễ nhạc chẳng hưng
lOMoARcPSD| 59691467
vượng, lễ nhạc không hưng vượng thì hình phạt chẳng trúng, hình phạt không
trúng ắt dân không biết xử trí ra sao” (danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất
thuận tắc sự bất thành, sbất thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình
phạt bất trúng, hình phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc). Riêng đối với người
cầm quyền vua- thiên tử được thay trời cai trị thì càng phải làm đúng danh của
mình, như vậy mọi người mới noi theo. Đặc biệt, trong việc chính sự (việc nước),
điều đầu tiên nhà vua phải làm là lập lại chính danh, phải xác định vị trí, vai trò,
nghĩa vụ và trách nhiệm của từng người để họ hành động cho đúng. Khổng tử cho
rằng không chức vị ấy thì không được bàn việc của chức vị đó, không được
hưởng quyền lợi, bổng lộc của chức vị ấy. Mục đích của chính danh mà Nho giáo
đề cao là sự ổn định xã hội, suy cho cùng là để bảo vệ quyền của thiên tử, duy trì
sự phân biệt đẳng cấp. Chính danh không những chỉ nội dung tưởng chính
trị của Nho giáo, còn mang ý nghĩa đạo đức, một yêu cầu về mặt đạo đức
của con người. Chúng ta biết rằng, một trong những phạm trù đạo đức đó lương
tâm, trách nhiệm. Nếu xét theo nghĩa này thì một người làm tròn nghĩa vụ và bổn
phận của mình tức người đó đạo đức. Ý nghĩa tích cực của tưởng chính
danh là làm cho con người ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình một cách
rõ ràng trong các mối quan hệ xã hội. Con người tồn tại trong vô vàn các quan hệ
xã hội đan xen, ở mỗi mối quan hệ đó con người có nghĩa vụ nhất định phải thực
hiện. Điều này cần thiết mọi chế độ hội, mọi thời đại. tưởng chính
danh yêu cầu con người thực hiện một cách đúng mức nghĩa vụ của bản thân trước
cộng đồng và xã hội trong khuôn khổ danh phận, góp phần vào duy trì bình ổn xã
hội. tưởng này còn kìm hãm tự do của nhân cách tới mức không chấp nhận bất
sáng kiến nào của con người, làm cho con người luôn trạng thái nhu thuận,
chỉ biết phục tùng theo chủ trương “thuật nhi bất tác” (chỉ làm theo không
sáng tác thêm). tưởng chính danh đã qđề cao danh phận, làm cho con
người luôn tưởng hám danh, chạy theo danh, theo chức đến mức nhiều người
hám danh quên phận quên cả luân thường đạo lý. Mặc những quan
niệm khác nhau, nhấn mạnh đức này hay đức khác của con người nhưng nói
chung, các nhà nho đều cho rằng con người cần phải những phẩm chất đạo đức
bản: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. 2. Ảnh hưởng của tưởng đạo đức Nho giáo
nước ta hiện nay Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời
kỳ phong kiến. Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tưởng Việt Nam
đã tiếp thu nhiều tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…. Đã thời kỳ Phật
giáo giữ vai tchính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm
ưu thế trở thành công cụ tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do
thời gian tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu sử dụng
có mục đích, cho nên Nho giáo ảnh hưởng sâu rộng nhiều lĩnh vực. Đặc biệt,
tưởng đạo đức Nho giáo đã trở thành sở cho đạo đức thời phong kiến Việt
Nam và ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn còn. Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã
làm cho con người có sự đối xử nhân ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ,
với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp con người thái độ và hành vi ứng
lOMoARcPSD| 59691467
xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép. Xét theo phương diện pháp luật thì lễ
của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội,
ngày nay chúng ta thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong nước cần phải
pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới
trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính dưới nhường.
Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm
của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội. Nét đặc sắc
của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân, đặc biệt là chú ý
đến đạo đức người cầm quyền (những người chức, quyền). G.S. Vũ Khiêu đã
nhận xét: đây Nho giáo đã nhận thức được một thực tế là những người trong b
máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai trị được nhân dân. Cho nên đạo
đức một phương tiện để tranh thủ được lòng dân. Theo Nho giáo, đạo đức người
cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng
Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân” đlàm tấm gương cho người dưới.
Với việc đề cao tu thân, coi đây cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã
tạo nên một lớp người sống đạo đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã
nhiều tấm gương sáng ngời về đạo đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt.
Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, người làm quan phải có đức, phải lấy nhân
nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa lòng người, để cai trị. Muốn vậy, phải
đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua quan. Thiết nghĩ, ngày nay tưởng
nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người cán bộ trong bộ máy nnước phải đức,
đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu, kính phục. Nho giáo coi những người làm
quan hiếp dân độc ác, đdân đói t nhà vua tội. Nho giáo đã đề
cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện
được đường lối đức trị, người cầm quyền phải luôn “tu, tề, trị, bình”. Bên cạnh
ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng có một số tác động tiêu cực, cụ thể là: Một số
người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử các công việc và các mối
quan hệ hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước vi phạm pháp luật.
Coi trọng đạo đức cần thiết nhưng tuyệt đối hóa vai trò của đạo đức quên
pháp luật sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức của phương Đông, nhấn
mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của Nho giáo, nhiều người khi
chức quyền đã kéo kéo cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào quan
mình đang quản lý. Sắp xếp và bố trí cán bộ không theo năng lực, trình độ và đòi
hỏi của công việc dựa vào sthân thuộc, gần gũi trong quan hệ tông tộc, dòng
họ. Trong công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng
cục bộ địa phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc không dám đấu tranh
với những sai lầm của người khác. Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với
nội dung đền ơn trả nghĩa trong thực tế một số cán bộ thái độ ban ơn, cố
tình lợi dụng kẽ hở của chính sách luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa
quyền….Thậm chí, một số người dùng tưởng gia trưởng để giải quyết các công
việc chung. Một trong những phẩm chất của người lãnh đạo tính quyết đoán.
