



















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ GTVT 
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN  BÁO CÁO MÔN HỌC  
KỸ THUẬT XÂY DỰNG VÀ TRÌNH BÀY BÁO CÁO   Tên đề tài: 
VIỆT NAM VÀ TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG 
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: 
SINH VIÊN THỰC HIỆN:  LỚP:  HÀ NỘI 2023        MỤC LỤC 
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………………1 
1. Lý do thiết của đề tài………………………………………………………..1  2. 
Tính cấp thiết của đề tài…………….………………………………….1 
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..………………..………………..………...3  3.1. 
Mục đích nghiên cứu…………………………………………………..3  3.2. 
Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………...……………. ….3 
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………….………………………….3  4.1. 
Đối tượng nghiên cứu……………….…………………………………3  4.2. 
Phạm vi nghiên cứu………………………….…………………………3 
5. Phương pháp nghiên cứu………………………..………...……………..…..3  6. 
Ý nghĩa nghiên cứu…………….….……………………………………..4  7. 
Kết cấu của đề tài……………………………...…………………………4 
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIỂN ĐÔNG…….…………………...6 
1.1. Vị trí địa lý……………….……………………..…………... ……………….6 
1.2. Tài nguyên thiên nhiên……….……………………………………….. …….7 
1.3. Vai trò của Biển Đông ………………………………..…………………......8  1.3.1. 
Đối với Việt Nam……………………….…………………………..……8 
1.3.2. Đối với thế giới ………………………………………….……..…….8 
1.4. Tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông..................................................9 
CHƯƠNG 2. DIỄN BIẾN VÀ CÁC VẤN ĐỀ CỦA LUẬT QUỐC TẾ TRONG 
CUỘC TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG…………………………..………..10 
2.1. Các giai đoạn diễn ra cuộc tranh chấp chủ quyền trên biển Đông…...… 10 
2.1.1. Giai đoạn thứ nhất trước năm 1974……………………………..….10 
2.1.2. Giai đoạn thứ hai từ năm 1974 đến năm 1999………………..…… 11 
2.1.3. Giai đoạn thứ ba từ năm 1999 tới nay……………………………….12 
2.2. Thực trạng các yêu sách tại biển Đông trong diễn biến tranh chấp …… 13 
2.3. Các vấn đề của Luật Quốc tế trong tranh chấp Biển Đông ……….17     
2.3.1. Những quy định của Luật Quốc tế về thụ đắc lãnh thổ ……………… 17 
2.3.2. Yêu sách ”đường lưỡi bò” của Trung Quốc trên biển Đông …..……18 
2.3.3. Quy chế pháp lý đối với các đảo đá thuộc Hoàng Sa, Trường Sa…… 19 
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ QUAN ĐIỂM CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT 
NAM VỀ TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG HIỆN NAY……………………..….…20 
3.1. Một số hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông hiện nay ……………...20 
3.2. Quan điểm và Sách lược của Việt Nam về tranh chấp biển Đông ……...21 
KẾT LUẬN ……………………………………………………………...………..24 
DANH MỤC TỔNG HỢP TÀI LIỆU THAM KHẢO………………….……...25     
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 
Biển Đông là một khu vực có vị trí địa chính trị chiến lược quan trọng, có 
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, liên quan đến lợi ích của nhiều quốc gia 
trên thế giới. Chính vì vậy, vấn đề tranh chấp trên Biển Đông không đơn thuần chỉ 
là chuyện giữa Trung Quốc, Việt Nam và các quốc gia ven bờ Biển Đông, mà nó 
vốn dĩ đã là một vấn đề quốc tế kể từ khi phát sinh. Biển Đông hiện nay đang là 
một điểm nóng về tình trạng mâu thuẫn và tranh chấp chủ quyền, tiềm ẩn nhiều 
nguy cơ gây mất ổn định an ninh của khu vực và thế giới. 
Các vấn đề liên quan đến Biển Đông hiện đang được giới khoa học trong và 
ngoài nước đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Tranh chấp trên Biển Đông hiện nay là 
một vấn đề chính trị lớn ảnh hưởng chủ quyền của nhiều quốc gia có liên quan. 
Trong khi các cường quốc trên thế giới đều thể hiện lợi ích địa chính trị và chiến 
lược của mình tại vùng biển này, thì Trung Quốc lại âm mưu độc chiếm toàn 
bộ Biển Đông bằng bản đồ “đường lưỡi bò” của mình khiến cho tình trạng chồng 
lần về chủ quyền, và mâu thuẫn lợi ích tại khu vực này trở lên căng thẳng hơn bao 
giờ hết, rất có nguy cơ xảy ra xung đột quân sự, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình 
hình an ninh trên Biển Đông nói riêng và an ninh thế giới nói chung. 
Xuất phát từ những luận điểm trên cho thấy việc nghiên cứu những 
tranh chấp trên Biển Đông là việc làm hết sức cần thiết, nhằm giải mã những toan 
tính chiến lược của các quốc gia tại vùng biển này, từ đó đưa ra những quan điểm 
sách lược cho Việt Nam trong bức tranh địa chính trị hết sức phức tạp hiện 
nay tại Biển Đông. Từ tất cả những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài “Việt 
Nam và tranh chấp trên Biển Đông” làm bài tiểu luận của mình. 
