-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Báo cáo Cơ sở văn hóa Việt Nam - Tổ chức nông thôn | Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
"Báo cáo Cơ sở văn hóa Việt Nam - Tổ chức nông thôn" có thể là một phần của khóa học hoặc dự án nghiên cứu tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM. Dưới đây là một cái nhìn tổng quan về nội dung mà báo cáo này có thể bao gồm:
Cơ sở văn hóa Việt Nam (ĐHQGHCM) 33 tài liệu
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 0.9 K tài liệu
Báo cáo Cơ sở văn hóa Việt Nam - Tổ chức nông thôn | Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM
"Báo cáo Cơ sở văn hóa Việt Nam - Tổ chức nông thôn" có thể là một phần của khóa học hoặc dự án nghiên cứu tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM. Dưới đây là một cái nhìn tổng quan về nội dung mà báo cáo này có thể bao gồm:
Môn: Cơ sở văn hóa Việt Nam (ĐHQGHCM) 33 tài liệu
Trường: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 0.9 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
lOMoAR cPSD| 40749825
Báo cáo Cơ sở văn hóa Việt Nam - Tổ chức nông thôn
Cơ sở văn hóa Việt Nam (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh) lOMoAR cPSD| 40749825
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
MÔN: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
Đề tài: TỔ CHỨC NÔNG THÔN
Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thanh Phong NHÓM 5
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 10 năm 2023 lOMoAR cPSD| 40749825 MỤC LỤC
MỤC LỤC ......................................................................................................................................... 2
NỘI DUNG ....................................................................................................................................... 3 I.
MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ............................................................................. 3 1.
Tổ chức là gì? .................................................................................................................... 3 2.
Nông thôn là gì? ................................................................................................................ 3 II.
ĐẶC ĐIỂM CÁC KIỂU TỔ CHỨC ............................................................................... 3 1.
Tổ chức nông thôn theo huyết thống: Gia đình và Gia tộc. .......................................... 3 2.
Tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú: Xóm và Làng. ................................................ 7 3.
Tổ chức nông thôn theo nghề nghiệp và sở thích: Phường, Hội. .................................. 8 4.
Tổ chức nông thôn theo truyền thống nam giới: Giáp. ................................................. 9 5.
Tổ chức nông thôn theo đơn vị hành chính: Thôn và Xã. ........................................... 10 III.
ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NÔNG THÔN VIỆT NAM ......................................... 12 1.
Tính cộng đồng................................................................................................................ 12 2.
Tính tự trị ........................................................................................................................ 16 IV.
LÀNG NAM BỘ ............................................................................................................. 19 V.
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NÔNG THÔN VIỆT NAM NGÀY XƯA VÀ NGÀY NAY 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................. 24
PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ ............................................................................................................ 25 2 lOMoAR cPSD| 40749825 NỘI DUNG I.
MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
1. Tổ chức là gì?
Tổ chức là khái niệm đề cập đến một tập hợp một nhóm người cùng theo
đuổi các mục tiêu đã xác định. Nó có thể được hiểu là một hệ thống xã hội
bao gồm tất cả các mối quan hệ chính thức giữa người với người.
2. Nông thôn là gì?
Theo từ điển tiếng Việt, nông thôn là khu vực dân cư tập trung chủ yếu làm
nghề nông; phân biệt với thành thị.
Nông thôn còn được hiểu là ph ần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội th ị
các thành phố, thị xã, thị trấn. Đây là khu vực kém phát triển, chưa có nhiều
điều kiện xây dựng tiềm lực kinh tế, xã hội. Và được quản lý bở i cấp hành
chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã. Các khu vực nông thôn được xác định
đối lập về điều kiện cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng với thành thị.
Nông thôn Việt Nam là danh từ để chỉ những vùng đất mà ở đó, người dân
sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam. Cũng như
mang đến lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho nhiều ngành công
nghiệp. Người dân nông thôn phần lớn chưa được trang bị cơ hội, tiềm năng
để phát triển các ngành công nghiệp lớn.
Nông thôn Việt Nam II.
ĐẶC ĐIỂM CÁC KIỂU TỔ CHỨC
1. Tổ chức nông thôn theo huyết thống: Gia đình và Gia tộc.
Nh ững người cùng quan hệ huyết thống gắn bó mật thiết với nhau thành đơn vị
cơ sở là GIA ĐÌNH và đơn vị cấu thành là GIA TỘC. Ở nông thôn Việt Nam, gia
tộc đóng vai trò rất quan trọng. Nếu phương Tây coi trọng vai trò của cá 3 lOMoAR cPSD| 40749825
nhân thì phương Đông coi trọng vai trò của gia đình và gia tộc. Nhưng nếu xét
ở phương Đông với nhau, Trung Quốc xem gia đình nặng hơn gia tộc thì ở
Việt Nam gia tộc lại quan trọng hơn gia đình.
Đối với người Việt Nam, gia tộc trở thành một cộng đồng gắn bó có vai trò
quan trọng thậm chí còn hơn cả gia đình: họ rất coi trọng các khái niệm liên
quan đến gia tộc như trưởng họ, tộc trưởng, nhà thờ họ, từ đường, gia phả,
ruộng kị, giỗ họ, giỗ tổ, mừng thọ… Không phải ngẫu nhiên mà trong tiếng
Việt, khái niệm truyền thống của Việt Nam là “là ng nước”, còn “nhà nước”
chỉ là sự sao phỏng khái niệm “quốc gia” của Trung Hoa. Dưới đây là một
số khái niệm quan trọng của gia tộc trong xã hội Việt Nam:
1) Trưởng họ và Tộc trưởng:
• Trưởng họ (ông bà trưởng họ): Người đứng đầu gia tộc, thường
là người già nhất và được tôn trọng cao trong gia đình.
• Tộc trưởng: Người đại diện cho gia tộc trong các vấn đề quan
trọng, có trách nhiệm giữ gìn và phát triển danh tiếng của gia tộc.
2) Nhà thờ họ và Đường làng:
• Nhà thờ họ: Nơi tôn vinh tổ tiên, cầu mong sự an lành và phúc lành
cho gia đình và gia tộc.
• Đường làng: Nơi tập trung những ngôi nhà của các thành viên
trong gia tộc, tạo nên một không gian giao tiếp và hỗ trợ chặt chẽ.
3) Gia phả: Bản ghi về lịch sử và quan hệ huyết thống của gia tộc,
thường được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
4) Ruộng kị: Đất đai được gán cho gia tộc, thường được duy trì và chia
đều giữa các thành viên trong gia đình.
5) Giỗ họ và Giỗ tổ:
• Giỗ họ: Lễ kỷ niệm ngày mất của một thành viên trong gia tộc.
• Giỗ tổ: Lễ tưởng nhớ tổ tiên, có ý nghĩa quan trọng trong văn hóa Việt Nam.
6) Mừng thọ: Lễ kỷ niệm sự sống lâu của các thành viên trong gia đình,
thể hiện lòng biết ơn và tôn trọng đối với người già.
