Bài tự học chương 3 Chính trị học | Học viện báo chí và Tuyên truyền

Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác lenin về chính trị. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị. Chứng minh những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng học thuyết chính trị Mác – Lênin vào điều kiện Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Câu 1: Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác lenin về chính trị
- Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân rộc, các quốc
gia với vấn đề giành, giữ tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước, là sự tham gia của
nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của
các giai cấp, Đảng phái chính trị, các Nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực
hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thoả mãn lợi ích
1. Bản chất chính trị, cách mạng chính trị và đấu tranh chính trị
a. Bản chất của chính trị
- Bản chất giai cấp
+ thể hiện ở nguồn gốc ra đời của chính trị
+ thể hiện ở mục đích mà chính trị hướng tới
- Tính dân tộc
+ Chính trị bao giờ cũng được triển khai, hoạch định trên quy mô quốc gia
+ Khi thực hiện các vấn đề chính trị quốc tế, giai cấp cầm quyền nhân danh đấu tranh
dân tộc
+ Đấu tranh giai cấp trong giai đoạn đầu không thể không mang danh đấu tranh dân
tộc
+ Đấu tranh giải phóng dân tộc, chống kì thị dân tộc… luôn là nội dung quan trọng
của chính trị
- Tính nhân loại
+ Vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc gắn với vấn đề nhân loại. Giải quyết vấn đề nhân
loại trên cơ sở quan điểm giai cấp
+ Việc giải phóng giai cấp, dân tộc, xã hội là những vấn đề quan hệ mật thiết với nhau
của nền chuyên chính vô sản, là xu hướng phát triển của chính trị nhân loại
b. Đấu tranh chính trị
- Đấu tranh chính trị là đỉnh co của đấu tranh giai cấp
- Đấu tranh giai cấp là hiện tượng tất yếu của lịch sử, gồm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Đấu tranh kinh tế
- Trình độ thấp nhất của đấu tranh giai cấp, là khởi đầu nhưng rất quan trọng vì nó là
cơ sở tồn tại thực tiễn để thông qua đó giai cấp công nhân giác ngộ về vai trò sức
mệnh lịch sử của mình
- Nguy cơ: Chủ nghĩa kinh tế thuần túy, sa vào chủ nghĩa công đoàn, xuất hiện phong
trào “công đoàn vàng” và tầng lớp “công nhân quý tộc”
Giai đoạn 2: Đấu tranh tư tưởng, lí luận
- Trước hết là sự trang bị hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lenin cho giai cấp công
nhân
- Nội dung đấu tranh tư tưởng lí luận chống
+ Lí luận phản động của giai cấp tư sản
+ Những trào lưu tư tưởng cơ hội chủ nghĩa để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa
Mác - Lenin
Giai đoạn 3: Đấu tranh chính trị
- Là hình thức đấu tranh cao nhất, điển hình nhất của đấu tranh giai cấp
- Nhiệm vụ: Thủ tiêu bộ máy nhà nc cũ, thiết lập bộ máy nhà nước mới, nền chuyên
chính vô sản
- Mục tiêu của đấu tranh giai cấp: tiến lên cách mạng xã hội, thực chất giải quyết mâu
thuẫn: LLSX >< QHSX; giai cấp tiên tiến >< giai cấp lỗi thời
-Điều kiện đạt tới đấu tranh chính trị:
+ Giai cấp vô sản phải có lí luận, có đội tiên phong của giai cấp mình – Đảng cộng sản
+ Giai cấp vô sản phải trở thành lực lượng chính trị độc lập và đối lập trực tiếp với
giai cấp tư sản
+ Đảng phải chuẩn bị cơ sở xã hội và thâm nhập vào cơ sở xã hội đó, phong trào đấu
tranh đó
+ Vấn đề chính quyền được đặt ra một cách trực tiếp
=> Quan hệ giữa 3 hình thức:
- Các hình thức đấu tranh có quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng và bổ sung cho
nhau
- Đấu tranh kinh tế, tư tưởng sẽ phục vụ cho đấu tranh chính trị -> quyết định thắng
lợi cuối cùng của giai cấp vô sản vs giai cấp tư sản
* Cách mạng chính trị
- Bất cứ một cuộc Cách mạng xã hội nào cũng có tính chất chính trị: vì nó trực tiếp
đụng chạm đến vấn đề quyền lực chính trị, trực tiếp tuyên chiến với thể chế cũ
- Bất cứ một cuộc Cách mạng chính trị nào cũng có tính chất xã hội: vì nó đặt vấn đề
cải tạo các quan hệ xã hội xũ, xây dựng các quan hệ mới trên mỗi bước tiến của Cách
mạng.