Nhưng quyết đoán theo kiểu độc đoán, chuyên quyền biểu hiện của thói gia

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59691467
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI: Ý THỨC XÃ HỘI THƯỜNG LẠC HẬU HƠN TỒN TẠI XÃ HỘI
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PHẠM VĂN HÙNG
HỌC VIÊN: HOÀNG THỊ MAI HOÀNG TRỌNG HUY PHẠM THỊ XUÂN ĐOAN PHẠM THÙY DUNG
LỚP: CAO HỌC QUẢN LÝ KINH TẾ K10B Năm học: 2024 lOMoAR cPSD| 59691467
TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI: Ý THỨC XÃ HỘI THƯỜNG LẠC HẬU HƠN TỒN TẠI XÃ HỘI
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PHẠM VĂN HÙNG
HỌC VIÊN: HOÀNG THỊ MAI HOÀNG TRỌNG HUY
PHẠM THỊ XUÂN ĐOAN PHẠM THÙY DUNG lOMoAR cPSD| 59691467 Mục lục Lời mở đầu
Phần I: Ý thức xã hội lạc hậu hơn với tồn tại xã hội . 1.
Khái niệm ý thức xã hội và tồn tại xã hội 2.
Mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội 3.
Tại sao ý thức xã hội lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội 4. Ảnh hưởng
của ý thức xã hội lạc hậu hơn so với
tồn tại xã hội đối với xã hội
Phần II: Biểu hiện, nguyên nhân và giải pháp của tình trạng ý thức xã hội .
lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội ở Việt Nam 1. Biểu hiện 2. Nguyên nhân 3. Giải pháp
Phần III: Vì sao nho giáo tồn tại trải qua các triều đại phong kiến đến hiện nay ở Việt Nam. Kết luận
Danh sách tài liệu tham khảo lOMoAR cPSD| 59691467 Lời mở đầu
Ở mọi thời đại thì triết học luôn có một vai trò quan trọng trong cuộc sống.
Nó làm cho con người hiểu về thế giới; về vai trò, vị trí của con người trong thế
giới ấy. Ngày nay có nhiều vấn đề mà con người đề cập đến trong triết học. Một
trong số đó là mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội, đặc biệt ý thức xã
hội có thể lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
Khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì bản sắc
dân tộc lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Chúng ta chỉ có thể lấy bản sắc dân
tộc để hoà nhập vào tổ chức lớn nhất toàn cầu này mà thôi. Tuy nhiên chúng ta
phải có cái nhìn đúng đắn giữa một bên là bản sắc dân tộc với một bên là phong
tục, tập quán lạc hậu kìm hãm sự phát triển một đất nước
Với đề tài “Ý thức xã hội có thể lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội” nhằm
nghiên cứu, tìm hiểu để có cái nhìn đúng đắn về nó từ đó đưa ra một số giải phải
nhằm xoá bỏ những tàn dư cũ, đồng thời ra sức phát huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp
Do kiến thức còn thiếu, trình độ còn hạn chế nên trong bài viết của em còn
nhiều thiếu sót. Em mong được sự góp ý kiến của thầy Phạm Văn Hùng để bài
tiểu luận của em hoàn thiện hơn
Chúng em xin chân thành cảm ơn /.
Phần I: Ý thức xã hội có thể lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
1. Khái niệm ý thức xã hội và tồn tại xã hội:
1.1. Khái niệm tồn tại xã hội:
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội
V.I. Lênin khi nghiên cứu tồn tại xã hội với tính cách vừa là đời sống vật
chất vừa là những quan hệ vật chất giữa người với người đã cho rằng: việc anh
sống, anh hoạt động kinh tế, anh sinh con đẻ cái và anh chế tạo ra các sản phẩm,
anh trao tặng sản phẩm, làm nảy sinh ra một chuỗi tất yếu khách quan gồm những
biến cố, những sự phát triển, không phụ thuộc vào ý thức xã hội của anh và ý thức lOMoAR cPSD| 59691467
này không bao giờ bao quát được toàn vẹn cái chuỗi đó Các yếu tố chính tạo thành
tồn tại xã hội là phương thức sản xuất, điều kiện tự nhiên- hoàn cảnh địa lý, dân
số và mật độ dân số… trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất.
1.2. Khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội:
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những
quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng… của những cộng đồng xã
hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định
Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội có cấu trúc hết sức phức tạp. Có thể
tiếp cận kết cấu của ý thức xã hội từ những phương diện khác nhau. Theo nội dung
và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm các hình thái khác
nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức
thẩm mỹ, triết học…Theo trình độ phản ánh có thể phân biệt ý thức xã hội thông
thường và ý thức lý luận
Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm…
của những con người trong một cộng đồng người nhất định, được hình thành một
cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát
hoá thành lý luận. Trong ý thức xã hội thông thường, tâm lý xã hội là bộ phận rất quan trọng
Ý thức xã hội thông thường, thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều
mặt cuộc sống hàng ngày của con người, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Ý
thức xã hội thông thường tuy là trình độ thấp so với ý thức lý luận, nhưng những
tri thức kinh nghiệm phong phú đó có thể trở thành tiền đề quan trọng cho sự hình
thành các lý thuyết xã hội
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hoá, khái
quát hoá thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm,
phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận đạt trình độ cao và mang tính hệ thống tạo thành
các hệ tư tưởng. Hệ tư tưởng là trình độ nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ
thống những quan điểm, tư tưởng( chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn
giáo), kết quả của sự khái quát hoá những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được lOMoAR cPSD| 59691467
tạo thành một cách tự giác nghĩa là tạo ra bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp
nhất định và được truyền bá trong xã hội. Hệ tư tưởng gồm hệ tư tưởng khoa học
và hệ tư tưởng không khoa học. Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh
các mối quan hệ vật chất của xã hội, nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc.
1.3 Mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội:
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ,hai phương thức
phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với
nhau, chúng có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội.
Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên giai cấp tiếp thu hệ tư
tưởng của giai cấp. Mối liên hệ chặt chẽ giữa hệ tư tưởng(đặc biệt là tư tưởng
khoa học tiến bộ) với tâm lý xã hội, với thực tiễn cuộc sống sinh động và phong
phú sẽ giúp cho hệ tư tưởng xã hội, cho lý luận bớt xơ cứng, bớt sai lầm.
Bất kỳ tư tưởng nào khi phản ánh các mối quan hệ đương thời thì đồng thời
cũng kế thừa những học thuyết xã hội, những tư tưởng và quan điểm đã tồn tại
trước đó. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã
hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, rằng không thể tìm
nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm
trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một
thời đại nào đó cũng sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy.