Ở Việt Nam, mối liên kết giữa làng và gia tộc thường rất mạnh mẽ, thậm chí
đồng nhất. Điều này thể hiện qua tên gọi của nhiều làng, nơi có dấu vết của
hiện tượng “làng là nơi ở của một họ”. Ví dụ, Đặng Xá là nơi ở của gia
đình Đặng, Ngô Xá, Đỗ Xá, Trần Xá, Nguyễn Xá, Châu Xá, Lê Xá... Mỗi
làng thường tượng trưng cho một gia tộc cụ thể. 4 lOMoAR cPSD| 40749825
Ở trong các làng này, người Việt vẫn giữ thói quen sống theo lối đại gia
đình. Các cụ già rất lấy làm hãnh diện nếu họ đứng đầu một gia đình quần
tụ được 3, 4 thế hệ (tam đại đồng đường, tứ đại đồng đường). Điều này thể
hiện sự ổn định và lòng hiếu thảo trong gia đình và gia tộc.
Ngoài ra, trong nhiều dân tộc thiểu số ở Việt Nam, người ta thường tập
trung nhiều thế hệ của một gia đình hoặc một gia tộc dưới một mái nhà dài.
Loại nhà này có thể dài tới trên 30 mét và có thể ở dưới một mái chung số
lượng lớn, thậm chí lên đến hơn trăm người. Điều này tạo ra sự gắn bó
mạnh mẽ gi ữa các thế hệ và là một biểu tượng của lòng đoàn kết và sự hỗ
trợ gia đình trong xã hội Việt Nam. Nhà dài Tây Nguyên
Sức mạnh gia tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc, thương yêu nhau. Người trong
họ có trách nhiệm cưu mang nhau về mặt vật chất: Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú
dì; hỗ trợ nhau về trí tuệ, tinh thần: Nó lú nhưng chú nó khôn; và dìu dắt nhau,
làm chỗ dựa cho nhau về chính trị: Một người làm quan, cả họ được nhờ.
Vì gia tộc có vai trò quan trọng nên tôn ti của từng người cũng rất được coi
trọng. Ở Việt Nam hệ thống tôn ti trong gia tộc được phân biệt rất chi li tới 9
thế hệ (gọi là cửu đại): 5 lOMoAR cPSD| 40749825 Cấp 4 3 2 1 0 -1 -2 -3 -4 thế hệ Vai Kị Cụ Ông Cha Tôi Con Cháu Chắt Chút
Việc thờ cúng, lễ tết trong gia tộc cũng tuân thủ theo nguyên tắc cửu đại này.
Nghĩa là khi người có vai “Tôi” còn s ống thì người ở vai này có trách nhiệm
tham gia thờ cúng (nếu người vai trên đã chết), l ễ tết (nếu người vai trên còn
sống) những người có vai từ “Kị” trở xuống đến người có vai “Cha”. Những
người có vai “Con”, “Cháu”, “Chắt”, “Chút” của người đó vẫn có trách nhiệm
phải tuân thủ.
Người đàn ông lớn nhất trong gia đình chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên
(nếu người ở vai trên không còn sống), chỉ khi người này mất đi thì việc thờ
cúng sẽ chuyển sang người con trai lớn (đích tôn). Trong trường hợp,
người đàn ông không có con trai thì việc thờ cúng tổ tiên sẽ chuyển sang
người chú kế cận và nguyên tắc trên lại áp dụng cho gia đình người chú.
Trong khi đó ở các nước khác, ví dụ trong tiếng Anh, chỉ có từ cho ba đời,
các đời trước và sau nữa chỉ thêm tiền tố vào một trong ba từ đó. Ngoài ra
còn có những danh từ chỉ riêng những người họ hàng xa hơn như:
• Chú: em trai của bố
• Cậu: em trai của mẹ
• Cô: em gái của bố
• Dì: em gái của mẹ
• Thím: vợ của chú
• Mợ: vợ của cậu
• Bác: anh hay chị của bố và của mẹ
Một vài vùng có thể có cách gọi biến tướng đi như: anh của bố, mẹ đều gọi
bằng “bác”, còn chị của bố, mẹ lại vẫn gọi là “cô” - như ở Thanh Miện (Hải
Dương), Kiến An (Hải Phòng) - hoặc anh, chị của bố gọi là “bá” còn anh,
chị của mẹ gọi là “bác” hay ngược lại v.v. Tôn ti r ất được tôn trọng, một
người ít tuổi, xếp theo vai vế, có thể là “ông” của một người nhiều tuổi - Bé
bằng củ khoai, cứ vai mà gọi (tục ngữ); các cụ thường dạy con cháu: Xanh
đầu con nhà bác, bạc đầu con nhà chủ; Bé bằng củ khoai, cứ vai mà gọi…
Tính tôn ti dẫn đến mặt trái là óc gia trưởng. Tổ chức nông thôn theo huyết
thống đi theo hướng ngày càng coi trọng vai trò của gia đình hạt nhân, nuôi
dưỡng tính tư hữu. 6 lOMoAR cPSD| 40749825
2. Tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú: Xóm và Làng.
Nếu coi tổ chức nông thôn theo huyết thống là bước phát triển thứ nhất thì tổ
chức nông thôn theo địa bàn cư trú là bước phát triển tiếp theo để hình
thành nên làng và xóm, đơn vị tổ chức quan trọng nhất của nông thôn Việt
Nam. Một làng gồm nhiều xóm gộp lại.
Khi công xã thị tộc tan rã và chuyển thành công xã nông thôn thì các thành viên
của làng không chỉ gắn bó với nhau bằng các quan hệ máu mủ mà còn gắn bó cả
bằng những quan hệ sản xuất. Tuy nhiên, những quan hệ sản xuất này ở Việt
Nam cũng khác hẳn phương Tây.
Ở phương Tây, các gia đình sống gần nhau cũng có quan hệ với nhau,
nhưng họ sống theo kiểu trang trại, quan hệ lỏng lẻo, phần nhiều mang tính
chất xã giao.
Ở Việt Nam thì khác:
• Thứ nhất, để đối phó với môi trường tự nhiên, đáp ứng nhu cầu cần đông
người của nghề trồng lúa nước mang tính thời vụ, người dân Việt Nam
truyền thống không chỉ cần đẻ nhiều mà còn làm đổi công cho nhau.
• Thứ hai, để đối phó với môi trường xã hội (nạn trộm cướp…), cả
làng phải hợp sức mới có hiệu quả. Chính vì vậy mà người Việt Nam
liên kết với nhau chặt chẽ tới mức bán anh em xa, mua láng giềng gần.
Nguyên tắc này bổ sung cho nguyên tắc Một giọt máu đáo hơn ao
nước lã: Người Việt Nam không thể thiếu được anh em họ hàng,
nhưng đồng thời cũng không thể thiếu được bà con hàng xóm.
