



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 59691467
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG TIỂU LUẬN Đề tài:
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa
ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Giảng viên : Tiến sĩ Lương Thị Huyền Trang
Sinh viên : Chung Mạnh Cường
Lớp : Quản trị kinh doanh B khóa 15 Hải Phòng, 2023 lOMoAR cPSD| 59691467 MỤC LỤC
I. Mở đầu .................................................................................................................. 1
II. Nội dung ............................................................................................................... 3
1. Khái niệm ............................................................................................................... 3
1.1. Tăng trưởng kinh tế là gì? ..................................................................................... 3
1.2. Phát triển kinh tế là gì? ......................................................................................... 5
1.3. Phát triển văn hóa là gì? ....................................................................................... 7
1.4. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ............................... 9
1.5. Thời kì đổi mới ở Việt Nam .................................................................................. 11
2. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam trong
thời kì đổi mới ......................................................................................................... 16
2.1. Kết quả, thành tựu việc thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa
ở Việt Nam .................................................................................................................. 16
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế tạo nền tảng vật chất, trở thành động lực cho sự
phát triển văn hóa trong công cuộc đổi mới ................................................... 16
2.1.2. Phát triển văn hóa giữ vai trò nền tảng tinh thần, mục tiêu, động lực,
nhân tố điều tiết cho tăng trưởng kinh tế ....................................................... 23
2.2. Hạn chế trong thực hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn
hóa trong thời kì đổi mới ............................................................................................ 27
2.1.1. Mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam chủ yếu theo chiều rộng, chưa
bền vững, chưa tương xứng với vai trò là cơ sở vật chất, động lực cho phát
triển văn hóa ................................................................................................... 27
2.2.2. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, xuống cấp về đạo đức và bất
cập trong giáo dục trên lĩnh vực văn hóa kìm hãm tăng trưởng kinh tế ........ 31
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế và kiến nghị .................................................... 37
2.3.1 Nguyên nhân hạn chế ............................................................................ 37
2.3.2. Kiến nghị .............................................................................................. 44
III. Kết luận ............................................................................................................ 46
IV. Danh mục tham khảo ...................................................................................... 48 I. Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài
Xuất phát từ định hướng khi học môn triết học của TS. Lương Thị Huyền Trang
cùng với mong muốn nâng cao kiến thức của bạn thân, tôi quyết định chọn vấn đề: lOMoAR cPSD| 59691467
“ Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa
ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới “ làm đề tài tiểu luận. 2. Nội dung triển khai • Khái niệm
• Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam lOMoAR cPSD| 59691467 II. Nội dung 1. Khái niệm
1.1. Tăng trưởng kinh tế là gì?
Tăng trưởng kinh tế là vấn đề quan tâm hàng đầu của các quốc gia, đó là một
trong những thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn phát triển của một
đất nước. Việc nghiên cứu tăng trưởng kinh tế ngày càng có hệ thống và hoàn thiện
hơn. Các nhà khoa học đều cho rằng, tăng trưởng kinh tế trước hết là một vấn đề
kinh tế, song nó mang tính chất chính trị, xã hội sâu sắc.
Từ thế kỉ XVIII, rất nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra lý thuyết cổ
điển về tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, tăng trưởng kinh tế được hiểu theo một số quan điểm sau:
Theo cách định nghĩa của Ngân hàng Thế giới (WB) trong “Báo cáo về phát triển
thế giới năm 1991” thì tăng trưởng kinh tế là chỉ sự gia tăng về lượng của những đại
lượng chính đặc trưng cho một trạng thái kinh tế, trước hết là tổng sản phẩm trung
xã hội, có tính đến mối liên quan với dân số. Trong tác phẩm Kinh tế học của các
nước đang phát triển, nhà kinh tế học E. Wayne Nafziger cho rằng, tăng trưởng kinh
tế là sự gia tăng về sản lượng hoặc sự tăng lên về thu nhập bình quân đầu người của một nước.
Nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế, tác giả Nguyễn Phú Trọng cho rằng: Tăng
trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô
sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Các chỉ tiêu để đo tăng trưởng
kinh tế thường được sử dụng là mức tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản
phẩm quốc dân (GNP), GDP và GNP bình quân đầu người cùng một số chỉ tiêu kinh
tế tổng hợp khác. Ở một tài liệu khác, khái niệm tăng trưởng kinh tế được hiểu như
sau: Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm phản ánh quy mô tăng lên hay giảm đi
của nền kinh tế ở năm này so với năm trước đó hay ở thời kỳ này so với thời kỳ trước
đó. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GDP bình quân đầu người trong
một thời gian nhất định, sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Sự gia tăng này thể lOMoAR cPSD| 59691467
hiện sự thay đổi cả về quy mô và tốc độ, quy mô thể hiện sự tăng nhiều hay ít còn
tốc độ thể hiện sự tăng nhanh hay chậm”.
