Báo cáo: Phân tích quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam | Trường Đại học Đồng Tháp
Báo cáo: Phân tích quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam | Trường Đại học Đồng Tháp. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 25 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DỒNG THÁP b ¯ b BÀI THU HOẠCH NHÓM 4:
“ PHÂN TÍCH QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM. NÊU GIẢI PHÁP ĐỂ HỘI NHẬP KINH TẾ ĐẠT HIỆU QUẢ”
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: Lương Thanh Tân THÀNH VIÊN NHÓM: 1. Lê Trung Tín 0021412001
2. Lưu Võ Kiều Vy 0021411051
3. Nguyễn Trung Tính 0021413363
4. Đặng Hoàng Lam Trường 0020410926
5. Lê Thị Mỹ Tuyên 0021411003
6. Nguyễn Thanh Trúc 0021411888
7. Nguyễn Thanh Trang 0021411861
8. Đặng Thị Như Ý 0021411070
9. Võ Văn Ngọc Vàng 0021411933
10. Nguyễn Thanh Tú 0021410989
11. Đặng Thị Bích Tuyền 0021411008
12. Phạm Thị Ngọc Trào 0021413445
13. TrầnThị Ngọc Tuyền 0021411017
14. Lê Khánh Tuyên 0021411002
15. Lê Thị Thủy Tuyên 0021411005
Đồng Tháp, Tháng 3 Năm 2022 MỤC LỤC
I. QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM---------2
1. Khái niệm và nội dung hội nhập kinh tế quốc tế-----------------------------------2
2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến quá trình phát triển của Việt Nam 8
3. Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong sự phát triển
của Việt Nam-----------------------------------------------------------------------------11
1. Gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á--------------------------------------15
2. Tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực.---------------------------------16
II. GIẢI PHÁP ĐỂ HỘI NHẬP KINH TẾ ĐẠT HIỆU QUẢ.-----------------23
I. QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1. Khái niệm và nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
a) . Khái niệm và sự cần thiết khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện
gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích,
đồng thời tuaanthur các chuẩn mực quốc tế chung.
* Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.
Toàn cầu hóa là quá trình tạo ra liên kết và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng
tăng giữa các quốc gia trên quy mô toàn cầu.
Toàn cầu hóa diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
vv., trong đó, toàn cầu hóa kinh tế là xu thế nổi trội nhất, vừa là trung tâm vừa là
cơ sở và cũng là động lực thúc đẩy toàn cầu hóa các lĩnh vực khác. Toàn cầu hóa
kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới
quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự
vận động và phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất.
Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành tất yếu
khách quan vì: Toàn cầu hóa kinh tế đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống
phân công lao động quốc tế, các mối liên hệ quốc tế của sản xuất và trao đổi
ngày càng gia tăng, khiến cho nền kinh tế của các nước không thể tách rời của nền kinh tế toàn cầu.
Trong toàn cầu hóa kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi
toàn cầu. Do đó, nếu không hội nhập kinh tế quốc tế, các nước không thể tự đảm
bảo được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước.Khi đó tạo ra cơ hội để
các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày càng
nhiều, tận dụng được các thành tựu quốc gia, tận dụng được các thành tựu của
cách mạng công nghiệp, biến nó thành động lực cho sự phát triển
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của
các nước, nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém
phát triển có thể tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với
các nước tiên tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp mở cửa thị trường, thu hút vốn, thúc đẩy công
nghiệp hóa, tăng tích lũy; tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu
nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
Tuy nhiên, điều cần chú ý ở đây là chủ nghĩa tư bản hiện đại với ưu thế về
vốn và công nghệ đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình toàn cầu
hóa thành quá trình tự do hóa kinh tế và áp đặt chính trị theo quỹ đạo tự bản chủ
nghĩa. Điều này khiến cho các nước đang và kém phát triển phải đối mặt với
không ít rủi ro, thách thức. Bởi vậy, các nước đang và kém phát triển cần phảicó
chiến lược hợp lý, tìm kiếm các đối sách phù hợp để thích ứng với quá trình toàn
cầu hóa đa dạng nghịch diện và đầy nghịch lý.
b). Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để hội nhập hiệu quả, thành công.
- Hội nhập là tất yếu, tuy nhiên đối với Việt Nam, hội nhập không phải
bằng mọi giá. Quá trình hội nhập phải được cân nhắc với lộ trình và cách thức
tối ưu. Quá trình này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị các điều kiện trong nội bộ nền
kinh tế cũng như các mối quan hệ quốc tế thích hợp.
- Các điều kiện sẵn sàng về tư duy, sự tham gia của toàn xã hội, sự hoàn
thiện và hiệu lực của thể chế, nguồn nhân lực và sự am hiểu môi trường quốc tế:
nền kinh tế có năng lực sản xuất thực...là những điều kiện chủ yếu để hội nhập thành công. Thứ
hai, thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế.