Xóm làng nông thôn Việt Nam
Cách tổ chức nông thôn dựa trên quan hệ hàng ngang và không gian là một phần
quan trọng của văn hóa và tổ chức xã hội truyền thống ở Việt Nam. Hệ thống
này thể hiện tính dân chủ và bình đẳng và có xuất phát điểm trong muốn giúp
đỡ lẫn nhau, xây dựng mối quan hệ lâu dài, và tôn trọng nhau. Đây là một 7 lOMoAR cPSD| 40749825
hình thức dân chủ sơ khai, dân chủ làng mạc, mà trong lịch sử đã tồn tại
trước nền dân chủ tư sản ở phương Tây.
Tính dân chủ và bình đẳng trong cách tổ chức nông thôn này đặc biệt thể
hiện thông qua quan hệ hàng ngang giữa các hộ gia đình trong cùng một khu
vực. Mọi người trong làng thường có vai trò tương đương trong việc ra
quyết định cộng đồng và giải quyết mâu thuẫn. Mọi người cùng chia sẻ các
nguồn tài nguyên như đất đai và nước, và họ cùng đóng góp vào công việc
cộng đồng như canh tác, làm nông nghiệp, và xây dựng.
Tuy nhiên, cách tổ chức này cũng đi kèm với những thách thức và mặ t trái.
Thói dựa dẫm và ỷ lại có thể dẫn đến hiện tượng bất công và bất bình đẳng
trong xã hội. Ngoài ra, thói đô kị và cào bằng có thể dẫn đến sự cạnh tranh
và mâu thuẫn trong cộng đồng. Điều này cho thấy rằng, trong việc duy trì
tính dân chủ và bình đẳng, cần phải đối mặt với các thách thức và xem xét
cách tiếp cận tốt nhất để giải quyết chúng.
3. Tổ chức nông thôn theo nghề nghiệp và sở thích: Phường, Hội.
Trong một làng, phần lớn người dân đều làm nông nghiệp; tuy nhiên nhiều làng
có những bộ phận cư dân sinh sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với
nhau, khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một nguyên tắc tổ chức thứ ba là tổ
chức theo nghề nghiệp, tạo thành đơn vị gọi là PHƯỜNG. Ở nông thôn có thể gặp
hàng loạt phường như phường gốm làm sành sứ, phường nề làm nghề xây cất,
phường chài làm nghề đánh cá, phường vải làm nghề dệt vải, rồi những phường
nón, phường giấy, phường mộc, phường thợ tiện, phường đúc đồng…
Bên cạnh phường để liên kết những người cùng nghề, ở nông thôn Việt Nam
và mở rộng ra là xã hội Việt Nam nói chung, còn có H ỘI là tổ ch ức nhằm liên
kết những người cùng sở thích, thú vui, đẳng cấp: Hội tư văn liên kết các quan
văn cùng làng, hội văn phả liên kết các nhà nho trong làng không ra làm quan,
hội võ phả liên kết những người theo nghề võ, hội bô lão liên kết các cụ ông,
hội chư bà liên kết các cụ bà đi chùa, rồi còn hội tổ tôm, hội chọi gà, hội cờ
tướng, v.v. Phường và hội rất gần nhau, nhưng phường thì mang tính chất
chuyên môn sâu hơn và bao giờ cũng giới hạn trong quy mô nhỏ.
Cũng giống như tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, tổ chức theo nghề
nghiệp và sở thích là sự liên kế t theo chiều ngang, cho nên đặc trưng của
phường hội là tính dân chủ – những người cùng phường hội có trách nhiệm
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. 8 lOMoAR cPSD| 40749825
4. Tổ chức nông thôn theo truyền thống nam giới: Giáp.
Đây là hình thức tổ chức có lẽ xuất hi ện muộn sau này. Nó tạo nên cái đơn
vị gọi là GIÁP. Đứng đầu giáp là ông cai giáp (câu đương); giúp việc cho
cai giáp là các ông lềnh – lềnh nhất, lềnh hai, lềnh ba (từ chữ lệnh mà ra).
Đặc điểm của giáp là:
a) chỉ có đàn ông tham gia;
b) mang tính chất “cha truyền con nối”, cha ở giáp nào thì con cũng vào
giáp ấy. Trong nội bộ giáp phân biệt ba lớp tuổi chủ yếu: ti ấu (từ nhỏ
đến 18 tuổi), đinh (hoặc tráng: đinh = đứa; tráng = khỏe mạnh) và lão.
Vinh dự tối cao của thành viên hàng giáp là lên lão. Thông thường tuổi lên
lão là 60. Tuy nhiên, nhiều làng có lệ riêng quy định tuổi lên lão là 55 hoặc
50. Thậm chí có làng còn hạ tuổi lên lão xuống 49 (bởi lẽ 49 thường là tuổi
hạn, tổ chức lên lão sớm cho chắc chắn). Lên lão là lên ngồi chiếu trên, đượ
c cả giáp, cả làng trọng vọng. Cách tổ chức nông thôn theo “giáp” ra đời
muộn, nhưng nó lại xây dựng trên nguyên tắc trọng tuổi già là truyền thống
rất lâu đờ i. S ở dĩ như vậy là vì, khác với các nền văn hóa gốc du mục
trọng sức mạnh, cư dân nông nghiệp sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên
cần những người giàu kinh nghiệm – điều chỉ có được ở tuổi già.
Ở các dân tộc miền núi, nơi hầu như không chịu ảnh hường của văn hóa Trung
Hoa, từ ngàn xưa cho đến tận ngày nay già làng, hội đồng già làng vẫn nắm toàn
bộ quyền hành. Ở vùng người Việt (miền xuôi), quyền hành thực sự trong làng đã
được chuyển giao cho lớp trẻ hơn; tuy nhiên, truyền thống trọng lão vẫn được
duy trì – người ta vẫn kính lão đắc thọ; kính già, già để tuổi cho. Khi làng có việc,
các cụ già tùy theo tuổi tác, được ngồi ngang hàng với các quan viên chức sắc; quy
định phổ biến là các cụ già 60 tuổi ngang với tú tài, 70 tuổi ngang với cử nhân, 80
tuổi ngang với tiến sĩ. Có nơi tôn xưng gọi các cụ già là 9 lOMoAR cPSD| 40749825
quan lão. Vị trí do tuổi tác mang lại gọi là xỉ tước (xỉ = răng, gãy răng là
dấu hiệu của tuổi già) hoặc thiên tước (tước vị trời cho).
Giáp là một tổ chức mang tính hai mặt – nó vừa được tổ ch ức theo chiều dọc
(theo lớp tuổi), lại vừa được tổ chức theo chiều ngang (nh ững người cùng
làng). Cho nên, một mặt, giáp mang tính tôn ti, nó là một môi trường tiến
thân bằng tuổi tác: Sống lâu lên lão làng; mặt khác, giáp lại cũng có tính dân
chủ: tất cả mọi thành viên cùng lớp tuổi đều bình đẳng như nhau, cứ đến
tuổi ấy thì sẽ có địa vị ấy.
5. Tổ chức nông thôn theo đơn vị hành chính: Thôn và Xã.
Về mặt tổ ch ức hành chính thì nông thôn Việt Nam được chia thành các đơn vị
cơ bản là xã và thôn. Thông thường một xã gồm một làng nhưng cũng có xã
gồm một vài làng. Mỗi thôn gồm một xóm, cũng có thôn gồm một vài xóm.
