Bài tự học chính trị học | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Nội dung tư tưởng chính trị cơ bản của Nho gia Trung Quốc cổ đại? Tư tưởng chính trị Khổng Tử. Tư tưởng chính trị Mạnh Tử. Trình bày mối quan hệ chính trị với kinh tế ? Bản chất mối quan hệ chính trị với kinh tế. Phân tích sự ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho gia, Pháp gia đến đời sống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay? Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chính Trị Học
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Họ và tên : Nguyễn Thuỳ Dương
Lớp : Truyền thông chính sách K42 MSV : 2255380013
Bài tự học số 3 :
1. Nội dung tư tưởng chính trị cơ bản của Nho gia Trung Quốc cổ đại?
Điều kiện kinh tế-xã hội của Trung Quốc thời kỳ Xuân Thu- Chiến Quốc
- Xã hội Trung Quốc chuyển từ chiếm hữu nô lệ sang phong kiến
- Đồ sắt xuất hiện, năng xuất lao động cao, mâu thuẫn xã hội gay gắt
- Nhà Chu thống trị thiên hạ chỉ về hình thức, các nước chư
hầu không phục tùng nhà Chu nữa mà mang quân thôn tính
lẫn nhau, xã hội đại loạn
- Nhiều học thuyết chính trị đã ra đời để đáp ứng sự đòi hỏi của lịch sử.
Thân thế của các nhà tư tưởng: a. Khổng Tử:
- Người sáng lập ra trường phái Nho gia. Ông tên là Khâu, tự
là Trọng Ni, sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ ở nước
Lỗ. thời trẻ, ông đã mở trường dạy học, sau đó làm chức
quan nhỏ, quản lý kho và trong coi trâu, dê; sau đó là Trung
đô tể, quan Tư khấu. Vì không được trọng dụng, ông dẫn các
học trò đi chu du các nước hơn mười mấy năm trời. Cuối đời,
ông trở về nước Lỗ tiếp tục dạy hhojc và chỉnh lý, san định
các thư tịch cổ như ngũ kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch và
viết kinh Xuân Thu. Luận ngữ là bộ sách do các học trò của Khổng Tử ghi lại b. Mạnh Tử
Bộ sách của nhà nho: tứ thư, ngũ kinh - Tứ thư:
Tứ Thư đề cập đến nhiều lĩnh vực như: Triết học, chính trị,
đạo đức, luật pháp…
Một trong những nội dung chủ đạo của Tứ Thư là việc tập
trung xây dựng nhân cách con người xã hội với những vấn đề
căn cốt như: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Những chuẩn mực mà
Tứ Thư đề ra cho cá nhân, đặc biệt ở khía cạnh đạo đức đến
nay vẫn còn mang tính thời sự và trình tự hệ thống: Tu thân,
tề gia, trị quốc, bình thiên hạ xem ra ngày càng chứng tỏ sự ưu việt.
Ở Tứ Thư, giá trị cá nhân chỉ được đề cao khi mà nó gắn bó
mật thiết với toàn bộ trật tự chung, nói cách khác khi nó hoàn
thành triệt để nghĩa vụ, bổn phận của mình với toàn bộ xã hội xung quanh.
Vì thế có thể khẳng định, cái đích hướng tới cuối cùng của
Tứ Thư chính là sự phát triển trong bình ổn với một quy định
nghiêm ngặt về đạo đức cho tất cả các tầng lớp xã hội. Chính
giá trị quan trọng này sẽ giải thích hiện tượng qua hàng nghìn
năm, ảnh hưởng của Tứ Thư không chỉ dừng ở phương Đông
mà ngày càng lan truyền, phổ cập trên diện rộng thế giới.
Trong thời đại ngày nay, khi xu hướng toàn cầu hóa đang
tràn lan và sự tồn tại của một quốc gia, một dân tộc phụ thuộc
rất nhiều vào nội lực văn hóa truyền thống thì việc tìm hiểu,
khám phá lại Tứ Thư là một nhu cầu quan trọng, cấp thiết
không chỉ ở tầm quốc gia mà ở ngay bản thân mỗi cá nhân
người Việt Nam. Lý do đơn giản là một phần không nhỏ văn
hóa của chúng ta phát triển trên cơ sở tiếp thu uyển chuyển,
linh hoạt, có chọn lọc những tinh hoa tư tưởng Khổng Mạnh,
mà trong đó Tứ Thư là cốt lõi. Qua Tứ Thư, chúng ta sẽ hiểu
thấu đáo hơn nền tảng văn hóa truyền thống của dân tộc mình
để rồi từ đó có những định hướng cho chặng đường phát triển tiếp theo. - Ngũ kinh:
Kinh Thi sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử,
nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300
thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành
mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần,
Khổng Tử hỏi con trai “học Kinh Thi chưa?”, người con trả
lời “chưa”. Khổng Tử nói “Không học Kinh Thi thì không
biết nói năng ra sao” (sách Luận ngữ).
Kinh Thư chuyên ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời
vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông
vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu,
Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Tụ.
Kinh Lễ ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính
lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự.
Khổng Tử nói: “Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở
đời” (sách Luận Ngữ).
Kinh Dịch nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa
cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,… Đời
Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát
quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa
của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời
Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Thoán
từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
Kinh Xuân Thu ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của
Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà
theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi
kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc
vua chúa. Ông nói: “Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu,
thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này”. Đây là cuốn
kinh Khổng Tử tâm đắc nhất, xuân thu có nghĩa là mùa xuân
và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra.