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 
Nghiên cứu Biển Đông không phải là một đề tài mới. Nó đã được rất nhiều 
học giả trong và ngoài nước nghiên cứu, hơn nữa, xung đột Biển Đông là một hiện 
tượng đang diễn ra nên càng nhận được sự quan tâm của không chỉ các học giả mà 
còn của các nhà lãnh đạo, giới hoạch định chính sách của nhiều quốc gia. Cho đến     
nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Biển Đông trên nhiều lĩnh vực quan 
hệ quốc tế, luật pháp, quốc phòng,… với nhiều góc độ như: chính trị, kinh tế, an 
ninh, quân sự, luật pháp, lịch sử. 
Ở Việt nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu với bộ sưu tập khổng lồ các 
bản đồ và thư tịch cổ về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; Tiến sĩ sử 
học Nguyễn Nhã với tác phẩm : “Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại 
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” (Luận án tiến sĩ, bảo vệ tại hội đồng bảo vệ 
luận án tiến sĩ Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành Phố Hồ Chí 
Minh, năm 2003, Đặng Đình Quý (chủ biên), “Tranh chấp Biển Đông: Luật pháp, 
Địa chính trị và Hợp tác quốc tế”, 2012. Đặc biệt phải kể đến cuốn sách “Xung 
đột trên Biển Đông không còn là nguy cơ tiềm ẩn” của tác giả Lê Hồng Thọ, do 
Nhà xuất bản Tri thức ấn hành năm 2012, đã phân tích khá sâu sắc quan điểm của 
các bên liên quan tại Biển Đông, đặc biệt là lợi ích của các nước lớn tại khu vực 
này, từ đó đưa ra các nhận xét, bình luận một cách khách quan cho trạng thái xung  đột tại Biển Đông. 
Đối với các học giả nước ngoài, nghiên cứu về Biển Đông cũng rất sôi động. 
Có thể điểm qua một số công trình tiêu biểu như, bài viết của Robert D. Kaplan 
(2011), “The South China Sea is the Future of Conflict”, trên tạp chí Foreign 
Policy. Dưới nhãn quan của một nhà chủ nghĩa hiện thực mới, Robert D. Kaplan 
đã mô tả Biển Đông như một đấu trường của sức mạnh giữa các nước lớn, đặc 
biệt là Mỹ và Trung Quốc. Kaplan đã dự báo rằng “Chiến trường của thế kỷ 
21 sẽ là trên mặt nước” và “Biển Nam Trung Hoa (tức Biển Đông) là xung đột  trong tương lai”. 
Những tài liệu vừa kể trên là nguồn tài liệu tham khảo quý giá khi em thực 
hiện bài tiểu luận của mình. Bài tiểu luận của em dựa trên sự kế thừa các quan 
điểm của các học giả đi trước, qua đó vận dụng sáng tạo vào việc nghiên cứu vấn 
đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông để có cái nhìn khách quan và khoa học  về sự tranh chấp này.     
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
3.1. Mục đích nghiên cứu 
Khái quát được tình hình mâu thuẫn và tranh chấp trên Biển Đông, đi sâu 
phân tích vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, qua đó giải mã cơ bản những hành 
động và chiến lược của các quốc gia có liên quan. Đồng thời trên cơ sở những 
phân tích đó, sẽ bước đầu đưa ra các hệ hình chuyển động của địa chính trị trên 
Biển Đông trong tương lai và kiến nghị các giải pháp về vấn đề Biển Đông cho 
Việt Nam, góp phần vào công cuộc đấu tranh giữ vững chủ quyền biển đảo của  Tổ quốc Việt Nam 
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 
 Hệ thống hóa các ý kiến có liên quan đến tranh chấp trên Biển Đông. Phân 
tích lợi ích cũng như chiến lược của các quốc gia có liên quan trong tranh chấp 
Biển Đông dưới góc nhìn chính trị. Làm rõ quan điểm và sách lược của Việt Nam 
trước tình hình tranh chấp Biển Đông hiện nay. 
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
4.1. Đối tượng nghiên cứu 
 Các mâu thuẫn và tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, cùng với lợi ích chính 
trị chiến lược của các quốc gia và các chủ thể có liên quan tại vùng biển này. Từ 
đó thấy được nguyên nhân tranh chấp chồng chéo trên Biển Đông. 
 4.2. Phạm vi nghiên cứu 
Thời gian: Giai đoạn trước năm 1974 đến nay 
Không gian: Bao gồm toàn bộ Biển Đông và các nước có liên quan 
(Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, …). 
5. Phương pháp nghiên cứu 
Để đạt được mục đích nghiên cứu, ngoài các phương pháp chung thuộc cấp 
phương pháp luận khoa học chung như các phương pháp phân tích, phương 
pháp tổng hợp, em còn sử dụng các phương pháp đặc thù chủ yếu sau đây:     
Phương pháp hệ thống: được dùng để hệ thống hoá và phân loại các ý kiến 
về tranh chấp trên biển nói chung và Biển Đông nói riêng. 
 Phương pháp so sánh: Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu, thu thập các thông 
tin có liên quan đến vấn đề Biển Đông, tôi đã đi sâu phân tích và tiến hành so sánh, 
để từ đó đưa ra các nhận xét về vấn đề. 
Phương pháp suy luận logic: Từ các dữ liệu đã có, tôi sẽ tổng hợp và liên kết 
chúng lại, sử dụng phương pháp suy luận logic để đưa ra những nhận xét về bản 
chất của vấn đề và dự báo vấn đề. 
Tất cả các phương pháp trên đều được sử dụng dưới góc độ của phương pháp 
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. 