Ở trong một xã, có sự phân biệt rõ rệt về hai loại dân cư:
1) Dân chính cư (còn gọi là nội tịch), là dân gốc của thôn, dân chính cư
được hưởng nhiều quyền lợi hơn dân ngụ cư rất nhiều.
2) Dân ngụ cư (còn gọi là ngoại tịch), là dân ở nơi khác đến, những
người dân này chỉ được làm một số nghề mà dân chính cư không
muốn làm như: làm thuê, làm mướn, làm mõ,... trong khi vẫn phải
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ như dân chính cư. Dân ngụ cư
thường bị khinh rẻ, coi thường.
Sự đối lập này không phải là con đẻ của chế độ phong kiến như người ta
thường nghe mà chính là sản phẩm của cơ chế văn hóa nông nghiệp: đó là
một phương tiện duy trì sự ổn định của làng xã. Nó nhằm hạn chế việc
người nông dân bỏ làng đi ra ngoài, cũng như hạn chế không cho người
ngoài vào sống ở làng. Bất kỳ ai, ở bất kỳ làng nào, nếu bỏ làng mình ra đi
thì sẽ không đâu dung nạp, sẽ rơi vào thân phận đáng sợ của dân ngụ cư.
Việc phân biệt dân chính cư và dân ngụ cư như một công cụ để duy trì sự
ổn định của làng xã còn thể hiện rõ ở những điều kiện cho phép chuyển dân
ngụ cư thành dân chính cư. Muốn chuyển thành dân chính cư, dân ngụ cư
phải thỏa mãn 2 điều kiện: đã cư trú ở làng từ 3 đời trở lên và phải có một
ít điền sản (tài sản dưới dạng ruộng đất). Điều kiệ n thứ nhất đảm bả o rằng
con cháu kẻ ngụ cư đã yên tâm với cuộc sống ở đây. Điều kiện thứ hai đảm
bả o sự gắn bó với đất đai - ruộng đất không do gì bỏ vào túi mà mang theo
như tiền bạc được.
Khi nói về sơ đồ bộ máy thôn xã, dân chính cư được chia làm 5 hạng: 10 lOMoAR cPSD| 40749825
1) Chức sắc gồm những người đỗ đạt hoặc có phẩm hàm vua ban;
2) Chức dịch gồm những người đang giữ những chức vụ nhất định trong
bộ máy hành chính xã;
3) Lão gồm những người thuộc hạng lão trong các giáp;
4) Đinh gồm trai đinh trong các giáp;
5) Ti ấu là hạng trẻ con của các giáp.
Ba hạng đầu gồm chức sắc, chức dịch và lão (những người cao tuổi nhất
trong hạng lão) lập thành bộ phận quan viên hàng xã. Quan viên lại được
chia thành ba nhóm theo lứa tuổi là kỳ mục, kỳ dịch, và kỳ lão:
• Kỳ mục là quan trọng nhất, có nhiệm vụ bàn bạc và quyết định các
công việc của xã. Kỳ mục còn được gọi là hội đồng kỳ mục, do tiên
chỉ và thứ chỉ đứng đầu; ở miền nam sau này, hội đồng kỳ mục được
gọi là hội tề do hương cả đứng đầu.
• Kỳ lão gồm những người cao tuổi nhất, có vai trò làm tư vấn cho hội
đồng kỳ mục.
• Kỳ dịch, hay còn gọi là lý dịch, thường do hội đồng kỳ mục cử ra, có
nhiệm vụ thực thi quyết định của hội đồng kỳ mục. Đứng đầu nhóm lý
dịch này là lý trưởng (còn gọi là xã trưởng); dưới đó có phó lý (giúp
việc), hương trưởng (lo việc công ích), trương tuần (còn gọi là xã
tuần, lo việc an ninh). Phương tiện quản lý chủ yếu là hai cuốn sổ là
sổ đinh (quản lý nhân lực) và sổ điền (quản lý về kinh tế).
Sơ đồ bộ máy thôn xã 11 lOMoAR cPSD| 40749825 III.
ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NÔNG THÔN VIỆT NAM
1. Tính cộng đồng
Tính cộng đồ ng, một đặc điểm thiêng liêng và đẹp đẽ của người Việt, đã tồn
tại và phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử dưới hình thức các làng xã và cộng
đồng nhỏ. Tính cộng đồng đại diện cho sự liên kết chặt chẽ của các thành viên
trong làng, mỗi người trong đó đều hướng v ề những người khác. Điều này thể
hiện sự đặc trưng của tính cộng đồng dương tính và hướng ngoại.
Nguyên nhân chính đằng sau sự hình thành và phát triển của tính cộng đồng
là nền văn hóa nông nghiệp của Việt Nam. Khi người dân đã học cách làm
vườn, canh tác ruộng, và chế biến nông sản, họ nhận thức được rằng cần
phải làm việc cùng nhau để đả m bảo sự thành công trong việc trồng trọt và
thu ho ạch. Tính cộng đồng cũng là sự phản ứng tự nhiên trước những khó
khăn như thiên tai, giặc ngoại xâm xâm lược. Chỉ qua sự đoàn kết, làng xã
Việt Nam đã đối mặt và vượt qua những thách thức này.
Tính cộng đồng đã được thể hiện qua các biểu tượng rất gần gũi với đời
sống hằng ngày của người dân Việt Nam, gồm: CÁI ĐÌNH, BẾN NƯỚC và CÂY ĐA.
• Làng nào cũng có một CÁI ĐÌNH. Đó là biểu tượng tập trung nhất của
làng về mọi phương diện. Với nhiều vai trò quan trọng và đa dạng, cái
đình đóng vai trò to lớn trong việc tạo nên bản sắc văn hóa và cuộc
sống xã hội của mỗi cộng đồng làng xã.
Trước hết, cái đình chính là trung tâm hành chính của làng. Đó là nơi
diễn ra mọi công việc quan trọng, từ việc họp mặt, đàm phán giải
quyết mâu thuẫn, thu sưu thu thuế, cho đến việc quản lý và xử lý tội
phạm. Đình chính là “nhà thị” của làng, nơi người dân hội tụ để tham
gia vào quá trình quản lý và điều hành cuộc sống cộng đồng.
Tiếp đến, đình là một trung tâm văn hóa đáng tự hào của làng. Đây là
nơi diễn ra các hoạt động văn hóa và giảng dạy truyền thống, từ hội hè,
tiệc ăn (có tên “đình đám”), cho đến việc tổ chức và biểu diễn nghệ
thuật như chèo, tuồng. Đình trở thành nơi gìn giữ và truyền dạy kiến
thức văn hóa, giáo dục thế hệ trẻ về lịch sử và truyền thống của làng.
Cùng với vai trò văn hóa, cái đình còn là một trung tâm về mặt tôn giáo.
Thế đất của đình được xem là quyết định vận mệnh cả làng, và nó thường
được xem xét một cách cẩn trọng trong việc xây dựng. Đình cũng là nơi 12 lOMoAR cPSD| 40749825
thờ thần Thành Hoàng, bảo trợ và bảo vệ làng và nhân dân trước
những tai hoạ.