Nội dung tư tưởng chính trị Nho gia
a. Tư tưởng chính trị Khổng Tử:
- Học thuyết Nhân- Lễ- Chính danh: trước hết là sự bình ổn xã hội –
một xã hội: “thái bình thịnh trị”. Theo ông, chính trị là chính đạo,
đạo của người chính trị phải ngay thẳng, phải lấy chính trị để dẫn
dắt dân, nhà nho phải tham chính…
Từ nhận thức đó, Khổng Tử cho rằng xã hội loạn lạc là do mỗi
người không ở đúng vị trí của mình, Lễ bị xem nhẹ. Để thiên hạ
có “đạo”, quay về Lễ, phải củng cố điều Nhân, coi trọng lễ
nghĩa, mỗi người phải hành động trong khuôn khổ của mình, từ
đó xã hội sẽ ổn định. Để thực hiện lý tưởng chính trị của mình,
ông đề ra học thuyết “Nhân- Lễ- Chính danh”
- Phạm trù đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo cương - thường
là Nhân (đức nhân). Tất cả các phạm trù đạo đức khác đều xoay
quanh phạm trù trung tâm này. Từ đức nhân mà phát ra các đức
khác và các đức khác lại quy tụ về đức này. Cả cuộc đời mình,
Khổng Tử đã dành nhiều tâm huyết để làm cho đức nhân trở thành
hiện thực. Ông mong muốn các học trò rèn luyện để đạt được đức
nhân và ứng dụng nó trong thực tiễn. Đức nhân được Khổng tử bàn
đến với nội dung cơ bản sau:
- Nhân có nghĩa là yêu người : “Phàn Trì hỏi về người nhân, Khổng
Tử nói: (đó là người biết) yêu người”
- Nhân có nghĩa là trung và thứ. Bàn về chữ trung, ông giải
thích:“Người nhân là người mình muốn lập thân thì cũng giúp người
lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người thành đạt” (Phù
nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân). Về chữ
thứ, ông viết: “Điều gì mình không muốn, chớ thi hành cho người
khác” (Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân). Như vậy, trung thứ tức là từ lòng
mình suy ra lòng người, phải giúp người. Khổng Tử khuyên rằng nên
làm cho người những cái mà mình muốn và đừng làm cho người
những cái mình không muốn.
- Đối với bản thân mình, người có đức nhân là phải thực hiện đúng lễ:
“Dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân” (Khắc kỉ phục lễ
vi nhân) Lễ là hình thức thể hiện nhân và cũng là một chuẩn mực của Ngũ thường.
- Nhân còn gắn liền với Nghĩa (nghĩa vụ, thấy việc đúng cần phải làm
để giúp người). Khổng Tử cho rằng người quân tử cần chú ý đến
nghĩa và coi thường lợi. Muốn thực hiện nhân, nghĩa thì cần có lòng
dũng cảm (dũng) và có Trí (trí tuệ). Có trí mới biết cách giúp người
mà không làm hại đến người, đến mình, mới biết yêu và ghét người,
mới biết đề bạt người chính trực và gạt bỏ người không ngay thẳng.
Tuy nhiên, trí theo Khổng Tử và các môn đệ của ông không phải là
những tri thức phản ánh thực tại khách quan của tự nhiên và xã hội để
từ đó chỉ đạo hành động của con người mà là những tri thức mang
tính giáo điều, chỉ gói gọn trong sự hiểu biết sách vở của Nho giáo (Tứ thư và Ngũ kinh).
Như vậy, đối với Khổng Tử, nhân chính là đạo lý làm người,
vừa thương người (ái nhân), vừa phải giúp người (cứu nhân).
Ông cho rằng, khi thi hành điều nhân phái phân biệt thân sơ,
trên dưới. Nếu ở Khổng Tử đức nhân mang tính phức tạp rất
khó thực hiện, nó vừa là lý tưởng nhưng lại mang yếu tố không
tưởng thì đến thời Hán, đức nhân lại được khoác thêm cái vỏ tôn
giáo thần bí, do vậy càng không tưởng hơn.
- Về phạm trù Lễ, theo Nho giáo, lễ là quy định về mặt đạo đức
trong quan hệ ứng xử giữa người với người. Con cái phải có hiếu
với cha mẹ, bề tôi phải trung với vua, chồng vợ có nghĩa với nhau,
anh em phải trên kính dưới nhường, bạn bè phải giữ được lòng tin.
Những quy tắc này là bất di bất dịch mà ai cũng phải tuân theo. Lễ
là sợi dây buộc chặt con người với chế độ phong kiến tập quyền.
Khổng Tử yêu cầu, từ vua cho đến dân phải rèn luyện và thực hiện
theo lễ. Đến Đổng Trọng Thư, lễ đã được đẩy lên đến cực điểm
của sự khắt khe. Chỉ vì giữ lễ mà dẫn đến những hành vi ngu trung,
ngu hiếu một cách mù quáng ở không ít người trong xã hội trước đây. - Quan hệ vua- tôi:
+ Phạm trù đức nhân tuy bao chứa nhiều nội hàm khác nhau, song cái
gốc và cốt lõi của nhân là hiếu đễ. Theo Khổng Tử, tình cảm giữa cha
mẹ và con cái, giữa chồng và vợ, giữa anh em với nhau (quan hệ gia
đình) là những tình cảm tự nhiên, vốn có thuộc về bản tính con người.
