1.Trình bày bản chất và kết cấu của ý thức.
Bản chất của ý thức:
- Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc
conngười; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tính chất năng động,
sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt động tâm – sinh
lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin,
xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể
tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá
trình con người tạo ra những ý tưởng, giả thuyết, huyền thoại, v.v… trong đời
sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng
các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức
làhình ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả
về nội dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế
giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm lý, tình
cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu, v.v…) của con người. Theo
C.Mác, ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi trong đó” .
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội: Sự ra đời vàtồn
tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các
quy luật tự nhiên, mà còn chịu sự chi phối của các quy luật xã hội; được quy định
bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống xã
hội. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực
tiễn xã hội.
Kết cấu của ý thức: gồm 3 phần
- Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá
trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới
dạng các loại ngôn ngữ. Đây là yếu tố quan trọng nhất, là phương thức tồn tại
của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định
mức độ biểu hiện của các yếu tố khác
- Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các
quan hệ. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực của đời sống của
con người, là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động
thực tiễn và nhận thức.
- Ý chí là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt
qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích của nó. Ý chí được coi là
mặt năng động của ý thức, một biểu hiện trong thực tiễn ca ý thức mà ở đó
con người tự ý thức được mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình
và ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mc đích đã lựa chọn. Giá trị chân chính
của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở
nội dung, ý nghĩa của mục đích mà nó hướng tới.
2. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất ý thức?,
ý nghĩa của vấn đề này.
* Vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
kháchquan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta sao chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm
giác”.
* Ý thức: ý thức là mặt tinh thần của đời sng xã hội, bao gồm những
quanđiểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống,…nảy sinh
từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn nhất định.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Vật chất và ý thức có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau. Trong mối quan
hệ đó, vật chất là cái có trước, quyết định ý thức, ý thức là cái có sau, phụ thuộc vào
vật chất, do vật chất quyết định. Khi thừa nhận vật chất tồn tại bên ngoài và độc lập
với ý thức, quyết định ý thức, thì sự nhận thức thế giới không thể xuất phát từ ý thức
của con người, mà phải xuất phát từ thế giới khách quan. Nhưng ý thức có tính độc
lập tương đối, vai trò tác động trở lại đối với sự vận động phát triển của thế
giới vật chất.
*Vật chất quyết định ý thức trên 3 phương diện:
- Quyết định nội dung phản ánh của ý thức: bởi vì ý thức bao giờ cũng là
sự phản ánh thế giới vật chất và sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo trong
phản ánh và theo khuôn khổ của sự phản ánh. Hơn nữa, tự thân ý thức không
thể gây ra sự biến đổi nào trong đời sống hiện thực.
- Quyết định nguồn gốc ra đời của ý thức: nguồn gốc trực tiếp và quantrng
nhất quyết định sự ra đời và phát triển ca ý thức là lao động, là thực tiễn xã
hội. ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người
thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. ý thức là sản phẩm xã
hội, là một hiện tượng xã hội.
- Quyết định sự biến đổi của ý thức: ý thức phản ánh thế giới hiện thựckhách
quan, thế giới vật chất, bản thân nó không thể gây ra sự biến đôitrong đời
sống hiện thực. Nhưng thế giới vật chất thì luôn vận động và biến đổi không
ngừng (vận động là phương thức tồn tại của vật chất), vì vậy khi nó thay đổi
dẫn tới làm cho ý thức cũng thay đổi theo.
* Ý thức cũng có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất, bao gồm
các vấn đề sau:
- Mối quan hệ giữa ý thức và vật chất vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính
tương đối. Nghĩa là, vật chất luôn là cái có trước và quyết định ý thức, nhưng
ngược lại ý thức cũng có tác động trở lại đối với vật chất. Mối quan hệ này xét
về một mặt nào đó tương tự như mối quan hệ nhân quả.
- Ý thức có tính năng động to lớn, tác động trở lại thế giới vật chất theo hai
chiều: ý thức tích cực, tiến bộ, phản ánh đúng quy luật khách quan sẽ thúc đẩy
thế giới vật chất phát triển và chỉ đạo hoạt động thực tiễn thành công. Ngược
lại, ý thức tiêu cực, lạc hậu, không phản ánh đúng quy luật khách qua thì sẽ kìm
hãm sự phát triển, tuy nhiên sự kìm hãm này chỉ là tạm thời, không phải bất
biến.
+ Phương thức phản ánh của ý thức là thông qua hạt động thực tiễn của con
người, biến sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất, mà biểu hiện ở chỗ đề
ra các đường lối. Chủ trương chính sách đúng đắn, khoa học và phù hợp với tình
hình thực tiễn.
+ Sự tác động của ý thức để thúc đẩy thế giới vật chất phát triển phải có điều
kiện: ý thức phải phản ánh đúng hiện thực khách quan, con người vận dụng tri
thức đó vào hoạt động thực tiễn, đề ra được những phương án tối ưu chỉ đạo
hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hgiữa vật chất và ý thức
thì: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý
thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người; vậy, con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính
năng động chủ quan của mình
.- Pháỉ tôn trọng khách quan tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy
luật tự nhiên xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức hoạt động
thực tiễn con người phải xuất phát tthực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm
căn cứ cho mọi hoạt động của mình. V.I. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được
lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm
xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ
quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực tsẽ mắc
phải bệnh ch quan duy ý chí.
.- Phát huy tính năng động chủ quan của ý thức: tức là phát huy vai trò tích cực của
ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp
thay đổi được trong hiện thực. ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực
phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa phải được con người thực hiện trong thực
tiễn.phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, nhận thức đúng thực tiễn, từ
đó đề ra đường lối, chủ trương, biện pháp đúng và khoa học, phát huy vai trò nhân
tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan; đồng thời phải khắc phục bệnh
- Đấu tranh chống mọi biểu hiện bất chấp quy luật khách quan, bảo thủ trì trệ, thái
độ tiêu cực, thụ động, lại, ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay. Đặc biệt
bệnh chủ quan, duy ý chí.
=>Từ luận của chủ nghĩa Mác - Lênin từ kinh nghiệm thành công thất bại
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan
trọng "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan". Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa
và hiện đại hóa, Đảng chủ trương: "huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong
ngoài nước, đặc biệt nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất nước" ,
muốn vậy phải "nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, thực hiện "dân giàu, nước mạnh, hội công bằng, dân
chủ, văn minh".
3. Liên hệ gì? Mối liên hệ gì? Trình bày nội dung của mối
liên hệ. Trình bày nội dung của nguyên mối liên hệ phổ biến.
Tính chất. Ý nghĩa của vấn đề này.
Liên hệ: Là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay đổi của một trong số chúng nhất
định làm đối tượng kia thay đổi.
Mối liên hệ: là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy
định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa
các đối tượng với nhau.
dụ: Gió thổi mây bay; nước chảy đá mòn; cha mẹ quát mắng con cái dẫn đến
những cảm xúc tiêu cực ảnh hưởng đến con cái…
- “Mối liên hệ phổ biến”: là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ
của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng là dùng để chỉ các mối liên
hệ tồn tại nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới. Trong đó những mối liên hệ phổ
biến nhất những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, thuộc
đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng
=> Từ khái niệm trên, quan niệm siêu hình và quan điểm biện chứng đã giải quyết
như sau:
Quan điểm siêu hình: các svật, hiện tượng trong thế giới tồn tại độc lập, tách rời
nhau, cái này bên cạnh cái kia; giữa chúng không có sự liên hệ ràng buộc, quy định,
chuyển hóa lẫn nhau hoặc nếu thì chỉ mối liên hệ mang tính ngẫu nhiên, bề
ngoài.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng: các sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại trong sự
liên hệ, tác động qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau, không tách rời nhau. Cơ sở
của mối liên hệ phổ biến chính tính thống nhất vật chất của thế giới. Đây nội
dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
3.1 Các tính chất của mối liên hệ phổ biến
a) Tính khách quan
Khái niệm: Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định, tác động
và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng)
cái vốn của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con
người chỉ có thể nhận thức vận dụng các mối liên hđó trong hoạt động thực tiễn
của mình.
dụ: Các quan trong thể con người sự liên hệ, tác động lẫn nhau khi ta
chạy bộ, trong cơ thể ta sẽ diễn ra quá trình của Hệ vận động -> Hệ tuần hoàn -> Hệ
hô hấp -> Hệ bài tiết -> Hệ tiêu hóa -> Hệ thần kinh…
b) Tính phổ biến
Khái niệm: Cụ thể theo quan điểm biện chứng thì không bất cứ sự vật, hiện tượng
hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các svật, hiện tượng hay quá trình
khác. Đồng thời, cũng không bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải một cấu
trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của
nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn
tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Ví dụ 1: Sắc tố của da như có người da đen, người da trắng do nhiều yếu tố như
gen, môi trường sống, vv…
dụ 2: Dịch covid 19 đã gây ảnh hưởng tới kinh tế, hội như nền kinh tế giảm
sút do phải đóng cửa, sức khỏe con người bị đe dọa,…
c) Tính đa dạng, phong phú
- Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ khẳng định
tínhkhách quan, tính phổ biến của các mối liên hệ còn nhấn mạnh tính phong
phú, đa dạng của các mối liên hệ.
- Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật,
hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mi liên hệ cụ thể khác nhau, giữ
vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một
mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong những điều kiện cụ thể
khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau
=> Như vậy, không thể đồng nhất tính chất vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên
hệ khác nhau đối với mỗi sự vật, hiện tượng nhất định, trong những điều kiện xác
định. Đó các mối liên hệ bên trong bên ngoài, mối liên hệ bản chất hiện
tượng, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp,của mọi sự
vật, hiện tượng trong thế giới.
- dụ: Quan hệ giữa hai đất nước Mỹ Việt Nam, trong quá khứ lịch sử,
hainước kthù của nhau với rất nhiều cuộc chiến tranh lớn, căng thẳng, nhưng
hiện tại trong thời đại hòa bình ngày nay, hai nước lại trở thành bạn bè/đối tác. Như
vậy cho ta thấy được trong những điều kiện cụ thể khác nhau, tquá trình phát
triển mối quan hệ giữa hai nước đã có sự thay đổi qua từng giai đoạn.
3.2 Ý nghĩa phương pháp luận
-Trong hoạt động nhận thức hoạt động thực tiễn, con người phải tôn trọng quan
điểm toàn diện.
- Khi nhận thức một đối tượng , cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các
mặt yếu tố, các bộ phận cấu thành và các mối liên hệ của chỉnh thể đó.
- Khi nhận thức một đối tượng cần phải rút ra được những mối liên hbản chất tất
yếu của đối tượng đó và nhận thức chúng trong sự thống nhất nội tại.
- Khi nhận thức mt đối tượng cần phải đặt nó trong tương quan với các sự vật khác
và môi trường xung quanh.
- Khi nhận thức đối tượng cần phải tránh sự phiến diện, ngụy biện, chiết trung.
4. Phát triển gì? Phân biệt tiến a với tiến bộ. Tính chất sự phát
triển được thể hiện chỗ nào? Ý nghĩa phương pháp luận thể hiện như
nào
Phát triển là gì
- Quan điểm của CNDV siêu hình: không có sự phát triển; Nếu có thì chỉlà sự
tăng lên về lượng không sthay đổi về chất; nguyên nhân của sự phát triển
nằm bên ngoài svật, hiện tượng; Khuynh hướng phát triển thụt lùi hoặc theo
vòng tròn khép kín.
- Quan điểm của CNDT: phát triển; Nguyên nhân phát triển do cảmgiác
chủ quan hoặc 1 lực lượng siêu nhiên.
- Quan điểm của CNDVBC: từ liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng sẽ dẫn đến
vậnđộng, biến đổi; vận động lại nhiều khuynh hướng khác nhau: thụt lùi, tuần
hoàn, đi lên; trong đó vận động đi lên được gọi sphát triển. thế, phát triển
khác vận động; Nguyên nhân của phát triển mâu thuẫn vốn của sự vật, hiện
tượng; Cách thức phát triển đi từ những thay đổi vlượng thành những thay đổi
về chất ngược lại; Khuynh hướng phát triển là phủ định của phủ định, tạo thành
con đường xoáy ốc đi lên).
Khái niệm về sự phát triển: Chỉ những biến đổi theo chiều hướng đi lên
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Phân biệt tiến hóa với tiến bộ
*Tiến hóa
- Khái niệm: một dạng của phát triển , diễn ra theo cách từ từ thường
sựbiến đổi hình thức của tồn tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp .
- Đặc điểm : tiến hóa một quá trình tự nhiên , không mục đích định trước.
Sựthay đổi diễn ra từ từ , qua nhiều giai đoạn . Không phải lúc nào cũng tiến bộ tiến
hóa có thể dẫn đến cả sự tiến bộ và thoái hóa ,tùy thuộc vào môi trường và các yếu
tố khác
*Tiến bộ
- Khái niệm: là một quá trình biến đổi hướng tới cải thiện thực trạng xã
hội từ chỗchưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn so với thời điểm ban đầu.
- Đặc điểm : tiến bộ thường gắn liền với mục tiêu ý chí con người .
Hướng tới sựhoàn thiện sự thay đổi luôn hướng tới việc cải thiện chất lượng
cuộc sống , hiệu quả công việc . Tiến bộ có tính tương đối , phụ thuộc vào quan
điểm , giá trị ca mỗi người và mỗi xã hội,
Tính chất của phát triển được thể hiện ở:
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự
vậnđộng và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng;
là quá trình tự vận động, tự biến đổi, tự giải quyết mâu thuẫn trong sự vật, hiện
tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc
vào ý thức con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển
diễnra trong mi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả moi sự vật,
hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó;
trong mỗi quá trình biến đi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái
mới, phù hợp với qui luật khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú ca sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển
làkhuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện
tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống
nhau. Trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu nhiều sự tác động
của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện
lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của
sự vật, thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát
triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác.
Ý nghĩa phương pháp luận
a. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến → quan điểm toàn diện
- Xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành s vật, hiện
tượngtrong mối liên hệ qua lại lẫn nhau, cũng như xem xét mối liên hệ của sự vật,
hiện tượng đó với các sự vật hiện tượng khác.
- Xác định vị trí, vai trò của các MLH (chỉ ra được những MLH bên trong, cơ
bảncủa SV, HT)
b. Từ nguyên lý về sự phát triển → quan điểm phát triển -
Xem xét SV, HT trong sự vận động, phát triển.
- Nhận thức tính biện chứng đầy mâu thuẫn của sự phát triển (tính quanh co, phức
tạp, thậm chí chứa đựng những thụt lùi tạm thời…) thái độ tôn trọng ủng
hộ cái mới, cái tiến bộ. - Biết phân chia sự phát triển của SV thànhtừng giai đoạn cụ
thể để có cách thức tác động phù hợp nhằm đạt được mục đích của con người.
c. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến + nguyên lý về sự phát triển → quan điểm
lịch sử - cụ thể.
- Xem xét SV phải đặt nó trong bối cảnh lịch sử.
- Cụ thể SV ra đời, tồn tại phát triển cả về thời gian, không gian cácmối
liên hệ.
5. Cái chung, cái riêng, cái đơn nhất ?, Trình bày mqh biện
chứng cái riêng và chung?, ý nghĩa phương pháp luận vấn đề
này, vận dụng vấn đề này như nào trong học tập
• Khái niệm cái chung, cái riêng, cái đơn nhất:
- Cái chung phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
khôngnhững có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều
sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
- Cái riêng là phạm trù chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định.
- Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ cóở
một sự vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật
chất khác.
• Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
- Trong lịch sử triết học đã hai quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ
giữa“cái riêng” và “cái chung”
+ Phái duy thực cho rằng, cái riêng chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua và không phải
là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có cái chung mới tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý
thức của con người. Cái chung không phụ thuộc vào cái riêng, còn sinh ra cái
riêng.
