


















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58562220
Báo cáo bài tập Lịch sử Đảng Nhóm 1
I. Sự hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước
1. Sự cần thiết của việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi.
"Với đại thắng mùa Xuân năm 1975, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954-1975),Tổ quốc Việt Nam được thống nhất về mặt lãnh thổ, song ở mỗi
miền vẫn tồn tại hình thức tổ chức nhà nước khác nhau, đó là Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở miền
Nam.Điều này trái với nguyện vọng của nhân dân cả nước là được sum họp trong
một đại gia đình, mong muốn có một chính phủ thống nhất, một cơ quan đại diện
chung cho nhân dân cả nước.
Đặc biệt, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (81975)
nhấn mạnh "Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng thiết tha của nhân dân cả nước,
vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân
tộc Việt Nam. Thống nhất càng sớm thì càng mau chóng phát huy sức mạnh mới của
đất nước, dễ ngăn ngừa và mau chóng phá tan những âm mưu chia rẽ của các thế lực
phản động trong nước và trên thế giới"
Chính vì vậy, hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước luôn là nhiệm vụ
có tầm quan trọng lớn lao và thiết yếu của nước ta
Thống nhất đất nước là một nguyện vọng chính đáng, một điều kiện thống nhất
đất nước về toàn diện, mới mở ra khả năng to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
cũng như mở rộng quan hệ quốc tế của nước ta.
2. Quá trình hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước
Thực hiện chủ trương của Đảng, từ ngày 15 đến 21-11-1975, Hội nghị Hiệp
thương chính trị của hai đoàn đại biểu Bắc, Nam diễn ra tại Sài Gòn. Hội nghị khẳng
định: Nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam là một, nước nhà cần được sớm thống nhất
về mặt Nhà nước. Hội nghị chủ trương tổ chức tổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ Việt
Nam bầu ra Quốc hội chung cho cả nước vào nửa đầu năm 1976 theo nguyên tắc dân
chủ, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. lOMoAR cPSD| 58562220
Thực hiện chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước của Đảng, ngày
25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tổ chức trong cả nước.
Hơn 23 triệu cử tri, chiếm 98,8% tổng số cử tri, đã đi bầu.
Tiếp theo đó từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, kỳ họp thứ Nhất của Quốc hội
nước Việt Nam thống nhất đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Quốc hội quyết định những
vấn đề trọng đại của đất nước như: -
Đặt tên nước ta là nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kỳ nền
đỏ sao vàng 5 cánh, Thủ đô là Hà Nội, quốc ca là bài Tiến quân ca, quốc huy mang
dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Thành phố Sài Gòn đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh. -
Bầu các cơ quan, bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo cao nhất của đất nước: bầu
đồngchí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước, các đồng chí Nguyễn Lương Bằng,
Nguyễn Hữu Thọ làm Phó Chủ tịch nước, đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch
Quốc hội và đồng chí Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Ý nghĩa của việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước
Với kết quả của kì họp thứ nhất Quốc hội khóa VI, công cuộc thống nhất đất
nước về mặt Nhà nước đã hoàn thành:
- Thống nhất đất nước về mặt Nhà nước đã thể chế hóa việc thống nhất về lãnh thổ.
- Là cơ sở để thống nhất nước nhà trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa,nhanh
chóng tạo ra sức mạnh toàn diện của đất nước
- Là điều kiện tiên quyết để đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện tư duy
chính trị nhạy bén của Đảng trong thực hiện bước chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta.
- Mở ra những khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với các nước.
II.Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1975-1981)
1. Đại hội lần thứ IV của Đảng
1.1. Ba đặc điểm lớn của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới
Một là, nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến
là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản lOMoAR cPSD| 58562220
chủ nghĩa. Đây là đặc điểm lớn nhất, nó quy định nội dung, hình thức, bước đi của
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hai là, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa
xã hội với nhiều thuận lợi rất lớn: tinh thần cách mạng đang lên sau khi giành thắng
lợi vĩ đại, nhân dân ta cần cù thông minh, sáng tạo, tha thiết với độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự ủng hộ của các nước xã hội chủ
nghĩa và có những điều kiện về lao động, tài nguyên phong phú. Tuy nhiên bên cạnh
đó cũng gặp nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra.
Ba là, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế
thuận lợi, song cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực phản
cách mạng trên thế giới còn gay go, quyết liệt.
Những đặc điểm trên nói lên rằng, nước ta có đủ điều kiện đi lên và xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, song đó là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài đòi
hỏi Đảng và nhân dân ta phải phát huy cao độ tính chủ động, tự giác, sáng tạo trong
quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của nước a. Đường lối chung
Trên cơ sở đánh giá đúng đặc điểm cơ bản của tình hình đất nước, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã xác định đường lối chung của cách mạng xã
hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của nước ta là:
- Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân
laođộng. Nắm vững chuyên chính vô sản là nắm vững đường lối của Đảng, tăng
cường sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện và phát huy quyền làm chủ
của tập thể nhân dân lao động, xây dựng nhà nước vững mạnh để tiến hành ba cuộc
cách mạng về quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật và tư tưởng văn hóa, trong đó
cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt.
- Xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo
nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng,
giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam
hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu lOMoAR cPSD| 58562220
tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Nội dung đường lối chung đã phản ánh đúng mục tiêu, phương hướng xã hội chủ
nghĩa, thể hiện nội dung cuộc đấu tranh dân tộc, giai cấp gay go, phức tạp nhằm giải
quyết vấn đề ai thắng ai giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa.
b. Đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa
Về đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, Đại hội lần thứ IV của Đảng nêu rõ:
- Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước
thành một cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp.
- Vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh
tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
- Kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất
mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng.
- Tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa
anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ
kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng
có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế
công-nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng
vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc.
1.3. Kế hoạch 5 năm 1976 -1980
Để thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế của Đảng, kế hoạch 5 năm
1976-1980 phải thực hiện một sự bố trí chiến lược đúng đắn, nhằm hai mục tiêu cơ bản:
- Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ
cấu kinh tế mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp.
- Cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động. lOMoAR cPSD| 58562220
Theo hai mục tiêu trên đây, những nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm 19761980 là:
- Phát triển vượt bậc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giải quyết một cách
vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thông dụng.
- Xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí, mở mang
giao thông vận tải, xây dựng cơ bản, đẩy mạnh khoa học kỹ thuật.
- Sử dụng hết lực lượng lao động, tổ chức và quản lý tốt lao động.
- Hoàn thành cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
- Cải tiến mạnh mẽ công tác thương nghiệp, giá cả, tài chính, ngân hàng; tăng nhanh nguồn xuất khẩu.
- Phát triển giáo dục, văn hoá, y tế, đào tạo cán bộ, thanh toán hậu quả của chủ nghĩa
thực dân mới; xây dựng một hệ thống mới về quản lý kinh tế trong cả nước.
1.4. Ý nghĩa của đại hội lần thứ IV của Đảng
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự
nghiệp giải phóng dân tộc; là đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước; là đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên con
đường xã hội chủ nghĩa, tiếp tục khẳng định con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn.
1.5. Hạn chế của đại hội lần thứ IV của Đảng
Đại hội vấp phải một số sai lầm, khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan,
nóng vội, giáo điều, thể hiện rõ nhất qua việc đề ra phương châm tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội trong khi đất nước vừa mới bước ra khỏi
chiến tranh gặp muôn ngàn khó khăn, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu quá cao, không
tính đến khả năng thực hiện và điều kiện cụ thể của đất nước sau thống nhất.
Sai lầm trong cả chủ trương cải tạo, quản lý kinh tế, thể hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Cụ thể như sau:
Chưa tổng kết kinh nghiệm 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nên
chưa phát hiện những khuyết tật của chủ nghĩa xã hội thời chiến, chưa đề xuất được
con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam một cách thích hợp. lOMoAR cPSD| 58562220
Đại hội chưa nhận thức được việc bức thiết phải làm sau chiến tranh là khắc
phục hậu quả chiến tranh; dự kiến thời gian phấn đấu để hoàn thành về cơ bản quá
trình đưa nền kinh tế của đất nước từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa
trong khoảng 20 năm để kết thúc thời kỳ quá độ là một chủ trương nóng vội.
Trong kế hoạch kinh tế đã thiên về ưu tiên công nghiệp nặng với quy mô lớn
ngay từ đầu, mở rộng quy mô hợp tác xã quá mức, đề ra các chỉ tiêu kinh tế nông
nghiệp và công nghiệp vượt quá khả năng thực tế.
2. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
2.1. Thành tựu đã đạt được
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV và các Hội nghị Trung ương sau đó,
trong những năm 1976-1979, Đảng đã lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa
- xã hội và cải tạo xã hội chủ nghĩa đạt những thành tựu quan trọng, đó là: a. Về mặt kinh tế
Các cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải bị địch đánh phá về cơ
bản đã được khôi phục và bước đầu phát triển.
* Trong nông nghiệp, nhờ tăng cường biện pháp khai hoang, thâm canh tăng
vụ, diện tích gieo trồng tăng thêm gần 2 triệu héc ta. Nông nghiệp được trang bị
thêm 18.000 máy kéo các loại.
* Trong công nghiệp, nhiều nhà máy được gấp rút xây dựng như nhà máy điện, cơ khí, xi măng ...
* Trong giao thông vận tải, khôi phục và xây dựng mới 1.700 kilômét đường
sắt, 3.800 kilômét đường bộ, 30.000 mét cầu đường, 4.000 mét bến cảng. Tuyến
đường sắt Thống nhất từ Hà Nội đi thành phố Hồ Chí Minh sau 30 năm bị gián đoạn
đã hoạt động trở lại.
b. Về phương diện xã hội * Văn hóa - xã hội:
- Xóa bỏ những biểu hiện văn hóa phản động của chế độ thực dân, xây dựng nền văn hóa mới cách mạng.