Từ cách hiểu này, ông cho rằng, trong gia đình nếu người cha đứng đầu
thì mở rộng ra trong nước có ông vua đứng đầu. Khổng Tử hình
dung quốc gia là một gia đình lớn, ông vua là người cha của gia
đình ấy. Nho giáo đặt vua đứng đầu trong tam cương và ngũ
luân. Vì vậy, đạo làm người phải tận hiếu với cha mẹ, tận trung
với vua. Một người biết yêu thương kính trọng cha mẹ mình thì
mới biết yêu thương người ngoài. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ
xuất phát điểm đầu tiên là gia đình, từ đó suy rộng ra đến quốc
gia và thiên hạ. Coi trọng vai trò gia đình trong việc hình thành
và tu dư|ng đạo đức của con người ở Nho giáo là một khía cạnh
hợp lý và vẫn còn có ý nghĩa nhất định đối với ngày nay, b|i lẽ,
gia đình là một tế bào của xã hội, xã hội không thể ổn định,
thịnh trị nếu các gia đình lục đục và vô đạo. Vì vậy, người cầm
quyền nếu không “tề gia” (cai quản gia đình) của mình thì cũng
không thể “trị quốc” (cai trị đất nước) được.
+ Đối với quan hệ vua tôi, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua
theo huyết thống và chủ trương “thượng hiền” không phân biệt
đẳng cấp xuất thân của người ấy. Trong việc chính trị, vua phải
biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với những
kẻ cộng sự…”, “vua phải tự mình làm thiện, làm phải trước thiên
hạ để nêu gương và phải chịu khó lo liệu giúp đ| dân”. Ông còn
nói, nhà cầm quyền cần phải thực hiện ba điều: “Bảo đảm đủ
lương thực cho dân được no ấm, phải xây dựng được lực lượng
binh lực hùng mạnh để đủ bảo vệ dân, phải tạo lòng tin vậy của
dân đối với mình. Nếu bất đắc dĩ phải bỏ bớt những điều kiện
trên thì trước hết hãy bỏ binh lực, sau đó đến bỏ lương thực, nhưng
không thể bỏ lòng tin của dân đối với vua, nếu không, chính quyền
xã tắc sẽ sụp đổ” .Nếu “việc chính trị, vua cai trị nước nhà mà
biết đem cái đức mình bỏ hóa ra, thì mọi người đều phục theo. Tuy
như ngôi sao Bắc Đẩu ở một chỗ mà có mọi vì sao chầu theo”.
Ngược lại dân và bề tôi đối với vua phải như đối với cha mẹ mình,
phải tỏ lòng “trung” của mình đối với vua. Ấy là “Chính danh”, là “phục lễ vi nhân”.
b. Tư tưởng chính trị Mạnh Tử: - Thuyết
tính thiện : theo Mạnh Tử, bản tính tự nhiên của con người
là thiện (nhân chi sơ tính bản thiện). Con người có lòng trắc ẩn thì
tự nhiên có lòng tu ố ( biết xấu hổ ), từ nhượng ( nhường nhịn ), thị
phi ( biết trái phải ). Lòng trắc ẩn là nhân, lòng tu ố là nghĩa, lòng
từ nhượng là lễ, lòng thị phi là trí. Nhân, lễ, nghĩa, trí là bốn “đầu
mối” vốn có ở tâm ta. Con người có thể trở thành ác vì không biết
“tồn tâm”, “dư|ng tính”, để cho vật dục chi pối, chạy theo lợi ích cá nhân - Quan
hệ vua- tôi : Mạnh Tử cho rằng, Thiên Tử là do mệnh trời
trao cho thánh nhân và vận mệnh trời nhất trí với ý dân. Trời ngấm
ngầm trao quyền cho người có đức, hợp lòng dân. Quan hệ vua –
tôi là quan hệ hai chiều : “vua coi bầy tôi như chân tay thì bầy tôi
coi vua như ruột thịt, vua coi bầy tôi như chó ngựa thì bầy tôi coi
vua như người dưng, vua coi bầy như cỏ rác thì bầy tôi coi vua như
cừu địch.” Tiến thêm một bước, ông cho rằng: nếu vua không ra
vua thì phải loại bỏ, vua mà tàn ác thì phải gọi là thằng: “Ta phải
hiểu là giết thằng Trụ chứ không nên hiểu là giết vua vậy”. Mạnh
từ đề xuất tư tưởng “nhường ngôi” ( thiên nhượng ). Thiên tử có
thể nhường ngôi cho vua chư hầu, căn cứ vào đức hạnh và khả
năng thực hành nhân chính của ông ta
Mạnh Tử là người đầu tiên đưa ra luận điểm tôn trọng dân: “Dân là
quý nhất, quốc gia đứng thứ hai, vua là không đáng trọng” ( dân vi
quý, xã tắc thứ hai, quân vi khinh). Nhưng dân ở đây chỉ là thần
dân, kẻ phụ thuộc, bị thống trị. Coi trọng dân chỉ là thủ đoạn chính
trị để thống trị tốt hơn mà thôi.
2. Trình bày mối quan hệ chính trị với kinh tế ? Khái niệm :
- Chính trị: thực chất là việc định hướng, tạo động lực cho phát triển
kinh tế thông qua các chính sánh, chủ trương, đường lối
- Kinh tế: tổng hợp các quan hệ sản xuất tương ứng với trình độ lực
lượng sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội; kinh tế là nguồn
gốc của mọi biến đổi xã hội
- Quan hệ chính trị với kinh tế: sự lãnh đạo của nhà nước bằng chủ
trương, chính sách nhằm phát triển kinh tế, củng cố địa vị thống trị
Bản chất mối quan hệ chính trị với kinh tế
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế
- Chính trị là một hình thức biểu hiện của kinh tế một cách tập trung nhất, cô đọng nhất.
- Chính trị không ngoài mục đích nào khác là hướng vào sự phát
triển kinh tế. Kinh tế là gốc của chính trị là thước đo tính hợp lý của chính trị
- Tính đúng đắn của đường lối chính sách kinh tế của đảng cầm
quyền giữ vai trò quan trọng.
Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế
- Thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề điều kiện đầu tiên
và quyết định cho những biến đổi về chất và phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo.
- Với tính độc lập tương đối, chính trị có sự tác động trở lại với
kinh tế theo những hướng khác nhau có thể
- Chính trị đóng vai trò định hướng và tạo môi trường chính trị-xã
hội ổn định cho phát triển kinh tế. Sự định hướng chính trị cho
phát triển kinh tế thể hiện ở tất cả các khâu của quá trình kinh tế
- Chính trị còn tham gia kiểm soát chặt chẽ những vấn đề cơ bản,
then chốt của kinh tế: ngân sách, vốn, hoạt động tài chính tiền tệ,
chính sách kinh tế đối ngoại
2. Phân tích sự ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho gia, Pháp
gia đến đời sống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay? a. Nho gia :
- Nội dung tư tưởng chính trị của Nho gia:
+ Nhân- lễ- Chính danh :
Nhân: được đề cập một cách toàn diện cả góc độ bản thể bên trong
đến hình thức thể hiện ra bên ngoài. Là nền móng, là gốc, từ đó
nảy sinh ra các phẩm chất đạo đức khác.
Lễ: là quy phạm pháp luật, đạo đức, chính trị, phong tục tập quán,
lễ nghi…: là hình thức của nhân nhưng là nội dung của cơ chế
phương thức để điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội. Lễ thực chất
là qui tắc hóa chữ Nhân trong các quan hệ xã hội.
Chính danh: sự thống nhất giữ Nhân và Lễ thể hiện trên bình diện
chính trị, là mỗi người cần phải có phẩm chất tương xứng với vị
thế xã hội của mình, và suy nghĩ, hành động tương xứng với vị thế ấy.
+ Thuyết tính thiện : theo Mạnh Tử, bản tính tự nhiên của con
người là thiện (nhân chi sơ tính bản thiện). Con người có lòng
trắc ẩn thì tự nhiên có lòng tu ố ( biết xấu hổ ), từ nhượng
( nhường nhịn ), thị phi ( biết trái phải ). Lòng trắc ẩn là nhân,
lòng tu ố là nghĩa, lòng từ nhượng là lễ, lòng thị phi là trí. Nhân,
lễ, nghĩa, trí là bốn “đầu mối” vốn có ở tâm ta. Con người có thể
trở thành ác vì không biết “tồn tâm”, “dư|ng tính”, để cho vật
dục chi pối, chạy theo lợi ích cá nhân
+ Quan hệ vua – tôi :
- Sự du nhập của Nho gia vào Việt Nam
+ Thời điểm du nhập : Năm 111 TCN, nhà Hán thôn tính Nam
Việt và biến Âu Lạc thành đất đai của nhà Hán. Âu Lạc bị chia
thành ba quận thuộc bộ Giao Chỉ là: Giao Chỉ, Cửu Chân và
Nhật Nam. Để nô dịch nhân dân ta về tư tưởng, ngay từ thời
Tây Hán, Nho giáo đã được chính quyền đô hộ truyền bá vào nước ta.
+ Sự ảnh hưởng của Nho gia trong lịch sử với các triều đại phong kiến Việt Nam : Thời Lý – Trần o TRẦN
Năm 938, với chiến thắng vĩ đại của Ngô Quyền chôn vùi quân Nam
Hán trên sông Bạch Đằng, lịch sử dân tộc Việt Nam đã bước sang trang
mới – thời kỳ độc lập. Tuy nhiên, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước ở thời kỳ đầu mới giành được độc lập diễn ra vô cùng khó khăn,
phức tạp. Nhà nước phong kiến lúc này quá bận rộn với việc ổn định và
thống nhất đất nước, tổ chức chống ngoại xâm; mặt khác, các triều đại
đầu tiên như Ngô, Đinh, Tiền Lê đều tồn tại rất ngắn ngủi, chưa có đủ
thời gian để xây dựng trật tự, kỷ cương chặt chẽ; thể chế chính trị, tổ
chức nhà nước và những tập tục của các triều đại “Ngô, Đinh, Lê, Lý,
Trần không theo mẫu Bắc phương là mẫu xây dựng khớp với tư tưởng
Nho giáo”. Do vậy, Nho giáo cũng chưa có điều kiện dựa vào triều đình
để duy trì và phát triển ảnh hưởng của mình. o Lý
Sang thời Lý, việc củng cố nhà nước quân chủ tập quyền và trật tự xã
hội, phát triển văn hóa, giáo dục để phục vụ cho chế độ phong kiến đã
trở thành một nhu cầu cấp bách. Lúc này, Nho giáo, với chủ trương tôn
quân, đề cao việc tề gia, trị quốc có tôn ty, trật tự đã tỏ ra thích hợp
với thực tiễn lịch sử đó nên được giai cấp phong kiến Việt Nam đề cao,
đặc biệt trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa, tư tưởng. Bằng một hệ
thống lý thuyết chặt chẽ và những bài học kinh nghiệm
về đạo trị nước của người xưa, Nho giáo giúp cho giai cấp phong kiến
Việt Nam bước đầu xây dựng và củng cố trật tự xã hội, tạo ra một nền
giáo dục có hệ thống và thúc đẩy các ngành văn hóa, học thuật phát
triển. Trong bài Chiếu dời đô, Lý Thái Tổ đã khéo léo vận dụng
tư tưởng Mệnh trời của Nho giáo vào việc trị nước: “Trên kính mệnh
trời, dưới theo ý dân” để mưu nghiệp lớn, làm cho vận nước lâu dài,
phong tục cường thịnh. Vua Lý Thái Tông khi đáp lại quần thần dâng
tôn hiệu cũng cho rằng, xã hội thời Đường Ngu là xã hội lý tưởng, tốt
đẹp đáng phải noi theo. Từ đây, việc truyền bá Nho giáo bắt đầu được
tiến hành khá sôi nổi và có tổ chức về mặt nhà nước. Theo lệnh của Lý
Thánh Tông hoàng đế, mùa thu năm 1070, nhà Lý cho xây Văn Miếu,
tạc tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư,
Mạnh Tử) và vẽ hình bảy mươi hai hiền nhân để bốn mùa cúng tế. Mùa
xuân năm Ất Mão (1075), Lý Nhân Tông xuống chiếu mở kỳ thi Nho
học đầu tiên để tuyển chọn người tài, bổ sung cho đội ngũ quan lại, gọi
là Minh kinh bác học. Lê Văn Thịnh đỗ đầu, được cho vào hầu vua học.