=> Chính trị là lĩnh vực phức tạp nhất, nhạy cảm nhất, liên quan đến vận mệnh của cả
quốc gia => Việc giải quyết vấn đề chính trị
+ Vừa là khoa học (dựa trên cơ sở quy luật phát triển khách quan, đòi hỏi có hệ thống
tri thức, lý luận)
+ Vừa là nghệ thuật (nghệ thuật trong việc ứng dụng lý luận, kinh nghiệm vào trong
thực tiễn, sáng tạo, nắm bắt thời cơ, sử dụng con người, vận động quần chúng...)
Câu 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị
1. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
- Nền tảng hình thành nên tư tưởng độc lập dân tộc
+ Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam biến Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân được đặt ra một cách cấp
thiết.
+ Truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc
- Nội dung của tư tưởng:
+ Dân tộc đó phải có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phải có quyền tự quyết định sự
phát triển của dân tộc mình.
+ Độc lập dân tộc thật sự phải thực hiện được các giá trị: tự do, dân chủ, công bằng,
bình đẳng đối với nhân dân.
+ Độc lập về chính trị phải gắn liền với sự phồn thịnh mọi mặt: kinh tế, văn hóa, xã
hội.
+ Độc lập dân tộc phải tự giành lấy bằng con đường cách mạng, tự lực, tự cường và tự
trọng
- Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
+ Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
+ Độc lập dân tộc là tiền đề, điều kiện để xây dựng CNXH.
+ CNXH là bước phát triển tất yếu, lôgíc tiếp theo của độc lập dân tộc, của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân,
+ CNXH bảo đảm chắc chắn nhất, thực chất nhất cho độc lập dân tộc. CNXH làm cho
người dân có độc lập, tự do, hạnh phúc hơn
2. Tư tưởng về đại đoàn kết
- Đoàn kết toàn dân, trên lập trường của giai cấp công nhân, trên mọi phương diện
- Đoàn kết là để phát triển, để làm tốt hơn nhiệm vụ của cách mạng, cách mạng muốn
thắng lợi thì phải đoàn kết
- Nguyên tắc đại đoàn kết:
+ Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân
tộc, lợi ích của
nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người
+ Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết rộng rãi, lâu
dài, bền vững
+ Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê bình, phê bình
vì sự thống nhất bền vững
3. Tư tưởng về nhà nước của dân, do dân, vì dân
- Bản chất của nhà nước trong TTHCM:
+ Bản chất giai cấp: do giai cấp công nhân lãnh đạo
+ Tính nhân dân sâu sắc: HTCT được hình thành trên sức mạnh của nhân dân, mọi
hoạt động của Nhà nước suy cho cùng thực hiện và bảo vệ lợi ích của nhân dân lấy lợi
ích dân tộc làm nền tảng
+ Nhà nước của dân do dân và vì dân:
• Của dân: Tất cả quyền bính trong nước là của nhân dân
• Do dân: NN do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình; do dân ủng hộ, giúp
đỡ, đóng thuế để nhà nước chi hoạt động, do dân yêu cầu, xây dựng
• Vì dân: là NN phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân
- Tư tưởng về dân chủ:
+ Dân chủ có nghĩa – dân là chủ và dân làm chủ:
+ Giá trị thực chất của dân chủ là nhân dân phải có cơm ăn áo mặc, được học hành…
+ Dân chủ là chìa khoá của tiến bộ xã hội
+ Chủ trương phải thực hành dân chủ rộng rãi trong nhân dân (tuy nhiên dân chủ phải
gắn với pháp luật, với tập trung)
- Quan điểm phục vụ của cán bộ, nhân viên Nhà nước
• Chú ý đến quyền lợi của dân “việc gì có lợi cho dân thì làm việc gì có hại cho dân
thì phải hết sức
tránh”
• Chống đặc quyền đặc lợi và các tiêu cực khác, giữ bộ máy nhà nước thật trong sạch
• Phải thân dân, gần dân, tôn trọng đến lợi ích của nhân dân
• Cán bộ phải là đầy tớ của dân, phải thấm nhuần đạo đức cách mạng
4. Lý luận về Đảng cầm quyền
-Bản chất giai cấp công nhân của Đảng:
+Đảng cách mệnh là Đảng của giai cấp vô sản, là đội tiên phong của vô sản giai cấp.
+Xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc về Đảng kiểu mới của CN Mác.
+Lấy CN Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho tổ chức và mọi hoạt
động của đảng.
5. Tư tưởng về phương pháp cách mạng
- Phương pháp cách mạng
• Nghĩa rộng: là sự vận động của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh trong thực tiễn, là
những quy luật hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng
• Nghĩa hẹp là hệ thống các nguyên tắc được thể hiện bằng những hình thức, biện
pháp, bước đi thích hợp để thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng, biến đường lối
cách mạng thành hiện thực.
- Phương pháp cách mạng HCM là phương pháp cách mạng vô sản được vận dụng và
phát triển một cách sáng tạo vào một nước thuộc địa nửa phong kiến. Thể hiện đầy đủ
3 yếu tố:
+ Chủ thể hành động
+ Mục tiêu hành động
+ Hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp
- Hệ thống các phương pháp cách mạng của HCM
+ Xuất phát từ thực tế Việt Nam, lấy cải tạo, biến đổi hiện thực Việt Nam làm mục
tiêu cho mọi hoạt động cách mạng
+ Dĩ bất biến, ứng vạn biến.
+ Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
+ Nắm vững thời cơ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thời, thế, lực
+ Biết thắng từng bước, biết phát động và biết kết thúc chiến tranh.
+ Kết hợp các phương pháp đấu tranh cách mạng một cách sáng tạo
Câu 3: Chứng minh những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng học thuyết
chính trị Mác – Lênin vào điều kiện Việt Nam.
Thứ nhất, xác định đúng đắn con đường giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Dưới chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam chịu cảnh áp bức,
bóc lột nặng nề, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, lầm than. Không chịu khuất phục
trước cảnh nước mất nhà tan và cũng không đi theo những vết xe đổ của các bậc tiền
bối. Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước.
Người đi nhiều nước, làm nhiều nghề khác nhau, vừa nghiên cứu, vừa học tập một
cách độc lập, tự chủ, sáng tạo.
Trải qua cuộc sống lao động, học tập, nghiên cứu lý luận và nhất là qua thực tiễn đấu
tranh cách mạng phong phú đã làm giàu văn hóa, mở rộng tầm nhìn và nâng cao trí tuệ
của Hồ Chí Minh. Người đã nhận thấy vấn đề giải phóng dân tộc và con người không
chỉ là nhu cầu cấp thiết của dân tộc Việt Nam mà là đòi hỏi của các dân tộc thuộc địa,
phụ thuộc và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới. Tiếp thu thế giới quan, phương
pháp luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, bằng thiên tài trí tuệ,
nhận thức đúng xu thế phát triển tất yếu của loài người và tính chất của thời đại mới,
Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản” và “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ”.
Với nhãn quan chính trị nhạy bén, nhận rõ tính chất thời đại mới từ sau Cách mạng
Tháng Mười Nga và xu thế phát triển của nhân loại, đặt cách mạng giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản và là một bộ
phận khăng khít của cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường đúng đắn
cho cách mạng Việt Nam. Đó là con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do
Đảng Cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc
lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực
hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Đó là đường lối giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng
con người. Tư tưởng đó thể hiện tính quy luật của sự phát triển lịch sử xã hội Việt
Nam: “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ
nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”.