Như vậy, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tăng trưởng kinh tế được đưa ra,
song có thể hiểu một cách ngắn gọn: Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô
sản lượng nền kinh tế, gia tăng thu nhập của người dân trong một thời gian nhất định
của một quốc gia, một vùng hay một ngành kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là một mặt của phát triển kinh tế. Có hai mô hình tăng trưởng kinh tế, đó là:
Tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng là sự gia tăng các nhân tố về lượng của sự
tăng truởng kinh tế. Nó được biểu thị trong sự tăng trưởng về số lượng của nguồn tài
nguyên, như sự gia tăng diện tích trồng trọt, gia tăng số lượng công nhân và thiết bị
máy móc… Tương ứng với sự tăng trưởng này là nhân tố đặc trưng, bao gồm việc
nâng cao trình độ nền sản xuất bằng việc tăng số lượng nhân công, đất đai và tài chính.
Tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu là sự hiện diện các nhân tố về chất, được thể
hiện trong chất lượng quản lý, lưu thông, áp dụng công nghệ, các phát minh, bí quyết
sử dụng công nghệ, lựa chọn thiết bị cho việc chiếm lĩnh ưu thế cạnh tranh, cho việc
hiện đại hóa nền sản xuất thông qua chất lượng của nguồn lực con người. Nhân tố
tác động của loại tăng trưởng kinh tế này là sự hiện đại hóa tối đa quy mô nền sản xuất không đổi.
Nội dung của tăng trưởng kinh tế được thể hiện qua các tiêu chí, thước đo để
đánh giá tăng trưởng kinh tế như: tổng giá trị sản xuất (GO), tổng thu nhập quốc dân
(GNI), thu nhập quốc dân (NI), thu nhập quốc dân sử dụng (NDI). Các nhân tố ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế bao gồm:
Vốn: Là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế.
Lao động: Là yếu tố quan trọng nhất và có tính chất quyết định trong lực lượng sản xuất. lOMoAR cPSD| 59691467
Tài nguyên thiên nhiên: Là yếu tố thuộc về đối tượng lao động như tài nguyên
đất đai, không khí, rừng, biển… có thể chia làm tài nguyên vô hạn không thể thay
thế, tài nguyên có thể tái tạo, tài nguyên không thể tái tạo.
Khoa học và công nghệ: là nguồn lực quan trọng, được coi là “lực lượng sản xuất
trực tiếp” để tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Ngoài các yếu tố trên, tăng trưởng kinh tế còn chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố
gián tiếp như: Đặc điểm văn hóa xã hội, nhân tố thể chế chính trị - kinh tế - xã hội,
cơ cấu dân tộc, cơ cấu tôn giáo. Cùng với đó là vai trò của nhà nước đối với tăng
trưởng kinh tế. Nhà nước và khuôn khổ pháp lý không chỉ là yếu tố đầu vào mà còn
là yếu tố của cả đầu ra trong quá trình sản xuất. Cơ chế, chính sách của nhà nước
đúng có thể huy động vốn tạo nguồn lực cho tăng trưởng. Ngược lại, cơ chế, chính
sách sai, điều hành kém sẽ gây tổn tại cho nền kinh tế, kìm hãm tăng trưởng cả về
mặt số lượng và chất lượng. Như vậy, có thể nhận thấy tăng trưởng kinh tế còn phụ
thuộc nhiều vào năng lực của bộ máy nhà nước, trước hết là trong việc thực hiện vai
trò quản lý của nhà nước
1.2. Phát triển kinh tế là gì?
Phát triển kinh tế là thuật ngữ để chỉ quá trình chuyển đổi kinh tế, có liên quan
tới việc chuyển biến cơ cấu nền kinh tế nhờ quá trình công nghiệp hóa. Mục đích
làm tăng thu nhập đầu người và tổng sản phẩm trong nước. Theo đó, các yếu tố gây
ảnh hưởng tới phát triển kinh tế gồm:
Lực lượng sản xuất: Chất lượng và số lượng của yếu tố đầu vào quyết định tới
chất lượng, số lượng của dịch vụ và hàng hóa. Từ đó ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.
Ngoài các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thì yếu tố khoa học công
nghệ và con người giữ một vai trò vô cùng quan trọng.
Công nghệ tiên tiến được ứng dụng phù hợp vào yếu tố đầu vào, khiến năng suất
lao động tăng và tạo ra hàng hóa chất lượng cao. Thế nhưng để sáng tạo và sử dụng
công nghệ mới thì con người vẫn là nhân tố quyết định. lOMoAR cPSD| 59691467
Quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất sẽ tác động tới phát triển kinh tế theo hai hướng:
Thúc đẩy phát triển kinh tế khi tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất phù hợp với quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế nếu không phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất sẽ phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nếu:
Chế độ và hình thức sở hữu tư liệu sản xuất phù hợp.
Hình thức tổ chức kinh tế hiệu quả, năng động.
Hình thức phân phối thu nhập hợp lý, công bằng, kích thích sự sáng tạo của người lao động…
Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng có nhiều tác động đối với sự phát triển kinh tế. Trong đó:
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng sẽ gây nên mức độ tác động không giống
nhau đối với phát triển kinh tế.
Kiến trúc thượng tầng tác động tới phát triển kinh tế theo hai hướng, đó là:
Thúc đẩy phát triển kinh tế nếu nó phù hợp.
Kìm hãm phát triển kinh tế nếu nó không phù hợp với yêu cầu khách quan và cơ sở hạ tầng.
Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cụ
thể: Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần có để phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh
tế cao và dài hạn sẽ làm tăng năng lực nội định của nền kinh tế. ên cạnh đó, tăng
trưởng kinh tế còn làm tăng thu ngân sách qua lệ phí, phí và thuế. Phát triển kinh tế
tác động đến tăng trưởng kinh tế qua việc tạo cơ sở kinh tế xã hội vững chắc nhằm
đạt kết quả tăng trưởng kinh tế trong tương lai và muốn phát triển kinh tế bền vững,
trước đó cần thực hiện nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế. lOMoAR cPSD| 59691467
1.3. Phát triển văn hóa là gì?
Văn hóa một thuật ngữ xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử ngôn ngữ. Hồ Chí
Minh đã nhận thức về văn hóa từ rất sớm trên con đường hoạt động cách mạng.
Người nêu lên quan niệm về văn hóa như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra những ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt
hằng ngày về ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng
với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội do con
người sáng tạo ra và tích lũy trong quá trình lao động và hoạt động thực tiễn nhằm
đáp ứng nhu cầu và phục vụ cuộc sống của con người, hướng đến mục đích phát
triển bản thân con người và xã hội theo hệ chuẩn giá trị Chân – Thiện – Mỹ trong
điều kiện kinh tế - xã hội xác định. Văn hóa là một trong những tiêu chí để đánh giá
sự phát triển của xã hội.
Phát triển văn hóa, theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, là một nền văn hóa thấm sâu
phẩm chất nhân văn, dân chủ, mà trước hết là sự trân trọng và yêu thương con người,
góp phần cho sự phát triển toàn diện của con người, đặc biệt là bồi dưỡng và nâng
cao đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm phong phú, cao đẹp của con người. Đây
chính là sức mạnh, chức năng chủ yếu của phát triển văn hóa. Trong công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước, cùng với sự đổi mới trong tư duy kinh tế, chính trị, Đảng ta
đã có những đổi mới quan trọng các nghị quyết như: Nghị quyết số 05-NQ/TW của
Bộ Chính trị khóa VI (1987); Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VII (1993); Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 5 khóa VIII được
xem như bản đề cương văn hóa Việt Nam thứ hai trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta; Văn kiện Hội nghị Trung ương 9 khóa XI.
Qua các văn kiện, có thể thấy những quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng là: Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, văn hóa là sức
mạnh nội sinh thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội; nền văn hóa mà chúng ta xây
dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nền văn hóa Việt Nam là nền lOMoAR cPSD| 59691467
văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; xây dựng và
phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí
thức giữ vai trò quan trọng; văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa
là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì,
thận trọng. Điều đó thể hiện tầm nhìn khái quát và sâu rộng của Đảng về sự phát
triển bền vững của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đảng đã
xác lập vị trí của văn hóa là một trong ba bộ phận hợp thành sự phát triển bền vững
và toàn diện của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển văn hóa cần
gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then
chốt là điều kiện để Việt Nam tiến vững chắc trên con đường chủ nghĩa xã hội.
Về vấn đề phát triển văn hóa, tác giả Nguyễn Phú Trọng cho rằng: Phát triển văn
hóa là khái niệm dùng để chỉ sự thay đổi về đời sống văn hóa bao gồm văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần của xã hội, đặc biệt là tư tưởng, đạo đức, nếp sống, lối
sống, văn học, nghệ thuật, thông tin đại chúng, giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ... theo chiều hướng tiến bộ và nhân văn nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần
ngày càng cao của xã hội. Có thể khẳng định phát triển văn hóa là quá trình vận động
theo chiều hướng đi lên của các giá trị nền tảng tinh thần của xã hội do con người
sáng tạo ra nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của con người và xã hội, hoàn thiện, nâng
cao xác lập các giá trị Chân - Thiện - Mỹ, hướng tới phát triển toàn diện con người.
Phát triển văn hóa bao gồm các khía cạnh sau: Phát triển con người là trung tâm
và là chủ thể của chiến lược phát triển văn hóa; Phát triển và xây dựng môi trường
văn hóa; Phát triển giáo dục – đào tạo cần được quan tâm trong chiến lược phát triển văn hóa.
Có thể khẳng định, phát triển văn hóa được đánh giá dựa trên tiêu chí là các giá
trị và chuẩn mực của xã hội nhằm phát triển toàn diện con người về thể lực, trí lực,
phẩm chất, nhân cách..., xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phát triển giáo
dục đào tạo, hoàn thiện các mối quan hệ xã hội hướng tới những tiêu chuẩn chung
về Chân - Thiện - Mỹ. Phát triển văn hóa là yêu cầu và là quy luật khách quan trong
lịch sử phát triển nhân loại nói chung và mỗi quốc gia dân tộc nói riêng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển văn hóa, đó là: lOMoAR cPSD| 59691467
Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của văn hóa và là mục đích hướng tới
cuối cùng của sự phát triển văn hóa. Hoạt động văn hóa là hoạt động của con người,
mọi hiện tượng và quan hệ văn hóa đều do chính con người tạo ra và phát triển văn
hóa thực chất là phát triển con người.
Lao động, hoạt động và phương thức tổ chức đời sống xã hội, thể chế, chính sách
phát triển kinh tế xã hội là môi trường và phương thức tạo thành văn hóa, là con
đường để hình thành nhân cách trong con người.