Những quan điểm trên đã bác bỏ quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm
muốn đi tìm nguồn gốc của ý thức tư tưởng trong bản thân ý thức tư tưởng, xem
tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội, quyết định sự phát
triển xã hôi và trình bày lịch sử các hình thái ý thức xã hội tách rời cơ sở kinh tế-
xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng
và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức,
văn hoá, nghệ thuật… sớm muộn sẽ biến đổi theo. lOMoAR cPSD| 59691467
Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội không phải dừng
lại ở chỗ xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội, mà còn chỉ ra
rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách đơn giản trực
tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan
niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những
quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ
những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội,
và ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội,
chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ động, trái
lại còn nhấn mạnh tác dụng tích cực của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tếxã
hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong mối quan hệ với tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt
đối hoá vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường,
hay chủ nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong
đời sống xã hội. Ph.Ăngghen viết:” Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật… đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng
tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế” Mức
độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều
kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng
nảy sinh; vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản
ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; vào mức độ mở
rộng của tư tưởng trong quần chúng.
1.4 Tại sao ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội:
Lịch sử cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí đã mất rất lâu,
nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương
đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội ( trong truyền thống, tập lOMoAR cPSD| 59691467
quán, thói quen… ) V.I.Lênin cho rằng, sức mạnh của tập quán được tạo ra qua
nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê gớm nhất
Khuynh hướng lạc hậu của ý thức xã hội cũng biểu hiện rõ trong điều kiện
của chủ nghĩa xã hội. Nhiều hiện tượng ý thức có nguồn gốc sâu xa trong xã hội
cũ vẫn tồn tại trong xã hội mới như lối sống ăn bám, lười lao động, tệ tham nhũng…
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do những nguyên nhân sau đây: •
Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên
Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên
Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực
tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ nhanh
mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức
xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến
đổi của tồn tại xã hội •
Do sức mạnh của thói quen, truyền thống tập quán cũng như do
Do sức mạnh của thói quen, truền thống tập quán cũng như do tính lạc
hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội
Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập
Y thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người,
những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường
được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các
lực lượng xã hội tiến bộ.
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan
điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được
tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.
1.5 Ảnh hưởng của ý thức xã hội lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội đến xã hội:
Nhận thức về tính giới hạn của sự lạc hậu tương đối của văn hóa thể hiện
sự khôn ngoan của con người trong việc phân loại những công cụ hỗ trợ sự phát
triển. Có thể nói, sự lạc hậu về mặt văn hoá, nếu nhìn từ góc độ này, sẽ ảnh hưởng lOMoAR cPSD| 59691467
đáng kể đến tiến trình phát triển của mỗi cá thể, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc, thậm
chí, tạo ra những trở ngại rất lớn trên phạm vi toàn cầu.
Nếu có bề dày kinh nghiệm văn hoá, chúng ta sẽ có khả năng đồng cảm với
những cộng đồng khác trong quá trình tương tác. Sự hiểu biết lẫn nhau sẽ khiến
mỗi cộng đồng trở nên tinh tế hơn trong các hành vi tìm kiếm lợi ích của mình.
Ngược lại, sự phát triển quá nhanh sẽ không tạo điều kiện cho sự ngưng tụ của
các kinh nghiệm văn hóa và tạo ra trạng thái hời hợt về mặt văn hoá. Điều này sẽ
khiến cho các hành vi tìm kiếm lợi ích của mỗi cộng đồng trở nên khó chấp nhận
trong mắt những cộng đồng khác.
Thực tế cho thấy, ở những cộng đồng có nền văn hóa lạc hậu, thái độ cứng
nhắc, không cởi mở và không khách quan đối với văn hóa tạo ra sự đối kháng
không phải chỉ giữa tầng lớp này với tầng lớp kia, giữa thế hệ này với thế hệ kia
trong cộng đồng mà hơn thế giữa chính cộng đồng đó với thế giới bên ngoài.
Trong thời đại hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, mỗi một nền văn hoá,
mỗi một quốc gia không thể tồn tại độc lập với thế giới bên ngoài. Nền văn hóa
lạc hậu, không cởi mở chắc chắn không đủ khả năng giúp con người vượt qua
ngưỡng của sự chậm phát triển do nó cản trở sự đồng thuận trong nhận thức của
cộng đồng. Văn hóa tạo ra môi trường sống và không gian tinh thần để nâng đỡ
các không gian chính trị và không gian kinhtế. Chính bởi vậy, sự phát triển về
kinh tế và chính trị phụ thuộc đáng kể vào không gian tinh thần đó. Nếu không
gian tinh thần lạc hậu, con người sẽ nảy sinh tâm lý tự mãn về những giá trị của
mình, rất khó khăn trong việc nhận ra cái mới và tiếp cận cái mới, và do đó, sẽ bỏ
lỡ các cơ hội phát triển.
Các quốc gia đang và kém phát triển thường có khuynh hướng duy trì bản
sắc văn hóa như một bằng chứng về sựkhác biệt, thậm chí lo ngại rằng, toàn cầu
hóa sẽ xói mòn bản sắc văn hóa và bản lĩnh văn hoá, quên mất rằng bản sắc văn
hóa hay bản lĩnh văn hóa đều được hình thành sau những quá trình lâu dài, tự
nhiên và không thể biến mất trước những tương tác về văn hoá. Chính những lo
ngại không có cơ sở và phản ứng tự vệ phi lý này đã gây ra những xung đột về
văn hoá, thể hiện qua những xung đột tôn giáo, xung đột sắc tộc, ảnh hưởng lOMoAR cPSD| 59691467
nghiêm trọng đến tiến trình phát triển và tạo nên những phản ứng cực đoan đối
với vấn đề toàn cầu hoá. Mặt khác, các quốc gia đang phát triển luôn cảm thấy
mình bị thua thiệt khi tham gia vào quá trình hội nhập và toàn cầu hoá, cho đến
khi nhận ra rằng các cơ hội bị bỏ lỡ do sự dị biệt về văn hóa chính là thông điệp
về ảnh hưởng của văn hóa lạc hậu đối với sự phát triển.
Phần II: Biểu hiện và nguyên nhân ý thức xã hội thường lạc hậu
hơn so với tồn tại xã hội ở Việt Nam: 2.1 Biểu hiện:
Trong truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam, có nhiều thuần phong
mỹ tục cần cho đạo lý làm người, kỷ cương xã hội. Phong tục có thứ trở thành
luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân rất bền chặt, có sức mạnh hơn cả những
đạo luật.Một cuộc cách mạng có thể thay đổi chính thể nhanh chóng, tiếp theo sau
hàng loạt hệ thống pháp luật được thay đổi. Phong tục cũng không ngừng biến đổi
theo trào lưu biến đổi văn hoá xã hội, nhưng dai dẳng hơn và có quy luật riêng
của nó, không dễ gì một sớm một chiều đã được mọi người, mọi nhà, mọi tầng lớp tuân theo.