Năm 1076, vua Lý tiếp tục cho lập Quốc Tử Giám – trường đại học đầu
tiên ở nước ta và lựa chọn những người khoa bảng vào dạy ở đây.
Cùng với việc truyền bá Nho giáo, nhà Lý ở nước ta lúc đó cũng rất tôn
sùng Phật giáo và Đạo giáo. Tam giáo đồng hành đã bổ sung cho nhau
trong việc đáp ứng nhu cầu chính trị, tư tưởng và đời sống tâm linh của
giới cầm quyền cũng như các tầng lớp xã hội. Nếu như Nho giáo
được vận dụng vào việc tổ chức xã hội và quản lý cuộc sống trần gian
thì Phật giáo và Đạo giáo lại giải quyết các vấn đề họa và phúc, đức và
tội, vấn đề nghiệp báo luân hồi..
Do sự phát triển đồng hành của Nho, Phật, Đạo nên Nho giáo mặc dù đã
được coi trọng, song ảnh hưởng của nó đến đời sống chính trị-xã hội,
phong tục và nếp sống người Việt trong suốt triều đại nhà Lý vẫn diễn ra
chậm chạp. Nhiều nghi lễ, tập tục trong triều đình cũng như cácviệc hôn
nhân, tang tế còn bị các nhà Nho viết sử sau này cho là trái với quy
phạm của Nho giáo. Bằng sự khôn khéo của Trần Thủ Độ, việc chuyển
giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần được tiến hành một cách êm
dịu. Trong điều kiện phải củng cố quyền lực nhà nước và tổ chức cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên – Mông, vấn đề đạo lý cương thường,
nghĩa quân thần, trật tự trên dưới chặt chẽ cần được đề cao. Vì vậy, việc
học tập, thi cử dưới triều Trần được triển khai khá rầm rộ. Tầng lớp Nho
sĩ nhờ đó ngày càng trở thành một lực lượng xã hội đáng kể.
Thông qua con đường khoa cử, họ tham gia vào bộ máy nhà nước và
hoạt động tích cực trên nhiều lĩnh vực. Nếu ở các thế kỷ trước, Phật giáo
chiếm ưu thế hơn so với Nho giáo thì từ cuối đời Trần, Nho giáo bắt đầu
mạnh lên. Nhiều nhà Nho đã lên tiếng phê phán mạnh mẽ Phật giáo
khiến cho Phật giáo phải lùi bước, mở đường cho Nho giáo tiến lên
chiếm địa vị độc tôn dưới triều Lê. Các nho sĩ danh tiếng thời Trần như
Lê Văn Hưu, Lê Quát, Trương Hán Siêu đã công kích các nhà sư ham
mê nhà cửa lộng lẫy xa hoa, xây quá nhiều chùa tháp gây lãng phí tiền
của và sức lực của dân, tố cáo các tăng lữ là những kẻ lười biếng, chỉ
biết cầu phúc mà không lo tự lực. Không chỉ phê phán Phật giáo, họ còn
công khai phê phán giới cầm quyền phong kiến không theo đạo cương
thường của Nho giáo. Sự lấn lướt của Nho giáo và sự lùi bước của Phật
giáo đã phản ánh những biến đổi trong cơ cấu giai cấp - xã hội nước ta
thời đó. Từ thế kỷ XIII, ở Việt Nam, một tầng lớp địa chủ mới có nguồn
gốc từ thứ dân chứ không phải từ giai cấp phong kiến quý tộc được hình
thành và phát triển. Bên cạnh đó, việc học hành, thi cử Nho giáo được
đẩy mạnh khiến cho tầng lớp Nho sĩ ngày một đông thêm. Thế và lực
của họ ngày một mạnh lên và từng bước chiếm được những vị trí quan
trọng trong bộ máy nhà nước phong kiến. Nắm được chính quyền từ tay
nhà Trần, Hồ Quý Ly vốn nổi tiếng uyên thâm Nho học đã mạnh tay
công kích Phật giáo và suy tôn Nho giáo. Dưới quyền Hồ Quý Ly, Nho
học được khuyến khích phát triển mạnh mẽ hơn bất cứ thời kỳ nào trước
đó. Số trường dạy Nho học tăng lên nhanh chóng và mở đến tận châu,
huyện. Nhà nước cấp ruộng để nuôi thầy, cấp tiền để mở lớp và mua
sách. Bản thân Hồ Quý Ly còn viết sách Minh đạo, phê phán Tống Nho,
đề cao Chu Công hơn Khổng Tử Thời lê
Sang thế kỷ XV, khi nhà nước phong kiến Lê Sơ được thiết lập thì chế
độ phong kiến Việt Nam đi vào giai đoạn phát triển cực thịnh. Từ thời
kỳ này, Nho giáo giành được vị trí độc tôn trong đời sống chính trị và
tinh thần của nước Đại Việt. Lúc này, không chỉ việc học tập, thi cử theo
khuôn mẫu Nho học, mà cả lĩnh vực văn học, nghệ thuật mang nội dung
Nho học cũng phát triển mạnh. Lê Lợi cho mở trường ở kinh thành và
các địa phương để dạy cho con cái quý tộc và cả tầng lớp thứ dân.