+ Phái duy danh cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung là những
tên gọi trống rỗng, do con người đặt ra, không phản ánh cái gì trong hiện thực. Quan
điểm này không thừa nhận nội dung khách quan của các khái niệm.
- Cả hai quan niệm đều sai lầm khi họ tách rời cái riêng cái chung, họ phủ
nhậncái riêng và tuyệt đối hoá cái chung hoặc ngược lại. Họ không thấy sự tồn tại
khách quan và mối quan hệ chặt chẽ của chúng. Phép biện chứng duy vật cho rằng
cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên
hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:
+ Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng biểu hiện
sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy nào tồn tại bên ngoài cái
riêng.
*Ví dụ như không có cây nói chung nào tồn tại bên cạnh cây cam, quýt, đào cụ thể,
nhưng cây cam, quýt, đào... nào cũng rễ, thân, lá, quá trình đồng hóa, dị hóa
để duy trì sự sống của chúng. Những đặc tính chung này lặp lại những cái cây
riêng lẻ, được phản ánh trong khái niệm “cây”. Đó cái chung của những cái
cây cụ thể. ràng cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng
mà phải thông qua cái riêng.
+ Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa không
cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung.
*Ví dụ nền kinh tế của mỗi quốc gia, dân tộc với tất cả những đặc điểm phong p
của một cái riêng. Nhưng nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi quy luật cung
cầu, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đó là cái chung. Như vậy sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm
cái chung.
+ Thứ ba, cái riêng cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung cái bộ
phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung ngoài
những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất.
*Ví dụ người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các nước
trên thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp,...còn có đặc điểm riêng là chịu
ảnh hưởng của văn hóa, tập quán lâu đời của dân tộc, điều kiện tự nhiên của nước,
nên họ cần cù lao động, chịu đựng được khó khăn, vât vả trong cuộc sống.
+ Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát
triển của sự vật. trong hiện thực cái mới không thể nào xuất hiện đầy đủ ngay, lúc
đầu nó xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Lúc sau thì theo quy luật, cái mới hoàn
thiện dần ròi từ từ thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến. Ngược lại cái
cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện
mới nên mất dần đi trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn
nhất thành cái chung biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược
lại sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ,
cái lỗi thời bị phủ định.
*Ví dụ, sự thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trước sự thay đổi của môi
trường diễn ra bằng cách, ban đầu xuất hiện một đặc tính ở một thể riêng biệt. Do
phù hợp với điều kiện mới, đặc tính đó được bảo tồn, duy trì nhiều thế hệ và trở
thành phổ biến của nhiều cá thể. Những đặc tính không phù hợp với điều kiện mới,
sẽ mất dần đi và trở thành cái đơn nhất.
Ý nghĩa phương pháp luận
Cái chung cái sâu sắc, cái bản chất chỉ phối cái riêng, nên nhận thức phải nhằm
tìm ra cái chung trong hoạt động thực tiền phải dựa vào cái chung để cải tạo cái
riêng. Trong hoạt động thực tiên nếu không hiểu biết những nguyên chung, sẽ
không tránh khỏi rơi vào tinh trạng hoạt động một cách mò mắm, quảng.
=> Sự nghiệp đổi mới của chúng ta đòi hỏi trước hết phải đổi mới tư duy lý luận.
Mặt khác, cái chung lại biểu hiện thông qua cái riêng, nên khi áp dụng Cái chung
phải tùy theo từng cái riêng cụ thế để vận dụng cho thích hợp.
dụ, khi áp dụng những nguyên của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải căn cứ vào tinh
hình cụ thể của từng thời kỷ lịch sử mỗi nước để vận dụng những nguyên đó
cho thích hợp, có vậy Mới đưa lại kết quả trong hoạt động thực tiễn.
Vận dụng trong học tập:
-Áp dụng nguyên chung vào các bài tập cụ thể: Khi học một môn học, bạn cần
nắm vững các lý thuyết, công thức hay định lý chung, từ đó áp dụng vào các bài tập
cụ thể. Ví dụ, trong môn Toán, khi học về các phương trình bậc hai, bạn sẽ học
thuyết về cách giải phương trình chung, sau đó áp dụng vào các bài toán cụ
thể với các giá trị khác nhau.
-Tìm kiếm quy luật chung trong các tình huống cụ thể: Khi gặp một vấn đề hay tình
huống học tập cụ thể, bạn có thể phân tích và tìm ra các quy luật chung từ những ví
dụ nh. Chẳng hạn, khi học lịch sử, bạn có thể nhận diện các yếu tố chung trong các
cuộc cách mạng khác nhau để đưa ra những phân tích, tổng hợp về nguyên nhân và
kết quả của các cuộc cách mạng trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.
-Rèn luyện khả năng tổng hợp phân tích: Vận dụng mối quan hệ giữa cái chung
cái riêng giúp bạn phát triển khả năng tổng hợp các thông tin cụ thể từ các tình
huống và bài học riêng lẻ để rút ra các quy luật chung. Ví dụ, khi học văn học, bạn
có thể phân tích từng tác phẩm riêng biệt nhưng sau đó tìm ra những chủ đề hay giá
trị nhân văn chung trong các tác phẩm của các tác giả khác nhau.
-Giải quyết vấn đề từ cái chung đến cái riêng: Khi gặp một vấn đề mới trong học tập,
bạn có thể sử dng kiến thức chung đã học để áp dụng vào vấn đề c thể,y tương tự
như phương pháp giải bài tập. dụ, trong môn Khoa học tự nhiên, bạn thể áp
dụng các định lý khoa học đã học để giải quyết các thí nghiệm hay tình huống thực
tế.
6. Nguyên nhân gì, kết quả gì?, phân biệt nguyên nhân
với nguyên cớ với điều kiện?, phân tích quan hệ biện chứng
nguyên nhân kết quả?, ý nghĩa của phương pháp luận, vận
dụng vấn đề này như nào vào vấn đề môi trường.
Nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau gây ra một hoặc hơn sự biến đổi nhất định.
- Kết quả sự biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong
một sựvật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Phân biệt nguyên nhân, nguyên cớ, điều kiện
- Nguyên nhân: Là yếu tố trực tiếp, mang tính bản chất và tất yếu dẫn đến sự
hình thành của một hiện tượng hoặc sự vật mới. Ví dụ: Chặt phá rừng là nguyên
nhân gây ra hiện tượng biến đổi khí hậu.
- Nguyên cớ: Là yếu tố phụ, ngẫu nhiên, không quyết định trực tiếp đến kết
quả nhưng có thể kích thích, làm bộc lộ tác động của nguyên nhân. Ví dụ: Một trận
bão lớn có thể là nguyên cớ gây ra sạt lở đất nếu rừng đã bị chặt phá.
- Điều kiện: Là những yếu tố phụ trợ, hỗ trợ hoặc tạo môi trường cần thiết để
nguyên nhân phát huy tác dụng. Điều kiện có thể thúc đẩy hoặc m hãm sự phát
sinh kết quả.
=> Nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện ở chỗ nguyên nhân mới là cái
trực tiếp tạo ra kết quả, còn nguyên cớ và điều kiện thì không phải là nhân tố tạo
nên kết quả.
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
1. Những đặc điểm cơ bản của mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và
kết quả:
- Nguyên nhân sinh ra kết quả:
+ Tính tất yếu: Nguyên nhân là điều kiện cần và đủ để một kết quả cụ thể xảy ra.
Không có nguyên nhân thì không có kết quả, và nguyên nhân quyết định bản chất
cũng như hình thức của kết quả. Ví dụ: Phát thải khí nhà kính là nguyên nhân chính
dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu.
+Tính khách quan: Nguyên nhân không do ý chí con người tạo ra mà tồn tại khách
quan trong bản thân sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Sự nóng lên toàn cầu không phụ
thuộc vào ý muốn của con người, mà là kết quả tất yếu từ hoạt động sản xuất gây
phát thải CO2.
- Kết quả tác động trở lại nguyên nhân: Kết quả không chỉ là sản phẩm của nguyên
nhân mà còn có thể tác động ngược lại, làm thay đổi nguyên nhân ban đầu hoặc
tạo ra các nguyên nhân mới. Ví dụ: Biến đổi khí hậu (KQ) dẫn đến các hiện tượng
thiên tai như bão lũ. Các thiên tai này tiếp tục gây ra sự hủy hoại rừng, làm tăng
lượng khí nhà kính trong khí quyển (NN), tạo thành một vòng lặp nhân quả phức
tạp.