Bản thân các phong tục cũng nằm trong cuộc đấu tranh xã hội đã, đang và
sẽ tiếp diễn mãi giữa cái cũ và cái mới. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Hiện nay, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã tốt
hơn. Tuy nhiên, vẫn còn một số tập tục lạc hậu trong tang lễ, cưới xin…tồn tại hết sức dai dẳng.
Về việc tang, quan niệm của không ít đồng bào dân tộc thiểu số là mời thầy
Tào, thầy Mo, thầy cúng yểm bùa, trừ ma và con cháu lăn đường, đội mũ rơm;
một số gia đình dân tộc Tày ở tỉnh Lạng Sơn có tục viếng thông gia và tế lễ riêng,
khi cha mẹ mất thì các con (đã trưởng thành) phải mỗi người một lễ, Tế rườm rà,
tốn kém; rồi tục đưa đám trước 12 giờ đêm ảnh hưởng cộng đồng dân cư; một số
bản, làng dân tộc Mông tỉnh Sơn La để người chết trong nhà nhiều ngày; có nơi
ngoài việc làm ma tươi cho người chết, còn phải làm ma khô cúng bằng trâu, bò.
Về việc cưới, một bộ phận thanh niên dân tộc thiểu số tin vào lá số, số
mệnh và việc "nhập ma" cô dâu về nhà chồng; các dân tộc Dao và Sán Chỉ ở vùng lOMoAR cPSD| 59691467
sâu, vùng xa tỉnh Quảng Ninh còn tục tảo hôn, ép gả, mua bán, thách cưới cao, tổ
chức cưới dài ngày; dân tộc Sán Dìu có tục một nhà trong một năm không được
đẻ hai người, nếu có người cưới dâu thì người đến kỳ sinh đẻ phải ra ngoài rừng
đẻ con; ở tỉnh Ðiện Biên, tại một số thôn, bản của dân tộc Hà Nhì và Si La việc
cưới, việc tang có quá nhiều thủ tục phức tạp. Nhiều bản, làng, thôn, ấp còn tình
trạng trọng nam, khinh nữ; em dâu, con dâu không được ngồi ăn cơm chung mâm
với anh chồng, bố chồng; con gái không được học lên lớp trên; một số gia đình có
người đau ốm đã làm Then, cúng ma để giải hạn mà không đưa tới trạm y tế xã;
tập quán dùng thuốc phiện lưu cữu ở vùng cao.
Ðồng bào ở nhiều bản, làng, nhất là vùng sâu, vùng xa vẫn giữ cách nghĩ,
nếp sống tuy không phải là hủ tục, nhưng không phù hợp cuộc sống thời nay, đó
là thói quen sử dụng nhà vệ sinh, nhà tắm ngoài trời; ít trồng rau xanh trong khi
đất rừng rộng; thói quen uống nhiều rượu làm bê trễ sản xuất; tục tôn thờ đạo giáo
ngoại nhập tăng lên ở một số vùng cao, v.v.
Riêng đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng
sâu, vùng xa thực chất còn rất nhiều hạn chế, càng ở xa càng thiếu thông tin, càng
khao khát các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Các hủ tục mê tín dị đoan như thầy
cúng, thầy bói vẫn còn lén lút hoạt động. Trong khi đó sinh hoạt văn hóa mang
đậm các sắc tộc bản địa đang bị lấn át và mai một.
Hiện nay, việc thách cưới đã trở nên nhẹ nhàng hơn, đặc biệt là ở những gia
đình tri thức, thị dân thì tục thách cưới chỉ như một hình thức ước lệ. Tuy nhiên,
ở những vùng nông thôn thì tục thách cưới vẫn còn tồn tại với nhiều thủ tục nặng
nề. Nhà trai và nhà gái vẫn chưa hoàn toàn bỏ được tính hư danh hoa hoè để khổ
cho con cái. Việc trai gái lấy nhau, trước hết phải chờ cho đến tuổi khôn lớn, biết
cách lập thân, rồi hãy cho lấy nhau, mà hãy để cho con cái tuỳ ý kén chọn, cha mẹ
không nên nài ép lòng con, trừ khi con không biết đường kén, chọn phải kẻ chẳng
ra gì thì cũng nên ngăn cấm lại mà thôi.
Qua bức phác thảo trên, có thể rút ra mấy nhận xét sau: •
Một là, tình trạng tập tục lạc hậu tuy chiếm tỷ lệ nhỏ so với toàn lOMoAR cPSD| 59691467
Một là, tình trạng tập tục lạc hậu tuy chiếm tỷ lệ nhỏ so với toàn cảnh đời
sống văn hóa, xã hội khu vực miền núi, vùng dân tộc thiểu số, nhưng tiềm ẩn nguy
cơ lan rộng, kể cả nguy cơ do kẻ xấu lợi dụng kích động, tạo thành "rào chắn" cản
trở sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. •
Hai là, tình trạng tập tục lạc hậu tồn tại không tập trung, không có
Hai là, tình trạng tập tục lạc hậu tồn tại không tập chung, không có tính hệ
thống mà rải rác ở những bản, làng thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng cao, nơi điều
kiện vật chất và tinh thần khó khăn, nhiều hơn là ở những trị trấn, thị tứ, thị xã, thành phố miền núi. •
Ba là, căn cứ vào tính chất và nguồn gốc hình thành các tập tục, có
Ba là căn cứ tính chất và nguồn gốc hình thành các tập tục, có thể phân chia
thành loại tập tục liên quan mê tín dị đoan và loại tập tục hình thành từ thói quen
và nếp sống hằng ngày. 2.2 Nguyên nhân:
*Nguyên nhân làm cho ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội: -
Thứ nhất, do sự tác động mạnh mẽ và nhiều mặt trong hoạt động
thựctiễn của con người. -
Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống và do cả
tínhbảo thủ của hình thái ý thức xã hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại xã hội
mới c 甃̀ng chưa đủ để làm cho những thói quen, tập quán và truyền thống cũ hoàn toàn mất đi -
Thứ ba, do ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn
người,của các giai cấp nào đó trong xã hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu
thường níu kéo, bám víu lấy những tư tưởng lạc hậu để bảo vệ và duy trì quyền
lợi ích kỉ của họ, để chống lại các lực lượng tiến bộ trong xã hội
=> Muốn xây dựng được xã hôi mới thì nhất định phải từng bước xóa bỏ
những tàn dư, những tư tưởng và ý thức xã hội cũ song song với việc bồi đắp, xây
dựng và phát triển ý thức xã hội mới. Tuy nhiên khi thực hiện không được nóng
vội, không dùng các biện pháp hành chính đã từng xảy ra ở các nước XHCN và
cả ở nước ta nhiều năm trước đây.