6. Ý nghĩa nghiên cứu 
Bài tiểu luận đóng góp và khẳng định chủ quyền quốc gia Việt Nam trên hai 
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nói riêng và Biển Đông nói chung. Ngoài ra, 
Luận văn có thể làm nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên các ngành chính trị 
học, quan hệ quốc tế, địa lý - nhân văn. 
7. Kết cấu của đề tài 
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính 
của bài tiểu luận gồm 3 chương: 
Chương 1: Khái quát chung về Biển Đông 
Chương 2: Diễn biến và các vấn đề của Luật Quốc tế trong tranh chấp chủ 
quyền trên Biển Đông  
Chương 3: Thực trạng và quan điểm chính sách của Việt Nam về tranh 
chấp Biển Đông hiện nay  NỘI DUNG 
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIỂN ĐÔNG 
1.1. Vị trí địa lý 
Biển Đông là một vùng biển nằm ở rìa Tây Thái Bình Dương còn gọi là biển 
Nam Trung Hoa (tên tiếng Anh: The South China Sea và tiếng Pháp: Mer de Chine     
Méridionale). Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu km2, 
trải rộng từ vĩ độ 30 lên đến 260 Bắc và từ kinh độ 1000 đến 1210 
Đông1. Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao bọc bởi tám nước khác là Trung 
Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan và 
Campuchia. Biển Đông không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các 
nước trong khu vực mà còn cả của châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ.     
1. Bản đồ Biển Đông 
1.2. Tài nguyên thiên nhiên 
Biển Đông là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng, 
đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật, khoáng sản, phốt phát. Trong khu vực, có 
các nước đánh bắt và nuôi trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, 
Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Philippines, trong đó Trung Quốc là nước đánh 
bắt cá lớn nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm), Thái Lan đứng thứ 10 thế giới 
(với khoảng 1,5 - 2 triệu tấn/năm), cả khu vực đánh bắt khoảng 7 - 8% tổng sản 
lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới2. 
Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế 
giới. Các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Brunei   
1 Vị trí, tầm quan trọng của Biển Đông đối các nước trong khu vực, địa chỉ truy cập: 
https://www.camau.gov.vn/wps/portal/?1dmy&page=trangchitiet&urile=wcm%3Apath%3A/camaulibrary/ 
camauofsite/gioithieu/chuyende/biendaoquehuong/tulieuvanban/dfhfgjfjk36, truy cập ngày 28/12/2023. 
2 Trần Bông, Biển Đông: Địa chiến lược và tiềm năng kinh tế , địa chỉ truy cập: 
http://nghiencuubiendong.vn/tong-quan-ve-bien-dong/504-bien-ong-ia-chien-lc-va-tiem-nng, truy cập ngày  28/12/2023. 3 Như trên.     
- Saba, Sarawak, Nam Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng. Tại vùng biển và thềm lục 
địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó các 
bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn 
nhất, điều kiện khai thác tương đối thuận lợi. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng 
Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỷ thùng với khả 
năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. 
Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 
tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. 
Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy 
trì được trong vòng 15 - 20 năm tới3. Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại 
chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền 
Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Trữ lượng và sản lượng dầu khí của Việt 
Nam đứng vào hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái Lan và Malaysia. 
Bên cạnh đó, trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn có một lượng 
phốt phát từ phân chim rất lớn. Phốt phát trên hai quần đảo này, được hình thành 
do phân chim tác dụng với cacbonat canxi san hô. Người ta gọi đó là phốt phát 
dưới dạng guano. Tầng phốt phát ở trên các đảo được tích tụ qua nhiều năm, khá 
dày, có chất lượng tốt, hàm lượng từ 23 đến 25%, thậm chí 42%3. Tháng 8/1973 
một số kỹ sư hóa học hầm mỏ Việt Nam và Nhật Bản đã tổ chức một đợt điều tra 
trữ lượng phốt phát tại Hoàng Sa, chỉ tính riêng các đảo trong nhóm phía Tây Nam, 
trong đó có đảo Hoàng Sa, trữ lượng phốt phát có thể lên tới 780.000 tấn4.   
3 Monique Chemillier – Gendreau (1998), "Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", Nxb. Chính 
trị Quốc gia, Hà Nội, tr.23. 
4 Văn Trọng (1979), Hoàng Sa quần đảo Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 116. 6 Vị trí, điều 
kiện tự nhiên và vai trò của biển Đông với thế giới và Việt Nam, địa chỉ truy cập: 
https://thanhuy.bacninh.gov.vn/vi-tri-dieu-kien-tu-nhien-va-vai-tro-cua-bien-dong-voi-the-gioi-va-viet-nam- 
a21i1802.html#:~:text=Bi%E1%BB%83n%20%C4%90%C3%B4ng%20%C4%91%C3%B3ng%20vai%20tr 
%C3%B2,tr%E1%BB%8Dng%20%C4%91%E1%BB%91i%20v%E1%BB%9Bi%20Vi%E1%BB%87t 
%20Nam, truy cập ngày 28/12/2023.     
1.3. Vai trò của Biển Đông 
1.3.1. Đối với việt nam 
Xét về an ninh, quốc phòng, Biển Đông đóng vai trò quan trọng là tuyến 
phòng thủ hướng đông của đất nước. Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong sự 
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai6. Không 
chỉ cung cấp nguồn thức ăn cho cư dân ven bờ từ hàng nghìn năm nay. Biển Đông 
còn tạo điều kiện để phát triển các ngành kinh tế và là cửa ngõ để Việt Nam có 
quan hệ trực tiếp với các vùng miền của đất nước, là nơi trao đổi và hội nhập của  nhiều nền văn hoá. 