Cuối cùng, cái đình còn là trung tâm về mặt tình cảm. Nó tượng trưng
cho tình c ảm và sự kế t nố i của mọi người trong làng. Nó gắn kết mọi
người với nhau, và khi nói đến làng, người ta thường liên tưởng đến
cái đình với tất cả những tình cảm gắn bó thân thương nhất. Thông
qua đình, người dân truyề n tải tình yêu và lòng hiếu kính đối với quê
hương và tình cảm gắn bó với đồng bào và thế hệ trước và sau: Qua
đình ngả nón trông đình, đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu...
Như vậy, cái đình không chỉ là một kiến trúc đơn thuần mà là trái
tim của ngôi làng. Nó thể hiện s ự đoàn kết và tương tác trong cộng
đồng, đại diện cho lịch sử và văn hóa của Việt Nam, và là nơi gắn
kết tình cảm và lòng tự hào của người dân trong cuộc sống xã hội.
• Ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đã mang lại sự thay đổi trong
vai trò và chức năng của các cơ sở xã hội trong làng xã Việt Nam, đặc
biệt là về vai trò của đình và bến nước.
Trước khi có sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, đình thường là
nơi tập trung của mọi người trong làng, nơi diễn ra mọi công việc
quan trọng, quyết định và tôn thờ. Đình chính là trung tâm của cuộc
sống xã hội. Tuy nhiên, dưới tác động của văn hóa Trung Hoa, đình
dần chỉ còn là chốn lui tới của đàn ông, và phụ nữ không còn tham
gia vào các hoạt động quan trọng tại đình.
Trong bối cảnh này, phụ nữ bị đẩy ra khỏi đình và họ quần tụ lại nơi BẾN
NƯỚC hoặc giếng nước. Trong những làng không có sông chảy qua thì
giếng nước trở thành nơi quan trọng. Đây là nơi hàng ngày của phụ nữ tụ
tập cùng nhau để thực hiện các công việc như rửa rau, vo gạo, giặt giũ và
trò chuyện. Bến nước hoặc giếng nước trở thành trung tâm 13 lOMoAR cPSD| 40749825
của cuộc sống hàng ngày của phụ nữ, nơi họ có thể chia sẻ những niềm
vui và nỗi buồn, trò chuyện và tìm hiểu về cuộc sống xung quanh họ.
Sự thay đổi này đã tạo ra một sự khác biệt giữa phụ nữ và đàn ông
trong xã hội làng xã. Trong khi đình trở thành một nơi dành riêng
cho nam giới, bến nước hoặc giếng nước lại trở thành trung tâm của
cuộc sống hàng ngày của phụ nữ.
• CÂY ĐA, còn gọi là “lá quốc đa” là một biểu tượng tượng trưng cho sự
linh thiêng và xã hội đa dạng trong ngôi làng Việt Nam. Nó thường nằm
ở đầu làng, với gốc cây thường có miếu thờ nơi luôn khói hương
nghi ngút. Cây đa chứa trong mình một thế giới linh thiêng, nơi hội
tụ của thánh thần, gồm Thần cây đa, ma cây gạo và cú cáo cây đề.
Tôn thần thờ cây đa trở thành một phần tôn giáo quan trọng trong ngôi
làng, và sợ thần cũng là một sự tôn kính đặc biệt dành cho cây đa.
Gốc cây đa không chỉ là nơi thánh thầ n hội tụ, mà còn là nơi gặp gỡ
của những người làm đồng, những khách qua đường và những người
muốn trò chuyện và tìm hiểu về cuộc sống xung quanh họ. Dưới bóng mát
của cây đa, những người mệt mỏi sau một ngày làm việc đồng cỏ có thể
tìm thấy sự thư giãn và nghỉ ngơi. Nơi đây, họ có cơ hội chia sẻ những
kinh nghiệm, cảm xúc và câu chuyện cuộc sống, tạo ra một không gian
đẹp và ấm áp để kết nối và giao tiếp trong cộng đồng.
Ngoài ra, gốc cây đa thường còn có quán nước, tạo ra không gian
thân thuộc để mọi người tụ họp và thư giãn. Quán nước dưới bóng
cây đa thường là nơi mọi người có thể tán gẫu, chia sẻ. Đây còn là
nơi tiếp đón và chào đón những khách qua đường, biến gốc cây đa
thành một cánh cửa sổ liên thông giữa làng và thế giới bên ngoài. Nhờ
khách qua đường, ngôi làng có cơ hội tạo ra mối quan hệ với thế giới
bên ngoài, đồng thời chia sẻ nét đẹp và giá trị văn hóa của mình. 14 lOMoAR cPSD| 40749825
Cây đa không chỉ là biểu tượng về mặt tôn giáo mà còn là một ký hiệu
về mối gắn kết và giao tiếp trong xã hội làng xã. Nó tạo nên không gian
đa chiều và linh thiêng, tượng trưng cho tinh thần đoàn kết và sự kết
nối của người dân trong mọi ngôi làng Việt Nam.
Tính cộng đồng nh ấn mạnh vào SỰ ĐỒNG NHẤT, đó là tâm hồn của
người Việt, và nó có ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc
sống xã hội. Tính cộng đồng đã tạo ra nhiều ưu điểm đáng kể:
• Do đồng nhất (cùng hội cùng thuyền, cùng cảnh ngộ) cho nên người Viết
Nam luôn sẵn sàng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, coi mọi người trong cộng
đồng như anh chị em trong nhà: tay đứt ruột xót, chị ngã em nâng; lá
lành đùm lá rách…
• Sự đồng nhất còn dẫn đến tính tập thể cao, hòa đồng trong xã hội Việt
Nam. Mọi người thường hòa nhập dễ dàng và làm việc cùng nhau để
đạt được mục tiêu chung. Đây là một khía cạnh tích cực của văn hóa
Việt Nam, thể hiện sự tương tác xã hội mạnh mẽ và giao tiếp hiệu quả trong cộng đồng.
• Sự đồng nhất cũng thể hiện trong các nguyên tắc tổ chức xã hội dân
chủ và bình đẳng, ví dụ như việc tổ chức xã hội dựa trên địa bàn cư
trú, nghề nghiệp và giáp. Điều này giúp tạo ra một xã hội tương đối
bình đẳng và có tính quyết định chung của cộng đồng.
Tuy nhiên, lại cũng chính do đồng nhất mà ở người Việt Nam tồn tại một số nhược điểm:
• Tính đồng nhất trong xã hội Việt Nam thể hiện sự đoàn kết và tập thể,
nhưng nó có thể ảnh hưởng đến ý thức cá nhân và vai trò của cá nhân
trong xã hội, dẫn đến ý thức về con người cá nhân bị thủ tiêu. Trong một
xã hội có sự đồng nhất mạnh mẽ, người Việt thường hòa tan vào các 15 lOMoAR cPSD| 40749825
mối quan hệ xã hội và có xu hướng giải quyết xung đột theo lối hòa cả làng.
