lOMoARcPSD| 60860503
TRƯỜNG ĐẠI HỌC N HÓA HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ DU LỊCH VÀ NGÔN NGỮ QUỐC TẾ
BÁO CÁO MÔN HỌC
MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đề tài:
BẢO TỒN PHÁT HUY GIÁ TRỊ N HOÁ CỦA DÂN CA QUAN
HỌ ( KHẢO SÁT TẠI LÀNG DIỀM, THÔN VIÊM XÁ, XÃ HOÀ LONG,
THÀNH PHỐ BẮC NINH)
Giảng viên : Trần Thị Phương Thảo Nhóm
thực hiện : Nhóm 1-N08
1. Nguyễn Thị Diệu Hoa (NT) - 64DQT07057
2. Hà Nguyễn Thuỳ Dương-64DQT07030
3. Đinh Thanh Hằng - 64DQT07045
4. Nguyễn Thị Lan Anh - 64DQT07005
5. Thị Thuỳ Dung - 64DQT07025
Hà Nội, 5/2024
lOMoARcPSD| 60860503
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................5
1. nh cấp thiết của đề tài...............................................................................5
2. nh hình nghiên cứu...................................................................................6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................6
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu............................................................7
5. Phạm vi nghiên cứu......................................................................................7
6. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................7
7. Bố cục đề tài..................................................................................................7
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HOÁ DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH................................10
1.1. Một số khái niệm liên quan....................................................................10
1.1.1. Khái niệm bảo tồn phát huy...........................................................10
1.1.2. Di sản văn h....................................................................................12
1.1.3. Dân ca.................................................................................................13
1.1.4. Dân ca quan họ...................................................................................14
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát huy gtrị dân
ca Quan họ......................................................................................................15
1.3. Nội dung bảo tồn và phát huy giá trị dân ca Quan họ.........................15
1.4. Giới thiệu về dân ca Quan họ Bắc Ninh................................................17
1.5. Giới thiệu về Làng Diềm.........................................................................18
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO TỒN PHÁT HUY GIÁ TRỊ DÂN CA
QUAN HỌ TẠI LÀNG DIỀM, THÔN VIÊM XÁ, XÃ HOÀ LONG,
THÀNH PHỐ BẮC NINH................................................................................21
2.1. Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá dân ca Quan họ tại
Làng Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long, thành phố Bắc Ninh.................21
2.1.1. Các hoạt động bảo tồn giá trị văn hoá dân ca Quan họ.....................21
2.2.2. Các hoạt động phát huy giá trị văn hoá dân ca Quan họ...................30
2.2.3. Một số yếu tố tác động đến bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá dân ca
lOMoARcPSD| 60860503
Quan họ Bắc Ninh.........................................................................................34
2.3. Đánh giá thực trạng bảo tồn phát huy giá trị văn hoá dân ca Quan
họ tại Làng Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long, thành phố Bắc Ninh......37
2.3.1. Ưu điểm...............................................................................................37
2.3.2. Hạn chế...............................................................................................38
Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN
HOÁ DÂN CA QUAN HỌ TẠI LÀNG DIỀM, THÔN VIÊM XÁ, XÃ HOÀ
LONG, THÀNH PHỐ BẮC NINH..................................................................40
3.1. Các chính sách bảo tồn và phát huy giá trị Dân ca Quan họ..............40
3.1.1 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực..................................................40
3.1.2 Hỗ trợ chi phí cho hoạt động bảo tồn phát huy dân ca quan họ tại
làng Diềm......................................................................................................40
3.1.3 Ứng dụng công nghệ vào công tác bảo tồn và phát huy......................41
3.1.4. Đẩy mạnh hoạt động của các câu lạc bộ............................................42
3.1.5. In ấn, xuất bản những tài liệu, ấn phẩm, sách, báo, truyện liên quan
đến dân ca quan họ.......................................................................................42
3.1.6. Tổ chức những đợt tập huấn, lớp tập huấn định kì.............................42
3.1.7. Gắn kết bảo tồn dân ca Quan họ với phát triển du lịch......................43
3.2. Các giải pháp khác..................................................................................43
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................44
PHỤ LỤC...........................................................................................................46
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
STT
Tên thành viên
MSV
Nhiệm vụ
Đánh
giá
lOMoARcPSD| 60860503
1
Nguyễn Thị
Diệu Hoa
(Nhóm trưởng)
64DQT07057
Tổng hợp, chỉnh sửa nội
dung
Chương 1: 1.1.2
Chương 2: 2.1.1.5;
2.1.1.6;
2.2.3.1;
Khung phỏng vấn
Phụ lục ; Tài liệu tham
khảo
Thuyết trình
Đi phỏng vấn trực tiếp
2
Hà Nguyễn
Thuỳ Dương
64DQT07030
Chương 1: 1.1.1.2
Chương 2: 2.2.2
Kết luận
Đi phỏng vấn trực tiếp
3
Đinh Thanh
Hằng
64DQT07045
Đi phỏng vấn trực tiếp
Chương 1: 1.1.1.1
Chương 2: 2.2.3.4
4
Nguyễn Thị Lan
Anh
64DQT07005
Chương 1: 1.1.3 ; 1.3
Chương 2: 2.2.2;
Biên bản phỏng vấn
Powerpoint
5
Thị Thuỳ
Dung
64DQT07025
Chương 1:1.1.4; 1.4
Chương 2: 2.2.3.2 ; 2.2.3.3
Powerpoint
lOMoARcPSD| 60860503
6
Công việc chung
Phần mở đầu
Mục lục
Chương 2: 2.3
Chương 3
lOMoARcPSD| 60860503
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân ca quan họ là một trong những thể loại dân ca tiêu biểu của vùng châu
thổ sông Hồng, được hình thành và phát triển ở vùng văn hoá Kinh Bắc xưa, đặc
biệt khu vực tỉnh Bắc (hiện nay hai tỉnh Bắc Ninh Bắc Giang).
Không chỉ riêng về giá trị nghệ thuật âm nhạc, trong nội dung của dân ca Quan
họ còn chứa đựng nhiều giá trị văn hoá khác như: tâm linh, tín ngưỡng, phong tục
tập quán, trang phục, văn hoá ứng xử… vừa độc đáo, vừa thấm đượm tính cộng
đồng. Chính do những gtrị đó, nên năm 2009 sau Nhã nhạc cung đình Huế,
không gian văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên, Ca trù dân ca Quan họ đã được
UNESCO công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại.
Trong gần chục năm trở lại đây, dân ca Quan họ đang nội dung thu hút
hấp dẫn khách du lịch. Đây một trong những lợi thế của các làng Quan họ
nói chung làng Diềm nói riêng. thể kết hợp du lịch với tiềm năng của dân
ca Quan họ để tạo ra động lực phát triển kinh tế. Vấn đề ở đây phải bảo tồn như
thế nào để dân ca Quan họ đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch, nhưng không
làm mất đi giá trị văn hoá của nó. Thực tế cho thấy rằng, công tác bảo tồn và phát
huy giá trị văn hoá của Dân ca Quan họ luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Tuy nhiên, trong công tác bảo tồn, ngoài thuận lợi vẫn còn gặp nhiều khó khăn
do: sự chuyển đổi cơ cấu xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá cùng với những yếu
tố khách quan chủ quan khác, đã làm nảy sinh sự suy thoái, biến dạng của di
sản. Thậm chí, tính chất của Dân ca Quan họ có thể bị biến đổi, méo mó. Vì vậy,
việc đưa Dân ca Quan hvào giáo dục phổ thông để bảo tồn còn gặp nhiều khó
khăn.
Xuất phát từ những do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: Bảo tồn phát
huy giá trị văn hoá Dân ca Quan họ tại Làng Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long,
thành phố Bắc Ninh để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong nhiều năm qua, đã khá nhiều đề tài nghiên cứu về Dân ca Quan
họ nói chung và công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của Dân ca Quan h
Bắc Ninh nói riêng. Chúng tôi xin được khái quát những nghiên cứu đó như sau:
Cuốn sách “Dân ca quan họ Bắc Ninh-Di sản văn hoá Phi vật thể đại diện
của nhân loại” do tác giả Từ Thị Loan (chủ biên), Nguyễn Chí Bền xuất bản năm
lOMoARcPSD| 60860503
2021. Cuốn sách đã đề cập đến nguồn gốc, không gian văn hoá dân ca quan
họ đem lại. Những làng quan họ nghệ nhân quan họ Bắc Ninh và sự bảo tồn
phát huy giá trị dân ca quan họ Bắc Ninh
Năm 2015, tác giả Đinh Thị Thanh Huyền thực hiện đề tài tiến sĩ Tục chơi
quan họ, xưa và nay, chuyên nghành Dân tộc họ. Nội dung chính của luận án này
gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, vấn đnghiên cứu,
thuyết phương pháp tiếp cận; Chương 2: Lối chơi Quan họ xưa nay tại
làng Diềm; Chương 3: Lối chơi quan hxưa nay tại làng Bịu (Hoài Thị);
Chương 4: Truyền thống, biến đổi và bảo tồn văn hoá Quan họ.
Luận văn thạc sĩ Quản lý văn hoá “Nghệ nhân dân gian làng Diềm, xã
Hoà Long, thành phố Bắc Ninh trong việc phát huy giá trị dân ca quan họ Bắc
Ninh” -Nguyễn Đình Sáng. Luận án đã nêu tình hình, vai trò, đóng góp của
nghệ nhân dân gian làng Diềm trong việc phát huy giá trị dân ca quan họ Bắc Ninh
ở làng Diềm nói riêng và tỉnh Bắc Ninh nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng về công tác bảo tồn phát huy giá trị văn hoá
dânca Quan họ tại Làng Diềm, xã Hoà Long, Thành phố Bắc Ninh.
- Ưu điểm hạn chế trong công tác bảo tồn phát huy giá trị văn
hoá
- Gỉải pháp nhằm góp phần nâng cao công tác quản bảo tồn
pháthuy Dân ca Quan họ Bắc Ninh
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tổng hợp từ các tài liệu thứ cấp nghiên cứu về giá trị văn
hoá, đặc điểm của dân ca Quan họ. Nghiên cứu về chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước của tỉnh Bắc Ninh nói chung nhà hát dân ca Quan họ Bắc
Ninh nói riêng về công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hoá nhằm đưa ra được
những đánh giá về kết quả đã thực hiện, từ đó có những giải pháp thích hợp.
