Bài tự học chính trị học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác– Lênin về chính trị? Lý luận về tình thế cách mạng và thời cơ cách mạng. Phương thức giành chính quyền và nghệ thuật thoả hiệp. Xây dựng thể chế sau thắng lợi của cách mạng chính trị. Chuyên chính vô sản là hình thức tổ chức quyền lực chính trị quá độ đi tới xã hội không còn giai cấp và nhà nước. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chính Trị Học
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BÀI TỰ HỌC BÀI TỰ HỌC SỐ 1:
Câu 1: Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về chính trị?
A. Điều kiện kinh tế - xã hội châu Âu để ra đời học thuyết chính trị Mác - Lênin.
- Chủ nghĩa Mác- Lênin xuất hiện vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Thời kỳ
này, chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh và trở thành lực lượng kinh tế thống trị
ở các nước Tây Âu. Cuộc cách mạng công nghiệp mà mở đầu là ở nước Anh
cuối thế kỷ XVIII không những đánh dấu bước chuyển hóa từ nền sản xuất thủ
công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa mà
còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước hết là sự hình thành và phát triển
của giai cấp vô sản.Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
làm bộc lộ những mâu thuẫn bên trong vốn có của nó. Đó là mâu thuẫn giữa
tính chất xã hội hóa của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất mà biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và nhà tư bản.
- Vào những năm 30- 40 của thế kỷ XIX, đã có những biến đổi sâu sắc trong
phong trào công nhân. Với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản công nghiệp, đã
xuất hiện nhiều thành phố và trung tâm công nghiệp lớn. Dân các thành thị tăng
rất nhanh. Trong các xí nghiệp lớn, tập trung một đội quân công nhân đông đảo.
Mâu thuẫn giữa lao động và tư bản trở nên gay gắt, làm xuất hiện những cuộc
đấu tranh đầu tiên có tính tự giác của giai cấp công nhân
- Các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản phát triển đã
đặt ra nhu cầu khách quan là phải có vũ khí lý luận sắc bén để phản ánh một
cách khoa học quá trình vận động cách mạng của giai cấp công nhân, chuyển
cuộc đấu tranh mang tính tự phát của giai cấp công nhân sang tính tự giác. Chủ
nghĩa Mác ra đời là sự đáp ứng yêu cầu khách quan đó. - Giai cấp công nhân nói
lên đấu tranh nhưng thất bại
B. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chính trị
1. Bản chất của chính trị, đấu tranh chính trị và cách mạng chính trị.
a. Bản chất của chính trị - Bản chất giai cấp + Tính dân tộc + Tính nhân loại
+ Thể hiện ở nguồn gốc ra đời của chính trị
+ Thể hiện ở mục đích mà chính trị hướng tơi1. Bản chất của chính trị, đấu
tranh chính trị và cách mạng chính trị
- Tính dân tộc của chính trị:
+ Chính trị bao giờ cũng được triển khai, hoạch định trên quy mô quốc gia.
+ Khi thực hiện các vấn đề chính trị quốc tế, giai cấp cầm quyền nhân danh đại diện cho dân tộc.
+ Đấu tranh giai cấp trong giai đoạn đầu không thể không mang danh đấu tranh dân tộc.
+ Đấu tranh giải phóng dân tộc, chống kỳ thị dân tộc… luôn là nội dung
quan trọng của chính trị
- Tính chất nhân loại của chính trị:
+ Vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc gắn liền với vấn đề nhân loại. Giải quyết
vấn đề nhân loại trên cơ sở quan điểm giai cấp.
+ Việc giải phóng giai cấp, dân tộc, xã hội là những vấn đề quan hệ mật
thiết với nhau của nền chuyên chính vô sản, là xu hướng phát triển của chính trị nhân loại b) Đấu tranh chính trị
- Đấu tranh chính trị là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp
- Đấu tranh giai cấp là hiện tượng tất yếu của lịch sử, gồm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: Đấu tranh kinh tế.
+ Giai đoạn 2: Đấu tranh tư tưởng, lý luận.
+ Giai đoạn 3: Đấu tranh chính trị.