* Hợp tác kinh tế song phương:
Loại hình đầu tiên cần nhắc tới khi nền kinh tế một quốc gia hội nhập
cùng các nền kinh tế quốc gia khác là hợp tác kinh tế song phương. Hợp tác kinh
tế song phương có thể tồn tại dưới dạng một thoả thuận, một hiệp định kinh tế,
thương mại, đầu tư hay hiệp định tránh đánh thuế hai lần, các thoả thuận thương
mại tự do (FTAs) song phương...
Loại hình hội nhập này thường hình thành rất sớm từ khi mỗi quốc gia có
chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế.
Tại Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) được coi là cột
mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Đại hội được ví là “Đại hội của sự đổi mới”. Đại hội nhấn mạnh đến việc mở
rộng giao lưu quốc tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển kinh tế
đất nước. Sau Đại hội, hàng chục hiệp định thương mại, đầu tư song phương đã
được kí kết giữa Việt Nam và các nước khác trên thế giới. Ví dụ: Hiệp định về
Thúc đẩy và bảo hộ đầu tư lẫn nhau giữa Việt Nam và Australia ngày 05/3/1991;
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ Vương quốc Thái Lan về Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư lẫn nhau ngày
30/10/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Liên bang Nga về Khuyến khích và bảo hộ
đầu tư ngày 16/6/1994; Hiệp định Thương mại giữa Chính phủ nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa
ngày 07/11/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa về Khuyến khích
và bảo hộ đầu tư ngày 02/12/1992.
Tính đến ngày 30/12/2018, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185
nước (so với 11 nước năm 1954); có 16 đối tác chiến lược, 14 đối tác toàn diện.
Việt Nam đã kí kết được trên 90 hiệp định thương mại song phương; gần 60 hiệp
định khuyến khích và bảo hộ đầu tư; 75 hiệp định tránh đánh thuế hai lần và
ngăn ngừa việc trốn lậu thuế thu nhập với các nước/vùng lãnh thổ trên thế giới.
Có thể kể đến một số hiệp định kinh tế song phương của Việt Nam với các đối
tác quan trọng như: Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (2000), Hiệp
định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA - 2008) - Đây là FTA song
phương đầu tiên của Việt Nam (được kí kết ngày 25/12/2018, có hiệu lực ngày
01/10/2009), Hiệp định Thương mại tự do song phương Việt Nam - Hàn Quốc (2015)...
* Hội nhập kinh tế khu vực
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Theo đó, hội
nhập kinh tế quốc tế có thể được coi là nông, sâu tùy vào mức dộ tham gia của
một nước vào các quan hệ kinh tế đối ngoại, các tổ chức kinh tế quốc tế hoặc
khu vực. Theo đó, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được chia thành các mức
độ cơ bản thừ thấp đến cao là:
+ Thỏa thuận thương mại ưu đãi(PTA):
Ra đời từ rất sớm trước khi các quốc gia ASEAN kí kết hiệp định
CEPT( thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung) ,từ 1977 thỏa thuận Ưu đãi Thương
mại PTA được đưa vào thực hiện.
Đây là chương trình đầu tiên nhằm đẩy mạnh thương mại nội bộ ASEA.
Nội dung chương trình là việc kí kết của các thành viên về việc áp dụng mức
thuế quan ưu đãi trên cơ sở đàm phán đa phương hoặc song song, sau đó mức
cam kết đưa ra sẽ được áp dụng cho tất cả thành viên ASEAN theo nguyên tắc tối huệ quốc
Tuy là một bước tiến trong quan hệ thương mại giữa các nước ASEAN
vào thời điểm kí kết, nhưng nó vẫn còn hạn chế cơ bản là thuế quan chỉ được cắt
giảm ở một mức độ nhất định mà chưa thật sự xóa bỏ. Đồng thời, các hàng rào
phi thuế vẫn tồn tại, do đó gây nhiều trở ngại cho thương mại nội bộ phát triển.
+ Khu vực mậu dịch tự do(FTA):
Khu vực mậu dịch tự do là liên kết kinh tế giữa hai hoặc nhiều nước nhằm
mục đích tự do hóa buôn bán một số mặt hàng nào đó, từ đó thành lập thị trường
thống nhất giữa các nước, nhưng mỗi nước thành viên vẫn thi hành chính sách
thuế quan độc lập với các nước ngoài khu vực mậu dịch tự do.
Với cách hiểu trên, yếu tố tự do di chuyển trong các FTA theo quan niệm
truyền thống chỉ là hàng hóa, mỗi nước thành viên trong quan hệ đối ngoại với
các nước ngoài FTA vẫn thi hành chính sách thuế quan độc lập. Với lý do này,
các học giả cho rằng đây là cấp độ thấp nhất của hội nhập kinh tế khu vực.