Ví dụ: Muốn xây dựng được 1 xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái thì chúng
ta phải từng bước xóa bỏ những tàn dư trong suy nghĩ của con người thời đại
phong kiến ở ngày nay như tư tưởng trọng nam khinh nữ, tục lệ “cha mẹ đặt đâu lOMoAR cPSD| 59691467
con ngồi đấy”,… bằng 1 số cách chẳng hạn như tuyên truyền, đẩy mạnh những
chiến dịch truyền thông về quyền của người phụ nữ, bổ sung những điều khoản mới về luật,… 2.3. Giải pháp:
Một mặt, phải đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, mở rộng và nâng
cao nhận thức của đồng bào các dân tộc thiểu số, và công tác này phải đi trước
một bước tại những địa bàn khó khăn, chứ không phải như quan niệm của một vài
người cho là "chờ" khi trên địa bàn có đầy đủ cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội thì mới
phát triển được đời sống văn hóa. Tất nhiên, công tác thông tin, tuyên ruyền ở
những nơi này cần được đổi mới cả về hình thức và nội dung. Nếu như trước đây,
nội dung tuyên truyền một cách chung chung, chỗ nào cũng có thể áp dụng được
mà hiệu quả lại thấp, thì nay phải lưu ý đến tính đặc thù của từng vùng, miền, từng
dân tộc, kể cả tín ngưỡng và đời sống tâm linh của dân tộc ấy.
Phải cải tạo triệt để những phong tục, tập quán, những ứng xử của cá nhân
và cộng đồng với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội đã trở thành tập tục, thói
quen làm kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội và đời sống tinh thần, nhận thức
của đồng bào các dân tộc vùng cao lâu nay. Đặc biệt là các nội dung phi khoa học
trong việc tang, việc cưới, trong tín ngưỡng thờ tự, chữa bệnh, ứng xử với môi
trường và thậm chí cả trong lối sống, sinh hoạt chi tiêu... của đồng bào vùng cao.
Công tác tuyên truyền đóng vai trò quan trọng trong quá trình nâng cao nhận thức,
động viên khích lệ người dân cùng tham gia. Chính vì vậy, huyện phối hợp với
các cơ quan thông tin đại chúng trên địa bàn, đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ
trương, chính sách của huyện; Đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, mở hội nghị
tuyên truyền, tập huấn cho các tuyên truyền viên, tập trung vào các già làng,
trưởng bản, thầy cúng, thầy mo. Đây là lực lượng nòng cốt tại cơ sở, đóng vai trò
quan trọng tác động để thay đổi nếp sống, phong tục tập quán lâu đời của người dân
Mặt khác, cần phát triển rộng phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa, trong đó có phong trào gia đình văn hóa và làng, bản văn hóa ở
những địa bàn này. Bên cạnh điểm mạnh là cơ bản của các phong trào, thì điểm lOMoAR cPSD| 59691467
yếu chính là ở chỗ chúng ta chưa cụ thể hóa các tiêu chí chung thành những tiêu
chí riêng, phù hợp từng dân tộc thiểu số.
Ngoài ra, cũng cần xác định các căn nguyên của hủ tục có nguồn gốc từ
điều kiện lao động, sản xuất hoặc từ đời sống tâm linh, tín ngưỡng, để trên cơ sở
đó xây dựng nội dung phòng, chống các hủ tục một cách khoa học, chú ý việc xóa
bỏ các điều kiện xấu và mầm mống tạo thành hủ tục.
Việc tổ chức thực hiện nội dung bài trừ các tập tục lạc hậu là việc làm vô
cùng quan trọng và rất cần được đổi mới. Nhưng để xóa bỏ cơ bản các tập tục lạc
hậu trong đồng bào dân tộc thiểu số thì phải xây dựng kế hoạch phòng, chống toàn
diện và tập trung hơn, trong đó có việc phân cấp xử lý vấn đề. Việc này có thể làm
được vì các hủ tục giữ tỷ lệ không nhiều trong đời sống văn hóa xã hội các dân
tộc, ước hơn 20 hủ tục rõ nét và hơn 10 loại thói quen không phù hợp cuộc sống
hiện tại; việc phân cấp sẽ khoanh được vùng trọng điểm và đề cao trách nhiệm
của các cá nhân, tập thể trong quá trình phòng, chống, giải quyết triệt để các hủ
tục. Ðối với các đơn vị cấp trung ương thì chỉ đạo, tổ chức xử lý những hủ tục và
thói quen sống lạc hậu mang tính phổ biến và điển hình về mức độ, tính chất và
quy mô rộng; còn đối với các sở văn hóa - thông tin tỉnh miền núi thì tổ chức xử
lý những hủ tục có tính chất, quy mô hẹp, ít phổ biến hơn và diễn ra ngay trên địa
bàn mình phụ trách. Ðồng thời với việc phân cấp, cần tổ chức xây dựng mô hình
để nhân rộng phong trào bài trừ hủ tục; mô hình lấy tại chỗ là tốt nhất, hạn chế
việc lấy mô hình từ các địa bàn khác và dân tộc khác đem tới cho vùng này, dân tộc này học tập.
Việc đầu tư xây dựng mô hình nên gọn nhẹ, không quá cầu toàn, vì một gia
đình, một bản, làng làm tốt cũng có thể trở thành mô hình xứng đáng để nhiều gia
đình noi theo. Phong trào xây dựng nếp sống văn hoá mới hiện nay, không phải
chỉ đơn thuần dựa vào ý nghĩ chủ quan mà phải biết vận dụng thuần phong mỹ tục
vào nếp sống, nếp suy nghĩ, hành động, cách đối nhân xử thế, hợp với trào lưu
tiến hoá. Có những phong tục cổ truyền xuất xứ từ kinh nghiệm thực tiễn trong
cuộc sống thời xưa, đến nay không hợp thời nữa, trở thành đồi phong bại tục, ta
cũng cần nghiên cứu để biết nguyên do, từ đó mới vận dụng cho thích hợp với lOMoAR cPSD| 59691467
hiện tại và tương lai, hoặc tìm những phong tục hay để bổ kết mà loại trừ dần những cái dở.
Quan điểm của triết học Mác- Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý
nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của xã hội chủ
nghĩa. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, văn hoá xã hội chủ nghĩa cần phải phát huy
những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hoá nhân loại từ cổ chí
kim trên cơ sở thế giới quan Macxit. Người viết:”
Văn hoá vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến
hức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội
của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu.