- Quan hệ qua lại, không tách rời: Trong thực tế, nguyên nhân và kết quả không
tồntại độc lập mà luôn gắn bó và chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình vận động
của sự vật. Một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả khác nhau, và một kết
quả có thể được sinh ra từ nhiều nguyên nhân. Ví dụ: Nguyên nhân: Phá rừng.
Kết quả: Mất đa dạng sinh học, gia tăng lũ lụt, sa mạc hóa đất đai. Đồng thời, sa
mạc hóa đất đai (kết quả) lại trở thành nguyên nhân dẫn đến suy giảm nông
nghiệp và đói nghèo.
2. Mối quan hệ nhân quả có tính đa chiều và phức tạp:
- Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả: Nguyên nhân tác động vào
những đối tượng khác nhau hoặc trong những điều kiện khác nhau có thể dẫn đến
nhiều kết quả. dụ: Nguyên nhân: Khủng hoảng kinh tế. Kết quả: Gia tăng thất
nghiệp, suy giảm tiêu dùng, bất ổn xã hội.
- Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân: Một hiện tượng, sự vật có thể
được sinh ra từ sự tác động tổng hợp của nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó
có cả nguyên nhân chính và nguyên nhân phụ. Ví dụ: Kết quả: Ô nhiễm nguồn
nước. Nguyên nhân: Rác thải sinh hoạt, hóa chất từ công nghiệp, phân bón và
thuốc trừ sâu từ nông nghiệp.
- Sự chuyển hóa giữa nguyên nhân và kết quả: Kết quả của một mi quan hệ
nhân quả có thể trở thành nguyên nhân cho một mối quan hệ nhân quả mới. Ví dụ:
Nguyên nhân: Suy giảm đa dạng sinh học. Kết quả: Sự mất cân bằng sinh thái, dẫn
đến gia tăng thiên tai. Sau đó, thiên tai lại trở thành nguyên nhân làm suy thoái môi
trường và gây thêm áp lực cho hệ sinh thái.
Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân kết
quả:
- Không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên
nhân. Nhưng không phải con người có thể nhận thức ngay được nguyên nhân.
Nhiệm vụ của nhận thức khoa học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó;
phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn tại
trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ đầu óc con người, tách
rời với thế giới hiện thực.
- Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này
có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực
tiễn của chúng ta cần phân loại nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên
nhân khách quan,... Đồng thời phải nắm bắt được chiều hướng tác động của các
nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác
động tích cực đến hoạt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động
tiêu cực.
- Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Chon trong thực tiễn chúng ta cần
phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên
nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích.
-Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả là quy luật phổ biến và tất
yếu trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Việc nghiên cứu và vận dụng đúng đắn quy
luật này giúp con người không chỉ nhận thức sâu sắc bản chất của các vấn đề mà
còn có thể đưa ra những giải pháp hiệu quả để kiểm soát, cải thiện và thúc đẩy các
quá trình phát triển theo hướng tích cực.
Cách vận dụng quy luật này trong lĩnh vực môi trường:
1.Xác định nguyên nhân gốc rễ ca các vấn đề môi trường
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên nhân được xem yếu tố mang tính bản
chất, trực tiếp gây ra sự biến đổi hoặc hình thành của sự vật, hiện tượng. vậy,
bước đầu tiên để giải quyết vấn đề môi trường xác định đúng nguyên nhân gốc rễ,
không chỉ dừng lại ở những hiện tượng bề mặt.
dụ cụ thể: Biến đổi khí hậu Nguyên nhân gốc rễ: Phát thải khí nhà kính (CO ,
CH , N O) từ các ngành ng nghiệp, giao thông, năng lượng hóa thạch. Phá
rừng làm mất đi nguồn hấp thụ carbon. Hệ thống sản xuất và tiêu dùng không bền
vững. Kết quả: Nhiệt độ trái đất tăng. Băng tan, nước biển dâng. Tăng tần suất các
hiện tượng thời tiết cực đoan (bão lũ, hạn hán). Xác định đúng nguyên nhân gốc giúp
tập trung giải pháp vào những yếu tố cốt lõi như giảm phát thải, tái tạo rừng, và phát
triển năng lượng tái tạo, thay vì chỉ đối phó với các hậu quả như thiên tai hay lũ lụt.
2. Nhận diện mối quan hệ phức hợp giữa nguyên nhân và kết quả trong môi
trường
- Một nguyên nhân dẫn đến nhiều kết qu
+Trong hệ sinh thái, một nguyên nhân thường tạo ra một loạt kết quả phức tạp, không
chỉ ảnh hưởng trực tiếp mà còn tạo ra hệ quả gián tiếp, lâu dài.
+Ví dụ: Phá rừng nhiệt đới Amazon. Kết quả trực tiếp: Mất đa dạng sinh học, mất
cân bằng hệ sinh thái. Kết quả gián tiếp: Giảm khả năng hấp thụ CO , góp phần
vào biến đổi khí hậu. Tăng nguy cơ lũ lụt và xói mòn đất, gây thiệt hại cho nông
nghiệp và cộng đồng dân cư. - Một kết quả có nhiều nguyên nhân
+Các vấn đề môi trường thường là sản phẩm của nhiều nguyên nhân đan xen, trong
đó có nguyên nhân chính (chủ yếu) và nguyên nhân phụ (thứ yếu).
+Ví dụ: Ô nhiễm nguồn nước. Nguyên nhân chính: Xả thải công nghiệp không qua
xử lý. Sử dụng phân bón, hóa chất trong nông nghiệp. Nguyên nhân phụ: Ý thức
cộng đồng về bảo vệ nguồn nước thấp. Hệ thống pháp luật chưa đủ mạnh để kiểm
soát các hành vi xả thải. Hiểu rõ mối quan hệ đa chiều này giúp xác định ưu tiên
giải pháp, tập trung vào nguyên nhân chính trước để đạt hiệu quả cao nhất.
3. Phân tích tác động ngược chiều của kết quả lên nguyên nhân
+Theo phép biện chứng, kết quả không chỉ phụ thuộc vào nguyên nhân còn tác
động ngược trở lại nguyên nhân, tạo ra những vòng lặp nhân quả phức tạp.
+Ví dụ: Vòng lặp giữa biến đổi khí hậu và phá rừng Nguyên nhân ban đầu: P
rừng để lấy đất nông nghiệp và khai thác gỗ. Kết quả: Giảm khả năng hấp thụ CO
.Tăng phát thải khí nhà kính, đẩy nhanh quá trình biến đổi khí hậu. Tác động
ngược trở lại: Biến đổi khí hậu làm gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan như
hạn hán và cháy rừng, gây thêm áp lực lên rừng nhiệt đới, khiến tình trạng phá
rừng trở nên trầm trọng hơn. Việc nhận diện tác đng ngược chiều này giúp con
người không chỉ dừng lại ở việc giải quyết nguyên nhân ban đầu mà còn phải ngăn
chặn các vòng lặp tiêu cực trong mối quan hệ nhân quả.
4. Vận dụng vào xây dựng giải pháp bảo vệ môi trường
- Tập trung vào nguyên nhân gốc: Giảm phát thải khí nhà kính bằng cách
chuyển đổi sang năng lượng tái tạo như gió, mặt trời, và thủy điện. Bảo vệ rừng
tái trồng rừng để duy trì cân bằng sinh thái.
- Tạo điều kiện tích cực để kiểm soát nguyên nhân: Điều kiện đóng vai trò hỗ
trợ để nguyên nhân phát huy tác dụng hoặc để giảm nhẹ hậu quả của các kết quả
tiêu cực.
+Ví dụ: Tăng cường ý thức bảo vệ môi trường thông qua giáo dục cộng đồng. Đưa
ra các chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng sạch, giảm thuế cho các doanh
nghiệp thân thiện với môi trường.