• Sự đồng nhất còn dẫn đến chỗ người Việt Nam hay dựa dẫm, ỷ lại vào
tập thể. Ngạn ngữ “Nước trôi thì bè trôi, nước nổi thì thuyền nổ” đã
minh họa cho sự phụ thuộc quá mức vào cộng đồng. Khi mọi người
hoàn toàn dựa vào tập thể để giải quyết khó khăn, cá nhân có thể mất
đi khả năng đối mặt với cuộc sống.
Tình trạng “Cha chung không ai khóc; lắm sãi không ai đóng cửa chùa”
thể hiện sự thiếu trách nhiệm và thờ ơ đối với các vấn đề chung trong xã
hội Việt Nam. Trong trường hợp này, người Việt Nam chỉ tập trung vào
cuộc sống cá nhân của họ và quên đi vai trò của mình trong xã hội lớn
hơn. Họ ít quan tâm đến các vấn đề chung mà chỉ quan tâm đến việc
bảo vệ, phát triển mối quan hệ cá nhân, gia đình và lợi ích của mình.
Bên cạnh đó, tư tưởng cầu an và cả nể là hệ quả của sự đồng nhất
mạnh mẽ. Lo lắng về phụ thuộc vào cộng đồng khiến chúng ta không
dám tự lập và tự quyết định trong cuộc sống. Thói quen đóng cửa bảo
nhau đã đặt giới hạn đối với sự tiến bộ và sự đổi mới trong xã hội.
• Một nhược điểm trầm trọng là thói quen cào bằng, đố kị và không muốn
cho ai hơn mình của người Việt Nam. Thay vì khuyến khích sự đồng
nhất và tập thể, thói quen này làm gia tăng sự cạnh tranh và xung đột
giữa cá nhân và các tập thể xã hội. Tư tưởng “Xấu đều hơn tốt lõi; Khôn
độc không bằng ngốc đàn; Chết một đống còn hơn sống một người”
đồng nghĩa với việc không tôn trọng sự khác biệt và đa dạng quan
điểm trong xã hội. Nó tạo ra một cộng đồng không khích động, trong
đó mọi người có thể sợ việc trở nên xuất sắc và đặt quá nhiều áp lực
lên mình để không bị đánh giá thấp.
Tóm lại, những thói xấu có nguồn gốc từ tính cộng đồng này khiến cho ở
Việt Nam, khái niệm “giá trị” tr ở nên hết sức tương đối (nó khẳng định đặc
điểm tính chủ quan của lối tư duy nông nghiệp): Cái tốt, nhưng mà tốt riêng
rẽ thì trở thành xấu (khôn độc không bằng ngốc đàn); ngược lại, cái xấu,
nhưng là xấu tập th ể thì trở nên bình thường: Toét mắt là tại hướng đình,
Có làng cùng toét, riêng mình đâu! 2. Tính tự trị
Tính tự trị là một đặc điểm nổi bật của làng xã Việt Nam. Tính t ự trị tạo nên
một hệ thống xã hội đa dạng và độc đáo, với mỗi làng tồn tại như một “vương
quốc” nhỏ, khép kín và độc lập với triều đình phong kiến. Mỗi làng xã điều 16 lOMoAR cPSD| 40749825
hành bằng một hệ thống luật pháp riêng gọi là “hương ước” cùng với một “tiểu
triều đình” riêng. Trong ti ểu triều đình, hội đồng kì mục là cơ quan lập pháp, và
lí dịch là cơ quan hành pháp, chịu trách nhiệm quản lý và thực thi luật pháp riêng
của làng. Nhiều làng còn tôn xưng bốn cụ cao tuổi nhất làng là tứ trụ, những
người đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì trật tự và quản lý xã hội.
Sự biệt lập và tính tự trị của mỗi làng xã Việt Nam tạo nên truyền thống phép
vua thua lệ làng, trong đó quyền l ực và uy tín của triều đình phong kiến
không thể áp đặt mạnh mẽ lên các làng xã. Điều này thể hiện quan hệ đặc
biệt giữa nhà nước phong kiến và xã hội làng xã tại Việt Nam. Tính dân chủ
trong hệ thống này thể hiện thông qua việc mỗi làng có khả năng quản lý và
tự quyết định về các vấn đề nội bộ, bảo vệ quyền lợi của họ và tham gia vào
quản lý xã hội theo cách riêng.
Tính tự trị của làng xã Việt Nam có nguồn gốc từ lịch sử và văn hóa của đất
nước. Một trong nh ững nguyên nhân quan tr ọng là sự sở hữu công đất thuộc
làng xã. Người Việt Nam đã truyề n thống cày trên đất công và trích hoa lợi
cho nhà nước và làng xã. Điều này đã dẫn đến việc hình thành luật pháp riêng
từng làng, nh ằm quản lý và bảo vệ tài sản và quyền lợi của họ. Bên cạnh đó,
tính tự trị cũng xuất phát từ tính cộng đồng mạnh mẽ của người Việt Nam,
đặc biệt trong nền nông nghiệp lúa nước. Để khắc phục thiên tai và chống lại
giặc ngoại xâm, làng xã đã phải co cụm và bảo vệ lẫn nhau. Tính tự trị giúp họ
tự quản lý và tự bảo vệ mình trong những tình huống khó khăn.
LŨY TRE, hay còn gọi là rặng tre, là biểu tượng truyền thống của tính tự trị
trong xã hội làng xã Việt Nam. Rặng tre bao kín quanh làng, trở thành một
thứ thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm. Lũy tre có những đặc tính độc
đáo làm cho nó trở thành một biểu tượng mạnh mẽ của tính tự trị.
• Đầu tiên, tre có khả năng chống cháy, nên nó tượng trưng cho sự bất
khả xâm phạm. Đốt lũy tre không dễ dàng, điều này đại diện cho sự
sáng tạo và sự tự vệ của làng xã.
• Thứ hai, trèo qua rặng tre cũng không dễ dàng, đây là một rào cản tự
nhiên chống lại sự xâm nhập của người ngoài hoặc giặc ngoại xâm.
• Cuối cùng, đào đường hầm trong rặng tre sẽ vướng phải rễ cây tre,
làm cho việc tiến vào một làng xã trở nên khó khăn.
Chính vì sự khó bị xâm phạm và sự khó khăn trong việc tiến vào làng qua
rặng tre, tiếng Việt gọi rặng tre là “luỹ” còn từ “luỹ” đôi khi được sử dụng
để chỉ một thành quách bao bọc. Sự bảo vệ và tính khép kín của lũy tre là
biểu tượng của tính tự trị và sự đoàn kết trong xã hội làng xã Việt Nam. 17 lOMoAR cPSD| 40749825
Tính tự trị trong xã hội làng xã Việt Nam đặc trưng bằng sự nhấn mạnh vào
SỰ KHÁC BIỆT. Điều này đã tạo nên những ưu điểm người dân Việt Nam
trong đời sống.
• Khởi đầu của tính tự trị là sự nhận biết sự khác biệt của cộng đồng
này so với cộng đồng khác. Mỗi làng hoặc tập thể cần tự lo liệu và
quản lý mọi khía cạnh của cuộc sống của họ, hình thành nên tính tự
lập rất đỗi kiên cường.
• Vì phải tự lo liệu, người Việt Nam có truyền thống của đầu tắt mặt
tối, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Điều này có nghĩa là họ phải
tự chăm sóc và quản lý mọi khía cạnh của cuộc sống của họ, từ sản
xuất thực phẩm đến việc xây dựng nhà cửa. Mỗi gia đình cần phải tự
đảm bảo nhu cầu ăn uống và chăm sóc những nguồn tài nguyên cơ
bản như vườn rau, chuồng gà, ao cá. Nó đã hình thành một nếp sống
tự cung cấp trong xã hội làng xã Việt Nam.
Mặt khác, việc nhấn mạnh vào sự khác biệt trong tính tự trị cũng dẫn đến
một số nhược điểm của người Việt Nam.
• Thói xấu đầu tiên là óc tư hữu ích kỷ. Mỗi làng và gia đình cần tự quản lý
và bảo vệ tài sản của họ, bao gồm ruộng đất, thân người, bò, và nhiều thứ
khác. Từ đó, nảy sinh ra sự óc tư hữu ích kỷ, khi mọi người cố gắng bảo vệ
và gia tăng tài sản cá nhân của họ. Tuy nhiên, óc tư hữu này thường dẫn
đến sự đối đầu và ganh đua với người khác, điều này đã được xem xét và
phê phán trong xã hội làng xã Việt Nam. Nguy cơ này thể hiện trong các
câu ca dao như “Của mình thì giữ bo bo. Của người thì
để cho bò nó ăn”. Điều này đặt ra câu hỏi về việc cân nhắc giữa việc
bảo vệ tài sản cá nhân và việc duy trì tinh thần đoàn kết và hợp tác
trong xã hội làng xã Việt Nam. 18 lOMoAR cPSD| 40749825
• Thói xấu thứ hai có nguồn gốc từ tính tự trị là óc bè phái, địa phương
cục bộ, làng nào biết làng ấy, chỉ lo vun vẹn cho địa phương mình:
Trống làng nào làng nấy đánh, Thánh làng nào làng nấy thờ; Trâu ta
ăn cỏ đồng ta; Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn…
• Một biểu hiện thứ ba của tính khác biệt – cơ sở của tính tự trị – là óc
gia trưởng – tôn ti: Tính tôn ti, sản phẩm của nguyên tắc tổ chức nông
thôn theo huyết thống, tự thân nó không phải là xấu, nhưng khi nó
gắn liền với óc gia trưởng, tạo nên tâm lí quyền huynh thế phụ, áp đặt
ý muốn của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thứ bậc vô lí:
Sống lâu lên lão làng; Áo mặc không qua khỏi đầu, thì nó trở thành
một lực cản đáng sợ cho sự phát triển xã hội, nhất là khi mà thói gia
đình chủ nghĩa vẫn đang là một căn bệnh lan tràn. IV. LÀNG NAM BỘ
Nam Bộ hoặc là miền Nam là một trong 3 miền địa lý của Việt Nam (gồm
Nam Bộ, Trung Bộ, và B ắc Bộ). Phần lớn địa hình Nam Bộ là đồng bằng
phù sa thuộc h ệ thống sông Đồng Nai và sông Cửu Long, Nam Bộ được chia
làm hai vùng là Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long (hay còn gọi là
Tây Nam Bộ, miền Tây).
Từ thế kỷ XVII, Nam Bộ là phần lãnh thổ mới nhất của Việt Nam trong quá
trình Nam tiến, và từng được gọi là Gia Định rồi Nam Kỳ (1832–1945). Thời
Pháp thuộc, Nam Bộ là một xứ thuộc địa với tên gọi Nam Kỳ, vốn xuất hiện
từ thời vua Minh Mạng của Nhà Nguyễn. Tên gọi Nam Bộ ra đời từ thời Đế
quốc Việt Nam năm 1945. Nam Bộ còn được gọi là Nam Phần từ 1948 tới
1975 thời Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa. 19 lOMoAR cPSD| 40749825
Bản đồ hành chính các tỉnh thành thuộc Nam Bộ
Từ khi chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ về phía Nam thì việc khai phá ra
đồng bằng Nam bộ đã đem lại thêm một khuôn mặt mới cho bức tranh làng
xã Việt Nam thêm đa dạng.
Vùng nông thôn ở khu vực Nam bộ cũng đượ c tổ chức thành những làng xã,
nhưng với tên gọi “làng” không được phổ biến như ở phía Bắc mà thay
vào đó là phương ngữ mang đậm tính chất Nam bộ đó là “thôn ấp”.
Nếu như làng xã ở đồng bằng Bắc bộ mang tính chất cổ truyền, khép kín sau lũy
tre làng, cây đa, bến nước, con đò, trong một phạm vi không gian cố định, đã
được phân định rạch ròi biên giới lãnh thổ địa phương, phần nhiều các thôn xóm
cách biệt nhau qua một khoảng trống là ruộng, hay ít nhất cũng bằng một con
đường phân ranh giới rõ rệt, thì nét đặc trưng của thôn ấp Nam bộ lại mang tính
chất mở rộng, làng Nam bộ không có lũy tre bao quanh với các cổng làng đặc
trưng của từng địa phương, sáng mở tối đóng như làng xã ở Bắc bộ.
Mà làng thường được định vị ở vùng đất cao (gọi là miệt giồng), phần nhiều
các thôn ấp đồng ruộng mênh mông thẳng cánh cò bay, ở r ời rạc cách xa nhau,
không quy tụ chen chúc, không có những lũy tre xanh bao bọc xung quanh mà
bờ tre chỉ là một biểu trưng để phân biệt ranh giới giữa các thôn ấp với nhau. 20 lOMoAR cPSD| 40749825
Ở Nam bộ đặc trưng là vùng sông nước (miệt sông), kênh rạch chằng chịt, hoạt
động đi lại thường diễn ra trên sông nước, do đó các thôn ấp đều trải dài theo
các bờ kênh rạch. Quanh miệ t sông, nhà cửa san sát, ghe xuồng tấp nập ngang dọc.
Mỗi bờ tre thường là địa đầu của một thôn ấp và thường trải dài theo triền kênh.
Từ xa xưa “tình làng nghĩa xóm”, thì cư dân ở các thôn ấp Nam bộ thường
hay có sự biến động, người dân không bị gắn chặt với quê hương, không bị
bó hẹp trong thôn ấp của mình, do đó tính cách của người cư dân Nam bộ
theo đó cũng trở nên phóng khoáng hơn, tự do hơn.
Làng xã Nam bộ thường là không có ruộng đất công để ban cấp cho người dân, ai
có sức khai phá thì biến thành của riêng, mua đi bán lại, người không có đất thì
đi làm thuê, làm mướn, nay đây mai đó, khác hẳn v ới chế độ ruộng đất công
của cư dân phía Bắc là có ruộng công, được chia theo đầu người và chịu sự cai
quản của Nhà nước, hàng năm phải đóng tiền thuế theo số lượng ruộng đất được giao...