Theo quan điểm của Walter Goode đưa ra trong Từ điển Chính sách
thương mại quốc tế thì FTA được hiểu là “Một nhóm gồm hai hay nhiều nước
cùng xóa bỏ thuế quan và tất cả hoặc phần lớn các biện pháp phi thuế quan ảnh
hưởng đến thương mại giữa các nước này. Các nước tham gia FTA có thể tiếp
tục áp dụng thuế quan của nước mình đối với hàng hóa bên ngoài, hoặc nhất trí
xây dựng một biểu thuế quan đối ngoại chung”. Khái niệm FTA này giống với
khái niệm Liên minh hải quan (CU) ở điểm cho phép thiết lập một biểu thuế quan đối ngoại chung.
+ Liên minh thuế quan(CU):
Liên minh hải quan là liên kết kinh tế trong đó các nước thành viên thỏa
thuận loại bỏ thuế quan trong quan hệ thương mại nội bộ, đồng thời thiết lập
một biểu thuế quan chung của các nước thành viên đối với phần còn lại của thế giới.
Theo Từ điển Chính sách thương mại quốc tế của Walter Goode: “Liên
minh hải quan là một khu vực gồm có hai hay nhiều nền kinh tế hoặc lãnh thổ
hải quan riêng biệt, có quy định loại bỏ mọi loại thuế và đôi khi cả những rào
càn đối với việc mở rộng thương mại giữa chúng. Các thành viên lập nên khu
vực sau đó sẽ áp dụng một loại thuế đối ngoại chung”.
Ví dụ: Liên minh hải quan Nam Phi (Southern African Customs Union -
SACU); Cộng đồng Kinh tế châu Âu (European Economic Community - EEC)
thành lập năm 1957 - Từ năm 1968 đến trước những năm 80 của thế kỉ XX,
EEC là một liên minh hải quan với chính sách thuế quan đối ngoại chung.
+ Thị trường chung( hay thị trường duy nhất):
Thị trường chung là liên kết kinh tế được đánh giá có mức độ hội nhập
cao hơn so với cu. Theo đó, ở mức độ liên kết này, các nước thành viên ngoài
việc cho phép tự do di chuyển hàng hóa, còn thoả thuận cho phép tự do di
chuyển tư bản và sức lao động giữa các nước thành viên với nhau.
Ví dụ: EU từ năm 1993, đã thiết lập Thị trường chung châu Âu (ECM);
Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR) được thành lập năm 1991 gồm:
Argentina, Brazil, Uruguay, Paraguay, Venezuela, Bolivia, Chile, Colombia,
Ecuador và Peru; Thị trường chung Caribe (CARICOM) được thành lập năm
1973 gồm 15 thành viên chính thức là các quốc gia có chủ quyền ở Caribe và các khu vực phụ thuộc
+ Liên minh kinh tế-tiền tệ:
Các quốc gia tham gia liên kết kinh tế khu vực, muốn đạt đến cấp độ liên
minh kinh tế và tiền tệ, cần có hai giai đoạn phát triển là Liên minh kinh tế
(Economic Union) và Liên minh tiền tệ (Monetary Union). Liên minh kinh tế
Liên minh kinh tế tiếp tục được đánh giá là cấp độ liên kết cao hơn thị
trường chung, thể hiện ở việc: Ngoài yếu tố tự do di chuyển là hàng hóa, tư bản,
sức lao động còn mở rộng thêm yếu tố tự do dịch chuyển cho dịch vụ giữa các
nước thành viên. Bên cạnh đó, các nước thành viên cùng nhau thiết lập một bộ
máy tổ chức điều hành sự phối hợp kinh tế giữa các nước (thay thế một phần
chức năng quản lý kinh tế của chính phủ từng nước) nhằm tạo ra một không gian
kinh tế thống nhất, cơ cấu kinh tế tối ưu, xóa bỏ dần sự chênh lệch về trình độ
phát triển kinh tế giữa các nước thành viên.
Ví dụ: Liên minh kinh tế Benelex giữa Bỉ - Hà Lan - Luxembourg được
thành lập năm 1944; Liên minh kinh tế Á - Âu(EAEU) chính thức hoạt động vào
năm 2015 giữa các nước Armenia, Belarus, Kazakhstan, Nga, và Kyrgyzstan. Liên minh tiền tệ
Liên minh tiền tệ là liên kết kinh tế trong đó các nước thành viên phải
phối hợp chính sách tiền tệ với nhau, cùng thực hiện một chính sách tiền tệ
thống nhất và cuối cùng là sử dụng chung một đồng tiền.
Liên minh tiền tệ là hình thức rất khó thực hiện trong các liên kết kinh tế,
nó có những đặc trưng riêng có sau: Hình thành đồng tiền chung thống nhất thay
thế cho các đồng tiền riêng của các nước thành viên; Thống nhất chính sách lưu
thông tiền tệ; xây dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân hàng Trung
ương của các nước thành viên; Xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng
chung đối với các nước đồng minh và các tổ chức tiền tệ quốc tế.