- Kiểm soát các tác động ngược chiều: Phát triển các công nghệ và chính sách
để giảm thiểu các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu lên rừng và nông nghiệp,
như xây dựng các hệ thống cảnh báo sớm về thời tiết cực đoan.
- Giải quyết các nguyên nhân đa dạng: Phân loại nguyên nhân thành chính và
phụ, ưu tiên xử các nguyên nhân chính để đạt hiệu quả cao. Phối hợp quốc tế để
giải quyết các vấn đề có tính toàn cầu như biến đổi khí hậu và ô nhiễm biển.

Preview text:

1.Trình bày bản chất và kết cấu của ý thức.
Bản chất của ý thức: -
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc
conngười; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tính chất năng động,
sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt động tâm – sinh
lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin,
xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể
tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá
trình con người tạo ra những ý tưởng, giả thuyết, huyền thoại, v.v… trong đời
sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng
các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người. -
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức
làhình ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả
về nội dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế
giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm lý, tình
cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu, v.v…) của con người. Theo
C.Mác, ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người và được cải biến đi trong đó” . -
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội: Sự ra đời vàtồn
tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các
quy luật tự nhiên, mà còn chịu sự chi phối của các quy luật xã hội; được quy định
bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống xã
hội. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Kết cấu của ý thức: gồm 3 phần -
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá
trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới
dạng các loại ngôn ngữ. Đây là yếu tố quan trọng nhất, là phương thức tồn tại
của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định
mức độ biểu hiện của các yếu tố khác -
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các
quan hệ. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực của đời sống của
con người, là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động
thực tiễn và nhận thức. -
Ý chí là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt
qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích của nó. Ý chí được coi là
mặt năng động của ý thức, một biểu hiện trong thực tiễn của ý thức mà ở đó
con người tự ý thức được mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình
và ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. Giá trị chân chính
của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở
nội dung, ý nghĩa của mục đích mà nó hướng tới.
2. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức?,
ý nghĩa của vấn đề này. *
Vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
kháchquan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta sao chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. *
Ý thức: ý thức là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những
quanđiểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống,…nảy sinh
từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn nhất định.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Vật chất và ý thức có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau. Trong mối quan
hệ đó, vật chất là cái có trước, quyết định ý thức, ý thức là cái có sau, phụ thuộc vào
vật chất, do vật chất quyết định. Khi thừa nhận vật chất tồn tại bên ngoài và độc lập
với ý thức, quyết định ý thức, thì sự nhận thức thế giới không thể xuất phát từ ý thức
của con người, mà phải xuất phát từ thế giới khách quan. Nhưng ý thức có tính độc
lập tương đối, có vai trò tác động trở lại đối với sự vận động và phát triển của thế giới vật chất.
*Vật chất quyết định ý thức trên 3 phương diện:
- Quyết định nội dung phản ánh của ý thức: bởi vì ý thức bao giờ cũng là
sự phản ánh thế giới vật chất và sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo trong
phản ánh và theo khuôn khổ của sự phản ánh. Hơn nữa, tự thân ý thức không
thể gây ra sự biến đổi nào trong đời sống hiện thực.
- Quyết định nguồn gốc ra đời của ý thức: nguồn gốc trực tiếp và quantrọng
nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã
hội. ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người
thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. ý thức là sản phẩm xã
hội, là một hiện tượng xã hội.
- Quyết định sự biến đổi của ý thức: ý thức phản ánh thế giới hiện thựckhách
quan, thế giới vật chất, bản thân nó không thể gây ra sự biến đôitrong đời
sống hiện thực. Nhưng thế giới vật chất thì luôn vận động và biến đổi không
ngừng (vận động là phương thức tồn tại của vật chất), vì vậy khi nó thay đổi
dẫn tới làm cho ý thức cũng thay đổi theo.
* Ý thức cũng có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất, bao gồm các vấn đề sau: -
Mối quan hệ giữa ý thức và vật chất vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính
tương đối. Nghĩa là, vật chất luôn là cái có trước và quyết định ý thức, nhưng
ngược lại ý thức cũng có tác động trở lại đối với vật chất. Mối quan hệ này xét
về một mặt nào đó tương tự như mối quan hệ nhân quả. -
Ý thức có tính năng động to lớn, tác động trở lại thế giới vật chất theo hai
chiều: ý thức tích cực, tiến bộ, phản ánh đúng quy luật khách quan sẽ thúc đẩy
thế giới vật chất phát triển và chỉ đạo hoạt động thực tiễn thành công. Ngược
lại, ý thức tiêu cực, lạc hậu, không phản ánh đúng quy luật khách qua thì sẽ kìm
hãm sự phát triển, tuy nhiên sự kìm hãm này chỉ là tạm thời, không phải bất biến.
+ Phương thức phản ánh của ý thức là thông qua hạt động thực tiễn của con
người, biến sức mạnh tinh thần thành sức mạnh vật chất, mà biểu hiện ở chỗ đề
ra các đường lối. Chủ trương chính sách đúng đắn, khoa học và phù hợp với tình hình thực tiễn.
+ Sự tác động của ý thức để thúc đẩy thế giới vật chất phát triển phải có điều
kiện: ý thức phải phản ánh đúng hiện thực khách quan, con người vận dụng tri
thức đó vào hoạt động thực tiễn, đề ra được những phương án tối ưu chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
thì: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý
thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người; vì vậy, con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính
năng động chủ quan của mình
.- Pháỉ tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy
luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm
căn cứ cho mọi hoạt động của mình. V.I. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được
lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm
xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ
quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc
phải bệnh chủ quan duy ý chí.
.- Phát huy tính năng động chủ quan của ý thức: tức là phát huy vai trò tích cực của
ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp
thay đổi được gì trong hiện thực. ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực
phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện trong thực
tiễn.phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, nhận thức đúng thực tiễn, từ
đó đề ra đường lối, chủ trương, biện pháp đúng và khoa học, phát huy vai trò nhân
tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan; đồng thời phải khắc phục bệnh
- Đấu tranh chống mọi biểu hiện bất chấp quy luật khách quan, bảo thủ trì trệ, thái
độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong quá trình đổi mới hiện nay. Đặc biệt là
bệnh chủ quan, duy ý chí.
=>Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ kinh nghiệm thành công và thất bại
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan
trọng là "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan". Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa
và hiện đại hóa, Đảng chủ trương: "huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong
và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất nước" ,
muốn vậy phải "nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
3. Liên hệ là gì? Mối liên hệ là gì? Trình bày nội dung của mối
liên hệ. Trình bày nội dung của nguyên lý mối liên hệ phổ biến.
Tính chất. Ý nghĩa của vấn đề này.

Liên hệ: Là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay đổi của một trong số chúng nhất
định làm đối tượng kia thay đổi.
Mối liên hệ: là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc tương hỗ, quy
định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa
các đối tượng với nhau.