- Hệ thống giáo dục từ mầm non, phổ thông đến đại học đều phát triển.
- Chính phủ chủ trương nhanh chóng xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn hóa,
xem đó là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đầu năm 1978, tất cả các tỉnh và thành phố lOMoAR cPSD| 58562220
miền Nam đã căn bản xoá nạn mù chữ. Trong tổng số 1405,9 nghìn người được
xác định không biết chữ, có 1323,7 nghìn người thoát nạn mù chữ. Công tác dạy
nghề phát triển cũng mạnh mẽ. Năm 1977, trên cả nước chỉ có 260 trường trung
học chuyên nghiệp, hơn 117 nghìn sinh viên và 7,8 nghìn giáo viên.
* Y tế: Hệ thống y tế được mở rộng, xây mới và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật. Số giường bệnh thuộc các cơ sở y tế tăng từ 89,4 nghìn giường năm 1976 lên
114,7 nghìn giường năm 1985. Số nhân viên y tế tăng từ 110,9 nghìn người năm
1976 lên 160,2 nghìn người năm 1985, trong đó số bác sĩ tăng từ 9.104 người lên 19.029 người.
c. Về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các tỉnh phía Nam
- Xóa bỏ triệt để quyền chiếm hữu phong kiến về ruộng đất và những tàn tích bóc lột phong kiến.
- Quốc hữu hóa những cơ sở công thương nghiệp của tư sản mại bản, bọn phản quốc
và bọn tư sản chạy ra nước ngoài.
- Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư bản tư doanh; hợp tác hóa nông
nghiệp, tổ chức lại thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ. Kết quả đã cải tạo được
3.452 cơ sở trong tổng số 3.560 với các hình thức xí nghiệp quốc doanh, công tư
hợp doanh và xí nghiệp hợp tác gia công. Đối với thủ công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp, đã tổ chức được 4.000 tổ đoàn kết sản xuất, 5.000 tổ hợp tác sản xuất, 500
hợp tác xã thu hút 70% lao động chuyên nghiệp vào các tổ chức sản xuất tập thể.
Đối với thương nghiệp, chúng ta đã chuyển gần 5.000 tư sản và 9 vạn tiểu thương
hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp sang hoạt động sản xuất, trong thời gian
cải tạo số tiểu thương kinh doanh lương thực và nông sản lại phát triển thêm 10
vạn người. Qua cải tạo công thương nghiệp, nhà nước đã thâu tóm được các ngành kinh tế quan trọng.
- Xây dựng kinh tế quốc doanh và công tư hợp doanh chiếm vị trí chủ đạo trong hầu
hết các ngành và lĩnh vực sản xuất như: năng lượng (100%); bia rượu, thuốc lá
(100%); mía đường (45%); dệt (60%); sản xuất giống (100%); sản xuất xà phòng (80%).
d. Về cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất trong nông nghiệp
đối với các tỉnh miền Bắc lOMoAR cPSD| 58562220
- Thực hiện chủ trương đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn mà Đảng đã đề ra, các hợp
tác xã đã mở rộng quy mô, tổ chức theo hướng tập trung, chuyên môn hoá và cơ giới hoá.
- Tính đến năm 1979 toàn miền Bắc có 4.154 hợp tác xã quy mô toàn xã; một số địa
phương hợp nhất 2-3 hợp tác xã thành một hợp tác xã quy mô trên 1.000 hécta.
Trong các hợp tác xã lập ra các đội chuyên, bao gồm những người lao động trẻ
khỏe, làm việc theo chế độ khoán việc dưới sự điều động của ban quản trị hợp tác
xã, số lao động còn lại làm việc trong các đội cơ bản theo chế độ 3 khoán.
2.2. Những khó khăn gặp phải
Những năm lịch sử 1975 - 1981 là những năm sôi động và vô cùng phức tạp trên
con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
ta đã giành được những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và đạt được
những thành tựu bước đầu trong công cuộc xây dựng lại đất nước theo Di chúc thiêng
liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Song, bên cạnh những thành tựu, đất nước
ta đã gặp nhiều khó khăn chồng chất và gay gắt về kinh tế và đời sống.
Mô hình hợp tác xã quy mô lớn tập trung ở miền Bắc thời điểm đó không phù
hợp nên nhanh chóng bộc lộ những nhược điểm: ruộng đất bị bỏ hoang, xã viên
không thiết tha với ruộng đồng, các ngành nghề làm ăn thua lỗ, thu nhập của xã viên
ngày càng thấp. Từ cuối năm 1979, ở một số địa phương miền Bắc đã xuất hiện hiện
tượng “khoán chui”. Ở miền Nam, tình hình ruộng đất rất phức tạp, việc làm thí điểm
hợp tác xã ở miền Trung và Tây Nguyên diễn ra thuận lợi, nhưng thiếu vững chắc, ở
Nam Bộ diễn ra phức tạp và lúng túng, sản xuất nông nghiệp có chiều hướng suy giảm.