*Hội nhập kinh tế toàn cầu
Nếu như hợp tác kinh tế song phưong là sự hợp tác của nhóm gồm chỉ hai
nước với nhau, thông qua các hiệp định kinh tế song phương được thiết lập bởi
hai nước thì hội nhập kinh tế khu vực tiếp tục phát triển rộng hơn về phạm vi hội
nhập, đó là giữa một nhóm các nước trong cùng khu vực hoặc liên khu vực với
nhau, thông qua các hiệp định kinh tế đa phương được thiết lập bởi những tổ
chức kinh tế có tính khu vực; Đen hội nhập kinh tế toàn cầu phạm vi hội nhập
giữa các nước đã được mở rộng trên phạm vi toàn thế giới, thông qua các hiệp
định kinh tế đa phương hoặc đa biên được thiết lập bởi những tổ chức kinh tế có tính toàn cầu.
Các tổ chức kinh tế quốc tế có tầm ảnh hưởng, chi phối toàn cầu cần phải
nhắc tới như: WTO, IMF, WB hay các tổ chức kinh tế quốc tế thuộc hệ thong
UN như: ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), Hội
nghị Liên hợp quốc về Thương mại và phát triển (UNCTAD)...
Ví dụ: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO từ năm 1995, sau 12 năm đàm
phán, tới năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ
chức thương mại lớn nhất hành tinh này. Khi gia nhập WT0, Việt Nam được tiếp
cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế
nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ, không bị phân biệt đối xử;
Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch
định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một
trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của
đất nước, của doanh nghiệp.
→ Xét về hình thức, hội nhập kinh tế quốc tế là toàn bộ các hoạt động kinh tế
đối ngoại của một nước gồm nhiều hình thức đa dạng như: ngoại thương, đầu tư
quốc tế, hợp tác quốc tế, dịch vụ thu ngoại tệ...
2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến quá trình phát triển của Việt Nam
a) .Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế trong phát triển ở Việt Nam :
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi
ích to lớn trong phát triển của các nước, và những lợi ích kinh tế khác nhau cho
cả người sản xuất và người tiêu dùng. Cụ thể là:
* Tạo điều kiện mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học - công nghệ, vốn,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước
Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy
thương mại phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi
thế kinh tế của nước ta trong phân công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu
tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang
chiều sâu với hiệu quả cao.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực
kinh tế mũi nhọn để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế,
của các sản phẩm và doanh nghiệp trong nước; góp phần cải thiện môi trường
đầu tư kinh doanh, làm tăng khả năng thu hút khoa học - công nghệ hiện đại và
đầu tư bên ngoài vào nền kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong
nước tiếp cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay
đổi công nghệ sản xuất, tiếp cận với phương thức quản trị phát triển để nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước,
người dân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng
loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều
hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội tìm kiếm việc làm cả ở trong nước lẫn ngoài nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách
nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và
điều chỉnh chiến lược phát triển hợp lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước.
* Tạo cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và
tiềm lực khoa học - công nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào
tạo và nghiên cứu khoa học với các nước mà nâng cao khả năng hấp thu khoa
học - công nghệ hiện đại và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp
nước ngoài và chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nền kinh tế.
* Tạo điều kiện để thúc đẩy hội nhập của các lĩnh vực văn hóa, chính trị,
củng cố an ninh - quốc phòng
Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện
để tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ
của văn hóa, văn minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc cả thác đẩy tiến hộ xã hội.
Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh đến hội nhập chính trị, tạo
điều kiện cho cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội mở, dân chủ, văn minh.
Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp
trong trật tự quốc tế, nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của nước ta trong
các tổ chức chính trị, kinh tế toàn cầu.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình,
ổn định ở khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội; đồng
thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải
quyết những vấn đề quan tâm chung như: môi trường, biến đổi khí hậu, phòng,
chống tội phạm và buôn lậu quốc tế.
b).Tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế trong phát triển ở Việt Nam:
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích trái lại nó còn đặt ra
nhiều rủi ro,bất lực và thách thức đó là:
Tạo ra sức ép cạnh tranh giữa các thành viên khi tham gia hội nhập, khiến nhiều
doanh nghiệp, ngành nghề có thể lâm vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản.
- Làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường khu vực và
thế giới. Điều này khiến một quốc gia dễ bị sa lầy vào các cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu hay khu vực.
- Các nước đang và kém phát triển phải đối mặt với nguy cơ trở thành “bãi
rác” công nghiệp của các nước công nghiệp phát triển trên thế giới.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà
nước theo quan niệm truyền thống.
- Làm tăng nguy cơ bản sắc dân tộc, văn hóa truyền thống bị xói mòn, lấn át
bởi văn hóa nước ngoài.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng tình
trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, di dân, nhập cư bất hợp pháp.