Làm một số vấn đề quản bảo tồn phát huy giá trị văn hoá của dân
ca Quan họ. Nghiên cứu thực trạng công tác bảo tồn phát huy giá trị văn hoá
của dân ca Quan họ tại Làng Diềm, Hoà Long, Thành phố Bắc Ninh về: các
lOMoARcPSD| 60860503
nguồn lực cho việc bảo tồn phát huy, các hoạt động bảo tồn, các hoạt động
phát huy,…
Đánh giá những thành tựu, ưu điểm, hạn chế, khó khăn, nguyên nhân
đưa ra giải pháp để bảo tồn phát huy giá trị văn hoá của dân ca Quan họ tại
Làng Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long, Thành phố Bắc Ninh.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá Dân ca Quan họ
Bắc Ninh
Khách thnghiên cứu: Làng Diềm, thôn Viêm Xá, Hoà Long, Thành phố
Bắc Ninh
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Nghệ nhân Quan họ, cán bộ quản lý trên địa bàn Làng
Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long, thành phố Bắc Ninh từ 12/202304/2024
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phân tích tài liệu
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của
đề tài được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề luận về bảo tồn phát huy Dân ca Quan họ
Bắc Ninh
Chương 2. Thực trạng bảo tồnphát huy Dân ca Quan họ khu vực Làng
Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long, Thành phố Bắc Ninh
Chương 3. Giải pháp nhằm đbảo tồn phát huy Dân ca Quan họ Bắc
Ninh
Chương 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TR
VĂN HOÁ DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH
1.1. Một số khái niệm liên quan
lOMoARcPSD| 60860503
1.1.1. Khái niệm bảo tồn và phát huy
1.1.1.1 Khái niệm bảo tồn
Theo Từ điển tiếng Việt ( Hoàng Phê chủ biên) bảo tồn có nghĩa là giữ lại,
không để mất đi.[8]
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Liêm trong cuốn Kỷ yếu hội thảo 60 năm đề cương
văn hoá Việt Nam (1943-2003) cho rằng:
Bảo tồn giữ lại, không để bị mất đi, không để bị thay đổi, biến hoá hay
biến thái…Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này, không khái niệm “cải
biến”, “nâng cao” hoặc “phát triển” . Hơn nữa, khi nói đối tượng bảo tồn “phải
được nhìn tinh hoa”, chúng ta khẳng định gtrị đích thực và khả năng tồn tại
theo thời gian, dưới nhiều thể trạng hình thức khác nhau của đối tượng được
bảo tồn[6]
Như vậy, từ hai định nghĩa trên ta có thể đưa ra một số kết luận:
Bảo tồn nghĩa gìn giữ, lưu lại những giá trị của đối tượng cần được
bảo tồn
Bảo tồn di sản (heritage preservation) được hiểu như các nỗ lực nhằm
bảo vệ và gìn giữ sự tồn tại của di sản theo dạng thức vốn có của nó.
Đối tượng bảo tồn ( tức các giá trị di sản văn hoá vật thể và phi vật thể)
cần thoả mãn hai điều kiện:
Một là, phải được coi tinh hoa, một giá trị đích thực được thừa nhận
minh bạch, không có gì phải hồ nghi hay bàn cãi
Hai là, phải hàm chứa khả năng, chí ít tiềm năng, đứng vững lâu dài
với thời gian, là cái giá trị của nhiều thời (tức có giá trị lâu dài) trước những biến
đổi tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là trong bối cảnh
kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra cực kì sôi động [9]
1.1.1.2 Khái niệm phát huy
Về phía khái niệm phát huy, theo tđiển tiếng Việt của Hoàng Phê, “phát
huy” có nghĩa là làm cho cái hay, cái tốt lan toả tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm.
[8]
Phát huy di sản (heritage promotion) được hiểu như những hành động
nhằm đưa di sản văn hoá vào trong thực tiễn xã hội, coi đó là nguồn nội lực, tiềm
lOMoARcPSD| 60860503
năng góp phần thúc đẩy sự phát triển hội, mang lại những lợi ích vật chất
tinh thần cho con người, thể hiện tính mục tiêu của văn hoá đối với sự phát triển
của xã hội
Phát huy di sản phải biết kế thừa chọn lọc những tinh hoa văn hóa của
đời trước để lại, làm cho giá trị của các di sản văn hóa thấm sâu, lan tỏa vào đời
sống cộng đồng xã hội để cộng đồng nhận diện được giá trị, biết trân trọng những
giá trị ấy, tránh cái nhìn phiến diện và khơi dậy niềm tự hào dân tộc.
Phát huy di sản văn hóa phải biết mở rộng giao lưu văn a để làm giàu
thêm bản sắc văn hóa làm thăng hoa giá trị văn hóa trong bối cảnh toàn cầu
hóa.
Phát huy di sản văn hóa phi vật thnghĩa việc tận dụng, phát triển
nâng cao giá trị của các di sản văn hóa phi vật thể trong các hoạt động hội, văn
hóa và kinh tế.
Phát huy di sản văn hóa để phát triển kinh tế, nhưng phát huy kế thừa
chọn lọc những kinh nghiệm đời trước để lại đúc kết từ thực tiễn, nếu chúng phù
hợp với thời đại mới thì được tiếp tục phát huy, đồng thời cần phải biết sáng tạo
cái mới trên nền tảng truyền thống để vừa làm giàu bản sắc văn hóa, vừa đáp ứng
nhu cầu hưởng thụ văn hóa của dân cư đương đại đồng thời tạ ra nhiêu sản phẩm
du lịch đặc trưng giúp phát triển bền vững kinh tế địa phương.
Như vậy, bảo tồn văn hóa được hiểu như là các nỗ lực nhằm bảo vệ và gìn
giữ sự tồn tại của di sản theo dạng thức vốn của nó. Phát huy nghĩa những
hành động nhằm đưa các giá trị văn hóa vào trong thực tiễn, tạo sức lan tỏa tích
cực trong hội, coi đó nguồn nội lực tiềm năng góp phần thúc đẩy sự phát
triển xã hội, mang lại những lợi ích vật chất tinh thần cho con người. Bảo tồn
phát huy văn hóa truyền thống các biện pháp đgìn giữ, tôn tạo các giá trị
văn hóa để chúng không bị mai một, mờ nhạt. Và các giá trị văn hóa truyền thống
tốt đp đó được lan tỏa, tỏa sáng và có ý nghĩa tích cực trong đời sống xã hội của
nhân dân, góp phần vào mục tiêu văn hóa trong phát triển kinh tế xã hội.
Thêm vào đó, bảo tồn và phát huy di sản văn hoá luôn gắn kết chặt chẽ với
nhau. Đây hai lĩnh vực tính biện chứng, vừa tương hỗ, vừa chi phối, ảnh
hưởng lẫn nhau trong hoạt động giữ gìn di sản văn hoá. Bảo tồn di sản văn hoá tốt
thì mới phát huy được các giá trị văn hoá. Phát huy ng một cách bảo tồn di
sản văn hoá thành công nhất.
lOMoARcPSD| 60860503
1.1.2. Di sản văn hoá
Để hiểu được Di sản văn hoá là gì, trước tiên chúng ta cần phải làm hai
khái niệm văn hoá và di sản. Cho đến nay rất nhiều khái niệm về văn hoá. Theo
UNESCO:
Văn hóa là tập hợp các đặc trưng tiêu biểu vtinh thần, vật chất, tri thức
xúc cảm của hội hoặc một nhóm người trong hội; văn hóa không chỉ bao
gồm văn học nghệ thuật, còn cả phong cách sống, phương thức chung sống,
các hệ giá trị, truyền thống và niềm tin (UNESCO, 2001)
Việt Nam, văn hoá cũng được định nghĩa theo nhiều quan điểm. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”
Trong khi đó, di sản xuất hiện với cách một thuật ngữ khoa học. Từ
điển Tiếng Việt định nghĩa: Di sản cái của thời trước để lại. Theo nghĩa n
việt, di sản còn có nghĩa là di tức là để lại, còn lại, dịch chuyển, chuyển lại, sản
tài sản, là những gì quý giá, có giá trị. Như vậy, di sản văn hoá được hiểu như là
tài sản, bảo vật mà thế hệ trước để lại cho thế hệ sau ncác tác phẩm văn học,
tác phẩm điêu khắc, tác phẩm hội hoạ, nghệ thuật dân gian…
Luật Di sản văn hoá của Việt Nam (Văn bản hợp nhất 10/VBHN-VPQH
ngày 23 tháng 07 năm 2013 đã xác định : “Di sản văn hoá bao gồm di sản văn
hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá
trị lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác tại
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam “[11]
1.1.2.1 Di sản văn hoá vật thể
Luật Di sản văn hoá của Việt Nam (Văn bản hợp nhất 10/VBHN-VPQH
ngày 23 tháng 07 năm 2013 cũng đã nêu rõ:
Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất giá trị lịch sử, văn hoá, khoa
học, bao gồm di tích lịch sử-văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia. [11]
lOMoARcPSD| 60860503
1.1.2.2 Di sản văn hoá phi vật thể
Theo Luật Di sản n hoá của Việt Nam (Văn bản hợp nhất
10/VBHNVPQH ngày 23 tháng 07 năm 2013 :
Di sản văn hoá phi vật thể sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá
nhân, vật thể không gian văn hoá liên quan, giá trị lịch sử, văn hoá, khoa
học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo, được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề và hình [11]
Trước đó, tại điều 2 trong Công ước bảo vệ Di sản văn hoá phi vật thể của
UNESCO ( Công ước 2003) đã định nghĩa: Di sản văn hoá phi vật thể được hiểu
các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng cũng như nhng
công cụ, đồ vật, đồ tạo tác các không gian văn hoá các cộng đồng, nhóm
người trong một số trường hợp các nhân công nhận một phần Di sản
văn hoá của họ. [12]
Di sản văn hoá phi vật thể đã đang tồn tại trong nhiều hình thức khác
nhau, tuy có sự mai một, thất truyền nhưng vẫn là một nhân tố quan trọng để bảo
tồn phát huy sự đa dạng văn hoá trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại h
và đô thị hoá.
thể nói, di sản văn hoá nói chung cũng như di sản văn hoá phi vật thể
nói riêng yếu tố cốt lõi của văn hoá. Di sản văn hoá Việt Nam, đặc biệt là di sản
văn hoá phi vật thể là tài sản quý giá của cộng đồng dân tộc Việt Nam, đồng thời
cũng là một bộ phận của di sản văn hoá thế giới. Việc bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hoá góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam phát triển, đậm đà bản sắc
dân tộc, góp phần gìn giữ, làm phong phú kho tàng văn hoá nhân loại.
1.1.3. Dân ca
rất nhiều những định nghĩa, khái niệm về dân ca, nhưng trong bài nghiên
cứu này chúng tôi xin trình bày một số hiểu biết về dân ca như sau:
Dân ca Việt Nam một thể loại nhạc cổ truyền, qua việc truyền miệng,
truyền ngón các bài dân ca, mỗi người diễn xướng có quyền ứng tác tự do, góp
phần sáng tạo của mình vào các tác phẩm trong quá trình biểu diễn.
Theo GS.TS Trần Quang Hải, trong Nghiên cứu khoa học về lược về
dân ca Việt Nam có nhắc tới khái niệm dân ca: “Dân ca là những bài hát, khúc ca
được sáng tác và lưu truyền trong dân gian mà không thuộc riêng của một tác giả
nào. Đầu tiên, bài hát thể do một người nghĩ ra rồi truyền miệng qua nhiều
lOMoARcPSD| 60860503
người, từ đời này qua đời khác, được phổ biến trong từng vùng, từng dân
tộc,…Các bài dân ca được gọt giũa, sàng lọc qua nhiều năm tháng, bền vững với
thời gian”.
Để tiện cho việc nghiên cứu, chúng ta có thể hiểu khái niệm về dân ca một
cách đơn giản: Dân ca là những bài hát, lời ca, làn điệu do nhân dân sáng tác ra
(đồng tác giả) và được truyền miệng nối tiếp từ các thế hệ này qua thế hệ khác.
1.1.4. Dân ca quan họ
Theo những nghiên cứu khi tìm hiểu về Dân ca Quan họ, đây một làn
điệu đã có từ rất lâu đời và đến nay vẫn chưa xác định được rõ nguồn gốc tên gọi
Dân ca Quan họ bắt nguồn từ đâu. Trong rất nhiều cuốn sách được xuất bản như
của các tác giả: Từ Thị Loan (chủ biên) Nguyễn Chí Bền, Lưu Hữu Phước, đều
đưa ra rất nhiều các nguồn gốc tên gọi dân ca quan họ. Sau đây, một số khái
niệm về Dân ca Quan họ:
Dân ca Quan họ một hình thức hát giao duyên. Những liền anh trong
trang phục truyền thống khăn xếp, áo the và những liền chị duyên dáng trong bộ
áo mớ ba, mớ bẩy, đầu đội nón thúng quai thao, cùng nhau hát đối những câu ca
mộc mạc, đằm thắm, cách hát theo lối truyền thống không cần nhạc đệm mà vẫn
đầy chất nhạc, thể hiện nét văn hóa tinh tế của người Quan họ.[4]
Dân ca Quan họ (còn được gọi là Dân ca Quan họ Bắc Ninh hay Dân ca
Quan họ vùng Kinh Bắc) những làn điệu Dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ,
Việt Nam, phổ biến và tập trung nhất ở mảnh đất văn hoá Kinh Bắc xưa, nơi khu
vực ranh giới hai miền Bắc Ninh Bắc Giang con sông Cầu chảy qua mang
theo cái tên “dòng sông Quan họ”. Do sự chia tách về địa sau đó mà Quan
họ còn được gắn tên cục bộ địa phương như Quan họ Kinh Bắc, Bắc Giang hay
Bắc Ninh, nhưng phổ biến nhất mà đến hiện nay mà ta vẫn hay gọi, đấy chính là
“Dân ca Quan họ Bắc Ninh”.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị dân ca
Quan họ
Ngày nay, trước sức ép của xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, quốc tế hóa về
văn hóa sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng, nhiều ưu thế của các loại hình văn
hóa, nghệ thuật, cũng như nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể khác, Quan
họ cổ cũng phải đối mặt với một thách thức lớn là nguy bị mai một, thậm chí
thể bị mất đi nếu không kịp thời biện pháp bảo vệ lâu dài cho thế hệ trẻ. Bởi
lOMoARcPSD| 60860503
vậy, Đảng Nhà nước cũng đã có những quyết định, chính sách để góp phần bảo
tồn và phát huy giá trị của Dân ca quan họ Bắc Ninh.
Thực hiện Luật Di sản văn hóa Quyết định của UNESCO về "Thiết lập
Hệ thống Báu vật Nhân văn sống", được sự hỗ trợ của Văn phòng UNESCO Hà
Nội, năm 2003 Cục DSVH đã phối kết hợp với Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Bắc
Ninh triển khai đề án thí điểm nghiên cứu xây dựng danh sách nghệ nhân Quan
họ đã chọn ra được danh sách 6 cụ đại diện cho lối ca Quan họ cổ của tỉnh Bắc
Ninh. Dự án nhằm mục đích tôn vinh htrợ nghệ nhân, góp phần nâng cao
nhận thức của cộng đồng về công tác bảo vệ DSVHPVT Quan họ.
Quyết định số 190/2013/QĐ-UBND ngày 21/5/2013 của Uỷ ban nhân dân
tỉnh Bắc Ninh về việc quy định chế độ đãi ngộ với nghệ nhân dân ca quan họ Bắc
Ninh; chế độ hỗ trợ đối với nghệ sĩ, diễn viên, nhạc công và nhân viên phục vụ
Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh. [4.tr68]
Quyết định số 1663/QĐ-UBND ngày 29/11/2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh
Bắc Ninh về việc phê duyệt Dự án “Bảo tồn và phát huy gtrị Di sản văn hóa phi
vật thể Dân ca Quan họ Bắc Ninh” giai đoạn 1.[4.tr68]
Quyết định số 1196/QĐ-UBND ngày 30/9/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Bắc Ninh về việc thành lập Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh, trực thuộc sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh.[4.tr68]
1.3. Nội dung bảo tồn và phát huy giá trị dân ca Quan họ
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của công nghệ thông
tin: internet, trí tuệ nhân tạo AI, thuật số,… các gtrị nghệ thuật, dân ca, n
điệu Quan họ cổ đang bị mai một, lãng quên dần dần. Trước tình hình đó, Uỷ ban
nhân dân tỉnh kết hợp với sở văn hóa, thể thao du lịch bắc ninh đã những
chính sách để bảo tồn và phát huy các giá trị của dân ca quan họ.
Về thành tựu bảo tồn phát huy giá trị n ca Quan họ Bắc Ninh, sau khi
được UNESCO vinh danh Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại,
tỉnh đã phê duyệt đề án triển khai “Chương trình hành động quốc gia về bảo tồn
phát huy di sản Dân ca Quan họ” với những nội dung cụ thể cùng nhiều giải
pháp tích cực và đạt được nhiều kết quả thành tựu quan trọng. Các hoạt động
bảo tồn và phát huy giá trị Dân ca Quan họ Bắc Ninh bao gồm:
Về việc bảo tồn, trước hết dân ca Quan hBắc Ninh là loại hình ca hát giao
duyên của người Việt có từ lâu đời, tồn tại và phát triển tập trung ở trung tâm của
lOMoARcPSD| 60860503
xứ Kinh Bắc xưa - tức thành phố Bắc Ninh ngày nay, với 31/49 làng Quan họ gốc,
với số lượng bài ca và làn điệu phong phú (hơn 400 bài ca và 213 làn điệu), được
thể hiện bằng nghệ thuật ca hát đặc sắc và độc đáo, đạt tới đỉnh cao của thi ca và
âm nhạc dân tộc.[4]
Đầu tiên, trong dự án tỉnh Bắc Ninh đã chú trọng đến việc khôi phục lại
không gian diễn xướng. Tỉnh đã thực hiện khôi phục lại không gian hát diễn
xướng của các làng quan họ gốc với phát triển các làng quan họ mới. Đặc biệt,
tỉnh đã ban hành nhiều chế, chính sách đãi ngộ đối với các làng Quan họ gốc,
làng Quan họ thực hành nghệ nhân, nghệ Dân ca Quan họ Bắc Ninh. Việc
phục dựng các di tích lễ hội cũng được quan tâm và đầu khi Nhà nước
và nhân dân các làng Quan họ đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng để tu bổ, phục hồi di
tích lễ hội, phục dựng lại nhà chứa Quan họ, xây dựng nhà văn hóa thôn,
quy hoạch khu tổ chức lễ hội.
Trong giai đoạn hiện nay, kinh tế phát triển, khi nền kinh tế phát triển mạnh
mẽ, chất lượng cuộc sống được nâng lên, khả năng tiếp cận với thông tin về việc
phát huy các giá trị của dân ca quan họ là dễ dàng hơn.
Do đó, trước hết việc tuyên quảng di sản phải được thực hiện để tất cả
mọi người đều biết đến. Đặc thù của Dân ca Quan họ là tồn tại dưới dạng trí nhớ
lưu truyền qua việc thực hành tại cộng đồng nên việc tổ chức các hội thi, hội
diễn để khích lệ việc trao truyền, tập luyện thực hành di sản, chắt lọc những
giá trị tinh hoa còn lưu lạc làm cho giá trị của di sản được lan tỏa thực sự
cần thiết. Đồng thời việc xuất bản ra những cuốn sách, tạp chí báo, ấn phẩm,
truyền hình,… giới thiệu về dân ca quan hcũng nên được chú trọng tuyên
truyền để tiếp cận với người đọc cách tốt nhất. Tổ chức các hoạt động du lịch văn
hóa, du lịch tự nhiên nhằm quảng di sản xen kẽ với việc tham quan các di tích,
điểm du lịch của toàn tỉnh đcông chúng biết đến và tiếp nhận. Phát huy những
giá trị gốc, giá trị cốt lõi bằng việc dạy học, truyền những kinh nghiệm trong
lối hát, cách thức diễn xướng cho các thế hệ sau nhất là thế hệ trẻ để nối tiếp các
thế htrước trong việc phát huy những giá trị của Dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Thành lập các Câu lạc bộ Quan họ thực hành mở rộng giao lưu giữa các làng, các
bọn Quan họ trong nước và khu vực để làm giàu thêm bản sắc văn hóa, thăng hoa
và lan tỏa Di sản Dân ca Quan họ đến khắp nơi.
lOMoARcPSD| 60860503
1.4. Giới thiệu về dân ca Quan họ Bắc Ninh
Theo quyết định 4.COM 13.76 ghi nhận rằng Việt Nam đã đề cử Dân ca
Quan họ Bắc Ninh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại được
mô tả như sau:
tỉnh Bắc Ninh Bắc Giang thuộc miền Bắc của Việt Nam, nhiều làng
kết chạ, đẩy mạnh mối quan hệ bằng những phong tục xã hội như dân ca quan h
Bắc Ninh. Dân ca quan họ một thể loại hát đối đáp giữa một cặp nữ của làng
này với một cặp nam làng kia bằng một bài hát cùng giai điệu, khác vca từ.