Điều kiện địa lý tự nhiên, môi trường sống và hoạt động, các quan hệ dân cư,
dân tộc, tôn giáo trong vùng lãnh thổ.
Tăng trưởng kinh tế là một nhân tố có vai trò to lớn trong sự phát triển văn hóa.
Một số yếu tố của văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội thuộc kiến
trúc thượng tầng thì kinh tế là bộ phận hợp thành cơ sở hạ tầng.
Các giá trị văn hóa truyền thống như đạo đức, phong tục, tập quán, lối sống ảnh
hưởng tới sự phát triển văn hóa. Một nền văn hóa bao giờ cũng được kế thừa các giá
trị truyền thống trong sự phát triển của cộng đồng.
Sự hợp tác, giao lưu văn hóa quốc tế tạo ra sự ảnh hưởng từ bên ngoài của các
nền văn hóa khác nhau tới sự phát triển văn hóa của dân tộc. Sự hợp tác giao lưu văn
hóa quốc tế là một yếu tố có vị trí quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển
văn hóa, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hiện nay.
Sự phát triển của khoa học, công nghệ, thông tin đã tạo ra những bước tiến mới
trong sự phát triển văn minh loài người và ảnh hưởng mạnh mẽ tới mọi lĩnh vực của
xã hội, trong đó có sự tác động tới phát triển văn hóa.
1.4. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa đã được các nhà khoa
học đề cập tới trong rất nhiều công trình nghiên cứu. Trong đó, tác giả Hà Đăng cho
rằng: “Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa đều có cùng mục đích phục vụ con
người và vì sự phát triển của con người. Mối quan hệ giữa hai lĩnh vực đó là mối
quan hệ tương tác hữu cơ. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề và điều kiện hàng đầu để
phát triển văn hóa, phát triển văn hóa lại là mục tiêu, động lực, tạo điều kiện cho lOMoAR cPSD| 59691467
kinh tế các nước phát triển nhanh, và những thay đổi trong phát triển kinh tế có tác
dụng lớn đến văn hóa. Mặt khác, những thay đổi trong văn hóa theo chiều hướng
tích cực hay tiêu cực, đều có tác động ngược lại đến nhịp độ tăng trưởng và phát
triển kinh tế”. Tác giả Hà Minh Đức đưa ra quan niệm rằng: “Mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là vấn đề lớn, quốc sách đặt ra cho các thời đại,
các dân tộc. Có những mặt thuận chiều, nhưng cũng có những mặt đối nghịch vì phát
triển kinh tế không phải bao giờ cũng nhằm vào mục đích xây dựng văn hóa và phát
triển văn hóa không thể và không dễ thực hiện được trên nền tảng kinh tế nghèo nàn,
kiệt quệ”. Trần Luân Kim nhận xét: “Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa tồn
tại trong mối quan hệ cộng sinh biện chứng và khách quan. Điều đó được khẳng định
trong lý thuyết cũng như hiện thực đời sống, rằng trong kinh tế luôn có văn hóa và
trong văn hóa luôn có kinh tế. Trong khi tăng trưởng kinh tế là trung tâm thì phát
triển văn hóa phải là nhiệm vụ hàng đầu. Sự tiến triển, nảy nở hài hòa, đồng bộ giữa
tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là điều kiện tiên quyết cơ bản đảm bảo cơ
chế phát triển toàn diện - tiền đề của phát triển bền vững, cũng là tiền đề tạo sinh văn
minh vật chất và văn minh tinh thần”.
Tổng hợp từ các quan điểm trên, có thể hiểu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và phát triển văn hóa là mối quan hệ nội tại, tất yếu mang tính quy định, ràng buộc,
tác động dẫn tới biến đổi lẫn nhau giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa.
Trong sự tương tác ấy có các yếu tố văn hóa trong kinh tế và các yếu tố kinh tế trong
văn hóa tạo nên sự hài hòa, đồng bộ, làm tiền đề cho sự phát triển toàn diện, bền vững đất nước.
Ở Việt Nam, thời gian gần đây, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa được chú trọng, quan tâm nghiên cứu và thực hiện. Chủ thể của tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa đều là con người và có mục tiêu vì con người.
Chủ thể nhận thức và giải quyết mối quan hệ này ở nước ta là Đảng Cộng sản Việt
Nam với vai trò đề ra chủ trương, đường lối, chính sách phát triển; Nhà nước Việt
Nam với vai trò lãnh đạo, quản lý, điều hành; là toàn bộ nhân dân Việt Nam trong
việc thực hiện mối hệ này, cụ thể là các chủ thể doanh nghiệp và chủ thể văn hóa
dưới góc độ từng cá nhân, tổ chức xã hội hay cả một cộng đồng. lOMoAR cPSD| 59691467
Việc thực hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt
Nam trong thời kì đổi mới chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan. Trong đó, các yếu tố khách quan bao gồm: Môi trường tự nhiên; Xu thế toàn
cầu hóa; Các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước; Sự phát triển
của cách mạng khoa học – công nghệ trên thế giới. Các yếu tố chủ quan bao gồm:
Tâm lý dân tộc; Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước và vai
trò của toàn dân trong quá trình thực hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa; Các hình thức, phương thức tổ chức đời sống xã hội từ gia đình,
nhóm, tập thể, cộng đồng, đoàn thể xã hội cho tới các tổ chức thiết chế xã hội, chính
trị, văn hóa như: nhà nước, đảng phái…
1.5. Thời kì đổi mới ở Việt Nam
Quá trình đổi mới ở Việt Nam đã diễn ra 35 năm, tính từ khi Đảng khởi xướng
đường lối đổi mới tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) cho đến nay. Đại
hội VI của Đảng là một sự kiện trọng đại trong đời sống chính trị của toàn Đảng,
toàn dân ta. Có thể khẳng định, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là một bước ngoặt,
đánh dấu sự đổi mới toàn diện của Đảng, từ đổi mới kinh tế là chủ yếu đến đổi mới
chính trị, văn hóa, xã hội; từ đổi mới tư duy, nhận thức, tư tưởng đến đổi mới hoạt
động thực tiễn... Công cuộc đổi mới ở nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế có
những biến đổi to lớn, sâu sắc và rất phức tạp, chịu ảnh hưởng, tác động của các yếu tố sau:
Thứ nhất, sự khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu là biến cố lớn làm thay đổi hẳn cục diện chính trị thế giới. Từ năm 1989
đến năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô lần lượt sụp
đổ, tạo nên chấn động chính trị lớn trong phong trào cách mạng thế giới. Chủ nghĩa
xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, tương quan lực lượng và trật tự quốc tế thay đổi
theo hướng bất lợi cho cách mạng. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống lại các thế
lực thù địch bảo vệ Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội càng thêm gay go, phức tạp. Trong
các nước tư bản phát triển, bất bình đẳng ngày càng gia tăng, phân hóa giàu nghèo
ngày càng sâu sắc làm cho các mâu thuẫn vốn có trong chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh và mạnh hơn. lOMoAR cPSD| 59691467
Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, kỳ diệu, tác
động sâu sắc đến tất cả các lĩnh vực của các quốc gia và quan hệ quốc tế. Cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ có bước nhảy vọt về cả tính chất, trình độ, cơ cấu. Cuộc
cách mạng này đã làm biến đổi sâu sắc cơ cấu xã hội, tính chất và cơ cấu giai cấp,
buộc các quốc gia phải thay đổi cách quản lý kinh tế - xã hội. Đồng thời, cuộc cách
mạng này cũng đặt ra nhiều thách thức lớn, phải đối phó với nguy cơ phụ thuộc vào
bên ngoài, các nước lớn và nguy cơ tụt hậu về khoa học - công nghệ, vốn đầu tư đều
do các nước phát triển chi phối.
Ba là, tác động của toàn cầu hóa và khu vực hóa. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu
thế khách quan vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, tác động ngày càng mạnh
mẽ đến tất cả các quốc gia và quan hệ quốc tế. Toàn cầu hóa vừa là kết quả của sự
phát triển lực lượng sản xuất, vừa tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, có tác dụng nhất định trong việc thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác, đưa lại cho
các quốc gia đang phát triển cơ hội tranh thủ nguồn vốn, khoa học - công nghệ tiên
tiến từ các nước phát triển, mở rộng thị trường để công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Và
cũng chính toàn cầu hóa đẩy nhanh sự phân hóa giàu nghèo, đẩy nhanh sự phát triển
các mâu thuẫn của thời đại, mở rộng cơ sở của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc,
tạo tiền đề cho chủ nghĩa xã hội.
Cùng với bối cảnh quốc tế, công cuộc đổi mới ở Việt Nam diễn ra trong điểu
kiện tình hình đất nước có những thuận lợi căn bản đi đôi với các thử thách và khó khăn không nhỏ.
Sau khi giành được thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến trường kì của dân
tộc, thế và lực của cách mạng Việt Nam ngày càng lớn mạnh. Đại hội lần thứ VI của
Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự
nghiệp đổi mới tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là một cuộc cách
mạng sâu sắc, tiến hành đồng thời trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội
văn hóa của đất nước. Trên lĩnh vực kinh tế, nước ta tiến hành chuyển từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. lOMoAR cPSD| 59691467
Thực tế phát triển của đất nước 35 năm qua đã chứng minh việc chuyển từ cơ
chế tập trung bao cấp để chuyển sang cơ chế thị trường là sự lựa chọn mang tính lịch
sử, là con đường hợp quy luật trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam Kinh tế
thị trường không phải là sản phẩm của riêng chủ nghĩa tư bản. Nó có một quá trình
hình thành và phát triển lâu dài. Đó là thành tựu của văn minh nhân loại và đang phát
triển cao trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Việt Nam đã tiếp thu và vận dụng xây dựng
kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là chủ trương đúng đắn của
Đảng nhằm hạn chế những mặt trái của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, phát huy
ngày càng tốt hơn, đầy đủ hơn mục tiêu và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, hướng
phát triển đất nước theo con đường chủ nghĩa xã hội, nâng cao tiềm lực và vị thế của
Việt Nam trong thời đại mới.
Trên lĩnh vực văn hóa, từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, do các quy luật thị trường
đã trở nên sôi động, thông tin nhanh hơn, giao thông vận tải tấp nập hơn, quá trình
đô thị hóa nhanh hơn đã dẫn tới những biến đổi lớn lao trong sự phát triển văn hóa
của đất nước. Sự chuyển đổi từ nền văn hóa cũ nền văn hóa mới không đơn thuần là
sự chuyển đổi về khoa học, công nghệ, kỹ thuật mà là sự chuyển đổi sâu sắc mọi
quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa người với người, sự phát triển trình độ
người với tất cả những biến dạng có thể xảy ra trong quá trình chuyển đổi. Sự chuyển
đổi này tất yếu làm xuất hiện những giá trị văn hóa mới của xã hội, nhân cách mới của con người.
Trong 35 năm đổi mới, đất nước ta xây dựng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên các chuẩn mực của nền văn hóa này chưa được
phát triển đồng bộ. Kinh tế thị trường nước ta chưa hoàn thiện, mất cân đối dẫn đến
những biểu hiện phản văn hóa trong sự phát triển kinh tế và hạn chế sự phát triển
kinh tế như: làm hàng giả, cạnh tranh không lành mạnh, phi pháp, hối lộ, ăn cắp, trốn
thuế, khai thác kiệt quệ tài nguyên, phá hoại môi trường,... là những hành vi phản
văn hóa, làm cản trở phát triển kinh tế. Đồng thời, trên thực tế, trong hơn ba thập kỉ
đổi mới vừa qua, văn hóa Việt Nam vẫn chưa phát triển toàn diện, chưa gắn bó chặt
chẽ với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế với thị trường tự do trên lOMoAR cPSD| 59691467
thế giới đang diễn ra tấp nập, song cơ chế định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay
chưa đủ mạnh để khắc phục những tiêu cực, rủi ro, những khủng hoảng do cơ chế
thị trường đem lại. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng phá hoại thuần
phong mỹ tục, sản sinh ra các tệ nạn xã hội.
Có thể nhận thấy, một thực tế khắc nghiệt diễn ra cùng với sự tăng trưởng kinh
tế là sự suy thoái về đời sống tinh thần, đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối
sống. Đó là chưa kể đến những bất cập đang diễn ra trên các lĩnh vực kinh tế và xã
hội: sự tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, môi trường bị ô nhiễm, chênh lệch giàu
nghèo, tội phạm xã hội có chiều hướng gia tăng, an sinh xã hội chưa đảm bảo.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam trong
bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là hai lĩnh vực cơ bản, quan trọng
không tách rời nhau của một xã hội phát triển bền vững, trong kinh tế có văn hóa và
ngược lại, trong văn hóa có kinh tế. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa là mối quan hệ nội tại, mang tính bản chất, phải được giải quyết một
cách đúng đắn, hài hòa sao cho tăng trưởng kinh tế thật sự là tiền đề và điều kiện để
phát triển văn hóa, phát triển văn hóa thực sự là mục tiêu và động lực của tăng trưởng
kinh tế. Sự phát triển hài hòa, đồng bộ giữa kinh tế với văn hóa là điều kiện tiên
quyết đảm bảo cho sự phát triển xã hội toàn diện, bền vững trên cả hai nền tảng vật
chất và tinh thần của xã hội.
Tăng trưởng kinh tế là nền tảng vật chất, động lực có vai trò quyết định và mạnh
mẽ tới sự phát triển văn hóa. Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế giữ vai trò là cơ sở, điều
kiện vật chất cho phát triển văn hóa. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế tạo ra nền sản xuất
phát triển, đẩy mạnh quá trình giao lưu, hợp tác, hội nhập khu vực, quốc tế tạo môi
trường và là điều kiện để giao lưu, tiếp biến và phát triển văn hóa. Thứ ba, tăng
trưởng kinh tế là tiền đề hình thành những giá trị mới trong quá trình định hướng và phát triển văn hóa.
Phát triển văn hóa giữ vai trò nền tảng tinh thần, mục tiêu, động lực, sức mạnh
nội sinh và là nhân tố điều tiết cho tăng trưởng kinh tế. Trong mối quan hệ biện
chứng giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, xét đến cùng tăng trưởng kinh lOMoAR cPSD| 59691467
tế có vai trò quyết định đối với phát triển văn hóa; Nhưng văn hóa luôn có tính độc
lập tương đối, có sự phát triển kế thừa và có tác động trở lại đến tăng trưởng kinh tế.
Điều đó được thể hiện như sau:
Thứ nhất, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần cho tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, phát triển văn hóa là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế luôn phải hướng tới mục tiêu nhằm phát triển văn hóa. Tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa gặp nhau ở đích đến cuối cùng là phục vụ cuộc
sống con người, thỏa mãn nhu cầu phát triển con người: từ nhu cấu tồn tại người đến
nhu cầu phát triển nhân tính, hoàn thiện nhân cách, từ cá thể người đến cộng đồng
người và toàn nhân loại. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội... Xây dựng và phát triển kinh
tế phải nhằm văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện.
Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế, các
nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi
phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương... biến thành nguồn lực
nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
Thứ ba, phát triển văn hóa là động lực và trở thành nhân tố tham gia trực tiếp
vào tăng trưởng kinh tế.
Phát triển văn hóa là phát triển chính con người, phát triển nguồn năng lực trong
con người. Đó là sức mạnh nội sinh, nguồn lực vô tận cho sự phát triển kinh tế, xã
hội. Trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế không chỉ là tài
nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật mà yếu tố quyết định là nguồn lực con người với
sức sáng tạo và khả năng hoạt động vô tận.
Thứ tư, phát triển văn hóa là nhân tố điều tiết trong tăng trưởng kinh tế. Phát
triển văn hóa có chức năng xã hội, là nhân tố điều chỉnh, hướng dẫn hành vi, lối sống
của con người, liên kết cá nhân với cộng đồng, định hướng, điều tiết tăng trưởng
kinh tế và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Phát triển văn hóa đảm bảo tăng trưởng kinh tế
phải hướng vào các mục đích nhân văn và nhân đạo, đảm bảo tăng trưởng kinh tế
không trở thành nguyên nhân của việc chống lại lợi ích của cộng đồng, của con lOMoAR cPSD| 59691467
người, không để xảy ra tình trạng tăng trưởng kinh tế trở thành nghịch lý phản phát triển.
Tóm lại, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986, từng bước chuyển từ
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đi đôi với xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Ở đó, tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa không tách rời nhau, trong kinh
tế có văn hóa và trong văn hóa có kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là nền tảng vật chất,
là động lực có vai trò quyết định và mạnh mẽ tới sự phát triển văn hóa. Văn hóa, với
tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội trở thành mục tiêu, động lực và điều tiết đối
với tăng trưởng kinh tế. Thực hiện tốt mối quan hệ này là điều kiện tiên quyết để
Việt Nam vững bước trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa đã chọn.
2. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam
trong thời kì đổi mới
2.1. Kết quả, thành tựu việc thực hiện gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa ở Việt Nam
2.1.1. Tăng trưởng kinh tế tạo nền tảng vật chất, trở thành động lực cho sự phát
triển văn hóa trong công cuộc đổi mới
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với phát triển văn hóa và giải quyết các vấn
đề xã hội. Yêu cầu kết hợp tốt các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu văn hóa, xã
hội trong phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo phát triển một cách cân đối và
đồng đều đáp ứng nhu cầu phát triển ổn định, toàn diện và lâu dài đất nước. Thực
hiện mục tiêu của công cuộc đổi mới, nền kinh tế vốn khủng hoảng của Việt Nam
đã được khôi phục, sự ổn định kinh tế vĩ mô được tái lập và duy trì. Đến nay, Việt
Nam đã thoát khỏi tình trạng kinh tế kém phát triển, gia nhập vào nhóm các nước
đang phát triển trên thế giới, bắt đầu bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong sự phát triển đó, tăng trưởng kinh tế tạo ra cơ sở
vật chất, là điều kiện cơ bản đầu tiên, là động lực để phát triển văn hóa và xã hội,
thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh
thần của nhân dân. Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam thời gian qua đã thúc đẩy văn
hóa phát triển về một số mặt như sau: lOMoAR cPSD| 59691467
Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện để xây dựng nhân cách con người Việt Nam về
tư tưởng, đạo đức, lối sống. Với chủ trương tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Đảng ta đã khẳng định, phát triển con người toàn diện vừa là mục tiêu cơ
bản, vừa là động lực chủ yếu của cách mạng nước ta. Muốn chăm lo tốt cho đời sống
con người thì phải thúc đẩy sản xuất phát triển, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Kinh
tế là điều kiện đầu tiên và là nền tảng vật chất cho sự phát triển con người nói chung.
Trong những thập kỷ qua, Việt Nam đã có mức tăng trưởng cao, trở thành quốc
gia có thu nhập trung bình vào năm 2010, tạo điều kiện gia tăng đầu tư vào mục tiêu
xã hội, tiếp tục nâng cao chỉ số phát triển con người. Nhưng thực tế cho thấy không
phải quốc gia nào có tăng trưởng cao về kinh tế thì cũng có sự phát triển cao về con
người. Với bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa nhân văn, tiến bộ, Đảng ta luôn gắn
tăng trưởng kinh tế với phát triển con người nói riêng, văn hóa nói chung, thực hiện
dân chủ và công bằng xã hội. Do đó, những thành tựu kinh tế của Việt Nam trong
thời gian qua đã và đang tạo điều kiện tốt để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân. Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành hệ thống chính sách vĩ
mô về phát triển kinh tế - xã hội, tạo hành lang pháp lý cho phát triển con người.
Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong xu hướng phát triển bản
vùng vì mục tiêu phát triển con người. Tăng trưởng kinh tế đã tạo điều kiện thuận
lợi để Việt Nam giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, con người đặt ra trong thực tế.
Xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới mà trọng tâm là vấn đề tư
tưởng, đạo đức, lối sống trong xã hội là một nhiệm vụ quan trọng.
Từ năm 1986 đến nay, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong
việc phát huy vai trò của tăng trưởng kinh tế đối với nhiệm vụ xây dựng con người.
Của cải tích lũy và tiêu dùng được tăng lên, hàng hóa, sản phẩm đa dạng phong phú
đáp ứng được nhu cầu đời sống vật chất và văn hóa ngày một cao của nhân dân, tạo
nên thế và lực phát triển văn hóa và phát triển toàn diện đất nước.
Hiện nay, sau 35 năm đổi mới, Việt Nam là một trong số hơn 40 nước đang phát
triển đạt được những tiến bộ đáng kể về phát triển con người. Theo quan điểm của
UNDP, mục tiêu của sự phát triển không chỉ là phát triển xã hội mà chính là phát
triển con người. Chỉ số HDI của Việt Nam được tăng dần thứ hạng qua các năm và lOMoAR cPSD| 59691467
lọt vào danh sách các nước phát triển con người cao. Mức sống của người dân từng
bước được nâng lên. An sinh xã hội được đảm bảo tốt hơn, kể cả trong tình trạng suy
giảm kinh tế. Không chỉ là thay đổi về thứ tự xếp hạng, thành công về tăng trưởng
kinh tế nhanh của Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với việc tăng trưởng chỉ số phát
triển con người (HDI), trong đó đóng góp chỉ số kinh tế luôn chiếm vị trí quan trọng
so với hai chỉ số y tế và giáo dục. Có thể nói một trong những thành tựu lớn nhất
trong phát triển con người ở Việt Nam là kết quả của chương trình xóa đói giảm
nghèo. Đây là một trong những mục tiêu quan trọng được xác định trong chiến lược
phát triển quốc gia. Chúng ta chỉ có thể xóa đói giảm nghèo khi có tiềm lực về kinh
tế tăng trưởng mạnh. Năm 1992, tỷ lệ hộ nghèo nước ta là 30% dân số. Thập niên
gần đây, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 2%/năm, cuối năm 2020, tỷ lệ hộ
nghèo cả nước chỉ còn 2,75%.
Thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 năm 2014 của Quốc hội về đẩy mạnh
thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, Quốc hội, Chính phủ đã ưu
tiên đầu tư nhiều nguồn lực, giao nguồn lực ổn định cho các địa phương để chủ động
thực hiện, tạo điều kiện hỗ trợ người nghèo nâng cao thu nhập, tiếp cận tốt hơn các
dịch vụ xã hội cơ bản như: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh, thông tin. Đây
là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội trong kinh tế thị trường bền vững,
bảo đảm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đất
nước còn nghèo đói thì không thể có điều kiện tốt để chăm lo phát triển đời sống
tinh thần cho nhân dân. Ngược lại, Việt Nam thoát nghèo, được xếp vào nhóm các
nước đang phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ đảm bảo điều kiện
vật chất tốt hơn cho sự phát triển văn hóa của con người. Về tư tưởng, ở Việt Nam,
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định là nền tảng tư
tưởng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Đó là thế giới quan
khoa học và cách mạng của giai cấp công nhânđấu tranh vì hòa bình, ấm no, tự do,
hạnh phúc cho tất cả nhân dân lao động, hướng tới xây dựng một xã hội công bằng
bình đẳng, dân chủ, tiến bộ. Điều này được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
“Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và
phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội”. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta luôn kiên định con đường xây lOMoAR cPSD| 59691467
dựng chủ nghĩa xã hội, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, trung thành với lý
tưởng của Đảng, tin tưởng và thực hiện theo sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Nền kinh tế tăng trưởng nhanh trong thời gian qua đã đáp ứng không chỉ nhu cầu
vật chất mà còn phát triển đời sống tinh thần của nhân dân. Tăng trưởng kinh tế nâng
cao đời sống của nhân dân, mức sống của người dân được cải thiện. Quá trình đô thị
hóa, hiện đại hóa ngày càng mạnh mẽ thì nhu cầu về văn hóa của nhân dân ngày
càng cao. Điều đó đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân cả nước vào sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước, thêm yêu lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, chấp hành pháp
luật, tham gia tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: “Đa
số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào
công cuộc đổi mới... Tư tưởng tích cực vẫn là xu hướng chủ đạo trong đời sống xã hội”.
Tăng trưởng kinh tế không chỉ củng cố hệ tư tưởng mà còn góp phần xây dựng
đạo đức, lối sống cách mạng, tiến bộ của con người Việt Nam. Đạo đức, lối sống thể
hiện trong quan hệ giữa người với người, là gốc của nhân cách, là tiêu chuẩn hàng
đầu, quan trọng trong phẩm chất của con người. Nó biểu hiện ra thành các chuẩn
mực, cách ứng xử, thói quen, tâm lý, tình cảm, hành vi, thị hiếu của con người. Cùng
với sự đi lên của tăng trưởng kinh tế, trong đạo đức, lối sống của nhân dân có nhiều
biểu hiện tích cực. Ở đó, có sự kế thừa những giá trị truyền thống đạo đức tốt đẹp,
đồng thời có sự tiếp thu có chọn lọc những phẩm chất đạo đức mới, tiến bộ. Con
người và sự tự do, hạnh phúc của con người được coi là mục tiêu của sự phát triển.
Chất lượng cuộc sống của con người luôn được chú ý quan tâm, cải thiện. Những
giá trị truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam được phát huy trong tình hình
mới. Hệ giá trị truyền thống là toàn bộ những giá trị tạo nên cốt cách, bản sắc dân
tộc, là sự biểu hiện của tinh thần, trí tuệ, tư tưởng, đạo đức và tâm hồn của dân tộc,
trở thành tinh hoa của dân tộc, được thử thách, gìn giữ và phát huy trong truyền
thống lịch sử: “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái,
khoan dung trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh
tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”.