Về kinh tế, Biển Đông tạo điều kiện để Việt Nam phát triển những ngành kinh 
tế mũi nhọn như thủy sản, dầu khí, giao thông hàng hải, đóng tàu, du lịch. Ngoài 
ra, ven biển Việt Nam còn chứa đựng tiềm năng to lớn về quặng sa khoáng như 
than, zircon, thiếc, vàng, đất hiếm... Trong đó cát nặng, cát đen là nguồn tài nguyên 
quý giá của đất nước. 
1.3.2. Đối với thế giới 
Biển Đông là Con đường huyết mạch của hàng hải thương mại quốc tế, nguồn 
vận chuyển dầu lửa cung cấp cho nền kinh tế hàng đầu thế giới. Biển Đông có vai 
trò quan trọng trong cuộc tranh chấp cân bằng quyền lực giữa một nước Mỹ đang 
mất dần vai trò siêu cường duy nhất và một nước Trung Hoa đang trỗi dậy ngày  một lớn mạnh. 
Biển Đông, tuyến đường ngắn nhất nối Ấn Độ Dương với Thái Bình 
Dương, cửa ngõ giao thương quốc tế. Tuyến đường vận tải quốc tế qua Biển Đông 
được coi là nhộn nhịp thứ 2 trên thế giới, chiếm hơn một nửa trọng tải vận chuyển 
thương mại hàng hải toàn cầu. Biển Đông còn được coi là một trong năm bồn trũng 
chứa dầu khí lớn nhất thế giới. 
1.4. Tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông 
Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái 
Bình Dương - Ấn Độ Dương, châu Âu - châu Á, Trung Đông - châu Á. Năm trong     
số mười tuyến đường biển thông thương lớn nhất trên thế giới liên quan đến Biển 
Đông gồm: Tuyến Tây Âu, Bắc Mỹ qua Địa Trung Hải, kênh đào Xuyê, Trung 
Đông đến Ấn Độ, Đông Á, Australia, Niu Di Lân; tuyến Đông Á đi qua kênh đào 
Panama đến bờ Đông Bắc Mỹ và Caribe; tuyến Đông Á đi Australia và Niu 
Di Lân, Nam Thái Bình Dương; tuyến Tây Bắc Mỹ đến Đông Á và Đông Nam Á. 
Đây được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. “Mỗi 
ngày có khoảng từ 150 - 200 tàu các loại qua lại Biển Đông, trong đó có 
khoảng 50% là tàu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 
30.000 tấn trở lên”5. 
Trong khu vực Đông Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng 
vào loại lớn và hiện đại nhất thế giới là cảng Singapore và Hồng Kông “Dọc bờ 
Biển Đông là một số cảng container lớn nhất và nhộn nhịp nhất thế giới như cảng 
Singapore, Hồng Kông và Cao Hùng”6. Hiện nay, hơn 90% lượng vận tải thương 
mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải đi qua vùng 
Biển Đông. Lượng dầu lửa và khí hoá lỏng được vận chuyển qua vùng biển này 
lớn gấp 15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama. Khu vực Biển Đông có 
những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, với 4 trong 16 con đường chiến 
lược của thế giới nằm trong khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt eo biển Malacca là 
eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới. 
Các đảo và quần đảo trong Biển Đông có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan 
trọng đối với nhiều nước. Nằm ở trung tâm Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và 
Trường Sa là một trong những khu vực có nhiều tuyến đường biển nhất trên thế 
giới. Trên các tuyến đường biển đóng vai trò chiến lược của Châu Á có hai điểm  trọng yếu:   
5 Trần Bông (gt), Biển Đông: Địa chiến lược và tiềm năng kinh tế , địa chỉ truy cập: 
http://nghiencuubiendong.vn/tong-quan-ve-bien-dong/504-bien-ong-ia-chien-lc-va-tiem-nng, truy cập ngày  28/12/2023. 
6 Đặng Đình Quý chủ biên (2010),“Biển Đông hợp tác vì an ninh phát triển trong khu vực”, Nxb. Thế giới, Hà  Nội, tr.94.     
Thứ nhất là eo biển Malacca, nằm giữa đảo Sumatra của Indonesia và 
Malaysia. Vị trí này vô cùng quan trọng vì tất cả hàng hoá của các nước Đông 
Nam Á và Bắc Á phải đi qua. Ba eo biển thuộc chủ quyền của Indonesia là Sunda, 
Blombok và Makascha đóng vai trò dự phòng trong tình huống eo biển Malacca 
ngừng hoạt động vì lý do gì đó. Tuy nhiên, nếu phải vận chuyển qua các eo biển 
này thì hàng hoá giữa Ấn Độ Dương sang ASEAN và Bắc Á sẽ chịu cước phí 
cao hơn vì quãng đường dài hơn. 
Vùng Biển Đông là nơi có nhiều tuyến đường hàng hải đi qua, đặc biệt là 
khu vực xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các tuyến đường biển 
chiến lược nói trên là yết hầu cho giao lưu hàng hoá của nhiều nước châu Á. Xuất 
khẩu hàng hoá của Nhật Bản phải đi qua khu vực này chiếm 42%, các nước Đông 
Nam Á 55%, các nước công nghiệp mới 26%, Australia 40% và Trung Quốc 22%7. 
Nếu khủng hoảng nổ ra ở vùng biển này, các loại tàu biển phải chạy theo đường 
mới hoặc vòng qua Nam Australia thì cước phí vận tải thậm chí sẽ tăng gấp năm 
lần và không còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. 
Ngoài ra, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược, có thể 
dùng để kiểm soát các tuyến hàng hải qua lại Biển Đông và dùng cho mục đích 
quân sự như đặt trạm ra đa, các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và 
tiếp nhiên liệu cho tàu bè. Các nhà chiến lược phương Tây cho rằng quốc gia nào 
kiểm soát được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được cả Biển Đông. 
CHƯƠNG 2: DIỄN BIẾN VÀ CÁC VẤN ĐỀ CỦA LUẬT QUỐC TẾ 
TRONG CUỘC TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG 
2.1. Các giai đoạn diễn ra cuộc tranh chấp chủ quyền trên biển Đông 
2.1.1. Giai đoạn thứ nhất trước năm 1974 
Giai đoạn trước năm 1974 thì cũng có những tranh chấp, nhưng biển Đông 
tương đối ổn định, không có những xung đột lớn trên biển.   
7 Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (2005) Báo cáo Chiến lược phát triển kinh tế biển và vùng ven biển Việt Nam đến năm  2020, Hà Nội     
Trong giai đoạn này, Trung Quốc đã tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với 
Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XX (năm 1909), mở đầu là sự kiện Đô đốc Lý Chuẩn 
chỉ huy 3 pháo thuyền ra khu vực quần đảo Hoàng Sa, đổ bộ chớp nhoáng lên đảo 
Phú Lâm, sau đó phải rút lui vì sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp với tư 
cách là lực lượng được Chính quyền Pháp, đại diện cho nhà nước Việt Nam, giao 
nhiệm vụ bảo vệ, quản lý quần đảo này. 
Đối với quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc đã tranh chấp chủ quyền lãnh thổ 
với Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ XX. Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân đội 
Nhật Bản thua trận, chính quyền Trung Hoa Dân quốc đưa lực lượng ra chiếm 
đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Khi Trung Hoa Dân quốc bị đuổi khỏi 
Hoa lục, họ phải rút luôn số quân đang chiếm đóng ở quần đảo Hoàng Sa. Năm 
1946, quân đội Trung Quốc (bấy giờ đang ở Hoa lục) xâm chiếm đảo Ba Bình. 
Năm 1956, quân đội Trung quốc tại Đài Loan bắt đầu tái chiếm đảo Ba Bình. 
 Mọi hành động xâm lược bằng vũ lực nói trên của Cộng hoà Nhân dân 
Trung Hoa đều gặp phải sự chống trả quyết liệt của quân đội Việt Nam Cộng Hòa 
và đều bị Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, với tư cách là chủ thể trong quan hệ 
quốc tế, đại diện cho Nhà nước Việt Nam quản lý phần lãnh thổ miền Nam Việt 
Nam theo quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, lên tiếng phản đối mạnh 
mẽ trên mặt trận đấu tranh ngoại giao và dư luận. Trung Quốc đã tranh chấp chủ 
quyền đối với quần đảo Trường Sa từ những năm 30 của thế kỷ trước, mở đầu 
bằng một công hàm của Công sứ Trung Quốc ở Paris gửi cho Bộ Ngoại giao Pháp 
khẳng định “các đảo Nam Sa là bộ phận lãnh thổ Trung Quốc”. 
Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương theo 
quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ và trong khi chính quyền Nam Việt Nam chưa 
kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc đã đưa quân ra chiếm đóng nhóm 
phía Đông quần đảo Hoàng Sa. 
Bên cạnh đó, trong giai đoạn này, Philippines bắt đầu tranh chấp chủ quyền 
đối với quần đảo Trường Sa bằng sự kiện ngày 17 tháng 5 năm 1951, Tổng thống     
Philippines tuyên bố các đảo của quần đảo Trường Sa phải thuộc về lãnh thổ gần  nhất là Philippines. 
2.1.2. Giai đoạn thứ hai từ năm 1974 đến năm 1999 
Tháng 01 năm 1974, lợi dụng quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang trên đà sụp 
đổ, quân đội viễn chinh Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, nhân cơ hội 
đó Trung Quốc lại huy động lực lượng quân đội ra xâm chiếm nhóm phía Tây 
Hoàng Sa đang do quân đội Việt Nam Cộng Hòa đóng giữ. Năm 1988, Trung Quốc 
huy động lực lượng đánh chiếm 6 vị trí, là những bãi cạn nằm về phía tây bắc 
Trường Sa ra sức xây dựng, nâng cấp, biến các bãi cạn này thành các điểm đóng 
quân kiên cố, như những pháo đài trên biển. 
Từ năm 1971 đến năm 1973, Philippines đưa quân chiếm đóng 5 đảo Trường 
Sa. Năm 1977 đến năm 1978, chiếm thêm 2 đảo, năm 1980, Philippines chiếm 
đóng thêm 1 đảo nữa nằm về phía Nam Trường Sa. Đến nay, Philippines chiếm 
đóng 10 vị trí trong quần đảo này, gồm 7 đảo, đá san hô và 3 bãi cạn, rạn san hô. 
Malaysia cũng mở đầu bằng sự việc Sứ quán Mailaysia ở Sài Gòn ngày 03 
tháng 02 năm 1971. Ngày 20 tháng 4 năm 1971, Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa 
trả lời rằng quần đảo Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, mọi xâm phạm chủ 
quyền Việt Nam ở quần đảo này đều bị coi là vi phạm pháp luật quốc tế. 
Tháng 12 năm 1979, Chính phủ Malaysia xuất bản bản đồ gộp vào lãnh thổ 
Malaysia khu vực phía Nam Trường Sa. Năm 1983 đến năm 1984, Malaysia cho 
quân chiếm đóng 3 bãi ngầm ở phía Nam Trường Sa là Hoa Lau, Kiệu Ngựa, Kỳ 
Vân. Năm 1988, họ đóng thêm 2 bãi ngầm nữa là Én Đất và Thám Hiểm. Đến nay, 
số điểm đóng quân của Malaysia lên đến 7 điểm nằm ở phía Nam quần đảo 
Trường Sa, tất cả đều là các rạn san hô. Brunei tuy được coi là một bên tranh chấp 
liên quan đến khu vực quần đảo Trường Sa, nhưng trong thực tế Brunei chưa chiếm 
đóng một vị trí cụ thể nào. Yêu sách của họ là ranh giới vùng biển và thềm lục địa 
được thể hiện trên bản đồ có phần chồng lấn lên khu vực phía Nam Quần đảo  Trường Sa.     
Năm 1995, Trung Quốc lại huy động quân đội đánh chiếm đá Vành Khăn, 
nằm về phía Đông Nam quần đảo Trường Sa. Hiện nay họ đang sử dụng sức mạnh 
để bao vây, chiếm đóng bãi cạn Cỏ Mây, nằm về phía Đông, gần với đá Vành 
Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Như vậy, tổng số đá, bãi cạn mà 
phía Trung Quốc đã dùng sức mạnh để đánh chiếm ở quần đảo Trường Sa cho đến 
nay là 7 vị trí. Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình là đảo lớn nhất của quần đảo 
Trường Sa và mở rộng thêm 1 bãi cạn rạn san hô là bãi Bàn Than. 
2.1.3. Giai đoạn thứ ba từ năm 1999 tới nay 
Trong những năm gần đây, tình hình Biển Đông ngày càng gia tăng căng 
thẳng do Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động san lấp, cải tạo các đảo và bãi đá 
ngầm trong vùng biển của Việt Nam, nhằm hiện thực hoá yêu sách “đường lưỡi  bò”. 
Từ tháng 3/2014, Trung Quốc đã tiến hành cải tạo ở 7 địa điểm thuộc Trường 
Sa và có thể đang xây dựng sân bay quân sự trên 1 đảo nhân tạo. Việt Nam đã 
nhiều lần yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động xâm phạm nghiêm 
trọng chủ quyền của Việt Nam, thực hiện những thỏa thuận mà lãnh đạo cấp cao 
hai nước đã đạt được trong quan hệ hai nước. Ông Lê Hải Bình nhấn mạnh: “Việt 
Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền, 
quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình ở biển Đông, phù hợp với luật pháp 
quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS)”. 
Một lần nữa Việt Nam yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động này, 
nghiêm túc tuân thủ và thực thi luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS cũng như 
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), không có thêm các hành 
động gây phức tạp và mở rộng tranh chấp trên biển Đông. 
Cũng trong năm 2014, việc Trung Quốc triển khai một dàn khoan thăm dò 
dầu khí ngay trong vùng biển mà Hà Nội khẳng định thuộc chủ quyền của mình, 
đã làm dấy lên nhiều vụ bạo động chống Trung Quốc tại Việt Nam.       
2. Hình ảnh Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan HD– 981 
Trong năm 2023 trở lại đây, Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động đe dọa trên 
Biển Đông, không chỉ với Philippines, mà còn với cả Malaysia, Indonesia và Việt 
Nam. Chỉ trong tháng 5, phía Việt Nam mới chính thức lên tiếng sau khi tàu Hướng 
Dương Hồng 10 của Trung Quốc cùng các tàu hộ tống đã hoành hành trong EEZ 
của nước này 28 ngày liên tiếp. 
2.2. Thực trạng các yêu sách tại biển Đông trong diễn biến tranh chấp 
Các yêu sách của các quốc gia liên quan trong cuộc tranh chấp Biển Đông có 
thể được chia thành hai loại: 
Loại thứ nhất, là các yêu sách về chủ quyền các đảo trên biển Đông, đặc 
biệt là chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 
Loại thứ hai, là sự kéo dài của các quyền của các quốc gia ven biển được 
diễn giải dưới các quy định của Công ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982. 
Hiện nay, tám quốc gia và vùng lãnh thổ cùng yêu sách danh nghĩa (tuyên bố 
chủ quyền) đối với các quần đảo của biển Đông: Singapore và Malaysia tranh chấp 
chủ quyền đối với đảo Pulau Batu Puteh, vốn có một trí chiến lược trong vùng biển 
Malacca và eo biển Singapore. Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam cùng tranh 
chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Đài Loan và Trung Quốc cũng tranh     
chấp về chủ quyền đối với đảo Pratas và bãi Macclesfield. Đối với quần đảo 
Trường Sa, sáu quốc gia và vùng lãnh thổ đều nhận mình có chủ quyền, bao gồm: 
Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam tuyên bố chủ quyền với toàn bộ quần đảo, 
Philippines, Malaysia và Brunei tuyên bố có chủ quyền đối với từng phần của quần 
đảo, trừ Brunei, các quốc gia và vùng lãnh thổ đều có sự hiện diện về mặt quân sự 
trên quần đảo Trường Sa. 
 Ngoài ra, còn phải kể đến những tranh chấp giữa Trung Quốc với Việt Nam 
về đường biên giới trên biển trong vịnh Bắc Bộ, giữa Việt Nam và Thái Lan trong 
việc xác định đường biên giới trong vịnh Thái Lan. Trong đó yêu sách cụ thể của  các bên như sau: 
Brunei yêu sách về chủ quyền đối với một cấu trúc trong quần đảo Trường 
Sa, đó là cấu trúc tự nhiên chìm dưới mặt nước có tên gọi là bãi ngầm Louisa. 
Malaysia cũng yêu sách về chủ quyền đối với bãi ngầm này và trong thực tế 
Malaysia đã chiếm bãi ngầm này năm 19848. 
Campuchia yêu sách về một phần vịnh Thái Lan, phần này chủ yếu nằm trong 
vùng đặc quyền kinh tế theo nguyên tắc thềm lục địa kéo dài, được Campuchia coi 
là một vịnh lịch sử của họ9. 
Đài Loan yêu sách gần như toàn bộ biển Đông, yêu sách về chủ quyền của 
Đài Loan đối với các khu vực trên biển Đông tương tự như yêu sách của Trung 
Quốc về chủ quyền của họ đối với các khu vực trên biển Đông10. Hiện nay, Đài 
Loan đang chiếm giữ đảo Ba Bình (Itu Aba), đây đảo lớn nhất trong quần đảo 
Trường Sa. Giống như Trung Quốc, yêu sách của Đài Loan không có chứng cứ  pháp lý rõ ràng. 
Indonesia yêu sách khu vực biển Đông bị giới hạn bởi vùng đặc quyền kinh 
tế và thềm lục địa của họ. Indonesia không yêu sách về chủ quyền đối với hai quần   
8 Christopher C. Joyner, The Spratly Islands Dispute in the South China Sea: Problem, Policies and Prospects for 
Diplomatic Accommodation, p 71, 
9 Lê Thuý Hiền (2021), “Tranh chấp biên giới, lãnh thổ giữa các nước Asean và một số khuyến nghị đối với Việt  Nam, địa chỉ truy cập: 
https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/314677/CVv361S22021026.pdf, truy cập ngày  29/12/2023. 
10 Yêu sách của Đài Loan trong tranh chấp Biển Đông, địa chỉ truy cập: https://iuscogens-
vie.org/2020/05/17/yeu-sach-cua-dai-loan-tre-bien-dongtren/, truy cập ngày 29/12/2023.     
đảo Hoàng Sa và Trường Sa11. Indonesia chiếm hữu vùng biển rất giàu tài nguyên 
dầu mỏ và khí đốt từ lâu, không có sự tranh chấp nào, tuy nhiên từ khi Trung Quốc 
công bố bản đồ với đường đứt đoạn 9 khúc, yêu sách tất cả các đảo nằm trong 
đường đó là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, như vậy, vùng biển Natuna của 
Indonesia cũng bị Trung Quốc yêu sách là thuộc vùng biển của mình. Năm 1996, 
Indonesia đã tập trung lực lượng quân đội lớn tại vùng này, và kể từ đó, Indonesia 
đã khai thác các mỏ khí đốt tự nhiên tại vùng biển này mà không thấy sự phản đối  gì của Trung Quốc. 
Malaysia yêu sách biển Đông bị giới hạn bởi vùng đặc quyền kinh tế và thềm 
lục địa của họ. Malaysia yêu sách về chủ quyền đối với 12 đảo và vị trí trong biển 
Đông12. Malaysia cũng yêu sách về quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với 
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ đối với phần giáp Malaysia của 
vịnh Thái Lan. Hiện tại, Malaysia đang chiếm giữ ba đảo trong quần đảo Trường 
Sa, Malaysia cũng yêu sách về chủ quyền của họ đối với bãi ngầm Louisa, được 
coi là phần kéo dài ở thềm lục địa của họ, và họ đang chiếm giữ bãi ngầm này. 
Philippines yêu sách hầu hết quần đảo Trường Sa, nhưng không yêu sách 
chính đảo Trường Sa. Yêu sách của Philippines dựa trên việc khám phá và phát 
hiện các đảo vô chủ của một doanh nhân Philippines tên là Thomas Cloma năm 
1956. Philippines cũng yêu sách về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ 
trên khu vực biển Đông13. Philippines hiện cũng đang tranh chấp với Trung Quốc 
về các mỏ khí đốt Malampaya và Camago nằm trên bãi Scarborough Shoal.   
11 Indonesia kiên quyết bác bỏ yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông, địa chỉ truy cập: 
https://hoabinhtv.vn/tin-quoc-te/indonesia-kien-quyet-bac-bo-yeu-sach-cua-trung-quoc-tren-bien-dong, truy cập  ngày 29/12/2023. 
12 Những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam và các nước láng giềng (tiếp theo), địa chỉ truy cập: 
https://tuoitre.vn/nhung-van-de-ve-chu-quyen-lanh-tho-giua-viet-nam-va-cac-nuoc-lang-gieng-tiep-
theo311543.htm, truy cập ngày 29/12/2023. 
13 Quá trình Philippines tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, địa chỉ truy cập: 
https://lienhieptchn.yenbai.gov.vn/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet-tin-tuc.aspx?ItemID=204&l=Tinhoatdong, truy  cập ngày 29/9/2023.     
Thái Lan yêu sách về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ trên vịnh 
Thái Lan. Bên cạnh đó, người hàng xóm Trung Quốc yêu sách chủ quyền của họ 
gần như đối với toàn bộ biển Đông. Trung Quốc yêu sách về chủ quyền đối với 
toàn bộ quần đảo Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Nam Sa) và đã có sự hiện diện 
về lực lượng quân sự trên nhiều đảo thuộc quần đảo này. Năm 1974, Trung Quốc 
lợi dụng tình trạng chiến tranh ở Việt Nam, đã phối hợp các lực lượng hải quân và 
không quân chiếm đoạt toàn bộ quần đảo Hoàng Sa từ quân đội Việt Nam Cộng 
Hòa (Nam Việt Nam) và đặt sự hiện diện về quân sự của họ tại đây. Thêm vào đó 
Trung Quốc còn tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn Pratas14. 
Việt Nam yêu sách về chủ quyền trên toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa và 
Trường Sa, và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế cũng như quyền chủ 
quyền đối với thềm lục địa của Việt Nam trên biển Đông. Lập luận của Việt Nam 
dựa trên sự chiếm hữu thực sự một lãnh thổ vô chủ sớm nhất, bằng một phương 
pháp hòa bình và thực thi chủ quyền một thời gian liên tục15. 
Trong Luật biển Việt Nam đề cập đến chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa 
và Trường Sa, mặc dù Công ước không đề cập đến việc giải quyết các tranh chấp 
về chủ quyền lãnh thổ. Điều này có nghĩa là Việt Nam phản đối các quốc gia đưa 
ra các quy định trái với Công ước và đi ngược lại các quy tắc quốc tế chung để 
hợp pháp hóa các yêu sách ranh giới biển đầy tham vọng của họ ở Biển Đông. 
Nguyên tắc chiếm hữu thực sự là nguyên tắc cơ bản được áp dụng để giải quyết 
các xung đột về chủ quyền lãnh thổ. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong lịch sử 
sở hữu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi quần đảo này còn bị bỏ hoang. 
Các nhà nước Việt Nam trước đây đã nêu ra và bây giờ cũng sẵn sàng làm như 
vậy. Trên thực tế, Việt Nam đã thành công trong việc thực hiện thiện chí này, bởi   
14 Biển Đông: Phi lý yêu sách “Đường lưỡi bò”, địa chỉ truy cập: https://vovworld.vn/vi-VN/ho-so-bien-
dong/bien-dong-phi-ly-yeu-sach-duong-luoi-bo-164559.vov, truy cập ngày 29/12/2023. 
15 Ministry of Foreign Affairs, Socialist Republic of VietNam, The Hoang Sa and Truong Sa Archipelagoes and 
International law, Ha noi, 1988, p. 14     
các bên tôn trọng sự thật khách quan, Việt Nam luôn có thiện chí và cầu thị khi  tiến hành đàm phán. 
2.3. Các vấn đề của Luật Quốc tế trong tranh chấp Biển Đông 
Pháp Luật quốc tế đóng một vai trò quan trọng cho việc giải quyết các tranh 
chấp lãnh thổ tại biển Đông. Tuy vậy, đối với những quy định của luật quốc tế 
trong giải quyết tranh chấp lãnh thổ biển này, vẫn có những vướng mắc còn tồn 
tại. Các vướng mắc của luật pháp quốc tế trong tranh chấp biển Đông có thể chia 
thành 3 nhóm: thứ nhất là các vấn đề liên quan đến thụ đắc chủ quyền lãnh thổ, 
thứ hai là liên quan đến yêu sách ”đường lưỡi bò” của Trung Quốc trên biển Đông, 
và thứ ba là quy chế pháp lý đối với những cấu trúc địa chất thuộc Hoàng Sa,  Trường Sa. 
2.3.1. Những quy định của Luật Quốc tế về thụ đắc lãnh thổ 
Các nguyên tắc của luật quốc tế trong việc xác định chủ quyền lãnh thổ bởi 
một quốc gia đã là vấn đề được nhắc tới rất nhiều trong các phán quyết của ICJ 
cũng như các Tòa án khác. Theo đó, các phương thức để một quốc gia xác lập chủ 
quyền của mình trên một vùng lãnh thổ, quá trình đó được gọi là thụ đắc 
lãnh thổ, được xác định như sau16: 
Thứ nhất, chiếm hữu một lãnh thổ vô chủ (terra nullius), tức là quốc gia 
xác lập chủ quyền trên một lãnh thổ chưa có một quốc gia nào chiếm hữu nó trước  đó. 
Thứ hai, chiếm hữu theo thời hiệu, tức là việc chiếm hữu một lãnh thổ một 
cách hiệu quả, thực tế mặc dù một danh nghĩa về chủ quyền lãnh thổ đã được thiết 
lập bởi một quốc gia khác, những quốc gia đang chiếm hữu đã thực thi chủ quyền 
của mình một cách hiệu quả, liên tục trên vùng lãnh thổ đó. 
Thứ ba, chuyển nhượng lãnh thổ, việc này được thực hiện thông qua các 
hiệp ước về mua bán, sáp nhập, chuyển nhượng lãnh thổ. 
Thứ tư, thay đổi tự nhiên, ví dụ khi vùng đất của quốc gia đó thay đổi bởi   
16 I An Brownlie, Principles of Public international law, Clarendon Press. Oxford, 1998, p 129