Ví dụ: Gió thổi mây bay; nước chảy đá mòn; cha mẹ quát mắng con cái dẫn đến
những cảm xúc tiêu cực ảnh hưởng đến con cái…
- “Mối liên hệ phổ biến”: là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ
của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng là dùng để chỉ các mối liên
hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới. Trong đó những mối liên hệ phổ
biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc
đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng
=> Từ khái niệm trên, quan niệm siêu hình và quan điểm biện chứng đã giải quyết như sau:
Quan điểm siêu hình: các sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại độc lập, tách rời
nhau, cái này bên cạnh cái kia; giữa chúng không có sự liên hệ ràng buộc, quy định,
chuyển hóa lẫn nhau hoặc nếu có thì chỉ là mối liên hệ mang tính ngẫu nhiên, bề ngoài.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng: các sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại trong sự
liên hệ, tác động qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau, không tách rời nhau. Cơ sở
của mối liên hệ phổ biến chính là tính thống nhất vật chất của thế giới. Đây là nội
dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
3.1 Các tính chất của mối liên hệ phổ biến a) Tính khách quan
Khái niệm: Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định, tác động
và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng)
là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con
người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
Ví dụ: Các cơ quan trong cơ thể con người có sự liên hệ, tác động lẫn nhau khi ta
chạy bộ, trong cơ thể ta sẽ diễn ra quá trình của Hệ vận động -> Hệ tuần hoàn -> Hệ
hô hấp -> Hệ bài tiết -> Hệ tiêu hóa -> Hệ thần kinh… b) Tính phổ biến
Khái niệm: Cụ thể theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện tượng
hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác. Đồng thời, cũng không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu
trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của
nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn
tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Ví dụ 1: Sắc tố của da như có người da đen, có người da trắng do nhiều yếu tố như
gen, môi trường sống, vv…
Ví dụ 2: Dịch covid 19 đã gây ảnh hưởng tới kinh tế, xã hội như nền kinh tế giảm
sút do phải đóng cửa, sức khỏe con người bị đe dọa,…
c) Tính đa dạng, phong phú -
Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ khẳng định
tínhkhách quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong
phú, đa dạng của các mối liên hệ. -
Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật,
hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ
vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một
mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong những điều kiện cụ thể
khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau
=> Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên
hệ khác nhau đối với mỗi sự vật, hiện tượng nhất định, trong những điều kiện xác
định. Đó là các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện
tượng, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp,của mọi sự
vật, hiện tượng trong thế giới. -
Ví dụ: Quan hệ giữa hai đất nước Mỹ và Việt Nam, trong quá khứ lịch sử,
hainước là kẻ thù của nhau với rất nhiều cuộc chiến tranh lớn, căng thẳng, nhưng
hiện tại trong thời đại hòa bình ngày nay, hai nước lại trở thành bạn bè/đối tác. Như
vậy cho ta thấy rõ được trong những điều kiện cụ thể khác nhau, thì quá trình phát
triển mối quan hệ giữa hai nước đã có sự thay đổi qua từng giai đoạn.
3.2 Ý nghĩa phương pháp luận
-Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải tôn trọng quan điểm toàn diện.
- Khi nhận thức một đối tượng , cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các
mặt yếu tố, các bộ phận cấu thành và các mối liên hệ của chỉnh thể đó.
- Khi nhận thức một đối tượng cần phải rút ra được những mối liên hệ bản chất tất
yếu của đối tượng đó và nhận thức chúng trong sự thống nhất nội tại.
- Khi nhận thức một đối tượng cần phải đặt nó trong tương quan với các sự vật khác
và môi trường xung quanh.
- Khi nhận thức đối tượng cần phải tránh sự phiến diện, ngụy biện, chiết trung.
4. Phát triển là gì? Phân biệt tiến hóa với tiến bộ. Tính chất sự phát
triển được thể hiện chỗ nào? Ý nghĩa phương pháp luận thể hiện như nào Phát triển là gì -
Quan điểm của CNDV siêu hình: không có sự phát triển; Nếu có thì chỉlà sự
tăng lên về lượng mà không có sự thay đổi về chất; nguyên nhân của sự phát triển
nằm bên ngoài sự vật, hiện tượng; Khuynh hướng phát triển là thụt lùi hoặc theo vòng tròn khép kín. -
Quan điểm của CNDT: có phát triển; Nguyên nhân phát triển là do cảmgiác
chủ quan hoặc 1 lực lượng siêu nhiên. -
Quan điểm của CNDVBC: từ liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng sẽ dẫn đến
vậnđộng, biến đổi; vận động lại có nhiều khuynh hướng khác nhau: thụt lùi, tuần
hoàn, đi lên; trong đó vận động đi lên được gọi là sự phát triển. Vì thế, phát triển
khác vận động; Nguyên nhân của phát triển là mâu thuẫn vốn có của sự vật, hiện
tượng; Cách thức phát triển là đi từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi
về chất và ngược lại; Khuynh hướng phát triển là phủ định của phủ định, tạo thành
con đường xoáy ốc đi lên).
Khái niệm về sự phát triển: Chỉ những biến đổi theo chiều hướng đi lên
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Phân biệt tiến hóa với tiến bộ *Tiến hóa -
Khái niệm: là một dạng của phát triển , diễn ra theo cách từ từ và thường là
sựbiến đổi hình thức của tồn tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp . -
Đặc điểm : tiến hóa là một quá trình tự nhiên , không có mục đích định trước.
Sựthay đổi diễn ra từ từ , qua nhiều giai đoạn . Không phải lúc nào cũng tiến bộ tiến
hóa có thể dẫn đến cả sự tiến bộ và thoái hóa ,tùy thuộc vào môi trường và các yếu tố khác *Tiến bộ -
Khái niệm: là một quá trình biến đổi hướng tới cải thiện thực trạng xã
hội từ chỗchưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn so với thời điểm ban đầu. -
Đặc điểm : tiến bộ thường gắn liền với mục tiêu ý chí con người .
Hướng tới sựhoàn thiện sự thay đổi luôn hướng tới việc cải thiện chất lượng
cuộc sống , hiệu quả công việc . Tiến bộ có tính tương đối , phụ thuộc vào quan
điểm , giá trị của mỗi người và mỗi xã hội,
Tính chất của phát triển được thể hiện ở: -
Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự
vậnđộng và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng;
là quá trình tự vận động, tự biến đổi, tự giải quyết mâu thuẫn trong sự vật, hiện
tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người. -
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển
diễnra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả moi sự vật,
hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó;
trong mỗi quá trình biến đổi đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái
mới, phù hợp với qui luật khách quan. -
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển
làkhuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện
tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống
nhau. Trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu nhiều sự tác động
của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện
lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của
sự vật, thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát
triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác.
Ý nghĩa phương pháp luận
a. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến → quan điểm toàn diện -
Xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành sự vật, hiện
tượngtrong mối liên hệ qua lại lẫn nhau, cũng như xem xét mối liên hệ của sự vật,
hiện tượng đó với các sự vật hiện tượng khác. -
Xác định vị trí, vai trò của các MLH (chỉ ra được những MLH bên trong, cơ bảncủa SV, HT)
b. Từ nguyên lý về sự phát triển → quan điểm phát triển -
Xem xét SV, HT trong sự vận động, phát triển.
- Nhận thức tính biện chứng đầy mâu thuẫn của sự phát triển (tính quanh co, phức
tạp, thậm chí chứa đựng những thụt lùi tạm thời…) → có thái độ tôn trọng và ủng
hộ cái mới, cái tiến bộ. - Biết phân chia sự phát triển của SV thànhtừng giai đoạn cụ
thể để có cách thức tác động phù hợp nhằm đạt được mục đích của con người.
c. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến + nguyên lý về sự phát triển → quan điểm
lịch sử - cụ thể.
- Xem xét SV phải đặt nó trong bối cảnh lịch sử.
- Cụ thể mà SV ra đời, tồn tại và phát triển cả về thời gian, không gian và cácmối liên hệ.
5. Cái chung, cái riêng, cái đơn nhất ?, Trình bày mqh biện
chứng cái riêng và chung?, ý nghĩa phương pháp luận vấn đề
này, vận dụng vấn đề này như nào trong học tập

• Khái niệm cái chung, cái riêng, cái đơn nhất:
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
khôngnhững có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều
sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
- Cái riêng là phạm trù chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định.
- Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ cóở
một sự vật, một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác.
• Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung -
Trong lịch sử triết học đã có hai quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ
giữa“cái riêng” và “cái chung”
+ Phái duy thực cho rằng, cái riêng chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua và không phải
là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có cái chung mới tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý
thức của con người. Cái chung không phụ thuộc vào cái riêng, mà còn sinh ra cái riêng.
+ Phái duy danh cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung là những
tên gọi trống rỗng, do con người đặt ra, không phản ánh cái gì trong hiện thực. Quan
điểm này không thừa nhận nội dung khách quan của các khái niệm. -
Cả hai quan niệm đều sai lầm khi họ tách rời cái riêng và cái chung, họ phủ
nhậncái riêng và tuyệt đối hoá cái chung hoặc ngược lại. Họ không thấy sự tồn tại
khách quan và mối quan hệ chặt chẽ của chúng. Phép biện chứng duy vật cho rằng
cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên
hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:
+ Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện
sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy nào tồn tại bên ngoài cái riêng.