Nắm vững quan điểm trên đây của triết học Mác- Lênin về tính kế thừa của
ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, Đảng ta khẳng định, trong điều kiện kinh tế thị
trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao
bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt
đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế giới, làm giàu
đẹp thêm cho nền văn hoá Việt Nam.
Phần III: Vì sao nho giáo tồn tại trải qua các triều đại phong
kiến đến hiện nay ở Việt Nam.
3.1 Sự tồn tại của nho giáo
Tư tưởng đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở nước ta hiện nay Nguyễn
Thị Thanh Mai tóm tắt: Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời và
tồn tại đến nay đã hơn 2500 năm. Trong suốt thời gian tồn tại, Nho giáo đã có ảnh
hưởng ở nhiều nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Bài viết đề cập đến
những nội dung đạo đức chủ yếu của Nho giáo như tam cương (đạo đức xã hội
gồm ba mối quan hệ cơ bản là vua-tôi, cha-con, chồng-vợ), ngũ thường (gồm năm
chuẩn mực đạo đức cá nhân bất di bất dịch là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Đó là những
tiền đề để thực hiện thuyết chính danh, làm cho xã hội được ôn định, trật tự. Trên
cơ sở phân tích những nội dung đạo đức nói trên, bài viết làm rõ những ảnh hưởng
tích cực cũng như hạn chế của Nho giáo đối với đạo đức con người Việt Nam
trong lịch sử cũng như hiện tại. Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra
đời và tồn tại đến nay đã hơn 2500 năm. lOMoAR cPSD| 59691467
Trong suốt thời gian tồn tại, Nho giáo đã có ảnh hưởng ở nhiều nước
phương Đông, trong đó có Việt Nam. Sự ảnh hưởng này, được thể hiện trên nhiều
phương diện, đặc biệt là trong lĩnh vực đạo đức trước đây cũng như hiện nay. Bài
viết đề cập một vài nét về ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo đối với con
người Việt Nam hiện nay.
Khái quát nội dung tư tưởng đạo đức Nho giáo Nho giáo được ra đời ở thời
Xuân Thu do Khổng Tử (551 – 479 TCN) sáng lập. Sau khi ông mất, tư tưởng của
ông đã được các thế hệ học trò kế thừa. Đến thế kỷ II TCN, Nho giáo mới được
giai cấp phong kiến sử dụng vào việc trị quốc. Ở Trung Quốc, Nho giáo đã tồn tại
trong suốt thời phong kiến và là công cụ giúp các triều vua cai trị đất nước. Khổng
Tử và các học trò của ông đã thấy được sức mạnh và vai trò to lớn của đạo đức
đối với xã hội. Vì vậy, nội dung quan trọng của Nho giáo là luận bàn về đạo đức.
Theo Khổng Tử, đạo là năm mối quan hệ xã hội cơ bản của con người được gọi
là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh em,
bạn bè. Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản nhất, Đổng Trọng Thư gọi là Tam cương
- ba sợi dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia đình đến ngoài xã hội. Đức
chính là các phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần phải có để thực hiện tốt
các mối quan hệ cơ bản trên. Khổng Tử nhấn mạnh “Tam đức” (nhân, trí, dũng);
ở Mạnh Tử là “Tứ đức” (nhân, nghĩa, lễ, trí); Đổng Trọng Thư là “ngũ thường”
(nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tam cương và ngũ thường được kết hợp và gọi tắt là đạo
cương - thường. Cương - thường là nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho
giáo, là nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng thước ngọc
để đánh giá phẩm hạnh của con người. Một mặt, đạo cương - thường góp phần
điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép theo chế độ lễ
pháp của nhà Chu trước đây và các triều đại phong kiến sau này đặt ra. Cương -
thường là nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định theo thứ bậc, là cơ sở đảm
bảo quyền thống trị của thiên tử. Mặt khác, đạo cương - thường với nội dung
“quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, “phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”
(vua xử bề tôi chết, bề tôi không chết là không có lòng trung, cha xử con chết, con
không chết là không có hiếu) là sợi dây trói buộc con người, làm cho con người
thụ động trong cả suy nghĩ và hành động. Tư tưởng này là lực cản sự phát triển
của xã hội và là một trong những nguyên nhân làm cho xã hội phương Đông trì
trệ. Phạm trù đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo cương - thường là Nhân
(đức nhân). Tất cả các phạm trù đạo đức khác đều xoay quanh phạm trù trung tâm
này. Từ đức nhân mà phát ra các đức khác và các đức khác lại quy tụ về đức này.
Cả cuộc đời mình, Khổng Tử đã dành nhiều tâm huyết để làm cho đức nhân trở
thành hiện thực. Ông mong muốn các học trò rèn luyện để đạt được đức nhân và
ứng dụng nó trong thực tiễn. Đức nhân được Khổng tử bàn đến với nội dung cơ
bản sau: Nhân có nghĩa là yêu người : “Phàn Trì hỏi về người nhân, Khổng Tử
nói: (đó là người biết) yêu người” (Phàn Trì vấn nhân, Tử viết: “ái nhân”)(1). -
Nhân có nghĩa là trung và thứ. Bàn về chữ trung, ông giải thích:“Người nhân là
người mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn thành đạt thì lOMoAR cPSD| 59691467
cũng giúp người thành đạt” (Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi
đạt nhân)(2). Về chữ thứ, ông viết: “Điều gì mình không muốn, chớ thi hành cho
người khác” (Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân)(3). Như vậy, trung thứ tức là từ lòng
mình suy ra lòng người, phải giúp người. Khổng Tử khuyên rằng nên làm cho
người những cái mà mình muốn và đừng làm cho người những cái mình không
muốn. - Đối với bản thân mình, người có đức nhân là phải thực hiện đúng lễ: “Dẹp
bỏ tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân” (Khắc kỉ phục lễ vi nhân) (4). Lễ
là hình thức thể hiện nhân và cũng là một chuẩn mực của Ngũ thường. Phạm trù
đức nhân tuy bao chứa nhiều nội hàm khác nhau, song cái gốc và cốt lõi của nhân
là hiếu đễ. Theo Khổng Tử, tình cảm giữa cha mẹ và con cái, giữa chồng và vợ,
giữa anh em với nhau (quan hệ gia đình) là những tình cảm tự nhiên, vốn có thuộc
về bản tính con người. Từ cách hiểu này, ông cho rằng, trong gia đình nếu người
cha đứng đầu thì mở rộng ra trong nước có ông vua đứng đầu. Khổng Tử hình
dung quốc gia là một gia đình lớn, ông vua là người cha của gia đình ấy. Nho giáo
đặt vua đứng đầu trong tam cương và ngũ luân. Vì vậy, đạo làm người phải tận
hiếu với cha mẹ, tận trung với vua. Một người biết yêu thương kính trọng cha mẹ
mình thì mới biết yêu thương người ngoài. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ xuất
phát điểm đầu tiên là gia đình, từ đó suy rộng ra đến quốc gia và thiên hạ. Coi
trọng vai trò gia đình trong việc hình thành và tu dưỡng đạo đức của con người ở
Nho giáo là một khía cạnh hợp lý và vẫn còn có ý nghĩa nhất định đối với ngày
nay, bỡi lẽ, gia đình là một tế bào của xã hội, xã hội không thể ổn định, thịnh trị
nếu các gia đình lục đục và vô đạo. Vì vậy, người cầm quyền nếu không “tề gia”
(cai quản gia đình) của mình thì cũng không thể “trị quốc” (cai trị đất nước) được.