Giai đoạn 1: Đấu tranh kinh tế
- Trình độ thấp nhất của đấu tranh giai cấp, là khởi đầu, nhưng rất quan trọng vì
nó là cơ sở tồn tại thực tiễn để thông qua đó giai cấp công nhân giác ngộ về vai
trò sứ mệnh lịch sử của mình.
- Nguy cơ: Chủ nghĩa kinh tế thuần tuý, sa vào chủ nghĩa công đoàn, xuất hiện
phong trào “công đoàn vàng” và tầng lớp “ công nhân quý tộc”.
VD: Cuộc bãi công của công nhân Pêtơrôgrát ngày 18.2.1917.
Giai đoạn 2: Đấu tranh tư tưởng, lý luận
- Trước hết, là sự trang bị hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin cho giai cấp công nhân.
- Nội dung đấu tranh tư tưởng lý luận chống:
+ Lý luận phản động của giai cấp tư sản.
+ Những trào lưu tư tưởng cơ hội chủ nghĩa để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin.
Giai đoạn 3: Đấu tranh chính trị
- Là hình thức đấu tranh cao nhất, điển hình nhất của đấu tranh giai cấp
- Nhiệm vụ: thủ tiêu bộ máy nhà nước cũ, thiết lập bộ máy nhà nước mới, nền chuyên chính vô sản
- Mục tiêu của đấu tranh giai cấp: tiến lên cách mạng xã hội, thực chất giải
quyết mâu thuẫn: LLSX >< QHSX, GC tiên tiến >< GC lỗi thời
- Điều kiện đạt tới đấu tranh chính trị:
+ Giai cấp vô sản phải có lý luận, có đội tiên phong của giai cấp mình - Đảng cộng sản.
+ Giai cấp vô sản phải trở thành lực lượng chính trị độc lập và đối lập một
cách trực tiếp với giai cấp tư sản. +
Đảng phải chuẩn bị cơ sở xã hội và thâm nhập vào cơ sở xã hội đó, phong trào đấu tranh đó. +
Vấn đề chính quyền được đặt ra một cách trực tiếp.Công nhân dựng
chiến luỹ khởi nghĩa vũ trang ở Pêtơrôgrát
Quan hệ giữa ba hình thức
+ Các hình thức đấu tranh có quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng và bổ sung cho nhau.
+ Đấu tranh kinh tế, tư tưởng sẽ phục vụ cho đấu tranh chính trị → quyết
định thắng lợi cuối cùng của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản. c) Cách mạng chính trị:
- CMCT Là sự nhảy vọt về chất, là phương thức chuyển từ xã hội này sang xã
hội khác cao hơn, xoá bỏ chính quyền này, xác lập chính quyền khác
- Thực chất CMCT Là cuộc cách mạng thay đổi thể chế chính trị.
- Ngày 14/7/1789 quần chúng nhân dân tấn công chiếm ngục Ba Xti, Cách mạng Tháng 10.
2. Lý luận về tình thế cách mạng và thời cơ cách mạng a. Tình thế cách mạng
- Khái niệm: là trạng thái xã hội đặc biệt bất thường làm cho CM nổ ra
- Nhân tố làm xuất hiện tình thế cách mạng: + Lực lượng sản xuất + Khủng hoảng xã hội
- Lênin đưa ra 3 dấu hiệu của tình thế cách mạng:
+ Giai cấp thống trị không thể thống trị như cũ, chính trị rơi vào khủng hoảng;
+ Quần chúng bị áp bức rơi vào tình trạng bần cùng, buộc phải đi đến một
hành động có tính lịch sử; +
Tầng lớp trung gian đã sẵn sàng ngả về phía quần chúng cách mạng,
đứng về phía lực lượng tiên tiến cách mạng b. Thời cơ cách mạng
- Là bước phát triển logic tiếp theo của tình thế cách mạng làm cho cách mạng có
bước ngoặt quyết định thông qua việc phát hiện tình thế và nhận thức. - Đặc điểm:
+ 3 dấu hiệu pt đến đỉnh điểm
+ Thời cơ CM gắn với các sự kiện, các tình huống trực tiếp có khả năng
đẩy cách mạng đến bước ngoặt quyết định..