Trang phục của liền chị gồm nón quai thao khăn vẩn, yếm, áo, váy; còn liền
anh mặc áo dài ngũ thân, khăn xếp cầm ô. Quan họ Bắc Ninh có hơn 400 bài
ca với 213 giọng khác nhau, thể hiện tình cảm nhớ nhung và nỗi buồn xa cách, sự
vui mừng khi gặp lại của những người yêu nhau không lấy được nhau theo
quy định của tập quán. Dân ca quan họ được trình diễn nghi lễ, lễ hội, hội thi
lấy giải và những buổi gặp gỡ, ở đó bọn quan họ khách đến hát bằng nhiều giọng
hát khác nhau với bọn quan họ chủ nhà trước khi hát giọng giã bạn. Những cặp
thanh niên nam nữ sử dụng bốn thuật hát đặc trưng: vang, rền, nền, nảy những
buổi giao lưu hát quan họ. Các bài hát quan họ thể hiện tinh thần, triết bản
sắc địa phương của cộng đồng trong vùng giúp gắn chặt mối quan hệ xã hội
trong làng và giữa các làng có cùng chung thực hành văn hóa cộng cảm.[4.tr40]
Tính đến thời điểm năm 2016, có 44 làng quan họ gốc tỉnh Bắc Ninh được
đưa vào danh sách bảo tồn và phát triển di sản văn hóa. Phần lớn các làng quan
họ đều thờ thánh Tam Giang, vị thánh gắn liền với dòng sông Cầu. Các làng quan
họ tập trung chủ yếu ở các huyện, thị xã và thành phố: Yên Phong, Từ Sơn, Tiên
Du, thành phố Bắc Ninh. Trong đó, 31/44 làng thuộc thành phố Bắc Ninh.
1.5. Giới thiệu về Làng Diềm
Xã Hoà Long nằm ở phía Bắc thành phố Bắc Ninh, bên dòng sông Cầu, có
vị trí địa lý như sau:
Phía Đông giáp Ninh Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang qua sông
Cầu. Phía y giáp Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang qua sông Cầu.
Phía Nam giáp 2 phường Vạn An Ninh, thành phố Bắc Ninh. Phía Bắc giáp
xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang qua sông Cầu.
lOMoARcPSD| 60860503
Hoà Long trước đây thuộc huyện Yên Phong, ngày 9 tháng 4 năm 2007,
Chính phủ ban hành Nghị định 60/2007/NĐ-CP, xã Hoà Long được sát nhập vào
thành phố Bắc Ninh
Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị
quyết số 787/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm
2019. Theo đó, thành lập phường Hòa Long trên cơ sở toàn bộ 8,91 km² diện tích
tự nhiên và 21.035 người của xã Hòa Long.
Ngày 27 tháng 12 năm 2019, chuyển 7 thôn thuộc xã Hòa Long cũ thành 7
khu phố có tên tương ứng
Phường Hòa Long được chia thành 7 khu phố: Quả Cảm, Đẩu Hàn, Hữu
Chấp, Viêm Xá, Xuân Đồng, Xuân Viên, Xuân Ái
Làng Diềm là tên gọi nôm của làng Viêm Xá, làng Diềm thuộc địa phận xã
Hòa Long, thành phố Bắc Ninh. Làng Diềm cách thành phố Bắc Ninh khoảng 6
km về phía Bắc, nằm sát ranh giới với tỉnh Bắc Giang. Từ quê hương làng Diềm,
những làn điệu dân ca đã lan tỏa nên 49 làng Quan họ trước 1945. Đây cũng là
cái nôi của những làn điệu dân ca Quan họ, một trong những di sản văn hóa phi
vật thể của nhân loại được UNESCO công nhận. Nơi đây mang đậm chất của một
làng quan họ cổ, khi về Làng Diềm nghe u Quan họ ta có thể cảm nhận hết được
cái hay của những làn điệu dân ca qua chất giọng mượt mà, đằm thắm của các liền
anh, liền chị nơi đây. Theo các nhà khoa học thống kê, có tới 324 bài hát Quan họ
cổ, trong số đó làng Diềm còn lưu giữ khá nhiều. Cái hay của Quan họ chính
các làn điệu đã được kết tinh và giao hòa với các làn điệu dân ca khác như: ca trù,
hát lý miền trung, thậm chí cả hát chèo,…
Khi đến với mảnh đất ân tình với những làn điệu quan họ này, chúng ta còn
thể chiêm ngưỡng vẻ đp của các địa điểm du lịch như: Đền Cùng Giếng Ngọc:
đây cụm di tích lịch snằm dưới chân núi Kim Lĩnh. Đền CùngGiếng Ngọc
thường gắn liền với nhiều câu chuyện nhiệm màu, linh thiêng tích thú vị. Chuyện
kể rằng từ xa xưa có ba cụ thần trú ngụ nơi ở giếng Ngọc hơn 1000 năm, hoá
thân của công chúa Ngọc Dung và Thuỷ Tiên cùng một nàng hầu. Nước múc lên
từ giếng có thể uống trực tiếp không cần lọc hay đun sôi, sẽ thấy vị mát lành
ngọt tự nhiên không đâu sánh được. Theo người dân làng Diềm, do nguồn nước
chảy từ trong núi, thấm qua tầng tầng lớp lớp đá ong đã tạo nên vị ngọt, mát hiếm
có.
lOMoARcPSD| 60860503
Bởi thế, người làng Diềm thường lấy nước giếng Ngọc về đpha trà đãi
khách, nấu rượu dùng trong các dịp trọng đại của gia đình và dòng họ. Đối với du
khách đến tham quan cúng lễ Đền Cùng, nước Giếng Ngọc không chỉ đơn
thuần giải khát, còn tin rằng giúp khỏe mạnh, minh mẫn. Do đó, nhiều người
mang theo cả bình đựng để xin nước giếng mang về với mong ước rước may mắn,
tài lộc đến cho gia đình.
Làng Diềm vốn nổi tiếng cái nôi của những làn điệu dân ca quan họ, để
được giọng ca Quan họ “vang, rền, nền, nảy” say đắm lòng người, người dân
làng Diềm cũng tin rằng nhờ uống nước Giếng Ngọc có. chưa thể khẳng
định thực tác dụng thần kỳ của dòng nước nhưng những ai từng nghe các làn
điệu quan họ nơi đây, sẽ không khó để nhận ra sự lắng đọng, ngọt ngào rất đặc
trưng từ sâu trong giọng hát của các liền anh, liền chị.
Đình Diềm được xây dựng từ cuối thế kỷ XVII, với nghệ thuật kiến trúc
chạm khắc tinh tế, đặc sắc từ thời nhà Lê, đã được công nhận danh hiệu di tích
kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 1964. Nếu đi làng Diềm, du khách nên đi
vào dịp lễ hội đền Vua Bà vào mùng 6 tháng 2 âm lịch, thời điểm tập trung nhiều
giọng ca quan họ đổ về so tài.
Đặc biệt, nơi đây còn lưu giữ một bảo vật quốc gia được nhà nước xếp hạng
2020 “Cửa võng đình Diềm”, đây thực sự một báu vật được làm từ gỗ sơn
son thiếp vàng, niên đại cách đây 300 năm. Ca dao Kinh Bắc có câu:
Thứ nhất là đình Đông Khang Thứ nhì đình Bảng, vẻ vang đình Diềm
Thêm vào đó là đền thờ Vua thuỷ tổ quan họ. Tương truyền Đức Vua
là con gái Hùng Vương, đến tuổi cập kê nhưng không lấy chồng xin phép vua
cha đi chu du thiên hạ. Khi vừa ra khỏi thàn, cơn mưa lớn bất ngờ cuốn
phăng các nữ đến Ấp Viên Trang( thôn Viêm ngày nay). Tại đây
cho dân làng khai khẩn đất hoang, dựng vợ gạ chồng, dạy họ những làn điệu quan
họ. Để tưởng nhớ công lao của bà, người ta cho lập đền thờ, mỗi dịp hội lại diễn
lại tích “Bà Chúa lệnh mở hội xuân” đề cầu mưa thuận gió hoà, vạn thịnh dân an.
Tiểu kết
Thông qua chương 1, chúng tôi dựa vào hiểu biết tcác nguồn tài liệu khác
nhau, đã khái quát lược về một số vấn đề lý luận về bảo tồn và phát huy giá trị
văn hoá dân ca quan họ Bắc Ninh như khái niệm về bảo tồn, phát huy, di sản văn
hoá, dân ca, dân ca quan họ. Hơn nữa, chương 1 còn cung cấp những hiểu biết cơ
lOMoARcPSD| 60860503
bản về dân ca quan họ Bắc Ninh và làng Diềm. Thêm vào đó, chương 1 còn khái
quát về quan điểm của Đảng và Nhà nước, qua đó thấy được sự quan tâm và chú
trọng trong việc bảo tồn và phát huy.
lOMoARcPSD| 60860503
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DÂN CA QUAN HỌ
TẠI LÀNG DIỀM, THÔN VIÊM XÁ, XÃ HOÀ LONG, THÀNH
PHỐ BẮC NINH
2.1. Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá dân ca Quan họ tại Làng
Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long, thành phố Bắc Ninh
2.1.1. Các hoạt động bảo tồn giá trị văn hoá dân ca Quan họ
2.1.1.1. Hoạt động truyền dạy
Di sản văn hóa phi vật thể được hình thành từ trong hoạt động sinh hoạt văn
hóa cộng đồng và lưu truyền cũng từ cộng đồng, do những người dân sản sinh ra
di sản truyền lại cho các thế hệ kế tiếp. Nên việc bảo tồn phát huy các di sản
này không hợp hơn để các di sản ấy sống trong cộng đồng lưu truyền
theo phương thức vốn có của nó.