- Hội nhập không phân phối công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và nhóm
nước khác nhau trong xã hội. Do đó, dễ làm tăng khoảng cách giàu nghèo, tụt
hậu giữa các quốc gia hay tầng lớp dân cư trong xã hội.
- Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh
nghiệp và ngành kinh tế của nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí phá
sản,gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế-xã hội.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc
gia vào thị trường bên ngoài, khiến nên kinh tế dễ bị tổn thương trước những
biến động khôn lường về chính trị,kinh tế và thị trường quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng về lợi ích
và rủi ro cho các nước, các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm
tăng khoảng cách giàu –nghèo và bất bình đẳng xã hội.
- Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,các nước đang phát triển như nước ta
phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi ,do thiên
hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên,nhiều sức lao động
,nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất lợi và thua thiệt trong chuỗi giá trị
toàn cầu .Do vậy,dễ trở thành bãi thải công nghiệp và công nghệ thấp,bị cạn kiệt
nguồn tài nguyên thiên nhiên và huỷ hoại môi trường ở mức độ cao.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực
nhà nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc
duy trì an ninh và ổn định trật tự,an toàn xã hội.
- Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hoá truyền
thống Việt Nam bị xói mòn trước sự ‘xâm lăng’của văn hoá nước ngoài.
- Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc
tế,buôn lậu,tội phạm xuyên quốc gia,dịch bệnh , nhập cư bất hợp pháp
Tóm lại,hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở Việt Nam vừa có khả năng tạo ra
những cơ hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế,vừa có thể dẫn đến những nguy
cơ to lớn mà hậu quả rất khó lường.Vì vậy,tranh thủ thời cơ,vượt qua thách thức
trong hội nhập kinh tế là vấn đề cần phải đặc biệt coi trọng.
3. Phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
trong sự phát triển của Việt Nam
a) Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại Thời cơ:
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một trong những động lực quan
trọng để phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia. Thúc
đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ được khối lượng lớn
vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý và các nguồn lực quan trọng khác.
Tạo thêm nhiều việc làm; nâng cao dân trí và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế từ Trung ương đến
địa phương được nâng lên một bước.
Tổ chức, bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước được củng cố và nâng cao
hiệu quả hoạt động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam có bước trưởng thành đáng kể.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và
đưa quan hệ của nước ta với các đối tác, song phương, đa phương đi vào chiều
sâu, tạo thế đan xen lợi ích, góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, nâng cao uy tín và
vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc, Việt Nam phát huy cơ hội, thuận
lợi, phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việc thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ
mới sẽ tạo ra cơ hội mở rộng, đa dạng hóa thị trường với mức ưu đãi cao, tham
gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng, mạng lưới sản xuất toàn cầu; góp phần tích cực
vào quá trình đổi mới đồng bộ và toàn diện.
Khơi dậy tiềm năng của đất nước và sức sáng tạo của các tầng lớp nhân
dân, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao trình độ phát triển, giảm dần tỉ trọng
gia công lắp ráp của nền kinh tế.
Nước ta cũng có cơ hội tham gia chủ động và sâu hơn vào quá trình định
hình và cải cách các định chế, cơ chế, cấu trúc khu vực và quốc tế có lợi cho ta.
Doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội để phát triển mạnh hơn, sáng tạo hơn
và có sức cạnh tranh hơn. Người tiêu dùng có thêm cơ hội lựa chọn hàng hóa,
dịch vụ chất lượng cao, giá cả cạnh tranh; bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường. Thách thức:
Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
hội nhập kinh tế quốc tế có một số nơi chưa được quán triệt kịp thời, đầy đủ và
thực hiện nghiêm túc. Hội nhập kinh tế quốc tế còn bị tác động bởi cách tiếp cận
phiến diện, ngắn hạn và cục bộ; do đó, chưa tận dụng được hết các cơ hội và
ứng phó hữu hiệu với các thách thức.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình đổi mới ở trong nước,
nhất là đổi mới, hoàn thiện thể chế, trước hết là hệ thống luật pháp, cơ chế,
chính sách chưa được thực hiện một cách đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với
quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu bảo đảm quốc phòng -
an ninh, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, môi trường sinh thái,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Hội nhập kinh tế quốc tế chưa được phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với hội
nhập trong các lĩnh vực khác. Chưa tạo được sự đan xen chặt chẽ lợi ích chiến
lược, lâu dài với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng. Việc ứng phó với
những biến động và xử lý những tác động từ môi trường khu vực và quốc tế còn
bị động, lúng túng và chưa đồng bộ.
b. Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập kinh tế phù hợp
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế của thời đại, diễn ra mạnh
mẽ trên nhiều phương diện với sự xuất hiện của nhiều khối kinh tế, mậu dịch
trên thế giới. Đối với một nước kinh tế còn thấp kém, lạc hậu như Việt Nam tại
thời điểm đó, hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để rút ngắn khoảng cách với
các nước khác trong khu vực và trên thế giới, phát huy những lợi thế và tìm cách
khắc phục hạn chế thông qua việc học hỏi kinh nghiệm của các nước. Nhận thức
được vai trò, tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế, trong suốt thời gian
qua, Đảng đã nhất quán chủ trương phải tăng cường hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế khu vực và thế giới.
Mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta đưa ra chủ trương tranh thủ
những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia
ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong “Hội đồng
tương trợ kinh tế và mở rộng với các nước khác". Đây chính phương hướng
trước tiên nhất khởi đầu cho các chủ trương tiếp theo của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế.
Đảng ta định hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với các quốc
gia, các tổ chức kinh tế". “hội nhập” bắt đầu được đề cập trong các văn kiện
của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”.
Đảng đã đánh dấu lần đầu tiên Đảng ta đặt trọng tâm chủ trương “chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”. Theo đó, trong những năm qua, việc hội
nhập kinh tế quốc tế và tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) luôn
được đặt ra trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và Chính phủ.
Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, và gần đây nhất là Chỉ thị số 26/CT-
TTg ngày 4/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh hội nhập kinh tế
quốc tế theo hướng hiệu lực và hiệu quả hơn.
-Trong các Nghị quyết và Chỉ thị nêu trên, quan điểm chỉ đạo, chủ trương lớn
được Đảng và Chính phủ quán triệt về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập vào các FTA là: + Thứ nhất
, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải
tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế,
củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội. + Thứ hai
, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy
tối đa nội lực, nâng cao hiệu qủa hợp tác quốc tế. + Thứ ba
, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù
hợp với chủ trương, định hướng của Ðảng và Nhà nước, chủ động xây dựng các quan hệ đối tác mới. + Thứ tư
, xây dựng và triển khai chiến lược, tham gia các khu vực mậu dịch tự
do với các đối tác kinh tế - thương mại quan trọng trong một kế hoạch tổng thể
với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích và khả năng của đất nước. + Thứ năm
, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối
tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển và an ninh của đất nước. + Thứ sáu
, chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây
dựng trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh,
xung đột, củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi. Trong đó, đặc biệt
chú trọng việc tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN, phát huy vai trò của Việt
Nam trong ASEAN và các cơ chế, diễn đàn do ASEAN giữ vai trò trung tâm,
nhằm tăng cường đoàn kết, gia tăng liên kết nội khối, củng cố quan hệ hợp tác
với các bên đối thoại của ASEAN, thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực.
-Việc đề ra chủ trương tăng cường hội nhập quốc tế về kinh tế là một hướng
đi đúng đắn, sáng suốt, thiết thực mà Đảng đã lựa chọn, thể hiện một sự thay đổi
thức thời trong tư duy và bắt kịp với xu thế của thời đại.
- Đây là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm thực hiện nhiệm vụ xây
dựng nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển và vững mạnh. Việc thực hiện
chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế
nói riêng với nhiều thành tựu góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững an ninh chính trị và
trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế là minh chứng rõ nét nhất cho con đường đúng đắn, sáng
suốt mà Đảng đã lựa chọn.
c)Tích cực chủ động tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế và
thực hiện đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong các liên kết kinh
tế quốc tế và khu vực.
Sự hình thành các liên kết kinh tế quốc tế và khu vực được xem như một đặc
trưng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc tích cực, chủ động tham gia các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện đúng
các cam kết của các liên kết quốc tế đã góp phần nâng cao uy tính của Việt Nam
trong các tổ chức này, động thời tạo được sự tin cậy, tôn trọng của cộng đồng quốc
tế. Từ đó, giúp chúng ta nâng tâm hội nhập kinh tế quốc tế hơn, đẩy mạnh việc chủ
động đóng góp, tiếp cận của các ngành nghề, đề cao phát triển trong nước để đảm
bảo các lợi ích cần thiết trong hội nhập kinh tế.
Quá trình tham gia và thực hiện các cam kết trong các kiên kết quốc tế
của Việt Nam trong những năm qua.
1. Gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Ngày 28-7-1995 Việt Nam trở thành thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) - liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia
trong khu vực Đông Nam Á. Đây là quyết định mang tính lịch sử, mở ra một
thời kỳ phát triển mới của Việt Nam.
Đặc biệt là việc gia nhập AEC (Cộng đồng Kinh tế ASEAN - một trong ba trụ
cột chính của Cộng đồng ASEAN), cũng như tham gia các hiệp định thương mại
tự do giữa ASEAN với các đối tác đã giúp Việt Nam tiếp cận các thị trường tiềm
năng trong và ngoài khu vực. Bên cạnh đó, là một thành viên của
AEC, Việt Nam không ngừng mở rộng, hoàn thiện môi trường kinh doanh theo
hướng minh bạch và bình đẳng hơn, tạo điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài
không những từ các nước ASEAN mà cả từ các nước ngoại khối.