+ Thời cơ CM gắn với thời điểm cụ thể: với không gian và thời gian chính trị, điều kiện chính trị.
+ Thời cơ xuất hiện rất nhanh và trôi đi cũng rất nhanh
3.Phương thức giành chính quyền và nghệ thuật thoả hiệp
a, Phương thức giành chính quyền:
- Phương thức bạo lực: kết hợp sức mạnh vật chất và tinh thần, kinh tế với chính
trị, với quân sự, chính trị với văn hóa... Đây là phương thức tất yếu và phổ biến
- Phương thức hòa bình: quý và hiếm
b) Nghệ thuật thỏa hiệp
- Thỏa hiệp có nguyên tắc là loại thỏa hiệp không bao giờ xa rời mục tiêu,
nhưng biện pháp, cách thức tiến hành có thể thay đổi.
- Thỏa hiệp vô nguyên tắc về thực chất là sự đầu hàng, bán rẻ phong trào vì một
lợi ích hẹp hòi trước mắt
VD:.Ký kết hiệp ước Xô - Đức không xâm phạm lẫn nhau. Hiệp định sơ bộ
4. Xây dựng thể chế sau thắng lợi của cách mạng chính trị
a. Xây dựng thể chế kinh tế
- Xác lập cơ sở kinh tế - xã hội:
+ Xác lập quan hệ sản xuất mới - thay sở hữu tư nhân TBCN bằng sở hữu
xã hội, tạo cơ sở xóa bỏ áp bức bóc lột.
+ Xây dựng cơ sở xã hội: mở rộng khối liên minh.
+ Giải quyết tốt các mối quan hệ lợi ích - điểm tựa cho cho mọi hoạt động chính trị
b. Đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, hối lộ, thực hành dân chủ.
+ Quan liêu, tham nhũng là kẻ thù nguy hiểm nhất của CNXH +
Thực hành dân chủ rộng rãi trong các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tư
tưởng văn hoá, dân chủ gắn với pháp luật.
+ Nguyên tắc “tập trung dân chủ”: tập trung dân chủ là cái bảo đảm cho tổ
chức và hoạt động của thể chế mới đi tới thắng lợi cuối cùng và triệt để CNCS).
c. Xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền
- Đảng phải đạt tầm cao về trí tuệ, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và
đội ngũ cán bộ xứng đáng vai trò của nó trong xã hội
- Việc xây dựng Đảng vững mạnh là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho giành,
giữ và sử dụng quyền lực nhà nước phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH và CNCS
5. Chuyên chính vô sản là hình thức tổ chức quyền lực chính trị quá độ đi
tới xã hội không còn giai cấp và nhà nước
- Là hình thức tổ chức quyền lực chính trị quá độ đi tới xã hội không còn giai cấp và nhà nước
CNTB-----------------------------------> CNCS Còn nhà nước Không còn NN DCTS Chuyên chính vô sản
- Chuyên chính là sự cai trị
- Chuyên chính vô sản là việc thực hiện chức năng chủ yếu là thủ tiêu giai cấp bóc lột.
- Chuyên chính khác: dựa trên tư hữu bóc lột
- Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước nửa nhà nước: xây dựng phương
thức chính trị thủ tiêu giai cấp. 5.Chuyên chính vô sản
• Mục đích của chuyên chính vô sản:
- Thủ tiêu hoàn toàn sự áp bức, bóc lột, sự thống trị của giai cấp nói chung,
trong đó có giai cấp vô sản
Câu 2. Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về chính trị?
A. Điều kiện kinh tế-xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX:
- Pháp tăng cường khai thác thuộc địa và bóc lột xã hội nặng nề.
- Đời sống nhân dân cực khổ.
- Phong trào yêu nước ở Việt Nam đã phát triển và thoái trào
- Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa bị dìm
B. Nguồn gốc ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
- Tinh hoa văn hoá nhân loại: phương Đông và phương Tây
- Sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
- Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh
C. Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về chính trị
1. Độc lập dân tộc gắn liền CNXH
Nền tảng hình thành nên tư tưởng độc lập dân tộc:
+ Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam biến Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân được đặt ra một cách cấp thiết.
+ Truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc
- Nội dung của tư tưởng:
+ Dân tộc đó phải có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phải có quyền tự
quyết định sự phát triển của dân tộc mình.
+ Độc lập dân tộc thật sự phải thực hiện được các giá trị: tự do, dân chủ,
công bằng, bình đẳng đối với nhân dân.
+ Độc lập về chính trị phải gắn liền với sự phồn thịnh mọi mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội.
+ Độc lập dân tộc phải tự giành lấy bằng con đường cách mạng, tự lực, tự cường và tự trọng.
- Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
+ Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
+ Độc lập dân tộc là tiền đề, điều kiện để xây dựng CNXH.
+ CNXH là bước phát triển tất yếu, logic tiếp theo của độc lập dân tộc, của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
+ CNXH bảo đảm chắc chắn nhất, thực chất nhất cho độc lập dân tộc.
CNXH làm cho người dân có độc lập, tự do, hạnh phúc hơn.2. Tư tưởng về đại đoàn kết
2. Tư tưởng về đại đoàn kết
- Đoàn kết toàn dân, trên lập trường của giai cấp công nhân, trên mọi phương diện
- Đoàn kết là để phát triển, để làm tốt hơn nhiệm vụ của cách mạng, cách mạng
muốn thắng lợi thì phải đoàn kết
- Nguyên tắc đại đoàn kết:
+ Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối
cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người
+ Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết rộng rãi, lâu dài, bền vững
+ Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê bình,
phê bình vì sự thống nhất bền vững
3. Tư tưởng về nhà nước của dân, do dân, vì dân
- Bản chất của nhà nước trong TTHCM:
+ Bản chất giai cấp: do giai cấp công nhân lãnh đạo
+ Tính nhân dân sâu sắc: HTCT được hình thành trên sức mạnh của nhân
dân, mọi hoạt động của Nhà nước suy cho cùng thực hiện và bảo vệ lợi
ích của nhân dân lấy lợi ích dân tộc làm nền tảng
- Nhà nước của dân do dân và vì dân:
+ Của dân: Tất cả quyền bính trong nước là của nhân dân
+ Do dân: Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình; do
dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi hoạt động, do dân yêu cầu, xây dựng
+ Vì dân: là NN phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân
- Tư tưởng về dân chủ:
+ Dân chủ có nghĩa – dân là chủ và dân làm chủ:
+ Giá trị thực chất của dân chủ là nhân dân phải có cơm ăn áo mặc, được học hành…
+ Dân chủ là chìa khoá của tiến bộ xã hội
+ Chủ trương phải thực hành dân chủ rộng rãi trong nhân dân (tuy nhiên
dân chủ phải gắn với pháp luật, với tập trung).
- Quan điểm phục vụ của cán bộ, nhân viên Nhà nước
+ Chú ý đến quyền lợi của dân “việc gì có lợi cho dân thì làm việc gì có hại
cho dân thì phải hết sức tránh”
+ Chống đặc quyền đặc lợi và các tiêu cực khác, giữ bộ máy nhà nước thật trong sạch
+ Phải thân dân, gần dân, tôn trọng đến lợi ích của nhân dân
+ Cán bộ phải là đầy tớ của dân, phải thấm nhuần đạo đức cách mạng
4. Lý luận về Đảng cầm quyền
-Bản chất giai cấp công nhân của Đảng:
+ Đảng cách mệnh là Đảng của giai cấp vô sản, là đội tiên phong của vô sản giai cấp.
+ Xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc về Đảng kiểu mới của CN Mác.
+ Lấy CN Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho tổ chức và
mọi hoạt động của đảng.