*Ví dụ như không có cây nói chung nào tồn tại bên cạnh cây cam, quýt, đào cụ thể,
nhưng cây cam, quýt, đào... nào cũng có rễ, có thân, lá, quá trình đồng hóa, dị hóa
để duy trì sự sống của chúng. Những đặc tính chung này lặp lại ở những cái cây
riêng lẻ, và được phản ánh trong khái niệm “cây”. Đó là cái chung của những cái
cây cụ thể. Rõ ràng cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng
mà phải thông qua cái riêng.
+ Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có
cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung.
*Ví dụ nền kinh tế của mỗi quốc gia, dân tộc với tất cả những đặc điểm phong phú
của nó là một cái riêng. Nhưng nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi quy luật cung
cầu, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đó là cái chung. Như vậy sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung.
+ Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ
phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài
những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất.
*Ví dụ người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các nước
trên thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp,...còn có đặc điểm riêng là chịu
ảnh hưởng của văn hóa, tập quán lâu đời của dân tộc, điều kiện tự nhiên của nước,
nên họ cần cù lao động, chịu đựng được khó khăn, vât vả trong cuộc sống.
+ Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát
triển của sự vật. trong hiện thực cái mới không thể nào xuất hiện đầy đủ ngay, lúc
đầu nó xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất. Lúc sau thì theo quy luật, cái mới hoàn
thiện dần ròi từ từ thay thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến. Ngược lại cái
cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện
mới nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn
nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược
lại sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ,
cái lỗi thời bị phủ định.
*Ví dụ, sự thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trước sự thay đổi của môi
trường diễn ra bằng cách, ban đầu xuất hiện một đặc tính ở một cá thể riêng biệt. Do
phù hợp với điều kiện mới, đặc tính đó được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ và trở
thành phổ biến của nhiều cá thể. Những đặc tính không phù hợp với điều kiện mới,
sẽ mất dần đi và trở thành cái đơn nhất.
Ý nghĩa phương pháp luận
Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chỉ phối cái riêng, nên nhận thức phải nhằm
tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiền phải dựa vào cái chung để cải tạo cái
riêng. Trong hoạt động thực tiên nếu không hiểu biết những nguyên lý chung, sẽ
không tránh khỏi rơi vào tinh trạng hoạt động một cách mò mắm, Mù quảng.
=> Sự nghiệp đổi mới của chúng ta đòi hỏi trước hết phải đổi mới tư duy lý luận.
Mặt khác, cái chung lại biểu hiện thông qua cái riêng, nên khi áp dụng Cái chung
phải tùy theo từng cái riêng cụ thế để vận dụng cho thích hợp.
Ví dụ, khi áp dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải căn cứ vào tinh
hình cụ thể của từng thời kỷ lịch sử ở mỗi nước để vận dụng những nguyên lý đó
cho thích hợp, có vậy Mới đưa lại kết quả trong hoạt động thực tiễn.
Vận dụng trong học tập:
-Áp dụng nguyên lý chung vào các bài tập cụ thể: Khi học một môn học, bạn cần
nắm vững các lý thuyết, công thức hay định lý chung, từ đó áp dụng vào các bài tập
cụ thể. Ví dụ, trong môn Toán, khi học về các phương trình bậc hai, bạn sẽ học lý
thuyết về cách giải phương trình chung, và sau đó áp dụng nó vào các bài toán cụ
thể với các giá trị khác nhau.
-Tìm kiếm quy luật chung trong các tình huống cụ thể: Khi gặp một vấn đề hay tình
huống học tập cụ thể, bạn có thể phân tích và tìm ra các quy luật chung từ những ví
dụ nhỏ. Chẳng hạn, khi học lịch sử, bạn có thể nhận diện các yếu tố chung trong các
cuộc cách mạng khác nhau để đưa ra những phân tích, tổng hợp về nguyên nhân và
kết quả của các cuộc cách mạng trong các giai đoạn lịch sử khác nhau.
-Rèn luyện khả năng tổng hợp và phân tích: Vận dụng mối quan hệ giữa cái chung
và cái riêng giúp bạn phát triển khả năng tổng hợp các thông tin cụ thể từ các tình
huống và bài học riêng lẻ để rút ra các quy luật chung. Ví dụ, khi học văn học, bạn
có thể phân tích từng tác phẩm riêng biệt nhưng sau đó tìm ra những chủ đề hay giá
trị nhân văn chung trong các tác phẩm của các tác giả khác nhau.
-Giải quyết vấn đề từ cái chung đến cái riêng: Khi gặp một vấn đề mới trong học tập,
bạn có thể sử dụng kiến thức chung đã học để áp dụng vào vấn đề cụ thể,y tương tự
như phương pháp giải bài tập. Ví dụ, trong môn Khoa học tự nhiên, bạn có thể áp
dụng các định lý khoa học đã học để giải quyết các thí nghiệm hay tình huống thực tế.
6. Nguyên nhân là gì, kết quả là gì?, phân biệt nguyên nhân
với nguyên cớ với điều kiện?, phân tích quan hệ biện chứng
nguyên nhân và kết quả?, ý nghĩa của phương pháp luận, vận
dụng vấn đề này như nào vào vấn đề môi trường.

Nguyên nhân và kết quả -
Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong cùng một sự vật hoặc
giữa các sự vật với nhau gây ra một hoặc hơn sự biến đổi nhất định. -
Kết quả là sự biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong
một sựvật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Phân biệt nguyên nhân, nguyên cớ, điều kiện -
Nguyên nhân: Là yếu tố trực tiếp, mang tính bản chất và tất yếu dẫn đến sự
hình thành của một hiện tượng hoặc sự vật mới. Ví dụ: Chặt phá rừng là nguyên
nhân gây ra hiện tượng biến đổi khí hậu. -
Nguyên cớ: Là yếu tố phụ, ngẫu nhiên, không quyết định trực tiếp đến kết
quả nhưng có thể kích thích, làm bộc lộ tác động của nguyên nhân. Ví dụ: Một trận
bão lớn có thể là nguyên cớ gây ra sạt lở đất nếu rừng đã bị chặt phá. -
Điều kiện: Là những yếu tố phụ trợ, hỗ trợ hoặc tạo môi trường cần thiết để
nguyên nhân phát huy tác dụng. Điều kiện có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát sinh kết quả.
=> Nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện ở chỗ nguyên nhân mới là cái
trực tiếp tạo ra kết quả, còn nguyên cớ và điều kiện thì không phải là nhân tố tạo nên kết quả.
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
1. Những đặc điểm cơ bản của mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân sinh ra kết quả:
+ Tính tất yếu: Nguyên nhân là điều kiện cần và đủ để một kết quả cụ thể xảy ra.
Không có nguyên nhân thì không có kết quả, và nguyên nhân quyết định bản chất
cũng như hình thức của kết quả. Ví dụ: Phát thải khí nhà kính là nguyên nhân chính
dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu.
+Tính khách quan: Nguyên nhân không do ý chí con người tạo ra mà tồn tại khách
quan trong bản thân sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Sự nóng lên toàn cầu không phụ
thuộc vào ý muốn của con người, mà là kết quả tất yếu từ hoạt động sản xuất gây phát thải CO2.
- Kết quả tác động trở lại nguyên nhân: Kết quả không chỉ là sản phẩm của nguyên
nhân mà còn có thể tác động ngược lại, làm thay đổi nguyên nhân ban đầu hoặc
tạo ra các nguyên nhân mới. Ví dụ: Biến đổi khí hậu (KQ) dẫn đến các hiện tượng
thiên tai như bão lũ. Các thiên tai này tiếp tục gây ra sự hủy hoại rừng, làm tăng
lượng khí nhà kính trong khí quyển (NN), tạo thành một vòng lặp nhân quả phức tạp.
- Quan hệ qua lại, không tách rời: Trong thực tế, nguyên nhân và kết quả không
tồntại độc lập mà luôn gắn bó và chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình vận động
của sự vật. Một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả khác nhau, và một kết
quả có thể được sinh ra từ nhiều nguyên nhân. Ví dụ: Nguyên nhân: Phá rừng.
Kết quả: Mất đa dạng sinh học, gia tăng lũ lụt, sa mạc hóa đất đai. Đồng thời, sa
mạc hóa đất đai (kết quả) lại trở thành nguyên nhân dẫn đến suy giảm nông nghiệp và đói nghèo.
2. Mối quan hệ nhân quả có tính đa chiều và phức tạp: -
Một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả: Nguyên nhân tác động vào
những đối tượng khác nhau hoặc trong những điều kiện khác nhau có thể dẫn đến
nhiều kết quả. Ví dụ: Nguyên nhân: Khủng hoảng kinh tế. Kết quả: Gia tăng thất
nghiệp, suy giảm tiêu dùng, bất ổn xã hội. -
Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân: Một hiện tượng, sự vật có thể
được sinh ra từ sự tác động tổng hợp của nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó
có cả nguyên nhân chính và nguyên nhân phụ. Ví dụ: Kết quả: Ô nhiễm nguồn
nước. Nguyên nhân: Rác thải sinh hoạt, hóa chất từ công nghiệp, phân bón và
thuốc trừ sâu từ nông nghiệp. -
Sự chuyển hóa giữa nguyên nhân và kết quả: Kết quả của một mối quan hệ
nhân quả có thể trở thành nguyên nhân cho một mối quan hệ nhân quả mới. Ví dụ:
Nguyên nhân: Suy giảm đa dạng sinh học. Kết quả: Sự mất cân bằng sinh thái, dẫn
đến gia tăng thiên tai. Sau đó, thiên tai lại trở thành nguyên nhân làm suy thoái môi
trường và gây thêm áp lực cho hệ sinh thái.
Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả: -
Không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên
nhân. Nhưng không phải con người có thể nhận thức ngay được nguyên nhân.
Nhiệm vụ của nhận thức khoa học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó;
phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn tại
trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ đầu óc con người, tách
rời với thế giới hiện thực. -
Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này
có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực
tiễn của chúng ta cần phân loại nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên
nhân khách quan,... Đồng thời phải nắm bắt được chiều hướng tác động của các
nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác
động tích cực đến hoạt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực. -
Kết quả tác động trở lại nguyên nhân. Cho nên trong thực tiễn chúng ta cần
phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên
nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích.
-Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả là quy luật phổ biến và tất
yếu trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Việc nghiên cứu và vận dụng đúng đắn quy
luật này giúp con người không chỉ nhận thức sâu sắc bản chất của các vấn đề mà
còn có thể đưa ra những giải pháp hiệu quả để kiểm soát, cải thiện và thúc đẩy các
quá trình phát triển theo hướng tích cực.
Cách vận dụng quy luật này trong lĩnh vực môi trường:
1.Xác định nguyên nhân gốc rễ của các vấn đề môi trường
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên nhân được xem là yếu tố mang tính bản
chất, trực tiếp gây ra sự biến đổi hoặc hình thành của sự vật, hiện tượng. Vì vậy,
bước đầu tiên để giải quyết vấn đề môi trường là xác định đúng nguyên nhân gốc rễ,
không chỉ dừng lại ở những hiện tượng bề mặt.
Ví dụ cụ thể: Biến đổi khí hậu Nguyên nhân gốc rễ: Phát thải khí nhà kính (CO ,₂
CH , N O) từ các ngành công nghiệp, giao thông, và năng lượng hóa thạch. Phá₄ ₂
rừng làm mất đi nguồn hấp thụ carbon. Hệ thống sản xuất và tiêu dùng không bền
vững. Kết quả: Nhiệt độ trái đất tăng. Băng tan, nước biển dâng. Tăng tần suất các
hiện tượng thời tiết cực đoan (bão lũ, hạn hán). Xác định đúng nguyên nhân gốc giúp
tập trung giải pháp vào những yếu tố cốt lõi như giảm phát thải, tái tạo rừng, và phát
triển năng lượng tái tạo, thay vì chỉ đối phó với các hậu quả như thiên tai hay lũ lụt.
2. Nhận diện mối quan hệ phức hợp giữa nguyên nhân và kết quả trong môi trường
- Một nguyên nhân dẫn đến nhiều kết quả
+Trong hệ sinh thái, một nguyên nhân thường tạo ra một loạt kết quả phức tạp, không
chỉ ảnh hưởng trực tiếp mà còn tạo ra hệ quả gián tiếp, lâu dài.
+Ví dụ: Phá rừng nhiệt đới Amazon. Kết quả trực tiếp: Mất đa dạng sinh học, mất
cân bằng hệ sinh thái. Kết quả gián tiếp: Giảm khả năng hấp thụ CO , góp phần ₂
vào biến đổi khí hậu. Tăng nguy cơ lũ lụt và xói mòn đất, gây thiệt hại cho nông
nghiệp và cộng đồng dân cư. - Một kết quả có nhiều nguyên nhân
+Các vấn đề môi trường thường là sản phẩm của nhiều nguyên nhân đan xen, trong
đó có nguyên nhân chính (chủ yếu) và nguyên nhân phụ (thứ yếu).
+Ví dụ: Ô nhiễm nguồn nước. Nguyên nhân chính: Xả thải công nghiệp không qua
xử lý. Sử dụng phân bón, hóa chất trong nông nghiệp. Nguyên nhân phụ: Ý thức
cộng đồng về bảo vệ nguồn nước thấp. Hệ thống pháp luật chưa đủ mạnh để kiểm
soát các hành vi xả thải. Hiểu rõ mối quan hệ đa chiều này giúp xác định ưu tiên
giải pháp, tập trung vào nguyên nhân chính trước để đạt hiệu quả cao nhất.
3. Phân tích tác động ngược chiều của kết quả lên nguyên nhân
+Theo phép biện chứng, kết quả không chỉ phụ thuộc vào nguyên nhân mà còn tác
động ngược trở lại nguyên nhân, tạo ra những vòng lặp nhân quả phức tạp.
+Ví dụ: Vòng lặp giữa biến đổi khí hậu và phá rừng Nguyên nhân ban đầu: Phá
rừng để lấy đất nông nghiệp và khai thác gỗ. Kết quả: Giảm khả năng hấp thụ CO
.₂ Tăng phát thải khí nhà kính, đẩy nhanh quá trình biến đổi khí hậu. Tác động
ngược trở lại: Biến đổi khí hậu làm gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan như
hạn hán và cháy rừng, gây thêm áp lực lên rừng nhiệt đới, khiến tình trạng phá
rừng trở nên trầm trọng hơn. Việc nhận diện tác động ngược chiều này giúp con
người không chỉ dừng lại ở việc giải quyết nguyên nhân ban đầu mà còn phải ngăn
chặn các vòng lặp tiêu cực trong mối quan hệ nhân quả.
4. Vận dụng vào xây dựng giải pháp bảo vệ môi trường -
Tập trung vào nguyên nhân gốc: Giảm phát thải khí nhà kính bằng cách
chuyển đổi sang năng lượng tái tạo như gió, mặt trời, và thủy điện. Bảo vệ rừng và
tái trồng rừng để duy trì cân bằng sinh thái. -
Tạo điều kiện tích cực để kiểm soát nguyên nhân: Điều kiện đóng vai trò hỗ
trợ để nguyên nhân phát huy tác dụng hoặc để giảm nhẹ hậu quả của các kết quả tiêu cực.
+Ví dụ: Tăng cường ý thức bảo vệ môi trường thông qua giáo dục cộng đồng. Đưa
ra các chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng sạch, giảm thuế cho các doanh
nghiệp thân thiện với môi trường. -
Kiểm soát các tác động ngược chiều: Phát triển các công nghệ và chính sách
để giảm thiểu các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu lên rừng và nông nghiệp,
như xây dựng các hệ thống cảnh báo sớm về thời tiết cực đoan. -
Giải quyết các nguyên nhân đa dạng: Phân loại nguyên nhân thành chính và
phụ, ưu tiên xử lý các nguyên nhân chính để đạt hiệu quả cao. Phối hợp quốc tế để
giải quyết các vấn đề có tính toàn cầu như biến đổi khí hậu và ô nhiễm biển.