Thứ hai, vận dụng và giải quyết sáng tạo vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Cuộc hành trình qua nhiều nước vào những năm đầu thế kỷ XX giúp Hồ Chí Minh
nhận thấy rằng, phải có được quan hệ hợp tác giúp đỡ giữa cách mạng chính quốc và
cách mạng thuộc địa. Ngay từ năm 1921, Người khẳng định, thực dân, đế quốc là kẻ
thù của nhân dân thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao động chính quốc. Bởi
vậy, để chống lại kẻ thù chung, để giải phóng thân phận nô lệ và bị bóc lột, đòi hỏi sự
đoàn kết liên minh chặt chẽ nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc. Ðiểm mới
và sâu sắc trong tư tưởng của Người là: Bọn đế quốc không chỉ áp bức bóc lột nhân
dân các nước thuộc địa, mà còn thống trị nhân dân lao động và giai cấp vô sản chính
quốc. Người đã ví chủ nghĩa đế quốc giống như “con đỉa hai vòi”. Người đã sớm nhìn
thấy mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa. Người
nhận thấy không những cách mạng vô sản ảnh hưởng đến cách mạng thuộc địa mà
cách mạng thuộc địa cũng tác động đến cách mạng vô sản. Người còn đưa ra dự báo
hết sức khoa học đó là cách mạng thuộc địa có thể thắng lợi trước: “Cách mạng giải
phóng dân tộc muốn thắng lợi phải thực hiện liên minh chiến đấu giữa giai cấp vô sản
ở thuộc địa với giai cấp vô sản ở chính quốc.... Do đó, cách mạng thuộc địa không chỉ
trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc, hơn nữa cần phải chủ động
và có thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của mình sẽ góp phần vào sự nghiệp
cách mạng ở chính quốc”. Dự báo đó đã trở thành định hướng, kim chỉ nam và được
hiện thực hóa ở cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về thành lập chính đảng giai cấp vô
sản.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh sớm nhận thức được vai trò lãnh
đạo của giai cấp công nhân, về sự cần thiết phải có Đảng Cộng sản để lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Vào những năm 20 thế kỷ XX, trong một số bài
viết về V.I.Lênin, về Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định sự cần
thiết phải thành lập Đảng Cộng sản theo học thuyết Mác - Lênin ở các nước thuộc địa.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người nêu rõ: “Cách mệnh trước hết phải có cái
gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Người
khẳng định vấn đề có ý nghĩa quyết định trong xây dựng Đảng là: “Đảng muốn vững
thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không
có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Song, theo Người,
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, nhưng không được giáo điều, rập khuôn máy
móc, mà phải hiểu bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết này để vận dụng
một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc, phải đề ra đường
lối cách mạng đúng đắn. Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản
ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân. Trong điều kiện Việt Nam và các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh cho rằng, tính
chất Đảng Cộng sản không chỉ ở thành phần xuất thân từ công nhân hết thảy, mà là ý
thức tư tưởng chính trị và theo đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong hoàn cảnh
một nước thuộc địa lạc hậu như Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng tạo trong việc kết
hợp nhân tố dân tộc và nhân tố giai cấp để thành lập Đảng Cộng sản. Nhân tố dân tộc
là chủ nghĩa yêu nước, nhân tố giai cấp là chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công
nhân.
Thứ tư, vận dụng và phát triển sáng tạo tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản.
Tiếp thu tinh thần nổi tiếng của C.Mác: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” và sau
này được V.I.Lênin bổ sung: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức trên
toàn thế giới đoàn kết lại”, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo đối với
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá trình tìm đường cứu nước và hoạt động
chính trị, Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều nước trên thế giới. Người đã chứng kiến cảnh
cùng cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời thấy rõ cảnh sống xa
hoa của bọn tư sản. Thực tế sinh động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức rõ: Nơi
đâu cũng có người nghèo như ở xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ
đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác. Người đi tới kết luận:
“dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái
vô sản”. Kết luận này cho thấy nhận thức của Người về ý thức dân tộc và ý thức giai
cấp đã từ tầm nhìn quốc gia tới tầm nhìn quốc tế. Kết luận trên cũng là sự khởi đầu
của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh - đoàn kết với những người lao khổ, cần
lao trên thế giới, luôn gắn liền lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia với
lợi ích quốc tế.
Như vậy, thông qua quá trình hoạt động tích cực không biết mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã
vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam, để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta một hệ thống tư tưởng
và thực tiễn hết sức sâu sắc, không chỉ góp phần to lớn quyết định vào những thắng lợi
vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, công cuộc đổi mới đất nước trong những
năm qua mà còn có ý nghĩa chiến lược chỉ đạo lâu dài cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
| 1/9

Preview text:

Câu 1: Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác lenin về chính trị
- Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân rộc, các quốc
gia với vấn đề giành, giữ tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước, là sự tham gia của
nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của
các giai cấp, Đảng phái chính trị, các Nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực
hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thoả mãn lợi ích
1. Bản chất chính trị, cách mạng chính trị và đấu tranh chính trị
a. Bản chất của chính trị - Bản chất giai cấp
+ thể hiện ở nguồn gốc ra đời của chính trị
+ thể hiện ở mục đích mà chính trị hướng tới - Tính dân tộc
+ Chính trị bao giờ cũng được triển khai, hoạch định trên quy mô quốc gia
+ Khi thực hiện các vấn đề chính trị quốc tế, giai cấp cầm quyền nhân danh đấu tranh dân tộc
+ Đấu tranh giai cấp trong giai đoạn đầu không thể không mang danh đấu tranh dân tộc
+ Đấu tranh giải phóng dân tộc, chống kì thị dân tộc… luôn là nội dung quan trọng của chính trị - Tính nhân loại
+ Vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc gắn với vấn đề nhân loại. Giải quyết vấn đề nhân
loại trên cơ sở quan điểm giai cấp
+ Việc giải phóng giai cấp, dân tộc, xã hội là những vấn đề quan hệ mật thiết với nhau
của nền chuyên chính vô sản, là xu hướng phát triển của chính trị nhân loại b. Đấu tranh chính trị
- Đấu tranh chính trị là đỉnh co của đấu tranh giai cấp
- Đấu tranh giai cấp là hiện tượng tất yếu của lịch sử, gồm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Đấu tranh kinh tế
- Trình độ thấp nhất của đấu tranh giai cấp, là khởi đầu nhưng rất quan trọng vì nó là
cơ sở tồn tại thực tiễn để thông qua đó giai cấp công nhân giác ngộ về vai trò sức mệnh lịch sử của mình
- Nguy cơ: Chủ nghĩa kinh tế thuần túy, sa vào chủ nghĩa công đoàn, xuất hiện phong
trào “công đoàn vàng” và tầng lớp “công nhân quý tộc”
Giai đoạn 2: Đấu tranh tư tưởng, lí luận
- Trước hết là sự trang bị hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lenin cho giai cấp công nhân
- Nội dung đấu tranh tư tưởng lí luận chống
+ Lí luận phản động của giai cấp tư sản
+ Những trào lưu tư tưởng cơ hội chủ nghĩa để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lenin
Giai đoạn 3: Đấu tranh chính trị
- Là hình thức đấu tranh cao nhất, điển hình nhất của đấu tranh giai cấp
- Nhiệm vụ: Thủ tiêu bộ máy nhà nc cũ, thiết lập bộ máy nhà nước mới, nền chuyên chính vô sản
- Mục tiêu của đấu tranh giai cấp: tiến lên cách mạng xã hội, thực chất giải quyết mâu
thuẫn: LLSX >< QHSX; giai cấp tiên tiến >< giai cấp lỗi thời
-Điều kiện đạt tới đấu tranh chính trị:
+ Giai cấp vô sản phải có lí luận, có đội tiên phong của giai cấp mình – Đảng cộng sản
+ Giai cấp vô sản phải trở thành lực lượng chính trị độc lập và đối lập trực tiếp với giai cấp tư sản
+ Đảng phải chuẩn bị cơ sở xã hội và thâm nhập vào cơ sở xã hội đó, phong trào đấu tranh đó
+ Vấn đề chính quyền được đặt ra một cách trực tiếp
=> Quan hệ giữa 3 hình thức:
- Các hình thức đấu tranh có quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng và bổ sung cho nhau
- Đấu tranh kinh tế, tư tưởng sẽ phục vụ cho đấu tranh chính trị -> quyết định thắng
lợi cuối cùng của giai cấp vô sản vs giai cấp tư sản * Cách mạng chính trị
- Bất cứ một cuộc Cách mạng xã hội nào cũng có tính chất chính trị: vì nó trực tiếp
đụng chạm đến vấn đề quyền lực chính trị, trực tiếp tuyên chiến với thể chế cũ
- Bất cứ một cuộc Cách mạng chính trị nào cũng có tính chất xã hội: vì nó đặt vấn đề
cải tạo các quan hệ xã hội xũ, xây dựng các quan hệ mới trên mỗi bước tiến của Cách mạng.