5. Tư tưởng về phương pháp cách mạng - Phương pháp cách mạng
+ Nghĩa rộng: là sự vận động của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh trong
thực tiễn, là những quy luật hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng
+ Nghĩa hẹp là hệ thống các nguyên tắc được thể hiện bằng những hình
thức, biện pháp, bước đi thích hợp để thực hiện thắng lợi đường lối cách
mạng, biến đường lối cách mạng thành hiện thực.5. Tư tưởng về phương pháp cách mạng
- Phương pháp cách mạng HCM là phương pháp cách mạng vô sản được vận
dụng và phát triển một cách sáng tạo vào một nước thuộc địa nửa phong kiến
- Thể hiện đầy đủ 3 yếu tố: + Chủ thể hành động, + Mục tiêu hành động,
+ Hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp
5. Tư tưởng về phương pháp cách mạng
- Hệ thống các phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh
+ Xuất phát từ thực tế Việt Nam, lấy cải tạo, biến đổi thực Việt Nam làm
mục tiêu cho mọi hoạt động cách mạng
+ Dĩ bất biến, ứng vạn biến.
+ Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.5. Tư tưởng về phương pháp cách mạng
+ Nắm vững thời cơ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thời, thế, lực
+ Biết thắng từng bước, biết phát động và biết kết thúc chiến tranh.
+ Kết hợp các phương pháp đấu tranh cách mạng một cách sáng tạo
Câu 3. Chứng minh những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng
học thuyết chính trị Mác – Lênin vào điều kiện Việt Nam.
Một là, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quy luật ra đời Đảng cộng sản của chủ
nghĩa Mác - Lênin và chỉ ra quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt
Nam.Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc
tích cực hoạt động nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn
bị mọi mặt cho việc thành lập Đảng. Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp, hoạt động tích cực trong Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo “Người
cùng khổ” để tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước thuộc địa. Năm
1923, Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô dự Đại hội V của Quốc tế Cộng sản và có
nhiều hoạt động tích cực tại Quốc tế Cộng sản như: tham dự Đại hội Quốc tế
Nông dân, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Công hội đỏ,… Năm 1925, Nguyễn Ái
Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp
đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Những bài giảng của Người được
tập hợp thành cuốn sách “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927. Trong tác
phẩm Người nêu rõ: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc
với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[2].
Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là: nguyên tắc tập trung dân chủ, phải đoàn kết thống
nhất, lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển và phải có kỷ luật
nghiêm minh... Người khẳng định vấn đề có ý nghĩa quyết định trong xây dựng
Đảng là: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng
phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng
như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[3].
Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm
của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Vận dụng
sáng tạo quy luật này ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn
lạc hậu như Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết
hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây chính là sáng tạo nổi bật nhất của Hồ Chí Minh trong quá trình vận động
thành lập Đảng. Người trung thành với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về
quy luật ra đời của Đảng, đồng thời có bổ sung, sáng tạo vào quy luật ấy với
điều kiện cụ thể của Việt Nam, đó là phong trào yêu nước. Hồ Chí Minh đã
phân tích rất kỹ tính chất xã hội, cơ cấu giai cấp của xã hội Việt Nam để chỉ ra quy luật này.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ các cuộc khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp, số lượng ít, chủ yếu là công nhân khai thác mỏ, đồn điền mà chưa
phải là công nhân đại công nghiệp như ở phương Tây. Tuy vậy, giai cấp công
nhân Việt Nam cũng là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, có
tinh thần cách mạng triệt để nhất, có mối liên hệ mật thiết với nông dân, là lực
lượng lãnh đạo cách mạng. Phong trào công nhân diễn ra nhưng quy mô còn
nhỏ, tổ chức chưa chặt chẽ. Bên cạnh đó, phong trào yêu nước Việt Nam diễn ra
sôi nổi, rộng khắp, thu hút được đông đảo các giai cấp, tầng lớp tham gia. Vì
vậy, phong trào công nhân và phong trào yêu nước cần phải hỗ trợ nhau để thu
hút lực lượng đông đảo trong xã hội, nhất là nông dân.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất”, cần phải được truyền bá, thẩm thấu vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước để tạo nên sự chuyển biến về chất, trở thành hành động
cách mạng của dân tộc Việt Nam. Chính sáng tạo của Hồ Chí Minh về quy luật
ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp được lực lượng đông
đảo trong nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà đội tiền phong
là Đảng Cộng sản Việt Nam làm nên những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam.
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền, nhất là thông qua tổ chức và hoạt động của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, chủ nghĩa Mác - Lênin đã thẩm thấu vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Thời kỳ 1927 - 1929 là
thời kỳ chuyển biến của cách mạng Việt Nam. Phong trào công nhân Việt Nam
chuyển mạnh từ tự phát đến tự giác, phong trào yêu nước phát triển với chất
lượng mới. Qua đó, tạo nên làn sóng cách mạng dân tộc, dân chủ mạnh mẽ, tạo
điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự ra đời
của 03 tổ chức cộng sản vào cuối năm 1929, đầu năm 1930 cho thấy việc thành
lập Đảng đã được chuẩn bị chu đáo về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Với nhãn
quan chính trị nhạy bén, nhằm thống nhất thành một Đảng duy nhất để lãnh đạo
cách mạng, Nguyễn Ái Quốc với vai trò phái viên của Quốc tế cộng sản đã triệu
tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930).
Hai là, Hồ Chí Minh xác định: giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam.
Trong các văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt) do Hồ Chí Minh soạn thảo xác định: “Chủ trương làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, “Đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn
toàn độc lập”[4]. Đây là đường lối đúng đắn của cách mạng Việt Nam với hai
giai đoạn: Giải phóng dân tộc đem lại độc lập cho dân tộc được đặt lên hàng
đầu, tiếp đó cách mạng phải tiến lên giai đoạn xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ
nghĩa để thực sự giải phóng giai cấp, giải phóng con người, đem lại ấm no, tự
do, hạnh phúc cho nhân dân, con người được phát triển toàn diện. Đây là hai
giai đoạn không có sự phân biệt về không gian và thời gian, nó gắn liền với
nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc là tiền đề, là điều
kiện để giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng giai cấp, giải
phóng con người sẽ bảo đảm cho độc lập dân tộc được vững chắc, “độc lập dân
tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Ba là, sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc xác định lực lượng tiến hành cách mạng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân là động lực của cách mạng vô sản. Vận dụng sáng tạo quan điểm đó
vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Công nông là chủ
cách mệnh, bên cạnh đó Người cũng chỉ ra: học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ là
bầu bạn cách mệnh của công nông. Trong “Sách lược vắn tắt”, Hồ Chí Minh xác
định về từng lực lượng cách mạng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp,
phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và
phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa
chủ và phong kiến… Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối
với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào
đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”[5].
Đây chính là chủ trương tập hợp tất cả các giai cấp, tầng lớp, lực lượng có tinh
thần yêu nước, tinh thần cách mạng đứng về phe công nông, tạo nên sức mạnh
tổng hợp cho cách mạng, đồng thời phân hóa, cô lập kẻ thù, là sáng tạo độc đáo
của Hồ Chí Minh trong huy động sức mạnh toàn dân làm cách mạng.
Để thực hiện được việc tập hợp lực lượng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh đến tính tiên phong và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tính tiên
phong của Đảng, theo Người là thể hiện ở đường lối chính trị đúng đắn. Người
nêu rõ: “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai
cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”[6]. Trong
Lời kêu gọi nhân thành lập Đảng, Người cũng chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt
Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai
cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể
anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta”[7]. Các văn kiện thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng, các bài viết cũng như thư gửi Trung ương Đảng và Quốc tế
Cộng sản trong những năm 30 thế kỷ XX, Hồ Chí Minh dùng rất nhiều từ như:
“thu phục”, “lôi kéo”, “liên lạc”, “dìu dắt”, v.v.. nhằm khẳng định tính tiên
phong và vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc tổ chức, tập hợp, đoàn kết dân
tộc đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc và của giai cấp.
Bốn là, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc đặt tên Đảng và chủ trương giải
quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương.
Trong khi Quốc tế Cộng sản có chỉ thị thành lập một Đảng Cộng sản chung cho
ba dân tộc Đông Dương. Trong thảo luận tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí
Minh giải thích: “Cái từ Đông Dương rất rộng và theo nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin, vấn đề dân tộc là vấn đề rất nghiêm túc, người ta không thể bắt
buộc các dân tộc khác gia nhập Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý của chủ
nghĩa Lênin. Còn cái từ An Nam thì hẹp, mà nước ta có ba miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ.
Do đó, từ Việt Nam hợp với cả ba miền và cũng không trái với nguyên lý của
chủ nghĩa Lênin về vấn đề dân tộc”, nên Hội nghị nhất trí với cách giải thích
của Người và đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ trương đó của Người
tuân thủ những nguyên lý xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin,
có tính đến yếu tố dân tộc, nhằm thức tỉnh ý thức dân tộc, khơi dậy sức mạnh
của ba dân tộc Đông Dương, đồng thời tạo ra sự tin cậy về chính trị để đoàn kết,
giúp đỡ nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và có hiệu quả.
Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở
một nước thuộc địa đã được thực tế cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới
trong thế kỷ XX kiểm chứng là đúng đắn và khoa học. Đây là sự cống hiến quan
trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác - Lênin. Trải qua gần 90 năm
xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách,
với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, luôn gắn bó mật thiết với
nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam với sự sáng lập và rèn luyện của Hồ Chí
Minh đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi vẻ vang, có ý
nghĩa lịch sử to lớn. Ngày nay, những tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá
trị, soi sáng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./. BÀI TỰ HỌC SỐ 2:
Câu 1: Phân tích luận điểm: Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật.
1. Chính trị là gì?
Theo quan niệm Chủ nghĩa Mác Lênin
- Chính trị là lợi ích, quan hệ giữa các giai cấp
- Chính trị là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước
- Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế
- Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật -Khái quát:
“Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, quốc
gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước; là sự tham
gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội; là hoạt động thực tiễn của
các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện
đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích”
2. Chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật - Chính trị là khoa học
+ Chính trị là hiện tượng khách quan ( thể hiện sự ra đời của chính trị)
+ Chính trị là lĩnh vực tương đối độc lập với đời sống xã hội, có quy luật
nội tại (bị điều chỉnh bởi lợi ích)
+ Chính trị là một hệ thống tri thức ( đức két thành các lý thuyết lịch sử)
+ Chính trị là đặc quyền giai cấp thống trị ( tính giai cấp của chính trị, đây là cơ bản)
+ Ngày nay, chính trị phát triển và trở thành khoa học độc lập ( có đối
tượng nghiên cứu, có hệ thống khái niệm, quy luật, nguyên lý và có phương pháp nghiên cứu)
- Chính trị là nghệ thuật
+ Chính trị là hoạt động tham gia bởi con người ( Con người là sản phẩm
của lịch sử và có đời sống tâm lý riêng, đa dạng,...)
+ Hoạt động chính trị mang tính sáng tạo cao ( chủ động, tác động nhanh,
rộng đến đời sống xã hội..)
+ Chính trị là hoạt động phức tạp ( che dấu dưới các hình thức đa dạng khó phân biệt và nhận ra)
+ Chính trị là nghệ thuật của sự mềm dẻo
+ Chính trị la nghệ thuật của sự vận dụng các tri thức và kinh nghiệm thực tiễn, dự đoán
+ Chính trị là nghệ thuật tổ chức lực lượng, tiến hành chiến tranh.
- Mối quan hệ biện chứng
Khoa học và nghệ thuật trong chính trị chính là tính thống nhất hữu cơ của lý
luận và phương pháp, của hệ thống các quan điểm, nguyên tắc chi phối hành
động chính trị với những cách thức, phương pháp, thủ đoạn của chính trị. Lênin
nói rằng điều đó không phải tự nhiên mà có, đòi hỏi phải có một sự cố gắng,
giai cấp vô sản muốn thắng giai cấp tư sản thì phải đào tạo được những chính trị
gia không thua kém các chính trị gia của giai cấp tư sản. Chính trị với tư cách là
một khoa học "chính trị có tính logic khách quan của nó, không phụ thuộc vào
những dự tính của cá nhân này hay cá nhân khác, của đảng này hay đảng khác".
Tính khoa học và nghệ thuật của chính trị biểu hiện nhà chính trị phải biết tôn
trọng tính khách quan, phát hiện đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo
các quy luật đó vào thực tiễn các hành động chính trị kết hợp sự nhạy cảm, với
tính khôn khéo, nhanh trí của mình đối với các phản ứng chính trị kịp thời mà