Ngay sau khi dân ca quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận di sản
văn hóa phi vật thể, để chuẩn bcho việc tổ chức các lớp truyền dạy hát quan họ
tại cộng đồng để quan họ được lan rộng trong các tầng lớp nhân dân trong tỉnh,
Sở VH,TT&DL đã tổ chức 01 lớp tập huấn nghiệp vụ trong thời gian 10 ngày cho
các nghệ nhân về một số kỹ năng truyền dạy dân ca quan họ Bắc Ninh trong gia
đình cộng đồng. Bên cạnh đó, hoạt động truyền dạy làng Diềm nói riêng cũng
như tỉnh Bắc Ninh nói chung hiện đã đang được thực hiện dưới nhiều hình thức
như:
Đầu tiên, truyền dạy bằng hình thức truyền khẩu từ đời này qua đời khác từ
rất lâu về trước làng Diềm đã có tục kết chạ với làng Hoài thị (làng Bịu), duy trì
tình bạn quan họ từ xưa cho đến nay. Tình cảm kết chạ giữa làng Diềm Hoài
Thị đến nay vẫn còn được lưu truyền. Đến những ngày đình đám hoặc là ngày lễ
thì bọn quan họ sẽ những lời mời chào nhau. Một thăm cửa, thăm nhà. Hai
bắt đầu hát đáp với nhau để không chỉ giao lưu học hỏi, trao đổi với nhau về
câu hát, còn về ý ăn ý lời nói thưa gửi với nhau. Mối quan hệ kết bạn
quan họ của cặp làng Diềm-Bịu được coi kết bạn truyền đời thể hiện nét nhất
mối quan hđặc biệt theo cặp nam-nữ bắt đầu từ truyền thống nối tiếp cho đến
ngày nay bất chấp sự tác động, thay đổi của không gian, thời gian, bối cảnh lịch
sử.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60860503
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ DU LỊCH VÀ NGÔN NGỮ QUỐC TẾ BÁO CÁO MÔN HỌC
MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Đề tài:
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA DÂN CA QUAN
HỌ ( KHẢO SÁT TẠI LÀNG DIỀM, THÔN VIÊM XÁ, XÃ HOÀ LONG,
THÀNH PHỐ BẮC NINH)
Giảng viên : Trần Thị Phương Thảo Nhóm thực hiện : Nhóm 1-N08
1. Nguyễn Thị Diệu Hoa (NT) - 64DQT07057
2. Hà Nguyễn Thuỳ Dương-64DQT07030
3. Đinh Thanh Hằng - 64DQT07045
4. Nguyễn Thị Lan Anh - 64DQT07005
5. Hà Thị Thuỳ Dung - 64DQT07025 Hà Nội, 5/2024 lOMoAR cPSD| 60860503 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................5
1. Tính cấp thiết của đề tài...............................................................................5
2. Tình hình nghiên cứu...................................................................................6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................6
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu............................................................7
5. Phạm vi nghiên cứu......................................................................................7
6. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................7
7. Bố cục đề tài..................................................................................................7
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HOÁ DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH................................10
1.1. Một số khái niệm liên quan....................................................................10
1.1.1. Khái niệm bảo tồn và phát huy...........................................................10
1.1.2. Di sản văn hoá....................................................................................12
1.1.3. Dân ca.................................................................................................13
1.1.4. Dân ca quan họ...................................................................................14

1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị dân
ca Quan họ......................................................................................................15
1.3. Nội dung bảo tồn và phát huy giá trị dân ca Quan họ.........................15
1.4. Giới thiệu về dân ca Quan họ Bắc Ninh................................................17
1.5. Giới thiệu về Làng Diềm.........................................................................18
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DÂN CA
QUAN HỌ TẠI LÀNG DIỀM, THÔN VIÊM XÁ, XÃ HOÀ LONG,
THÀNH PHỐ BẮC NINH................................................................................21
2.1. Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá dân ca Quan họ tại
Làng Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long, thành phố Bắc Ninh.................21
2.1.1. Các hoạt động bảo tồn giá trị văn hoá dân ca Quan họ.....................21
2.2.2. Các hoạt động phát huy giá trị văn hoá dân ca Quan họ...................30
2.2.3. Một số yếu tố tác động đến bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá dân ca lOMoAR cPSD| 60860503
Quan họ Bắc Ninh.........................................................................................34
2.3. Đánh giá thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá dân ca Quan
họ tại Làng Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long, thành phố Bắc Ninh......37
2.3.1. Ưu điểm...............................................................................................37
2.3.2. Hạn chế...............................................................................................38
Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN
HOÁ DÂN CA QUAN HỌ TẠI LÀNG DIỀM, THÔN VIÊM XÁ, XÃ HOÀ
LONG, THÀNH PHỐ BẮC NINH..................................................................40
3.1. Các chính sách bảo tồn và phát huy giá trị Dân ca Quan họ..............40
3.1.1 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực..................................................40
3.1.2 Hỗ trợ chi phí cho hoạt động bảo tồn và phát huy dân ca quan họ tại
làng Diềm......................................................................................................40
3.1.3 Ứng dụng công nghệ vào công tác bảo tồn và phát huy......................41
3.1.4. Đẩy mạnh hoạt động của các câu lạc bộ............................................42
3.1.5. In ấn, xuất bản những tài liệu, ấn phẩm, sách, báo, truyện liên quan
đến dân ca quan họ.......................................................................................42
3.1.6. Tổ chức những đợt tập huấn, lớp tập huấn định kì.............................42
3.1.7. Gắn kết bảo tồn dân ca Quan họ với phát triển du lịch......................43

3.2. Các giải pháp khác..................................................................................43
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................44
PHỤ LỤC...........................................................................................................46
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
STT Tên thành viên MSV Nhiệm vụ Đánh giá lOMoAR cPSD| 60860503 1 Nguyễn Thị
64DQT07057 Tổng hợp, chỉnh sửa nội Diệu Hoa dung (Nhóm trưởng) Chương 1: 1.1.2 Chương 2: 2.1.1.5; 2.1.1.6; 2.2.3.1; Khung phỏng vấn
Phụ lục ; Tài liệu tham khảo Thuyết trình
Đi phỏng vấn trực tiếp 2 Hà Nguyễn
64DQT07030 Chương 1: 1.1.1.2 Thuỳ Dương Chương 2: 2.2.2 Kết luận
Đi phỏng vấn trực tiếp 3 Đinh Thanh
64DQT07045 Đi phỏng vấn trực tiếp Hằng Chương 1: 1.1.1.1 Chương 2: 2.2.3.4 4
Nguyễn Thị Lan 64DQT07005 Chương 1: 1.1.3 ; 1.3 Anh Chương 2: 2.2.2; Biên bản phỏng vấn Powerpoint 5 Hà Thị Thuỳ
64DQT07025 Chương 1:1.1.4; 1.4 Dung Chương 2: 2.2.3.2 ; 2.2.3.3 Powerpoint lOMoAR cPSD| 60860503 6 Công việc chung Phần mở đầu Mục lục Chương 2: 2.3 Chương 3 lOMoAR cPSD| 60860503 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân ca quan họ là một trong những thể loại dân ca tiêu biểu của vùng châu
thổ sông Hồng, được hình thành và phát triển ở vùng văn hoá Kinh Bắc xưa, đặc
biệt là khu vực tỉnh Hà Bắc cũ (hiện nay là hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang).
Không chỉ riêng về giá trị nghệ thuật âm nhạc, trong nội dung của dân ca Quan
họ còn chứa đựng nhiều giá trị văn hoá khác như: tâm linh, tín ngưỡng, phong tục
tập quán, trang phục, văn hoá ứng xử… vừa độc đáo, vừa thấm đượm tính cộng
đồng. Chính do những giá trị đó, nên năm 2009 – sau Nhã nhạc cung đình Huế,
không gian văn hoá Cồng chiêng Tây Nguyên, Ca trù – dân ca Quan họ đã được
UNESCO công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại.
Trong gần chục năm trở lại đây, dân ca Quan họ đang là nội dung thu hút
và hấp dẫn khách du lịch. Đây là một trong những lợi thế của các làng Quan họ
nói chung và làng Diềm nói riêng. Có thể kết hợp du lịch với tiềm năng của dân
ca Quan họ để tạo ra động lực phát triển kinh tế. Vấn đề ở đây là phải bảo tồn như
thế nào để dân ca Quan họ đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch, nhưng không
làm mất đi giá trị văn hoá của nó. Thực tế cho thấy rằng, công tác bảo tồn và phát
huy giá trị văn hoá của Dân ca Quan họ luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Tuy nhiên, trong công tác bảo tồn, ngoài thuận lợi vẫn còn gặp nhiều khó khăn
do: sự chuyển đổi cơ cấu xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá cùng với những yếu
tố khách quan và chủ quan khác, đã làm nảy sinh sự suy thoái, biến dạng của di
sản. Thậm chí, tính chất của Dân ca Quan họ có thể bị biến đổi, méo mó. Vì vậy,
việc đưa Dân ca Quan họ vào giáo dục phổ thông để bảo tồn còn gặp nhiều khó khăn.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: Bảo tồn và phát
huy giá trị văn hoá Dân ca Quan họ tại Làng Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long,
thành phố Bắc Ninh để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong nhiều năm qua, đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu về Dân ca Quan
họ nói chung và công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của Dân ca Quan họ
Bắc Ninh nói riêng. Chúng tôi xin được khái quát những nghiên cứu đó như sau:
Cuốn sách “Dân ca quan họ Bắc Ninh-Di sản văn hoá Phi vật thể đại diện
của nhân loại” do tác giả Từ Thị Loan (chủ biên), Nguyễn Chí Bền xuất bản năm lOMoAR cPSD| 60860503
2021. Cuốn sách đã đề cập đến nguồn gốc, không gian văn hoá mà dân ca quan
họ đem lại. Những làng quan họ và nghệ nhân quan họ Bắc Ninh và sự bảo tồn và
phát huy giá trị dân ca quan họ Bắc Ninh
Năm 2015, tác giả Đinh Thị Thanh Huyền thực hiện đề tài tiến sĩ Tục chơi
quan họ, xưa và nay, chuyên nghành Dân tộc họ. Nội dung chính của luận án này
gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, vấn đề nghiên cứu,
lý thuyết và phương pháp tiếp cận; Chương 2: Lối chơi Quan họ xưa và nay tại
làng Diềm; Chương 3: Lối chơi quan họ xưa và nay tại làng Bịu (Hoài Thị);
Chương 4: Truyền thống, biến đổi và bảo tồn văn hoá Quan họ.
Luận văn thạc sĩ Quản lý văn hoá “Nghệ nhân dân gian làng Diềm, xã
Hoà Long, thành phố Bắc Ninh trong việc phát huy giá trị dân ca quan họ Bắc
Ninh” -Nguyễn Đình Sáng. Luận án đã nêu rõ tình hình, vai trò, đóng góp của
nghệ nhân dân gian làng Diềm trong việc phát huy giá trị dân ca quan họ Bắc Ninh
ở làng Diềm nói riêng và tỉnh Bắc Ninh nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu -
Đánh giá thực trạng về công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá
dânca Quan họ tại Làng Diềm, xã Hoà Long, Thành phố Bắc Ninh. -
Ưu điểm và hạn chế trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá -
Gỉải pháp nhằm góp phần nâng cao công tác quản lý và bảo tồn
pháthuy Dân ca Quan họ Bắc Ninh
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu tổng hợp từ các tài liệu thứ cấp và nghiên cứu về giá trị văn
hoá, đặc điểm của dân ca Quan họ. Nghiên cứu về chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước của tỉnh Bắc Ninh nói chung và nhà hát dân ca Quan họ Bắc
Ninh nói riêng về công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hoá nhằm đưa ra được
những đánh giá về kết quả đã thực hiện, từ đó có những giải pháp thích hợp.
Làm rõ một số vấn đề quản lý bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của dân
ca Quan họ. Nghiên cứu thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá
của dân ca Quan họ tại Làng Diềm, xã Hoà Long, Thành phố Bắc Ninh về: các lOMoAR cPSD| 60860503
nguồn lực cho việc bảo tồn và phát huy, các hoạt động bảo tồn, các hoạt động phát huy,…
Đánh giá những thành tựu, ưu điểm, hạn chế, khó khăn, nguyên nhân và
đưa ra giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của dân ca Quan họ tại
Làng Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long, Thành phố Bắc Ninh.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá Dân ca Quan họ Bắc Ninh
Khách thể nghiên cứu: Làng Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long, Thành phố Bắc Ninh
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Nghệ nhân Quan họ, cán bộ quản lý trên địa bàn Làng
Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long, thành phố Bắc Ninh từ 12/202304/2024
6. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phân tích tài liệu
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của
đề tài được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về bảo tồn và phát huy Dân ca Quan họ Bắc Ninh
Chương 2. Thực trạng bảo tồn và phát huy Dân ca Quan họ khu vực Làng
Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long, Thành phố Bắc Ninh
Chương 3. Giải pháp nhằm để bảo tồn và phát huy Dân ca Quan họ Bắc Ninh Chương 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HOÁ DÂN CA QUAN HỌ BẮC NINH
1.1. Một số khái niệm liên quan lOMoAR cPSD| 60860503
1.1.1. Khái niệm bảo tồn và phát huy
1.1.1.1 Khái niệm bảo tồn
Theo Từ điển tiếng Việt ( Hoàng Phê chủ biên) bảo tồn có nghĩa là giữ lại, không để mất đi.[8]
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Liêm trong cuốn Kỷ yếu hội thảo 60 năm đề cương
văn hoá Việt Nam (1943-2003) cho rằng:
Bảo tồn là giữ lại, không để bị mất đi, không để bị thay đổi, biến hoá hay
biến thái…Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này, không có khái niệm “cải
biến”, “nâng cao” hoặc “phát triển” . Hơn nữa, khi nói đối tượng bảo tồn “phải
được nhìn là tinh hoa”, chúng ta khẳng định giá trị đích thực và khả năng tồn tại
theo thời gian, dưới nhiều thể trạng và hình thức khác nhau của đối tượng được bảo tồn[6]
Như vậy, từ hai định nghĩa trên ta có thể đưa ra một số kết luận:
Bảo tồn có nghĩa là gìn giữ, lưu lại những giá trị của đối tượng cần được bảo tồn
Bảo tồn di sản (heritage preservation) được hiểu như là các nỗ lực nhằm
bảo vệ và gìn giữ sự tồn tại của di sản theo dạng thức vốn có của nó.
Đối tượng bảo tồn ( tức là các giá trị di sản văn hoá vật thể và phi vật thể)
cần thoả mãn hai điều kiện:
Một là, nó phải được coi là tinh hoa, một giá trị đích thực được thừa nhận
minh bạch, không có gì phải hồ nghi hay bàn cãi
Hai là, nó phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng vững lâu dài
với thời gian, là cái giá trị của nhiều thời (tức có giá trị lâu dài) trước những biến
đổi tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là trong bối cảnh
kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra cực kì sôi động [9]
1.1.1.2 Khái niệm phát huy
Về phía khái niệm phát huy, theo từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, “phát
huy” có nghĩa là làm cho cái hay, cái tốt lan toả tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm. [8]
Phát huy di sản (heritage promotion) được hiểu như là những hành động
nhằm đưa di sản văn hoá vào trong thực tiễn xã hội, coi đó là nguồn nội lực, tiềm lOMoAR cPSD| 60860503
năng góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, mang lại những lợi ích vật chất và
tinh thần cho con người, thể hiện tính mục tiêu của văn hoá đối với sự phát triển của xã hội
Phát huy di sản phải biết kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của
đời trước để lại, làm cho giá trị của các di sản văn hóa thấm sâu, lan tỏa vào đời
sống cộng đồng xã hội để cộng đồng nhận diện được giá trị, biết trân trọng những
giá trị ấy, tránh cái nhìn phiến diện và khơi dậy niềm tự hào dân tộc.
Phát huy di sản văn hóa phải biết mở rộng giao lưu văn hóa để làm giàu
thêm bản sắc văn hóa và làm thăng hoa giá trị văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Phát huy di sản văn hóa phi vật thể nghĩa là việc tận dụng, phát triển và
nâng cao giá trị của các di sản văn hóa phi vật thể trong các hoạt động xã hội, văn hóa và kinh tế.
Phát huy di sản văn hóa là để phát triển kinh tế, nhưng phát huy kế thừa
chọn lọc những kinh nghiệm đời trước để lại đúc kết từ thực tiễn, nếu chúng phù
hợp với thời đại mới thì được tiếp tục phát huy, đồng thời cần phải biết sáng tạo
cái mới trên nền tảng truyền thống để vừa làm giàu bản sắc văn hóa, vừa đáp ứng
nhu cầu hưởng thụ văn hóa của dân cư đương đại đồng thời tạ ra nhiêu sản phẩm
du lịch đặc trưng giúp phát triển bền vững kinh tế địa phương.
Như vậy, bảo tồn văn hóa được hiểu như là các nỗ lực nhằm bảo vệ và gìn
giữ sự tồn tại của di sản theo dạng thức vốn có của nó. Phát huy có nghĩa là những
hành động nhằm đưa các giá trị văn hóa vào trong thực tiễn, tạo sức lan tỏa tích
cực trong xã hội, coi đó là nguồn nội lực tiềm năng góp phần thúc đẩy sự phát
triển xã hội, mang lại những lợi ích vật chất và tinh thần cho con người. Bảo tồn
và phát huy văn hóa truyền thống là các biện pháp để gìn giữ, tôn tạo các giá trị
văn hóa để chúng không bị mai một, mờ nhạt. Và các giá trị văn hóa truyền thống
tốt đẹp đó được lan tỏa, tỏa sáng và có ý nghĩa tích cực trong đời sống xã hội của
nhân dân, góp phần vào mục tiêu văn hóa trong phát triển kinh tế xã hội.
Thêm vào đó, bảo tồn và phát huy di sản văn hoá luôn gắn kết chặt chẽ với
nhau. Đây là hai lĩnh vực có tính biện chứng, vừa tương hỗ, vừa chi phối, ảnh
hưởng lẫn nhau trong hoạt động giữ gìn di sản văn hoá. Bảo tồn di sản văn hoá tốt
thì mới phát huy được các giá trị văn hoá. Phát huy cũng là một cách bảo tồn di
sản văn hoá thành công nhất. lOMoAR cPSD| 60860503
1.1.2. Di sản văn hoá
Để hiểu được Di sản văn hoá là gì, trước tiên chúng ta cần phải làm rõ hai
khái niệm văn hoá và di sản. Cho đến nay có rất nhiều khái niệm về văn hoá. Theo UNESCO:
Văn hóa là tập hợp các đặc trưng tiêu biểu về tinh thần, vật chất, tri thức và
xúc cảm của xã hội hoặc một nhóm người trong xã hội; văn hóa không chỉ bao
gồm văn học và nghệ thuật, mà còn cả phong cách sống, phương thức chung sống,
các hệ giá trị, truyền thống và niềm tin (UNESCO, 2001)
Ở Việt Nam, văn hoá cũng được định nghĩa theo nhiều quan điểm. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”
Trong khi đó, di sản xuất hiện với tư cách là một thuật ngữ khoa học. Từ
điển Tiếng Việt định nghĩa: Di sản là cái của thời trước để lại. Theo nghĩa Hán
việt, di sản còn có nghĩa là di tức là để lại, còn lại, dịch chuyển, chuyển lại, sản là
tài sản, là những gì quý giá, có giá trị. Như vậy, di sản văn hoá được hiểu như là
tài sản, bảo vật mà thế hệ trước để lại cho thế hệ sau như các tác phẩm văn học,
tác phẩm điêu khắc, tác phẩm hội hoạ, nghệ thuật dân gian…
Luật Di sản văn hoá của Việt Nam (Văn bản hợp nhất 10/VBHN-VPQH
ngày 23 tháng 07 năm 2013 đã xác định : “Di sản văn hoá bao gồm di sản văn
hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá
trị lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác tại
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam “[11]
1.1.2.1 Di sản văn hoá vật thể
Luật Di sản văn hoá của Việt Nam (Văn bản hợp nhất 10/VBHN-VPQH
ngày 23 tháng 07 năm 2013 cũng đã nêu rõ:
Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa
học, bao gồm di tích lịch sử-văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. [11] lOMoAR cPSD| 60860503
1.1.2.2 Di sản văn hoá phi vật thể
Theo Luật Di sản văn hoá của Việt Nam (Văn bản hợp nhất
10/VBHNVPQH ngày 23 tháng 07 năm 2013 :
Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá
nhân, vật thể và không gian văn hoá liên quan, có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa
học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo, và được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề và hình [11]
Trước đó, tại điều 2 trong Công ước bảo vệ Di sản văn hoá phi vật thể của
UNESCO ( Công ước 2003) đã định nghĩa: Di sản văn hoá phi vật thể được hiểu
là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng cũng như những
công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hoá mà các cộng đồng, nhóm
người và trong một số trường hợp là các cá nhân công nhận là một phần Di sản văn hoá của họ. [12]
Di sản văn hoá phi vật thể đã và đang tồn tại trong nhiều hình thức khác
nhau, tuy có sự mai một, thất truyền nhưng vẫn là một nhân tố quan trọng để bảo
tồn và phát huy sự đa dạng văn hoá trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá.
Có thể nói, di sản văn hoá nói chung cũng như di sản văn hoá phi vật thể
nói riêng là yếu tố cốt lõi của văn hoá. Di sản văn hoá Việt Nam, đặc biệt là di sản
văn hoá phi vật thể là tài sản quý giá của cộng đồng dân tộc Việt Nam, đồng thời
cũng là một bộ phận của di sản văn hoá thế giới. Việc bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hoá góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam phát triển, đậm đà bản sắc
dân tộc, góp phần gìn giữ, làm phong phú kho tàng văn hoá nhân loại. 1.1.3. Dân ca
Có rất nhiều những định nghĩa, khái niệm về dân ca, nhưng trong bài nghiên
cứu này chúng tôi xin trình bày một số hiểu biết về dân ca như sau:
Dân ca Việt Nam là một thể loại nhạc cổ truyền, qua việc truyền miệng,
truyền ngón các bài dân ca, mỗi người diễn xướng có quyền ứng tác tự do, góp
phần sáng tạo của mình vào các tác phẩm trong quá trình biểu diễn.
Theo GS.TS Trần Quang Hải, trong Nghiên cứu khoa học về Sơ lược về
dân ca Việt Nam có nhắc tới khái niệm dân ca: “Dân ca là những bài hát, khúc ca
được sáng tác và lưu truyền trong dân gian mà không thuộc riêng của một tác giả
nào. Đầu tiên, bài hát có thể do một người nghĩ ra rồi truyền miệng qua nhiều lOMoAR cPSD| 60860503
người, từ đời này qua đời khác, được phổ biến trong từng vùng, từng dân
tộc,…Các bài dân ca được gọt giũa, sàng lọc qua nhiều năm tháng, bền vững với thời gian”.
Để tiện cho việc nghiên cứu, chúng ta có thể hiểu khái niệm về dân ca một
cách đơn giản: Dân ca là những bài hát, lời ca, làn điệu do nhân dân sáng tác ra
(đồng tác giả) và được truyền miệng nối tiếp từ các thế hệ này qua thế hệ khác.

1.1.4. Dân ca quan họ
Theo những nghiên cứu khi tìm hiểu về Dân ca Quan họ, đây là một làn
điệu đã có từ rất lâu đời và đến nay vẫn chưa xác định được rõ nguồn gốc tên gọi
Dân ca Quan họ bắt nguồn từ đâu. Trong rất nhiều cuốn sách được xuất bản như
của các tác giả: Từ Thị Loan (chủ biên) Nguyễn Chí Bền, Lưu Hữu Phước, … đều
đưa ra rất nhiều các nguồn gốc tên gọi dân ca quan họ. Sau đây, là một số khái
niệm về Dân ca Quan họ:
Dân ca Quan họ là một hình thức hát giao duyên. Những liền anh trong
trang phục truyền thống khăn xếp, áo the và những liền chị duyên dáng trong bộ
áo mớ ba, mớ bẩy, đầu đội nón thúng quai thao, cùng nhau hát đối những câu ca
mộc mạc, đằm thắm, cách hát theo lối truyền thống không cần nhạc đệm mà vẫn
đầy chất nhạc, thể hiện nét văn hóa tinh tế của người Quan họ.[4]
Dân ca Quan họ (còn được gọi là Dân ca Quan họ Bắc Ninh hay Dân ca
Quan họ vùng Kinh Bắc) là những làn điệu Dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ,
Việt Nam, phổ biến và tập trung nhất ở mảnh đất văn hoá Kinh Bắc xưa, nơi khu
vực ranh giới hai miền Bắc Ninh và Bắc Giang có con sông Cầu chảy qua mang
theo cái tên “dòng sông Quan họ”. Do có sự chia tách về địa lý sau đó mà Quan
họ còn được gắn tên cục bộ địa phương như Quan họ Kinh Bắc, Bắc Giang hay
Bắc Ninh, nhưng phổ biến nhất mà đến hiện nay mà ta vẫn hay gọi, đấy chính là
“Dân ca Quan họ Bắc Ninh”.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị dân ca Quan họ
Ngày nay, trước sức ép của xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, quốc tế hóa về
văn hóa và sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng, nhiều ưu thế của các loại hình văn
hóa, nghệ thuật, cũng như nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể khác, Quan
họ cổ cũng phải đối mặt với một thách thức lớn là nguy cơ bị mai một, thậm chí
có thể bị mất đi nếu không kịp thời có biện pháp bảo vệ lâu dài cho thế hệ trẻ. Bởi lOMoAR cPSD| 60860503
vậy, Đảng và Nhà nước cũng đã có những quyết định, chính sách để góp phần bảo
tồn và phát huy giá trị của Dân ca quan họ Bắc Ninh.
Thực hiện Luật Di sản văn hóa và Quyết định của UNESCO về "Thiết lập
Hệ thống Báu vật Nhân văn sống", được sự hỗ trợ của Văn phòng UNESCO Hà
Nội, năm 2003 Cục DSVH đã phối kết hợp với Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Bắc
Ninh triển khai đề án thí điểm nghiên cứu xây dựng danh sách nghệ nhân Quan
họ và đã chọn ra được danh sách 6 cụ đại diện cho lối ca Quan họ cổ của tỉnh Bắc
Ninh. Dự án nhằm mục đích tôn vinh và hỗ trợ nghệ nhân, góp phần nâng cao
nhận thức của cộng đồng về công tác bảo vệ DSVHPVT Quan họ.
Quyết định số 190/2013/QĐ-UBND ngày 21/5/2013 của Uỷ ban nhân dân
tỉnh Bắc Ninh về việc quy định chế độ đãi ngộ với nghệ nhân dân ca quan họ Bắc
Ninh; chế độ hỗ trợ đối với nghệ sĩ, diễn viên, nhạc công và nhân viên phục vụ
Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh. [4.tr68]
Quyết định số 1663/QĐ-UBND ngày 29/11/2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh
Bắc Ninh về việc phê duyệt Dự án “Bảo tồn và phát huy giá trị Di sản văn hóa phi
vật thể Dân ca Quan họ Bắc Ninh” giai đoạn 1.[4.tr68]
Quyết định số 1196/QĐ-UBND ngày 30/9/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Bắc Ninh về việc thành lập Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh, trực thuộc sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh.[4.tr68]
1.3. Nội dung bảo tồn và phát huy giá trị dân ca Quan họ
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của công nghệ thông
tin: internet, trí tuệ nhân tạo AI, kĩ thuật số,… các giá trị nghệ thuật, dân ca, làn
điệu Quan họ cổ đang bị mai một, lãng quên dần dần. Trước tình hình đó, Uỷ ban
nhân dân tỉnh kết hợp với sở văn hóa, thể thao và du lịch bắc ninh đã có những
chính sách để bảo tồn và phát huy các giá trị của dân ca quan họ.
Về thành tựu bảo tồn và phát huy giá trị Dân ca Quan họ Bắc Ninh, sau khi
được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại,
tỉnh đã phê duyệt đề án triển khai “Chương trình hành động quốc gia về bảo tồn
và phát huy di sản Dân ca Quan họ” với những nội dung cụ thể cùng nhiều giải
pháp tích cực và đạt được nhiều kết quả và thành tựu quan trọng. Các hoạt động
bảo tồn và phát huy giá trị Dân ca Quan họ Bắc Ninh bao gồm:
Về việc bảo tồn, trước hết dân ca Quan họ Bắc Ninh là loại hình ca hát giao
duyên của người Việt có từ lâu đời, tồn tại và phát triển tập trung ở trung tâm của lOMoAR cPSD| 60860503
xứ Kinh Bắc xưa - tức thành phố Bắc Ninh ngày nay, với 31/49 làng Quan họ gốc,
với số lượng bài ca và làn điệu phong phú (hơn 400 bài ca và 213 làn điệu), được
thể hiện bằng nghệ thuật ca hát đặc sắc và độc đáo, đạt tới đỉnh cao của thi ca và âm nhạc dân tộc.[4]
Đầu tiên, trong dự án tỉnh Bắc Ninh đã chú trọng đến việc khôi phục lại
không gian diễn xướng. Tỉnh đã thực hiện khôi phục lại không gian hát và diễn
xướng của các làng quan họ gốc với và phát triển các làng quan họ mới. Đặc biệt,
tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách đãi ngộ đối với các làng Quan họ gốc,
làng Quan họ thực hành và nghệ nhân, nghệ sĩ Dân ca Quan họ Bắc Ninh. Việc
phục dựng các di tích và lễ hội cũng được quan tâm và đầu tư khi mà Nhà nước
và nhân dân các làng Quan họ đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng để tu bổ, phục hồi di
tích và lễ hội, phục dựng lại nhà chứa Quan họ, xây dựng nhà văn hóa thôn, và
quy hoạch khu tổ chức lễ hội.
Trong giai đoạn hiện nay, kinh tế phát triển, khi nền kinh tế phát triển mạnh
mẽ, chất lượng cuộc sống được nâng lên, khả năng tiếp cận với thông tin về việc
phát huy các giá trị của dân ca quan họ là dễ dàng hơn.
Do đó, trước hết việc tuyên quảng bá di sản phải được thực hiện để tất cả
mọi người đều biết đến. Đặc thù của Dân ca Quan họ là tồn tại dưới dạng trí nhớ
và lưu truyền qua việc thực hành tại cộng đồng nên việc tổ chức các hội thi, hội
diễn để khích lệ việc trao truyền, tập luyện và thực hành di sản, chắt lọc những
giá trị tinh hoa còn lưu lạc và làm cho giá trị của di sản được lan tỏa là thực sự
cần thiết. Đồng thời việc xuất bản ra những cuốn sách, tạp chí báo, ấn phẩm,
truyền hình,… giới thiệu về dân ca quan họ cũng nên được chú trọng và tuyên
truyền để tiếp cận với người đọc cách tốt nhất. Tổ chức các hoạt động du lịch văn
hóa, du lịch tự nhiên nhằm quảng bá di sản xen kẽ với việc tham quan các di tích,
điểm du lịch của toàn tỉnh để công chúng biết đến và tiếp nhận. Phát huy những
giá trị gốc, giá trị cốt lõi bằng việc dạy học, truyền bá những kinh nghiệm trong
lối hát, cách thức diễn xướng cho các thế hệ sau nhất là thế hệ trẻ để nối tiếp các
thế hệ trước trong việc phát huy những giá trị của Dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Thành lập các Câu lạc bộ Quan họ thực hành mở rộng giao lưu giữa các làng, các
bọn Quan họ trong nước và khu vực để làm giàu thêm bản sắc văn hóa, thăng hoa
và lan tỏa Di sản Dân ca Quan họ đến khắp nơi. lOMoAR cPSD| 60860503
1.4. Giới thiệu về dân ca Quan họ Bắc Ninh
Theo quyết định 4.COM 13.76 ghi nhận rằng Việt Nam đã đề cử Dân ca
Quan họ Bắc Ninh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại được mô tả như sau:
Ở tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang thuộc miền Bắc của Việt Nam, nhiều làng
kết chạ, đẩy mạnh mối quan hệ bằng những phong tục xã hội như dân ca quan họ
Bắc Ninh. Dân ca quan họ là một thể loại hát đối đáp giữa một cặp nữ của làng
này với một cặp nam làng kia bằng một bài hát cùng giai điệu, khác về ca từ.
Trang phục của liền chị gồm nón quai thao và khăn vẩn, yếm, áo, váy; còn liền
anh mặc áo dài ngũ thân, khăn xếp và cầm ô. Quan họ Bắc Ninh có hơn 400 bài
ca với 213 giọng khác nhau, thể hiện tình cảm nhớ nhung và nỗi buồn xa cách, sự
vui mừng khi gặp lại của những người yêu nhau mà không lấy được nhau theo
quy định của tập quán. Dân ca quan họ được trình diễn ở nghi lễ, lễ hội, hội thi
lấy giải và những buổi gặp gỡ, ở đó bọn quan họ khách đến hát bằng nhiều giọng
hát khác nhau với bọn quan họ chủ nhà trước khi hát giọng giã bạn. Những cặp
thanh niên nam nữ sử dụng bốn kĩ thuật hát đặc trưng: vang, rền, nền, nảy ở những
buổi giao lưu hát quan họ. Các bài hát quan họ thể hiện tinh thần, triết lý và bản
sắc địa phương của cộng đồng ở trong vùng giúp gắn chặt mối quan hệ xã hội
trong làng và giữa các làng có cùng chung thực hành văn hóa cộng cảm.[4.tr40]
Tính đến thời điểm năm 2016, có 44 làng quan họ gốc tỉnh Bắc Ninh được
đưa vào danh sách bảo tồn và phát triển di sản văn hóa. Phần lớn các làng quan
họ đều thờ thánh Tam Giang, vị thánh gắn liền với dòng sông Cầu. Các làng quan
họ tập trung chủ yếu ở các huyện, thị xã và thành phố: Yên Phong, Từ Sơn, Tiên
Du, thành phố Bắc Ninh. Trong đó, 31/44 làng thuộc thành phố Bắc Ninh.
1.5. Giới thiệu về Làng Diềm
Xã Hoà Long nằm ở phía Bắc thành phố Bắc Ninh, bên dòng sông Cầu, có
vị trí địa lý như sau:
Phía Đông giáp xã Ninh Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang qua sông
Cầu. Phía Tây giáp xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang qua sông Cầu.
Phía Nam giáp 2 phường Vạn An và Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh. Phía Bắc giáp
xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang qua sông Cầu. lOMoAR cPSD| 60860503
Xã Hoà Long trước đây thuộc huyện Yên Phong, ngày 9 tháng 4 năm 2007,
Chính phủ ban hành Nghị định 60/2007/NĐ-CP, xã Hoà Long được sát nhập vào thành phố Bắc Ninh
Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị
quyết số 787/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm
2019. Theo đó, thành lập phường Hòa Long trên cơ sở toàn bộ 8,91 km² diện tích
tự nhiên và 21.035 người của xã Hòa Long.
Ngày 27 tháng 12 năm 2019, chuyển 7 thôn thuộc xã Hòa Long cũ thành 7
khu phố có tên tương ứng
Phường Hòa Long được chia thành 7 khu phố: Quả Cảm, Đẩu Hàn, Hữu
Chấp, Viêm Xá, Xuân Đồng, Xuân Viên, Xuân Ái
Làng Diềm là tên gọi nôm của làng Viêm Xá, làng Diềm thuộc địa phận xã
Hòa Long, thành phố Bắc Ninh. Làng Diềm cách thành phố Bắc Ninh khoảng 6
km về phía Bắc, nằm sát ranh giới với tỉnh Bắc Giang. Từ quê hương làng Diềm,
những làn điệu dân ca đã lan tỏa nên 49 làng Quan họ có trước 1945. Đây cũng là
cái nôi của những làn điệu dân ca Quan họ, một trong những di sản văn hóa phi
vật thể của nhân loại được UNESCO công nhận. Nơi đây mang đậm chất của một
làng quan họ cổ, khi về Làng Diềm nghe câu Quan họ ta có thể cảm nhận hết được
cái hay của những làn điệu dân ca qua chất giọng mượt mà, đằm thắm của các liền
anh, liền chị nơi đây. Theo các nhà khoa học thống kê, có tới 324 bài hát Quan họ
cổ, trong số đó làng Diềm còn lưu giữ khá nhiều. Cái hay của Quan họ chính là
các làn điệu đã được kết tinh và giao hòa với các làn điệu dân ca khác như: ca trù,
hát lý miền trung, thậm chí cả hát chèo,…
Khi đến với mảnh đất ân tình với những làn điệu quan họ này, chúng ta còn
có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các địa điểm du lịch như: Đền Cùng Giếng Ngọc:
đây là cụm di tích lịch sử nằm dưới chân núi Kim Lĩnh. Đền CùngGiếng Ngọc
thường gắn liền với nhiều câu chuyện nhiệm màu, linh thiêng tích thú vị. Chuyện
kể rằng từ xa xưa có ba cụ cá thần trú ngụ nơi ở giếng Ngọc hơn 1000 năm, là hoá
thân của công chúa Ngọc Dung và Thuỷ Tiên cùng một nàng hầu. Nước múc lên
từ giếng có thể uống trực tiếp mà không cần lọc hay đun sôi, sẽ thấy vị mát lành
và ngọt tự nhiên không đâu sánh được. Theo người dân làng Diềm, do nguồn nước
chảy từ trong núi, thấm qua tầng tầng lớp lớp đá ong đã tạo nên vị ngọt, mát hiếm có. lOMoAR cPSD| 60860503
Bởi thế, người làng Diềm thường lấy nước giếng Ngọc về để pha trà đãi
khách, nấu rượu dùng trong các dịp trọng đại của gia đình và dòng họ. Đối với du
khách đến tham quan và cúng lễ Đền Cùng, nước Giếng Ngọc không chỉ đơn
thuần là giải khát, mà còn tin rằng giúp khỏe mạnh, minh mẫn. Do đó, nhiều người
mang theo cả bình đựng để xin nước giếng mang về với mong ước rước may mắn,
tài lộc đến cho gia đình.
Làng Diềm vốn nổi tiếng là cái nôi của những làn điệu dân ca quan họ, để
có được giọng ca Quan họ “vang, rền, nền, nảy” say đắm lòng người, người dân
làng Diềm cũng tin rằng nhờ uống nước Giếng Ngọc mà có. Dù chưa thể khẳng
định thực hư tác dụng thần kỳ của dòng nước nhưng những ai từng nghe các làn
điệu quan họ nơi đây, sẽ không khó để nhận ra sự lắng đọng, ngọt ngào rất đặc
trưng từ sâu trong giọng hát của các liền anh, liền chị.
Đình Diềm được xây dựng từ cuối thế kỷ XVII, với nghệ thuật kiến trúc
chạm khắc tinh tế, đặc sắc từ thời nhà Lê, đã được công nhận danh hiệu di tích
kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 1964. Nếu đi làng Diềm, du khách nên đi
vào dịp lễ hội đền Vua Bà vào mùng 6 tháng 2 âm lịch, thời điểm tập trung nhiều
giọng ca quan họ đổ về so tài.
Đặc biệt, nơi đây còn lưu giữ một bảo vật quốc gia được nhà nước xếp hạng
2020 là “Cửa võng đình Diềm”, đây thực sự là một báu vật được làm từ gỗ sơn
son thiếp vàng, niên đại cách đây 300 năm. Ca dao Kinh Bắc có câu:
Thứ nhất là đình Đông Khang Thứ nhì đình Bảng, vẻ vang đình Diềm
Thêm vào đó là đền thờ Vua Bà thuỷ tổ quan họ. Tương truyền Đức Vua Bà
là con gái Hùng Vương, đến tuổi cập kê nhưng không lấy chồng mà xin phép vua
cha đi chu du thiên hạ. Khi bà vừa ra khỏi thàn, có cơn mưa lớn bất ngờ cuốn
phăng bà và các tì nữ đến Ấp Viên Trang( thôn Viêm Xá ngày nay). Tại đây bà
cho dân làng khai khẩn đất hoang, dựng vợ gạ chồng, dạy họ những làn điệu quan
họ. Để tưởng nhớ công lao của bà, người ta cho lập đền thờ, mỗi dịp hội lại diễn
lại tích “Bà Chúa lệnh mở hội xuân” đề cầu mưa thuận gió hoà, vạn thịnh dân an. Tiểu kết
Thông qua chương 1, chúng tôi dựa vào hiểu biết từ các nguồn tài liệu khác
nhau, đã khái quát sơ lược về một số vấn đề lý luận về bảo tồn và phát huy giá trị
văn hoá dân ca quan họ Bắc Ninh như khái niệm về bảo tồn, phát huy, di sản văn
hoá, dân ca, dân ca quan họ. Hơn nữa, chương 1 còn cung cấp những hiểu biết cơ lOMoAR cPSD| 60860503
bản về dân ca quan họ Bắc Ninh và làng Diềm. Thêm vào đó, chương 1 còn khái
quát về quan điểm của Đảng và Nhà nước, qua đó thấy được sự quan tâm và chú
trọng trong việc bảo tồn và phát huy. lOMoAR cPSD| 60860503 Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DÂN CA QUAN HỌ
TẠI LÀNG DIỀM, THÔN VIÊM XÁ, XÃ HOÀ LONG, THÀNH PHỐ BẮC NINH
2.1. Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá dân ca Quan họ tại Làng
Diềm, thôn Viêm Xá, xã Hoà Long, thành phố Bắc Ninh
2.1.1. Các hoạt động bảo tồn giá trị văn hoá dân ca Quan họ
2.1.1.1. Hoạt động truyền dạy
Di sản văn hóa phi vật thể được hình thành từ trong hoạt động sinh hoạt văn
hóa cộng đồng và lưu truyền cũng từ cộng đồng, do những người dân sản sinh ra
di sản truyền lại cho các thế hệ kế tiếp. Nên việc bảo tồn và phát huy các di sản
này không có gì hợp lý hơn là để các di sản ấy sống trong cộng đồng và lưu truyền
theo phương thức vốn có của nó.
Ngay sau khi dân ca quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là di sản
văn hóa phi vật thể, để chuẩn bị cho việc tổ chức các lớp truyền dạy hát quan họ
tại cộng đồng để quan họ được lan rộng trong các tầng lớp nhân dân trong tỉnh,
Sở VH,TT&DL đã tổ chức 01 lớp tập huấn nghiệp vụ trong thời gian 10 ngày cho
các nghệ nhân về một số kỹ năng truyền dạy dân ca quan họ Bắc Ninh trong gia
đình và cộng đồng. Bên cạnh đó, hoạt động truyền dạy ở làng Diềm nói riêng cũng
như tỉnh Bắc Ninh nói chung hiện đã và đang được thực hiện dưới nhiều hình thức như:
Đầu tiên, truyền dạy bằng hình thức truyền khẩu từ đời này qua đời khác từ
rất lâu về trước làng Diềm đã có tục kết chạ với làng Hoài thị (làng Bịu), duy trì
tình bạn quan họ từ xưa cho đến nay. Tình cảm kết chạ giữa làng Diềm và Hoài
Thị đến nay vẫn còn được lưu truyền. Đến những ngày đình đám hoặc là ngày lễ
thì bọn quan họ sẽ có những lời mời chào nhau. Một là thăm cửa, thăm nhà. Hai
là bắt đầu hát đáp với nhau để không chỉ giao lưu học hỏi, trao đổi với nhau về
câu hát, mà còn về ý ăn ý ở và lời nói thưa gửi với nhau. Mối quan hệ kết bạn
quan họ của cặp làng Diềm-Bịu được coi là kết bạn truyền đời thể hiện rõ nét nhất
mối quan hệ đặc biệt theo cặp nam-nữ bắt đầu từ truyền thống và nối tiếp cho đến
ngày nay bất chấp sự tác động, thay đổi của không gian, thời gian, bối cảnh lịch sử.