=> Chính trị là lĩnh vực phức tạp nhất, nhạy cảm nhất, liên quan đến vận mệnh của cả
quốc gia => Việc giải quyết vấn đề chính trị
+ Vừa là khoa học (dựa trên cơ sở quy luật phát triển khách quan, đòi hỏi có hệ thống tri thức, lý luận)
+ Vừa là nghệ thuật (nghệ thuật trong việc ứng dụng lý luận, kinh nghiệm vào trong
thực tiễn, sáng tạo, nắm bắt thời cơ, sử dụng con người, vận động quần chúng...)
Câu 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị
1. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
- Nền tảng hình thành nên tư tưởng độc lập dân tộc
+ Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam biến Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân được đặt ra một cách cấp thiết.
+ Truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc
- Nội dung của tư tưởng:
+ Dân tộc đó phải có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phải có quyền tự quyết định sự
phát triển của dân tộc mình.
+ Độc lập dân tộc thật sự phải thực hiện được các giá trị: tự do, dân chủ, công bằng,
bình đẳng đối với nhân dân.
+ Độc lập về chính trị phải gắn liền với sự phồn thịnh mọi mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội.
+ Độc lập dân tộc phải tự giành lấy bằng con đường cách mạng, tự lực, tự cường và tự trọng
- Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
+ Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
+ Độc lập dân tộc là tiền đề, điều kiện để xây dựng CNXH.
+ CNXH là bước phát triển tất yếu, lôgíc tiếp theo của độc lập dân tộc, của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân,
+ CNXH bảo đảm chắc chắn nhất, thực chất nhất cho độc lập dân tộc. CNXH làm cho
người dân có độc lập, tự do, hạnh phúc hơn
2. Tư tưởng về đại đoàn kết
- Đoàn kết toàn dân, trên lập trường của giai cấp công nhân, trên mọi phương diện
- Đoàn kết là để phát triển, để làm tốt hơn nhiệm vụ của cách mạng, cách mạng muốn
thắng lợi thì phải đoàn kết
- Nguyên tắc đại đoàn kết:
+ Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích của
nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người
+ Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết rộng rãi, lâu dài, bền vững
+ Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê bình, phê bình
vì sự thống nhất bền vững
3. Tư tưởng về nhà nước của dân, do dân, vì dân
- Bản chất của nhà nước trong TTHCM:
+ Bản chất giai cấp: do giai cấp công nhân lãnh đạo
+ Tính nhân dân sâu sắc: HTCT được hình thành trên sức mạnh của nhân dân, mọi
hoạt động của Nhà nước suy cho cùng thực hiện và bảo vệ lợi ích của nhân dân lấy lợi
ích dân tộc làm nền tảng
+ Nhà nước của dân do dân và vì dân:
• Của dân: Tất cả quyền bính trong nước là của nhân dân
• Do dân: NN do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình; do dân ủng hộ, giúp
đỡ, đóng thuế để nhà nước chi hoạt động, do dân yêu cầu, xây dựng
• Vì dân: là NN phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân
- Tư tưởng về dân chủ:
+ Dân chủ có nghĩa – dân là chủ và dân làm chủ:
+ Giá trị thực chất của dân chủ là nhân dân phải có cơm ăn áo mặc, được học hành…
+ Dân chủ là chìa khoá của tiến bộ xã hội
+ Chủ trương phải thực hành dân chủ rộng rãi trong nhân dân (tuy nhiên dân chủ phải
gắn với pháp luật, với tập trung)
- Quan điểm phục vụ của cán bộ, nhân viên Nhà nước
• Chú ý đến quyền lợi của dân “việc gì có lợi cho dân thì làm việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh”
• Chống đặc quyền đặc lợi và các tiêu cực khác, giữ bộ máy nhà nước thật trong sạch
• Phải thân dân, gần dân, tôn trọng đến lợi ích của nhân dân
• Cán bộ phải là đầy tớ của dân, phải thấm nhuần đạo đức cách mạng
4. Lý luận về Đảng cầm quyền
-Bản chất giai cấp công nhân của Đảng:
+Đảng cách mệnh là Đảng của giai cấp vô sản, là đội tiên phong của vô sản giai cấp.
+Xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc về Đảng kiểu mới của CN Mác.
+Lấy CN Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho tổ chức và mọi hoạt động của đảng.
5. Tư tưởng về phương pháp cách mạng - Phương pháp cách mạng
• Nghĩa rộng: là sự vận động của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh trong thực tiễn, là
những quy luật hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
• Nghĩa hẹp là hệ thống các nguyên tắc được thể hiện bằng những hình thức, biện
pháp, bước đi thích hợp để thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng, biến đường lối
cách mạng thành hiện thực.
- Phương pháp cách mạng HCM là phương pháp cách mạng vô sản được vận dụng và
phát triển một cách sáng tạo vào một nước thuộc địa nửa phong kiến. Thể hiện đầy đủ 3 yếu tố: + Chủ thể hành động + Mục tiêu hành động
+ Hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp
- Hệ thống các phương pháp cách mạng của HCM
+ Xuất phát từ thực tế Việt Nam, lấy cải tạo, biến đổi hiện thực Việt Nam làm mục
tiêu cho mọi hoạt động cách mạng
+ Dĩ bất biến, ứng vạn biến.
+ Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
+ Nắm vững thời cơ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thời, thế, lực
+ Biết thắng từng bước, biết phát động và biết kết thúc chiến tranh.
+ Kết hợp các phương pháp đấu tranh cách mạng một cách sáng tạo
Câu 3: Chứng minh những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng học thuyết
chính trị Mác – Lênin vào điều kiện Việt Nam.
Thứ nhất, xác định đúng đắn con đường giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Dưới chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam chịu cảnh áp bức,
bóc lột nặng nề, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, lầm than. Không chịu khuất phục
trước cảnh nước mất nhà tan và cũng không đi theo những vết xe đổ của các bậc tiền
bối. Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước.
Người đi nhiều nước, làm nhiều nghề khác nhau, vừa nghiên cứu, vừa học tập một
cách độc lập, tự chủ, sáng tạo.
Trải qua cuộc sống lao động, học tập, nghiên cứu lý luận và nhất là qua thực tiễn đấu
tranh cách mạng phong phú đã làm giàu văn hóa, mở rộng tầm nhìn và nâng cao trí tuệ
của Hồ Chí Minh. Người đã nhận thấy vấn đề giải phóng dân tộc và con người không
chỉ là nhu cầu cấp thiết của dân tộc Việt Nam mà là đòi hỏi của các dân tộc thuộc địa,
phụ thuộc và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới. Tiếp thu thế giới quan, phương
pháp luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, bằng thiên tài trí tuệ,
nhận thức đúng xu thế phát triển tất yếu của loài người và tính chất của thời đại mới,
Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản” và “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Với nhãn quan chính trị nhạy bén, nhận rõ tính chất thời đại mới từ sau Cách mạng
Tháng Mười Nga và xu thế phát triển của nhân loại, đặt cách mạng giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản và là một bộ
phận khăng khít của cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường đúng đắn
cho cách mạng Việt Nam. Đó là con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do
Đảng Cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc
lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực
hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Đó là đường lối giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng
con người. Tư tưởng đó thể hiện tính quy luật của sự phát triển lịch sử xã hội Việt
Nam: “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ
nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”.