Trên phạm vi cả nước, từ năm 1976 đến năm 1979, đầu tư của nhà nước cho
nông nghiệp không ngừng tăng, nhưng năng suất và sản lượng lương thực lại giảm
đến mức thấp nhất, dẫn đến tình trạng phải nhập khẩu lương thực ngày càng lớn. Tốc
độ phát triển công nghiệp tăng bình quân hàng năm là 0,6%, tổng sản phẩm xã hội
chỉ tăng bình quân 1,4% hàng năm, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4%, trong khi dân
số tăng 2,24%. Sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh, thu nhập chưa
bảo đảm tiêu dùng xã hội; nền kinh tế chưa có tích lũy từ bên trong. Lương thực, vải
mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu. Cung ứng vật tư và giao thông - vận
tải rất căng thẳng; chênh lệch thu chi, hàng và tiền, xuất khẩu và nhập khẩu còn lớn.
Thị trường vật giá không ổn định. Nền kinh tế nước ta vốn đã thấp kém, thiên tai
dồn dập, dự trữ nguyên vật liệu dần cạn kiệt, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa lOMoAR cPSD| 58562220
giảm sút, chiến tranh hai đầu biên giới xảy ra, đế quốc Mỹ và các thế lực chống đối
Việt Nam bao vây, cấm vận kinh tế, đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội
bắt đầu xuất hiện, đời sống nhân dân nhất là cán bộ, viên chức Nhà nước, lực lượng vũ trang rất khó khăn.
3. Công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc
3.1. Cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới Tây – Nam
Chiến tranh biên giới Tây Nam là cuộc xung đột quân sự giữa Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và Campuchia Dân chủ. Cuộc chiến diễn ra ở Campuchia, biên
giới Tây Nam của Việt Nam và biên giới phía đông Thái Lan.và có nguyên nhân từ
các hoạt động quân sự của quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, giết
chóc người dân và đốt phá làng mạc Việt Nam trong những năm 1975 – 1978.
a. Bối cảnh chiến tranh biên giới Tây – Nam.
Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân Việt
Nam và nhân dân Campuchia có chung khát vọng được sống trong hòa bình, độc
lập, tự do và phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng. Thế nhưng ngay sau khi
lên cầm quyền ở Campuchia vào tháng 4-1975, tập đoàn Pôn Pốt đã phản bội lại
nhân dân Campuchia, thâu tóm quyền lực, thi hành hàng loạt chính sách đối nội, đối
ngoại cực kỳ phản động, hiếu chiến và tàn bạo.
Ở trong nước, chúng tước đoạt quyền tự do, dân chủ của nhân dân, biến họ thành
những người nô lệ; thi hành chính sách diệt chủng đối với những tầng lớp, nhóm
người không đi theo đường lối phản động của chúng. Chúng đã giết hại hàng triệu
người vô tội, đặt dân tộc Campuchia bên bờ diệt vong và đe dọa nghiêm trọng an
ninh của các nước trên bán đảo Đông Dương.
Bên cạnh đó tập đoàn Pôn Pốt đã thay đổi thái độ với Việt Nam, ra sức xuyên
tạc, bôi nhọ hình ảnh Việt Nam, kích động hằn thù dân tộc, đòi hoạch định lại biên
giới, coi Việt Nam là “kẻ thù số một”, “kẻ thù truyền kiếp”. Từ năm 1975 đến 1978,
chúng trắng trợn mở nhiều cuộc tiến công xâm lấn, gây nên hàng loạt cuộc thảm sát
đẫm máu đối với nhân dân ta dọc biên giới Việt Nam-Campuchia. Hành động của
tập đoàn Pôn Pốt đã xâm phạm thô bạo độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng, tài sản của
nhân dân, Đảng, Nhà nước ta một mặt chỉ đạo chuẩn bị lực lượng và thế trận, kiên
quyết đập tan các cuộc tiến công xâm lược của địch; mặt khác, tìm cách cứu vãn hòa lOMoAR cPSD| 58562220
bình, nhiều lần đề nghị đàm phán nhằm giải quyết những bất đồng. Song, tập đoàn
Pôn Pốt không những cự tuyệt mọi thiện chí của ta mà còn đẩy mạnh hoạt động xâm lược Việt Nam.
Trước tình hình đó, Nhà nước ta thông qua quyết định mở cuộc tổng phản công-
tiến công chiến lược trên tuyến biên giới Tây Nam; đồng thời sẵn sàng phương án
hỗ trợ các lực lượng vũ trang yêu nước Campuchia đánh đổ tập đoàn Pôn Pốt, giành
chính quyền về tay nhân dân.
b. Tóm tắt diễn biến cuộc chiến tranh.
Cuộc chiến tranh diễn ra theo 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ ngày 30/4/1977 đến ngày 05/01/1978
Quân Pôn Pốt mở các cuộc tiến công quy mô lớn sang lãnh thổ Việt Nam. Với
dã tâm xâm lược, mở đầu cuộc chiến tranh, Pôn Pốt liên tiếp mở 3 cuộc tiến công
quy mô lớn sang lãnh thổ Việt Nam:
+ Ngày 30/4/1977, chúng đánh vào 14/16 xã biên giới thuộc tỉnh An Giang.
+ Từ ngày 25/9/1977, quân Pôn Pốt tập trung 9 sư đoàn chủ lực cùng lực lượng địa
phương mở cuộc tiến công lớn thứ 2 đánh sang địa bàn các tỉnh An Giang, Kiên
Giang, Long An, Đồng Tháp lên hướng Tây Ninh, gây nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam.
+ Ngày 15/11/1977, quân Pôn Pốt lại mở cuộc tiến công mới nhằm đánh chiếm thị xã Tây Ninh.
Trước tình hình đó, từ 5/12/1977 đến 5/01/1978, Quân ta mở đợt phản công, truy
kích quân Pôn Pốt làm thất bại kế hoạch đánh chiếm thị xã Tây Ninh của chúng. +
Với thủ đoạn nham hiểm “vừa ăn cướp, vừa la làng”, ngày 31/12/1977, chúng ra
tuyên bố vu khống Quân đội Việt Nam “tiến công xâm lược Campuchia dân chủ”
nhằm cô lập Việt Nam trên trường quốc tế.
+ Cũng trong ngày 31/12/1977, Chính phủ ta ra tuyên bố về vấn đề biên giới Việt
Nam - Campuchia, vạch trần âm mưu thủ đoạn và những tội ác man rợ của tập đoàn Pôn Pốt.
Giai đoạn 2: Từ ngày 06/01/1978 đến ngày 07/01/1979
+ Tháng 01/1978, Pôn Pốt đưa thêm 2 sư đoàn ra biên giới, tiếp tục gây xung đột,
liên tục tiến công lấn chiếm, bắn pháo vào những nơi đông dân cư, gây nhiều tội ác với đồng bào ta. lOMoAR cPSD| 58562220
+ Ngày 05/02/1978, Chính phủ ta ra tuyên bố ba điểm.
+ Từ ngày 26/3/1978, Quân đội ta chuyển sang tiến công, đẩy quân Pôn Pốt lùi xa
dần biên giới, đỉnh cao là cuộc nổi dậy từ ngày 26/5/1978 ở Quân khu Đông, làm
suy yếu một bộ phận lực lượng quân Pôn Pốt.
+ Ngày 15/6/1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp bàn và quyết định phát
động chiến tranh nhân dân, kiên quyết phản công và tiến công địch.
+ Từ ngày 14/6 đến 30/9/1978, quân ta mở tiếp đợt tiến công lớn, kéo dài nhằm tiêu
diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, tiến tới làm suy yếu một bước lực lượng quân Pôn Pốt.
Phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia trong đợt tiến công này, ta đẩy
lùi hầu hết quân Pôn Pốt ra khỏi đất Việt Nam.
+ Ngày 2/12/1978, Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia ra mắt nhân dân Campuchia.
+ Ngày 06 và 07 tháng 12/1978, quân đội ta thông qua quyết tâm tổng phản công,
hoàn thành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
+ Ngày 26/12/1978, toàn bộ hệ thống phòng thủ vòng ngoài của quân Pôn Pốt bị phá vỡ.
+ Đến ngày 31/12/1978, quân và dân ta đã hoàn thành nhiệm vụ đánh đuổi quân Pôn
Pốt, thu hồi toàn bộ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm.
+ Ngày 05 và 06 tháng 01/1979, trên tất cả các hướng, quân Pôn Pốt không cản được
Quân tình nguyện Việt Nam truy kích và tiến sát Thủ đô Phnôm Pênh.
+ Sau 2 ngày tổng công kích, ngày 07/01/1979, Thủ đô Phnôm Pênh hoàn toàn được giải phóng.
+ Ngày 08/01/1979, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập.
+ Ngày 17/01/1979, toàn bộ đất nước Campuchia được giải phóng.
c. Ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng
Đối với Việt Nam
Thắng lợi trong cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc có ý nghĩa
rất to lớn đối với Việt Nam: Một lần nữa khẳng định nhân dân Việt Nam với ý chí
độc lập, tự chủ và tinh thần đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong sáng, sẵn lOMoAR cPSD| 58562220
sàng đập tan bất kỳ âm mưu và hành động chống phá nào của các thế lực phản động,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời thể
hiện tinh thần quốc tế cao cả, mối quan hệ truyền thống gắn bó thủy chung, lâu đời,
sự giúp đỡ trong sáng, chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân
dân Việt Nam đối với nhân dân Campuchia.