Lê Thánh Tông là ông vua am hiểu Tống Nho rất sâu sắc và nâng Nho
giáo lên địa vị cao nhất. Lê Thánh Tông cho xây lại Văn Miếu và lập
nhà Thái học, quy định thể lệ thi cử để tuyển dụng đội ngũ quan lại.
Việc học tập và thi cử theo Nho học ngày càng đi vào quy củ. Năm
1484, Lê Thánh Tông đã định lệ dựng bia đá ở Văn Miếu để lưu danh
các vị tiến sĩ từ khóa thi năm 1442 trở đi. Việc khuyến khích học hành
và thi cử theo Nho học từ thời Lê Sơ về sau đã tạo ra một tầng lớp Nho
sĩ đông đảo, đa dạng, phức tạp ở triều đình và các địa phương trên cả
nước. Hệ tư tưởng Nho giáo được quán triệt trong nhiều chủ trương,
chính sách của nhà nước phong kiến, qua đó thấm vào mọi lĩnh vực văn
hóa, đạo đức của xã hội đương thời, làm thay đổi cách ứng xử, giao tiếp
và đưa lại những hình thức nghi lễ chặt chẽ, phức tạp cho các phong tục
như ma chay, cưới hỏi, giỗ chạp, cúng tế trong gia đình cũng như cộng
đồng làng xã. Nho giáo từ thời Lý – Trần được coi trọng và giành được
vị trí độc tôn vào thời Lê Sơ là do đã đáp ứng được nhu cầu xây dựng và
củng cố nhà nước phong kiến tập quyền. Từ thời Lý – Trần, chế độ
phong kiến Việt Nam đã đi vào ổn định và các tập đoàn cầm quyền nhận
thấy rằng, trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, chỉ có Nho giáo mới có
thể giải đáp được những vấn đề thiết thực trong tổ chức nhà nước và
quản lý xã hội. Những vấn đề đó không thể tìm thấy lời giải đáp trong lý
thuyết của Phật giáo cũng như Đạo giáo. Từ cuối thời Trần và giai đoạn
nhà Hồ, những mâu thuẫn xã hội đã bộc lộ khá gay gắt. Sự phản kháng
của nhân dân chống lại trật tự hà khắc của chế độ phong kiến cùng với
sự tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn thống trị đã khiến bộ máy
nhà nước suy yếu nghiêm trọng. Trước tình hình đó, để củng cố và tăng
cường bộ máy nhà nước, lập lại trật tự kỷ cương xã hội,
giai cấp phong kiến Việt Nam không thể không tìm đến đạo tu, tề, trị,
bình cùng lý thuyết chính danh định phận và lễ trị của Nho giáo.
Sự tan rã của điền trang thái ấp cuối thời Trần đã tạo điều kiện cho tư
hữu về ruộng đất được dịp phát triển mạnh mẽ, hình thành chế độ gia
trưởng trong nông nghiệp, trong đó mỗi gia đình là một đơn vị sản xuất
hoàn chỉnh. Vai trò của người chủ gia đình đặc biệt được coi trọng.
Việc đề cao hiếu đễ, tiết hạnh của Nho giáo đã góp phần củng cố uy
quyền của người gia trưởng và duy trì tôn ty trật tự trong gia đình. Mặt
khác, một xã hội vốn đề cao đạo đức với tâm lý coi trọng việc thờ cúng
tổ tiên và các nghi lễ ma chay, cưới hỏi... là một thực trạng rất gần gũi
với những quy định của Nho giáo. Điều kiện kinh tế, cơ sở xã hội đó
chính là môi trường thuận lợi để Nho giáo dễ dàng bén rễ và thâm nhập
vào đời sống của mọi giới. Nho giáo từ thời Lý – Trần đến thời Lê Sơ
được đề cao còn do nhu cầu phát triển văn hóa, giáo dục ở nước ta thời
đó. Việc xây dựng nhà nước phong kiến tập quyền đòi hỏi phải thường
xuyên đào tạo, bổ sung đội ngũ quan lại. Phát triển văn hóa, giáo dục và
thông qua thi cử để tuyển chọn nhân tài là một phương thức tuyển lựa
quan lại mới được áp dụng từ thời Lý, Trần trở đi. Nho giáo với một hệ
thống lý thuyết và quy chế giáo dục, thi cử chặt chẽ đã nhanh chóng đáp
ứng được yêu cầu đó. Giáo dục theo Nho học phát triển đã khiến cho các
ngành văn hóa, học thuật cũng được đẩy mạnh. Nho giáo với tính cách
là một học thuyết chính trị-đạo đức biết lấy sử ký để giáo hóa con người,
lấy văn để chở đạo nên được nhà nước phong kiến Việt Nam sử dụng để
phục vụ cho sự phát triển văn hóa, nghệ thuật của dân tộc
Cuối thời Lê Sơ, chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào khủng hoảng
trầm trọng, triều đìnhrệu rã, lòng dân ly tán do những cuộc chiến tranh
quyền lực kéo dài giữa Lê và Mạc, Trịnh và Nguyễn, kéo theo sự sa sút
của Nho giáo. Việc học tập, thi cử Nho học vẫn được duy trì, song
cả về mục đích, nội dung đã có sự xa rời đạo lý thánh hiền Khổng –
Mạnh. Việc mua bán đề thi, văn bằng, học vị diễn ra công khai và có chủ
trương của nhà nước. Người ta công khai mang sách, mượn người thi
thay và gây ra cảnh hỗn loạn, vô kỷ cương chưa thời nào có. Phan Huy
Chú nhận xét: “ Từ khi kẻ nịnh thần đề nghị đổi phép thi, hạng sinh đồ
ba quan đầy cả thiên hạ. Người trên do đó lấy tiền mà không ngại, kẻ
dưới nộp tiền để được đỗ mà không thẹn, làm cho trường thi thành ra chỗ buôn bán”.