Nhân còn gắn liền với Nghĩa (nghĩa vụ, thấy việc đúng cần phải làm để giúp
người). Khổng Tử cho rằng người quân tử cần chú ý đến nghĩa và coi thường lợi.
Muốn thực hiện nhân, nghĩa thì cần có lòng dũng cảm (dũng) và có Trí (trí tuệ).
Có trí mới biết cách giúp người mà không làm hại đến người, đến mình, mới biết
yêu và ghét người, mới biết đề bạt người chính trực và gạt bỏ người không ngay
thẳng. Tuy nhiên, trí theo Khổng Tử và các môn đệ của ông không phải là những
tri thức phản ánh thực tại khách quan của tự nhiên và xã hội để từ đó chỉ đạo hành
động của con người mà là những tri thức mang tính giáo điều, chỉ gói gọn trong
sự hiểu biết sách vở của Nho giáo (Tứ thư và Ngũ kinh). Như vậy, đối với Khổng
Tử, nhân chính là đạo lý làm người, vừa thương người (ái nhân), vừa phải giúp
người (cứu nhân). Ông cho rằng, khi thi hành điều nhân phái phân biệt thân sơ,
trên dưới. Nếu ở Khổng Tử đức nhân mang tính phức tạp rất khó thực hiện, nó
vừa là lý tưởng nhưng lại mang yếu tố không tưởng thì đến thời Hán, đức nhân lại
được khoác thêm cái vỏ tôn giáo thần bí, do vậy càng không tưởng hơn. Về phạm
trù Lễ, theo Nho giáo, lễ là quy định về mặt đạo đức trong quan hệ ứng xử giữa
người với người. Con cái phải có hiếu với cha mẹ, bề tôi phải trung với vua, chồng
vợ có nghĩa với nhau, anh em phải trên kính dưới nhường, bạn bè phải giữ được
lòng tin. Những quy tắc này là bất di bất dịch mà ai cũng phải tuân theo. Lễ là sợi
dây buộc chặt con người với chế độ phong kiến tập quyền. Khổng Tử yêu cầu, từ lOMoAR cPSD| 59691467
vua cho đến dân phải rèn luyện và thực hiện theo lễ. Đến Đổng Trọng Thư, lễ đã
được đẩy lên đến cực điểm của sự khắt khe. Chỉ vì giữ lễ mà dẫn đến những hành
vi ngu trung, ngu hiếu một cách mù quáng ở không ít người trong xã hội trước
đây. Tư tưởng lễ của Nho giáo có tính hai mặt. Về ý nghĩa tích cực, tư tưởng lễ đã
đạt tới mức độ sâu sắc, trở thành thước đo, đánh giá phẩm hạnh con người. Sự
giáo dục con người theo lễ đã tạo thành một dư luận xã hội rộng lớn, biết quý
trọng người có lễ và khinh ghét người vô lễ. Lễ không dừng lại ở lý thuyết, ở
những lời giáo huấn mà đã đi vào lương tâm của con người. Từ lương tâm đã dẫn
đến hành động đến mức trong các triều đại phong kiến xưa, nhiều người thà chết
chứ không bỏ lễ: chết đói là việc nhỏ, nhưng thất tiết mới là việc lớn (Chu Hy).
Nhờ tin và làm theo lễ mà các xã hội theo Nho giáo đã giữ được yên ổn trong gia
đình và trật tự ngoài xã hội trong khuôn khổ của chế độ phong kiến. Lễ trở thành
điều kiện bậc nhất trong việc quản lý đất nước và gia đình. Yếu tố hợp lý này
chúng ta có thể học tập. Về mặt hạn chế, lễ là sợi dây ràng buộc con người làm
cho suy nghĩ và hành động của con người trở nên cứng nhắc theo một khuôn phép
cũ; lễ đã kìm hãn sự phát triển của xã hội, làm cho xã hội trì trệ. Điều này nói lên
rằng, tư tưởng Nho giáo mang tính bảo thủ, tiêu cực, phản lịch sử. Khổng Tử đã
từng nói: “ Ta theo lễ của nhà Chu vì lễ đó rực rỡ lắm thay” và ông luôn mong xã
hội lúc đó quay về thời đại Nghiêu, Thuấn. Khách quan mà đánh giá, thì hạn chế
trên của Nho giáo có nguyên nhân từ thực tế lịch sử. Bởi vì, Khổng Tử sống trong
thời đại xã hội loạn lạc, người ta tranh giành nhau, chém giết nhau không từ một
thủ đoạn tàn ác nào để tranh bá, tranh vương, để có bổng lộc chức tước. Ông hoài
cổ, muốn quay ngược bánh xe lịch sử cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, chính mặt
hạn chế này của Nho giáo đã để lại tàn dư cho đến tận ngày nay, nó trở thành
phong tục, lối sống, nó thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của không ít người ở
các nước phương Đông, nơi tiếp nhận và chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Tín là đức
tính thứ năm trong Ngũ thường. Tín có nghĩa là lời nói và việc làm phải thống
nhất với nhau, là lòng tin của con người với nhau. Tín góp phần củng cố lòng tin
giữa người với người. Trong ngũ luân thì tín là điều kiện đầu tiên trong quan hệ
bè bạn. Tuy nhiên, nội hàm của đức tín không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ duy
nhất này mà nó còn bao gồm cả lòng tin vô hạn vào đạo lý của bậc thánh hiền và
các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ. Theo quan niệm của Nho giáo thì đức
tín là nền tảng của trật tự xã hội. Để thực hiện nhân và lễ, Khổng tử đã nêu ra tư
tưởng chính danh (danh nghĩa là tên gọi, danh phận, địa vị; chính có nghĩa là đúng,
là chấn chỉnh lại cho đúng tên gọi và danh phận). Do đó, chính danh là làm cho
mọi người ai ở địa vị nào, danh phận nào thì giữ đúng vị trí và danh phận của
mình, cũng không dành vị trí của người khác, không lấn vượt và làm rối loạn. Ông
cho rằng nguyên nhân hỗn loạn ở thời Xuân Thu là do thiên tử nhà Chu không
làm tròn trách nhiệm (không làm đúng danh) để quyền lợi vào tay chư hầu; chư
hầu không làm đúng danh nên sĩ đã lấn át. Vì vậy, để xã hội ổn định thì mọi người
cần làm đúng danh phận. Theo ông, “Danh không chính thì lời nói chẳng thuận,
lời nói không thuận thì việc chẳng nên, việc không nên thì lễ nhạc chẳng hưng lOMoAR cPSD| 59691467
vượng, lễ nhạc không hưng vượng thì hình phạt chẳng trúng, hình phạt không
trúng ắt dân không biết xử trí ra sao” (danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất
thuận tắc sự bất thành, sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình
phạt bất trúng, hình phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc). Riêng đối với người
cầm quyền vua- thiên tử được thay trời cai trị thì càng phải làm đúng danh của
mình, như vậy mọi người mới noi theo. Đặc biệt, trong việc chính sự (việc nước),
điều đầu tiên nhà vua phải làm là lập lại chính danh, phải xác định vị trí, vai trò,
nghĩa vụ và trách nhiệm của từng người để họ hành động cho đúng. Khổng tử cho
rằng không ở chức vị ấy thì không được bàn việc của chức vị đó, không được
hưởng quyền lợi, bổng lộc của chức vị ấy. Mục đích của chính danh mà Nho giáo
đề cao là sự ổn định xã hội, suy cho cùng là để bảo vệ quyền của thiên tử, duy trì
sự phân biệt đẳng cấp. Chính danh không những chỉ là nội dung tư tưởng chính
trị của Nho giáo, mà còn mang ý nghĩa đạo đức, là một yêu cầu về mặt đạo đức
của con người. Chúng ta biết rằng, một trong những phạm trù đạo đức đó là lương
tâm, trách nhiệm. Nếu xét theo nghĩa này thì một người làm tròn nghĩa vụ và bổn
phận của mình tức là người đó có đạo đức. Ý nghĩa tích cực của tư tưởng chính
danh là làm cho con người ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình một cách
rõ ràng trong các mối quan hệ xã hội. Con người tồn tại trong vô vàn các quan hệ
xã hội đan xen, ở mỗi mối quan hệ đó con người có nghĩa vụ nhất định phải thực
hiện. Điều này là cần thiết ở mọi chế độ xã hội, ở mọi thời đại. Tư tưởng chính
danh yêu cầu con người thực hiện một cách đúng mức nghĩa vụ của bản thân trước
cộng đồng và xã hội trong khuôn khổ danh phận, góp phần vào duy trì bình ổn xã
hội. Tư tưởng này còn kìm hãm tự do của nhân cách tới mức không chấp nhận bất
kì sáng kiến nào của con người, làm cho con người luôn ở trạng thái nhu thuận,
chỉ biết phục tùng theo chủ trương “thuật nhi bất tác” (chỉ làm theo mà không
sáng tác gì thêm). Tư tưởng chính danh đã quá đề cao danh phận, làm cho con
người luôn có tư tưởng hám danh, chạy theo danh, theo chức đến mức nhiều người
vì hám danh quên phận mà quên cả luân thường đạo lý. Mặc dù có những quan
niệm khác nhau, nhấn mạnh đức này hay đức khác của con người nhưng nói
chung, các nhà nho đều cho rằng con người cần phải có những phẩm chất đạo đức
cơ bản: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. 2. Ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo ở
nước ta hiện nay Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời
kỳ phong kiến. Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam
đã tiếp thu nhiều tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…. Đã có thời kỳ Phật
giáo giữ vai trò chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm
ưu thế và trở thành công cụ tư tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do
có thời gian tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng
có mục đích, cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt,
tư tưởng đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ sở cho đạo đức thời phong kiến Việt
Nam và ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn còn. Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã
làm cho con người có sự đối xử nhân ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ,
với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp con người có thái độ và hành vi ứng lOMoAR cPSD| 59691467
xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép. Xét theo phương diện pháp luật thì lễ
của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội,
ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có
pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới
có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính dưới nhường.
Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm
của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội. Nét đặc sắc
của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân, đặc biệt là chú ý
đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức, quyền). G.S. Vũ Khiêu đã
nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực tế là những người trong bộ
máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai trị được nhân dân. Cho nên đạo
đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân. Theo Nho giáo, đạo đức người
cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng
Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho người dưới.
Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã
tạo nên một lớp người sống có đạo đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có
nhiều tấm gương sáng ngời về đạo đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt.
Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, người làm quan phải có đức, phải lấy nhân
nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa lòng người, để cai trị. Muốn vậy, phải
đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua quan. Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng
nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người cán bộ trong bộ máy nhà nước phải có đức,
đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu, kính phục. Nho giáo coi những người làm
quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề
cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện
được đường lối đức trị, người cầm quyền phải luôn “tu, tề, trị, bình”. Bên cạnh
ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng có một số tác động tiêu cực, cụ thể là: Một số
người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công việc và các mối
quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và vi phạm pháp luật.
Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai trò của đạo đức mà quên
pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức của phương Đông, nhấn
mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của Nho giáo, nhiều người khi có
chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào cơ quan
mình đang quản lý. Sắp xếp và bố trí cán bộ không theo năng lực, trình độ và đòi
hỏi của công việc mà dựa vào sự thân thuộc, gần gũi trong quan hệ tông tộc, dòng
họ. Trong công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng
cục bộ địa phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc mà không dám đấu tranh
với những sai lầm của người khác. Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với
nội dung đền ơn trả nghĩa mà trong thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố
tình lợi dụng kẽ hở của chính sách và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa
quyền….Thậm chí, một số người dùng tư tưởng gia trưởng để giải quyết các công
việc chung. Một trong những phẩm chất của người lãnh đạo là tính quyết đoán.
Nhưng quyết đoán theo kiểu độc đoán, chuyên quyền là biểu hiện của thói gia