Đối với quốc tế
Thắng lợi vĩ đại ngày 7/01/1979 là thắng lợi chung của nhân dân hai nước Việt
Nam - Campuchia, thể hiện sức mạnh của tinh thần đoàn kết quốc tế, sự thủy chung,
trọn nghĩa vẹn tình giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia. Với thắng lợi ngày
7/01/1979, quan hệ hai nước Việt Nam - Campuchia chuyển sang thời kỳ mới - thời
kỳ khôi phục, vun đắp tình đoàn kết, hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa
hai nước dựa trên nguyên tắc hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau vì sự phát triển và phồn vinh của mỗi nước.
Chiến thắng chế độ diệt chủng Pôn Pốt đã góp phần giữ vững hòa bình, ổn định
ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới; đấu tranh vạch trần bản chất của chế độ
phân biệt chủng tộc, sắc tộc, chế độ độc tài và cảnh báo cho nhân loại cảnh giác trước
nguy cơ của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phát xít mới.
3.2. Cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới phía Bắc
3.2.1 Bối cảnh chiến tranh biên giới phía Bắc
Thời điểm đó, quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng trở lên căng
thẳng. Quan hệ Xô -Trung lúc đó chuyển từ bình thường, thậm chí tốt đẹp, sang đối
đầu. Quan hệ Liên Xô - Trung Quốc rạn nứt nghiêm trọng trong lúc quan hệ Liên Xô
- Việt Nam ngày càng gắn bó.
Khi cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, giúp đỡ nhân dân Campuchia
thoát khỏi chế độ diệt chủng tàn bạo càng giành chiến thắng, quan hệ Trung Quốc -
Việt Nam cũng càng thêm căng thẳng, thậm chí xảy ra tranh chấp, xâm lấn biên giới.
Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc dần xấu đi nghiêm trọng khi Trung Quốc
không đạt được mục đích gây áp lực với Việt Nam trong vấn đề Campuchia.
Trung Quốc đã chuẩn bị trước cho cuộc chiến xâm chiếm Việt Nam, leo thang
từng bước, từ gây áp lực trong vấn đề Campuchia, dựng lên “sự cố Hoa kiều” và
chuẩn bị về binh lực đi đôi với việc tuyên truyền.
3.2.2 Toàn cảnh cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc 1979 lOMoAR cPSD| 58562220
Cuối năm 1978, đầu năm 1979, khi quan hệ hai nước căng thẳng, xung đột vũ
trang nhỏ lẻ ở biên giới liên tục diễn ra, phía Việt Nam vẫn kiên trì kêu gọi chính
phủ Trung Quốc cùng nhau đàm phán giải quyết mọi mâu thuẫn, tranh chấp bằng
biện pháp hòa bình trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ. Đáp lại thiện chí đó, phía Trung Quốc vẫn chủ trương tiến hành đường lối
chống Việt Nam, cắt toàn bộ viện trợ đã cam kết, đưa ra những đòi hỏi vô lý khi đàm
phán. Mặt khác, Chính phủ Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền vu cáo “Việt
Nam xâm lược Campuchia,” “Việt Nam lấn chiếm đất đai, quấy rối biên cương phía
Nam Trung Quốc” nhằm đánh lạc hướng dư luận trong và ngoài nước, từ đó ngang
ngược tuyên bố “dạy cho Việt Nam một bài học". Lường định về một cuộc chiến
tranh có thể xảy ra, cuối năm 1978, Trung ương Đảng, Chính phủ Việt Nam khẩn
trương tăng cường lực lượng củng cố tuyến phòng thù biên giới phía Bắc.
Trước cuộc tiến công quy mô lớn của Trung Quốc, ngày 17/2/1979, Chính phủ
Việt Nam ra tuyên bố nêu rõ nhà cầm quyền Trung Quốc đang đi ngược lại lợi ích
của nhân dân, phá hoại nghiêm trọng tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
Việt Nam tuyên bố “Quân dân Việt Nam không có con đường nào khác phải dùng
quyền tự vệ chính đáng của mình để đánh trả”. Với tinh thần “Không có gì quý hơn
độc lập, tự do”, quân và dân các tỉnh biên giới sát cánh cùng bộ đội chủ lực quyết
chiến đấu bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Trong những ngày đầu chiến tranh, phía Việt Nam chủ trương không tập trung
lực lượng dự bị chiến lược vào quyết chiến sớm, cũng không vội rút lực lượng chủ
lực cơ động phía Nam ra, mà phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân
địa phương, sử dụng lực lượng tại chỗ của Quân khu 1, Quân khu 2 là chính, có sự
bổ sung một bộ phận lực lượng từ tuyến sau lên tăng cường.
Diễn biến cuộc chiến
Trải qua 10 ngày chiến đấu, các lực lượng vũ trang Quân khu 1, Quân khu 2 và
nhân dân Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc đã chiến đấu rất anh dũng, tiêu
diệt nhiều sinh lực, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, làm chậm ý định “đánh
nhanh, chiếm nhanh” của quân Trung Quốc, buộc đối phương phải tung lực lượng
dự bị chiến lược vào tham chiến. Với ưu thế quân đông, nhiều vũ khí trang bị kỹ
thuật, quân Trung Quốc từng bước tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, lần lượt chiếm
một số địa bàn, thị xã quan trọng như: Lào Cai (19/2), Cao Bằng (24/2), Cam Đường (25/2), Lạng Sơn (5/3)... lOMoAR cPSD| 58562220
Trước tình hình cấp bách đó, Chính phủ Việt Nam quyết định sử dụng các binh
đoàn chủ lực mạnh, sẵn sàng mở những chiến dịch phản công quy mô lớn của binh
chủng hợp thành. Theo phương châm đó, đầu tháng 3/1979, Quân ủy Trung ương,
Bộ Quốc phòng Việt Nam ra lệnh cho Quân đoàn 2 đang làm nhiệm vụ quốc tế tại
Campuchia nhanh chóng chuyển toàn bộ lực lượng về phía Bắc tập kết, đồng thời,
ra quyết định thành lập Quân đoàn 5 (ngày 2/3/1979) ngay tại mặt trận biên giới
(gồm bốn sư đoàn bộ binh: 3, 338, 327, 337 cùng một số đơn vị kỹ thuật và bảo đảm khác).
Tuy nhiên do chiếm ưu thế hơn hẳn về quân số và hỏa lực, nên dù tổn thất lớn
nhưng quân Trung Quốc cũng đã tiến sâu vào nội địa nước ta. Nhưng càng về sau,
quân chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương của Việt Nam phản công dữ dội, bẻ
gãy và chặn đứng đà tiến công, đồng thời từng bước đẩy lùi quân Trung Quốc về nước.
+ Ngày 4/3/1979 Ban Chấp hành Trung ương kêu gọi quân dân cả nước quyết tâm
bảo vệ biên cương của Tổ quốc.
+ Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước công bố lệnh tổng động viên cả nước.
Do không đạt được mục đích đề ra, bị quân và dân các tỉnh biên giới giáng trở
mạnh mẽ, tổn thất nặng nề, bị thế giới và trong nước lên án, ngày 5/3/1979, Trung
Quốc buộc phải tuyên bố rút quân ngay sau khi nghe tin Việt Nam ra lệnh tổng động viên.
Với truyền thống nhân nghĩa, bao dung và mong muốn củng cố hòa bình, Việt
Nam đã ngừng mọi cuộc truy sát để cho quân Trung Quốc có thể rút về nước. Ngày
18/3/1979, Trung Quốc rút hết quân ra khỏi nước ta.
3.2.3 Ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của nhân dân Việt Nam góp phần
khẳng định đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sự chỉ đạo chiến lược tài tình, sắc
bén của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương Việt Nam, nhất là trong việc nắm bắt tình
hình, đánh giá đúng khả năng hành động của đối phương, trên cơ sở đó kịp thời chỉ
đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang và nhân dân chuẩn bị các mặt sẵn sàng đối phó;
tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc.
Qua thực tiễn điều hành, chỉ đạo chiến tranh, Trung ương Đảng và Chính phủ
Việt Nam luôn khẳng định về quyền tự vệ chính đáng của mình, kiên quyết đánh trả lOMoAR cPSD| 58562220
mọi cuộc tiến công xâm phạm chủ quyền, nhưng đồng thời cũng luôn thể hiện rõ
lòng bao dung, khát vọng hòa bình, mong muốn chấm dứt xung đột để xây dựng mối
quan hệ tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt Nam-Trung Quốc, góp phần gìn giữ môi trường
hòa bình, ổn định trong khu vực cũng như trên thế giới.
4. Bài học rút ra từ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường;
xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Ở trong nước, bên cạnh những thuận
lợi, thời cơ mới, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Các thế
lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu chống phá cách mạng với nhiều phương thức,
thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc hòng hạ
thấp, đi tới phủ nhận vai trò và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
cách mạng Việt Nam; đòi đa nguyên, đa đảng, phi chính trị hóa quân đội, tách quân
đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng... Chính vì vậy, cần tiếp tục khẳng định vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam là một tất yếu khách quan, là sự lựa chọn
của chính lịch sử dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả
năng tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự
nghiệp quốc phòng, an ninh. Muốn vậy, phải chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, để
Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”.
Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà
nước ta luôn đánh giá rất cao vai trò của thanh niên trong công cuộc góp phần xây
dựng, phát huy truyền thống anh hùng của dân tộc, đồng thời vận động thế hệ thanh
niên tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mỗi chúng ta để làm tốt điều này thì phải coi đây là một nghĩa vụ thiêng liêng
cao quý của mỗi công dân. Từ đó chúng ta sẽ ý thức được Trách nhiệm của thanh
niên, học sinh hiện nay là:
- Tích cực học tập, rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ.
- Thông qua các phong trào hành động cách mạng của Đoàn như “Tuổi trẻ xung kích
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, phong trào “Thanh niên tình nguyện”, phong trào
“Tuổi trẻ sáng tạo”,... phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ trong đề lOMoAR cPSD| 58562220
ra các hoạt động, mô hình, giải pháp để giải quyết các vấn đề mà người dân quan
tâm, đồng thời hỗ trợ giải quyết các nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đông
đảo đoàn viên, thanh niên như: vệ sinh môi trường, cải cách hành chính, phòng
chống tội phạm, truyền thông trên mạng xã hội….
- Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, Cảnh giác trước âm mưu
chia rẽ, xuyên tạc của các thế lực thù địch; phê phán, đấu tranh với những thái độ,
việc làm gây tổn hại đến an ninh quốc gia, xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình,
kịp thời phát hiện, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn xâm lược của kẻ thù.
- Tích cực tham gia các hoạt động an ninh, quốc phòng ở địa phương; tham gia hoạt
động đền ơn đáp nghĩa…
- Tham gia đăng ký tham gia huấn luyện nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi; sẵn sàng lên
đường làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Vận động bạn bè, người thân thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
III.Câu hỏi ôn tập (Kahoot)
Câu 1: Cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung được tổ chức trong cả nước ngày
25/4/1976 có bao nhiêu cử tri đi bầu?
a. Hơn 23 triệu cử chi
b. Hơn 24 triệu cử chi
c. Hơn 25 triệu cử chi
d. Hơn 26 triệu cử chi
Câu 2: Hội nghị nào đã đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước Việt Nam về mặt nhà nước?
a. Hội nghị lần thứ 24 ban chấp hành trung ương Đảng (9 – 1975).
b. Hội nghị lần thứ 21 ban chấp hành trung ương Đảng (7 – 1973).
c. Hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước (11 – 1975).
d. Hội nghị lần thứ 15 ban chấp hành trung ương Đảng (1 – 1959).
Câu 3: kỳ họp thứ Nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất từ ngày 24-6 đến
ngày 3-7-1976 đã họp tại: a. TP HCM b. Đà Nẵng c. Huế lOMoAR cPSD| 58562220 d. Hà Nội
Câu 4: Nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt Nhà nước được đề ra từ
Hội nghị nào của Đảng?
a. Hội nghị lần thứ 15
b. Hội nghị lần thứ 21.
c. Hội nghị lần thứ 24.
d. Hội nghị Hiệp thương chính trị tổ chức tại Sài Gòn.
Câu 5: Chiến tranh biên giới Tây Nam là cuộc xung đột quân sự giữa a. Việt Nam và Lào
b. Việt Nam và Campuchia
c. Việt nam và Trung Quốc d. Việt Nam và Philippines
Câu 6: Ngày 20-9-1977, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành thành
viên thứ mấy của Liên hợp quốc? a. 148 b. 149 c. 150 d. 151
Câu 7: Năm bao nhiêu thì thành phố Sài Gòn đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh? a. 1975 b. 1976 c. 1977 d. 1978
Câu 8: Việt Nam và Campuchia ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác vào a. 18-2-1979 b. 28-2-1979 c. 18-2-1978 d. 28-2-1978
Câu 9: Thắng lợi chung của hai nước Việt Nam và Campuchia trong cuộc đấu tranh
bảo vệ biên giới Tây- Nam vào ngày a. 7/1/1979 lOMoAR cPSD| 58562220 b. 17/1/1979 c. 7/1/1978 d. 7/2/1979
Câu 10: Tại kì họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đặt tên nước ta là?
a. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa b. Quốc gia Việt Nam
c. Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam
d. Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Câu 11: Đâu không phải là nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980?
a. Phát triển vượt bậc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp
b. Xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí
c. Phát triển giáo dục, văn hoá, y tế, đào tạo cán bộ
d. Chống phá quân xâm lược lOMoAR cPSD| 58562220
IV. Tài liệu tham khảo
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-
dang/lanthu-iv/bao-cao-phuong-huong-nhiem-vu-va-muc-tieu-chu-yeu-cua-ke-hoach-5- nam- 1976-1980-1511
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-
dang/lanthu-iv/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-iv-cua-dang-22
https://camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page=trangchitiet&urile=wcm%3Apath%3A/
camaulibrary/camauofsite/trangchu/thamluannghiencuu/lichsuvhtlnc/bvmbjbhmgf
https://tailieu.vn/doc/giao-trinh-lich-su-dang-cong-san-viet-nam-tai-ban-lan-thu-hai-
cosua-chua-va-bo-sung--96870.html
https://sites.google.com/site/lichsuvn9/lich-su-9/bai-32 http://baohagiang.vn/thoi-su-
chinh-tri/201901/chien-thang-chien-tranh-bao-ve-bien-gioitay-nam-cua-to-quoc-va-cung-
quan-dan-campuchia-danh-do-che-do-diet-chung-739618/
https://baothaibinh.com.vn/news/28/121930/chien-tranh-bien-gioi-phia-
bacthang-loi-va-bai-hoc-lich-su http://danvan.vn/Home/Tin-hoat-dong/Lanh-
dao-Dang-Nha-Nuoc/13404/42nam-cuoc-chien-dau-bao-ve-bien-gioi-phia-
Bac-To-quoc-Dau-moc-haohung-mai-khac-ghi