Thứ hai, vận dụng và giải quyết sáng tạo vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Cuộc hành trình qua nhiều nước vào những năm đầu thế kỷ XX giúp Hồ Chí Minh
nhận thấy rằng, phải có được quan hệ hợp tác giúp đỡ giữa cách mạng chính quốc và
cách mạng thuộc địa. Ngay từ năm 1921, Người khẳng định, thực dân, đế quốc là kẻ
thù của nhân dân thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao động chính quốc. Bởi
vậy, để chống lại kẻ thù chung, để giải phóng thân phận nô lệ và bị bóc lột, đòi hỏi sự
đoàn kết liên minh chặt chẽ nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc. Ðiểm mới
và sâu sắc trong tư tưởng của Người là: Bọn đế quốc không chỉ áp bức bóc lột nhân
dân các nước thuộc địa, mà còn thống trị nhân dân lao động và giai cấp vô sản chính
quốc. Người đã ví chủ nghĩa đế quốc giống như “con đỉa hai vòi”. Người đã sớm nhìn
thấy mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa. Người
nhận thấy không những cách mạng vô sản ảnh hưởng đến cách mạng thuộc địa mà
cách mạng thuộc địa cũng tác động đến cách mạng vô sản. Người còn đưa ra dự báo
hết sức khoa học đó là cách mạng thuộc địa có thể thắng lợi trước: “Cách mạng giải
phóng dân tộc muốn thắng lợi phải thực hiện liên minh chiến đấu giữa giai cấp vô sản
ở thuộc địa với giai cấp vô sản ở chính quốc.... Do đó, cách mạng thuộc địa không chỉ
trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc, hơn nữa cần phải chủ động
và có thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của mình sẽ góp phần vào sự nghiệp
cách mạng ở chính quốc”. Dự báo đó đã trở thành định hướng, kim chỉ nam và được
hiện thực hóa ở cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về thành lập chính đảng giai cấp vô sản.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh sớm nhận thức được vai trò lãnh
đạo của giai cấp công nhân, về sự cần thiết phải có Đảng Cộng sản để lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Vào những năm 20 thế kỷ XX, trong một số bài
viết về V.I.Lênin, về Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định sự cần
thiết phải thành lập Đảng Cộng sản theo học thuyết Mác - Lênin ở các nước thuộc địa.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người nêu rõ: “Cách mệnh trước hết phải có cái
gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Người
khẳng định vấn đề có ý nghĩa quyết định trong xây dựng Đảng là: “Đảng muốn vững
thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không
có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Song, theo Người,
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, nhưng không được giáo điều, rập khuôn máy
móc, mà phải hiểu bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết này để vận dụng
một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân tộc, phải đề ra đường
lối cách mạng đúng đắn. Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản
ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân. Trong điều kiện Việt Nam và các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh cho rằng, tính
chất Đảng Cộng sản không chỉ ở thành phần xuất thân từ công nhân hết thảy, mà là ý
thức tư tưởng chính trị và theo đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong hoàn cảnh
một nước thuộc địa lạc hậu như Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng tạo trong việc kết
hợp nhân tố dân tộc và nhân tố giai cấp để thành lập Đảng Cộng sản. Nhân tố dân tộc
là chủ nghĩa yêu nước, nhân tố giai cấp là chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân.
Thứ tư, vận dụng và phát triển sáng tạo tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản.
Tiếp thu tinh thần nổi tiếng của C.Mác: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” và sau
này được V.I.Lênin bổ sung: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức trên
toàn thế giới đoàn kết lại”, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo đối với
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá trình tìm đường cứu nước và hoạt động
chính trị, Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều nước trên thế giới. Người đã chứng kiến cảnh
cùng cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời thấy rõ cảnh sống xa
hoa của bọn tư sản. Thực tế sinh động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức rõ: Nơi
đâu cũng có người nghèo như ở xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ
đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác. Người đi tới kết luận:
“dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái
vô sản”. Kết luận này cho thấy nhận thức của Người về ý thức dân tộc và ý thức giai
cấp đã từ tầm nhìn quốc gia tới tầm nhìn quốc tế. Kết luận trên cũng là sự khởi đầu
của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh - đoàn kết với những người lao khổ, cần
lao trên thế giới, luôn gắn liền lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.
Như vậy, thông qua quá trình hoạt động tích cực không biết mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã
vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam, để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta một hệ thống tư tưởng
và thực tiễn hết sức sâu sắc, không chỉ góp phần to lớn quyết định vào những thắng lợi
vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, công cuộc đổi mới đất nước trong những
năm qua mà còn có ý nghĩa chiến lược chỉ đạo lâu dài cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.