Cuộc đại phá quân Thanh đã đưa nhà Tây Sơn lên cầm quyền và vẫn lấy
Nho giáo làm quốc giáo. Do trước đó, việc học tập, thi cử chỉ nhằm mục
đích cầu danh, cầu lợi mà quên đạo lý, cương thường, nên sau khi lên
nắm quyền, vua Quang Trung đã hạ chiếu yêu cầu Nguyễn Thiếp, vị
đứng đầu viện Sùng Chính phải chấn chỉnh Nho học, đồng thời quyết
định lấy chữ Nôm làm văn tự chính thống của quốc gia. Chiếu lập học
của vua Quang Trung lệnh cho tổ chức trường quốc lập đến tận làng xã
và chọn thầy giáo là những người hay chữ và có đức hạnh. Bởi vậy, dù
triều đại vua Quang Trung ngắn ngủi nhưng đã tạo được không khí hiếu
học trong dân gian rất đáng khâm phục. Nhà Nguyễn
Nếu các triều đại Lý, Trần, Lê gắn liền với những trang sử oai hùng của
dân tộc trong cuộc kháng chiến chống xâm lược, giữ gìn độc lập cho Tổ
quốc thì triều Nguyễn được dựng lên nhờ sự bành trướng, giúp sức của
nước ngoài sau cuộc nội chiến tranh giành quyền lực kéo dài. Để củng
cố địa vị thống trị của mình, vua quan nhà Nguyễn ra sức phục hồi và
phát triển Nho giáo. Các vua nhà Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng,
Tự Đức, Thiệu Trị đều là những người trực tiếp truyền bá Nho giáo và
đào tạo Nho sĩ. Các nội dung mệnh trời, tam cương, ngũ thường, trung
hiếu, tiết nghĩa... của Nho giáo được đề cao theo hướng duy tâm và
khắc nghiệt hơn. Gia Long ban hành bộ Hoàng triều luật lệ làm công cụ
để bảo vệ tam cương, ngũ thường, trong đó phạt tội bất trung, bất hiếu
còn tàn khốc hơn bộ luật Hồng Đức dưới triều Lê. Minh Mạng ban hành
mười huấn dụ, gọi là Thập điều nhằm khuyên răn người dân theo về với
chính đạo là Nho giáo và triều đình. Trong đó, điều mục đầu tiên và bao
trùm lên tất cả là Đôn nhân tuân tức phải luôn ghi nhớ và thực hiện tam cương, ngũ thường.
Năm 1858, quân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc xâm lược Việt Nam.
Sau hàng ước 1884, giai cấp phong kiến triều Nguyễn trở thành tay sai
cho Pháp và tiếp tục cấu kết với bọn đế quốc để nô dịch nhân dân ta.
Trong thời kỳ lịch sử này, Nho giáo vẫn tiếp tục được tồn tại và các kỳ
thi Nho giáo vẫn được duy trì cho đến đầu thế kỷ XX mới chấm dứt.
Như vậy, triều Nguyễn là triều đại cuối cùng trên đất nước ta khẳng định
địa vị quốc giáo của Nho giáo. Nếu như Nho giáo Việt Nam ở những
triều đại trước còn mang tính tích cực, hợp lý thì Nho giáo triều Nguyễn
(trừ một số nhà nho yêu nước, có tư tưởng tiến bộ, cách tân) đã trở nên
tiêu cực, bảo thủ và lỗi thời, nên sự suy tàn của nó là một tất yếu trước
những thách thức mới của lịch sử
- Ảnh hưởng tích cực của Nho gia đến đời sống chính trị Việt Nam hiện nay:
+ Nền nếp, trật tự, trên dưới; quan hệ, ứng xử xã hội tốt đẹp; Đạo đức xã
hội được duy trì; Tạo sự ổn định xã hội nhất định; Giáo dục sự rèn
luyện, tu dư|ng bản thân : Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến
vấn đề tu dư|ng đạo đức cá nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người
cầm quyền (những người có chức, quyền). G.S. Vũ Khiêu đã nhận xét:
Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực tế là những người trong bộ
máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai trị được nhân dân. Cho
nên đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân. Theo Nho
giáo, đạo đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của
một triều đại. Vì vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân”
để làm tấm gương cho người dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái
gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống
có đạo đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng
ngời về đạo đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà
kinh điển của Nho giáo, người làm quan phải có đức, phải lấy nhân
nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa lòng người, để cai trị. Muốn
vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua quan. Thiết
nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người cán bộ
trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin
yêu, kính phục. Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là
độc ác, để dân đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị
dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được
đường lối đức trị, người cầm quyền phải luôn “tu, tề, trị, bình
+, Tư tưởng lễ đã đạt tới mức độ sâu sắc, trở thành thước đo, đánh giá
phẩm hạnh con người. Sự giáo dục con người theo lễ đã tạo thành một
dư luận xã hội rộng lớn, biết quý trọng người có lễ và khinh ghét người
vô lễ. Lễ không dừng lại ở lý thuyết, ở những lời giáo huấn mà đã đi vào
lương tâm của con người. Từ lương tâm đã dẫn đến hành động đến mức
trong các triều đại phong kiến xưa, nhiều người thà chết chứ không bỏ
lễ: chết đói là việc nhỏ, nhưng thất tiết mới là việc lớn (Chu Hy). Nhờ
tin và làm theo lễ mà các xã hội theo Nho giáo đã giữ được yên ổn trong
gia đình và trật tự ngoài xã hội trong khuôn khổ của chế độ phong kiến.