Việc thực hiện các cam kết trong ASEAN đã và đang tạo nền tảng
để Việt Nam tiếp tục mở rộng và tăng cường quan hệ với các đối tác ngoài
ASEAN, nhất là các nước lớn, qua đó góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam. Hội nhập ASEAN cho
đến nay vẫn được coi là “điểm tựa” quan trọng cho quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam.
2. Tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. M ột là, V
iệt Nam là thành viên sáng lập của Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM).
Diễn đàn hợp tác Á- Âu (ASEM) còn gọi là Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu, được
chính thức thành lập năm 1996 trong hội nghị cấp cao đầu tiền tại Băng Cốc.
ASEM là một diễn đàn liên khu vực bao gồm ủy ban châu Âu, 27 nước thành viên
của Liên minh châu Âu (EU), 10 thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN) và 5 nước châu Á khác là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ
và Mông Cổ. Đấy là một tập hợp của 42 quốc gia thành viên, bao gồm 2,5 tỉ dân,
bằng khoảng 38% dân số thế giới; tổng GĐP khoảng 25,000 tỉ USD, bằng khoảng 42% GDP thế giới.
Việt Nam tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên
sáng lập. Năm 2004, nước ta đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEM 5 tại Hà Nội. Ha i là, Gia n
hập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dư ơ ng.
Tháng 11-1998, Việt Nam gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), được thành lập năm 1989, hiện nay có 21 nền kinh tế thành viên ở
châu Á, châu Mỹ và châu Đại Dương. Tổng số dân của các thành viên APEC là
2,67 tỉ người, bằng 41% dân số thế giới; tổng GDP khoảng 31,6 ngàn tỉ USD, bằng
57% GDP của thế giới; tổng giá trị thương mại khoảng 5,5 ngần tỉ USD, bằng
khoảng 50% thương mại thế giới.
Năm 2006 Việt Nam đăng cai tổ chức năm APEC và đã tổ chức thành công tuần
lễ cấp cao APEC lần thứ 14 vào tháng 11-2006. B a là, V
iệt Nam trở thành thành vi ê n c
hính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
WTO được thành lập ngày 1-1-1995 sau khi kết thúc vòng đàm phán Urugoay
(1986 - 1994) của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), ký kết
vào tháng 11-1947. Hiện nay WTO chiếm trên 95% thường; mại toàn cầu, bao gồm
tất cả các nước phát triển và nhiều nước đang phát triển, chậm phát triển trên thế giới.
Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO từ tháng 1-1995 và bắt đầu đàm phán
để gia nhập WTO từ tháng 7-1998. Trong quá trình đàm phán, chúng ta đã tiến
hành 13 phiên đàm phán đa phương và kết thúc đàm phán song phương với 28 đối tác có yêu cầu.
Ngày 7-11-2006, Việt Nam đã được kết nạp vào Tổ chức Thương mại thế giới
và trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này. B ốn là, k ý
kết các thỏ a th
uận thành lập khu vực mậu dịch tự do.
Sau khi tham gia ASEAN, Việt Nam cũng đã chủ động tham gia khu vực mậu
dịch tự do ASEAN, gọi tắt là AFTA. Từ ngày 1-1-1996, Hiệp định AFTA giữa Việt
Nam và ASEAN có hiệu lực. Ngày 31-12-2015, Việt Nam và các nước thành viên
ASEAN đã ký hiệp định thành lập Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột chính:
cộng đồng chính trị - an ninh; cộng đồng kinh tế và cộng đồng văn hóa - xã hội.
Là thành viên ASEAN, Việt Nam tham gia các hiệp định thành lập khu vực mậu
dịch tự do ASEAN - Trung Quốc; ASEAN - Nhật Bản; ASEAN - Ấn Độ; ASEAN - Hàn Quốc.
Năm 2015, Việt Nam đã ký kết các hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do
song phương với các tổ chức và quốc gia trên thế giới, đó là:
+ Hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do Việt Nam - Liên minh thuế
quan (gồm ba nước Nga, Bêlarút, Cadắcxtan).
+ Hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự đo Việt Nam - Liên minh châu Âu (gồm 28 nước);
+ Hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do song phương Việt Nam - Hàn Quốc.
+ Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) giữa 12
nước châu Mỹ, châu Đại dương và châu Á.
Đến nay, nước ta đã ký kết nhiều hiệp định mậu dịch tự do song phương với các
nước, nhóm nước và trong khuôn khổ ASEAN với các nước, tổng cộng gồm 55
nước, bao gồm tất cả các nước thuộc G7, G20, thành viên. Tổ chức hợp tác và Phát
triển kinh tế (OECD). Nước ta cũng đang đàm phán với nhiều nước để đi tới ký kết
hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do song phương, như Ixraen, Áchentina...