Bởi thế quan hệ làng xóm của người Nam bộ mang tính cộng đồng không
được mạnh mẽ , chủ yếu là quan hệ theo cá nhân. Họ họp nhau, tương trợ,
đùm bọc lẫn nhau, nương tựa vào nhau để mà sinh sống. 21 lOMoAR cPSD| 40749825
Tuy nhiên, dù có sự biến động như thế nào đi chăng nữa thì người dân Nam bộ
vẫn sống quy tụ thành từng làng ấp của mình với thấp thoáng bóng tre, mỗi
làng cũng có một ngôi đình với tín ngưỡng thờ Thành Hoàng. Hàng năm,
người dân nơi đây đều tụ hội ở những lễ hội.
Dù tính cách phóng khoáng, làm ăn dễ dãi, người nông dân Nam bộ vẫn
giữ nếp cần cù, chịu thương chịu khó “một nắng hai sương”, vẫn thể hiện
phong cách của “Anh hai Nam bộ” rõ nét. Dù kinh tế hàng hóa có phát triển,
người nông dân Nam bộ vẫn rất coi trọng tính cộng đồng, yế u tố hàng xóm
vẫn được xếp vào hàng thứ hai trong thang bậc ưu tiên khi chọn nơi cư trú.
Người dân Nam bộ quan niệm: “Nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ
cận lộ, ngũ cận điền” (quan trọng nhất là gần chợ, thứ hai gần hàng xóm, ba
gần sông, bốn gần đường, năm gần ruộng).
Ngày nay, tuy cuộ c sống hiện đại đã len lỏi vào từng ngõ ngách, thôn xóm
và đến từng nhà, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống thường nhật của mọi
người, yếu tố văn hóa ngoại lai dần dần thấp thoáng đâu có trong cách
sống, cách nghĩ của một bộ phận giới trẻ. Song không phải vì thế mà yếu tố
văn hóa cổ truyền làng xã Việt Nam bị mai một. Nó vẫn được gìn giữ, bảo
tồn và phát huy dưới nhiều hình thức văn hóa dân gian khác nhau. Làng
xã Nam bộ v ới những nét đặc trưng văn hóa của mình đã góp phần không
nhỏ vào bức tranh đa dạng, đầy màu sắc của làng xã cổ truyền Việt Nam. V.
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NÔNG THÔN VIỆT NAM NGÀY XƯA VÀ NGÀY NAY
Làng xã Việt Nam thời hiện đại đã trải qua sự thay đổi đáng kể so với làng
trung và cận đại. Mặc dù một số đặc điểm truyền thống vẫn được bảo tồn,
nhưng cũng có những khía cạnh hoàn toàn mới mẻ mà hầu hết không thể tìm
thấy trong làng xã của ngày xưa.
Truyền thống gia tộc, mặc dù còn ảnh hưởng, nhưng do ngày nay, nhiều
người nông thôn có xu hướng rời bỏ làng xã để đến các thành phố lớn hoặc
di cư đến những vùng khác có điều kiện sống và làm ăn thuận l ợi hơn. Do
đó, vai trò của gia đình trong cuộc sống ngày càng nổi trội hơn, và tính
chất huyết thống đã giảm đi đáng kể.
Các khái niệm truyền thống như giáp, đinh, tráng không còn phù hợp với nông
thôn hiện đại. Các khái niệm dân chính cư hoặc dân ngụ cư, mặc dù còn tồn tại
ở một số nơi, nhưng không còn là đặc điểm chung của làng xã ngày nay.
Các chức sắc và chức dịch truyền thống như quan viên, kỳ mục, kỳ dịch đã
bị loại bỏ. 22 lOMoAR cPSD| 40749825
Vai trò của chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp xã, đang ngày càng
được công nhận trong hệ thống quản lý nhà nướ c, làm mất đi vai trò của hệ
thống chính quyề n làng theo kiểu cũ. Ngày nay, người đứng đầu một làng
thường được gọi là trưởng làng (thôn) hoặc trưởng bản (ở miền núi). Tuy
nhiên, vai trò của họ thực tế không lớn lắm.
Các hương ước và tục lệ vẫn còn ảnh hưởng đến cuộc sống của làng, nhưng luật
pháp của nhà nước là yếu tố quyết định quan trọng trong quan hệ cộng đồng ngày
nay. Cấu trúc của làng ngày nay đã thưa dần các yếu tố truyền thống như lũy tre
làng, cổng làng, giếng làng. Đình làng không còn đóng vai trò quan trọng như
trước đây, chỉ còn là nơi thờ cúng và gặp gỡ trong các dịp lễ hội.
Nông thôn vẫn là nơi sống và làm việc chính của cộng đồng dân cư, nơi
hoạt động sản xuất nông nghiệp chiếm ưu thế. Mặc dù một số cải cách đã
diễn ra, cơ sở hạ tầng và trình độ sản xuất vẫn còn thấp hơn so với thành th
ị, và cuộc sống ở nông thôn vẫn đối diện với nhiều khó khăn về thu nhập và
đời sống. Nông thôn rải rác trên diện tích lớn, do đó nó thường chịu nhiều
tác động từ điều kiện tự nhiên.
Như vậy, sự phát triển và thay đổi trong làng xã Việt Nam đã tạo ra một
cảnh quan mới, bản sắ c khác biệt so với làng xã truyền thống. Tuy vẫn còn
những nét truyền thống, nhưng nó đã phản ánh sự phát triển và sự thay đổi
của xã hội hiện đại. 23 lOMoAR cPSD| 40749825
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nông thôn Việt Nam. (n.d.). Retrieved from Wikipedia:
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%B4ng_th%C3%B4n_Vi%E1%BB %87t_Nam
2. Thêm, T. N. (1999). Cơ sở văn hóa Việt Nam. Nxb. Giáo Dục.
3. Thiện, H. M. (n.d.). Nâng cánh ước mơ. Retrieved from Làng xã Nam Bộ:
https://hoaanhdao0603082010.violet.vn/entry/showprint/entry_id/7776 940 24 lOMoAR cPSD| 40749825
PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ STT HỌ VÀ TÊN MSSV NHIỆM VỤ 1
Ngô Thị Cẩm Hiếu 2256110056 • Nhóm trưởng
• Tổng hợp nội dung bài báo cáo
• Soạn nội dung làm powerpoint và bài báo cáo
• Gửi bài báo cáo cho thầy 2
Hồ Thị Thúy Diễm 2256110031 • Làm powerpoint • Tìm video
• Kỹ thuật 3
Phạm Thị Hải An 2256110002 • Thuyết trình
• Chuẩn bị câu hỏi trò chơi 4 Đoàn Minh Ngọc 2256110099
• Soạn nội dung làm powerpoint và bài báo cáo • In bài báo cáo 5 Lê Ngọc Khánh Thuy 2256110157 • Thuyết trình
• Tìm hình ảnh cho bài powerpoint và bài báo cáo 25