Lễ trở thành điều kiện bậc nhất trong việc quản lý đất nước và gia đình.
Yếu tố hợp lý này chúng ta có thể học tập
- Ảnh hưởng tiêu cực của Nho gia đến đời sống chính trị Việt Nam hiện nay:
+ Mệnh lệnh, gia trưởng trong gia đình, cơ quan: Việc coi trọng lễ và
cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng nhắc, bảo thủ là cơ sở
cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, coi thường
lớp trẻ, trọng nam khinh nữ... hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và
hành động của không ít người. Những tư tưởng trên phản ánh cơ sở hạ
tầng của xã hội phong kiến phụ quyền gia trưởng: Đứng đầu gia đình là
người cha, người chồng gọi là gia trưởng, đứng đầu dòng họ là trưởng
họ, đại diện cho cả làng là ông lý, cả tổng là ông chánh, hệ thống quan
lại là cha mẹ dân và cao nhất là vua (thiên tử - gia trưởng của gia đình
lớn – quốc gia, nước). Vì vậy, mọi người có nghĩa vụ theo và lệ thuộc
vào “gia trưởng”. Thực chất đạo cương – thường của Nho giáo là bắt bề
dưới phải phục tùng bề trên đã tạo nên thói gia trưởng. Thói gia trưởng
biểu hiện ở quan hệ xã hội, ở tổ chức nhà nước. Trong gia đình là quyền
quyết định của người cha, người chồng :”cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”;
“phu xướng phụ tòng” (chồng đề xướng, vợ phải theo). Ở cơ quan là
quyền duy nhất là của lãnh đạo. Ở đâu vẫn còn có cán bộ mang tư tưởng
gia trưởng, bè phái thì ở đó quần chúng nhân dân sẽ không phát huy
được khả năng sáng tạo, chủ động được. Ngày nay, trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang rất cần những con
người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
+ Xem nhẹ pháp luật, quy tắc, đề cao tình nghĩa, thân quen: Một số
người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công việc và
các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và vi
phạm pháp luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa
vai trò của đạo đức mà quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống
trọng đức của phương Đông, nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”,
“thân hiền” của Nho giáo, nhiều người khi có chức quyền đã kéo bè kéo
cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào cơ quan mình đang quản lý.
Sắp xếp và bố trí cán bộ không theo năng lực, trình độ và đòi hỏi của
công việc mà dựa vào sự thân thuộc, gần gũi trong quan hệ tông tộc,
dòng họ. Trong công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân thích
dẫn đến tư tưởng cục bộ địa phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc
mà không dám đấu tranh với những sai lầm của người khác. Do quan
niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với nội dung đền ơn trả nghĩa mà trong
thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của chính
sách và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền....Thậm chí,
một số người dùng tư tưởng gia trưởng để giải quyết các công việc
chung. Một trong những phẩm chất của người lãnh đạo là tính quyết
đoán. Nhưng quyết đoán theo kiểu độc đoán, chuyên quyền là biểu hiện của thói gia trưởng.
+ Cản trở thực hiện cơ chế dân chủ trong đời sống : Cũng từ việc coi
trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc nên nhiều người đã
đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên quan hệ “chú cháu”,
“anh em” khiến cho người cấp dưới không dám góp ý và đấu tranh với
khuyết điểm của họ vì vị nể bậc cha chú. Từ việc xem xét và giải quyết
các vấn đề của xã hội thông qua lăng kính gia đình nhiều khi dẫn đến
những quyết định thiếu khách quan, không công bằng. Tư tưởng trọng
nam khinh nữ đã dẫn đến một số người lãnh đạo không tin vào khả năng
của phụ nữ, ngại tiếp nhận nữ giới vào cơ quan hoặc cho rằng họ chỉ là
người thừa hành mà không được tham gia góp ý kiến...là những trở ngại
cho việc đấu tranh vì quyền bình đẳng giới. Vì quan hệ thứ bậc đã tạo
nên quan niệm chạy theo chức quyền. Trong xã hội phong kiến, địa vị
luôn gắn với danh vọng và quyền lợi. Địa vị càng cao thì quyền và lợi
càng lớn. Hơn nữa, khi có chức, không những bản thân được vinh hoa
phú quý mà “một người làm quan cả họ được nhờ”. Hám danh, tìm mọi
cách để có danh, để thăng quan, tiến chức đã trở thành lẽ sống của một
số người. Thạm chí việc học tập theo họ cũng là “học để làm quan”. b. Pháp gia
Ảnh hưởng tích cực của Pháp gia đến đời sống chính trị Việt Nam hiện nay: - Kỷ luật nghiêm minh - Đề cao phép tắc
- Chấp hành kỷ cương, luật lệ
Ảnh hưởng tiêu cực của Pháp gia đến đời sống chính trị Việt Nam hiện nay: - Mệnh lệnh cứng nhắc
- Thực hành máy móc các chế định
- Xã hội mang không khí nặng nề