Với tư cách là thanh viên của các tổ chức kinh tế quốc tế ASEAN, APEC,
WTO,… Việt nam đã nỗ lực thực hiện đầy đủ các cam kết và tích cực tham
gia các hoạt động trong khuôn khổ tổ chưc này. Trong đó, Việt nam đã thực
hiện nhiều cải cách chính sách thương mại theo hướng minh bạch và tự do
thể hiện ở các cam kết đa phương về pháp luật và thể chế cũng như các cam
kết mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ. Tích cực đề xuất và triển khai đầy
đủ, nghiêm túc các cam kết hội nhập quốc tế, đặc biệt là các giảm thuế
quan, mở của dịch vụ đầu tư…
d) Hoàn thiện thể chế kinh tế và luật pháp
Một trong những điều kiện để hội nhập kinhn tế quốc tế là sự tương đồng
giữa các nước về thể chế kinh tế. Trên thế giới hiện nay, hầu hết các nước đều
phát triển theo mô hình kinh tế thị trường tuy có sự khác biệt nhất định. Việc
phát triển theo mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mặc dù
có sự khác biệt với các nước về định hướng chính trị của sự phát triển nhưng nó
không hề cản trở sự hội nhập. Vấn đề lớn hiện nay là cơ chế thị trường của nước
ta chưa hoàn thiện, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, chính
sách điều chỉnh kinh tế trong nước chưa phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế, môi trường cạnh tranh còn hạn chế. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hội
nhập kinh tế quốc tế, cần hoàn thiện cơ chế thì trường trên cơ sở đổi mới mạnh
mẽ về sở hữu, coi trọng khu vựa tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước; hình thành
đồng bộ các loại thị trường; đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể kinh tế…
Đi đôi với hoàn thiện cơ chế thị trường cần đổi mới cơ chế quản lí của
Nhà nước trên cơ sở thực hiện đứng các chức năng của Nhà nước trong định
hướng, tạo môi trường, hỗ trợ và giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế. Đòi
hỏi phải cải cách hành chính, chính sách kinh tế, cơ chế quản lí ngày càng minh
bạch hơn, làm thông thoáng môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước để thúc
đẩy mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài
nước. Là cơ sở then chốt để nước ta tham gia vào từng nấc cao hơn của chuỗi
cung ứng và giá trị khu vực cũng như toàn cầu.
Nhà nước cần rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật liên
quan đến hội nhập kinh tế như: đất đai, đầu tư, thương mại, doanh nghiệp, thuế,
tài chính tín dụng,…Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với luật
pháp quốc tế; đồng thời phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp
quốc tế, nhất là tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế, xử lý có hiệu quả các
tranh chấp, vướng mắc kinh tế, thương mại nhằm đảm bảo lợi ích của người lao
động và doanh nghiệp trong hội nhập.
đ) Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế
Hiệu quả của hội nhập kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế cũng như của các doanh nghiệp.
Với nền tảng công nghệ và hạ tầng yếu, nguồn lao động có chất lượng thấp,
quy mô nhỏ tạo cho năng lực cạnh tranh thấp, hạn chế khả năng sử dụng trường
thế giới của các doanh nghiệp.
Tác động của hội nhập kinh tế có thể rất tích cực, bài hát không có nghĩa phù
hợp với mọi ngành, mọi doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, hàng hóa, lợi ích
cũng không tự đến. Để đứng trong cạnh tranh, các doanh nghiệp phải chú trọng
đến đầu tư, cải tiến công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Đặc
biệt là phải học cách thức kinh doanh trong tiền cảnh: (1) học cách tìm kiếm cơ
hội kinh doanh, (2) học cách kết nối cùng chấp nhận cạnh tranh, (3) học cách
huy động vốn, ( 4) học cách học bất định trị, (5) học cách đồng hành với phủ
Chính, (6) học cách “đối thoại”.
Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp, giúp các doanh
nghiệp vượt qua các công thức của hội nhập. Nhà nước cần chủ động, tích cực
tham gia đầu tư và triển khai dự án xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, gắn với nhu cầu của các doanh nghiệp; tổ chức các
khóa đào tạo, trào đổi kinh nghiệm về kỹ năng hội nhập, quản trị theo cách toàn
cầu, đề cao năng lực sáng tạo, đặc biệt là kiến thức về luật kinh tế, thương mại
quốc tế..., phát triển, hoàn thiện hạ tầng cơ sở sản xuất, giao thông, thông tin,
dịch vụ... giúp giảm chi phí sản xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút vốn,
công nghệ tiên tiến, thúc đẩy tăng năng suất lao động của các doanh nghiệp.
e) Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm,
đường lối chính trị độc lập, tự chủ mà còn là đòi hỏi của thực tiễn, nhằm bảo
đảm độc lập, tự chủ vững chắc về chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và có
hiệu quả cho nền kinh tế, cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Khi đã có
độc lập, tự chủ về chính trị thì nội dung cơ bản của độc lập, tự chủ của một quốc
gia là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Nền kinh tế độc lập, tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc
vào nước khác, người khác, hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối,
chính sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính,