BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HOA SEN
NHÓM 3
PHẬT GIÁO VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN
ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
Môn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Lớp: 2200
BÀI THU HOẠCH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GV. ThS Phạm Thị Ngọc Anh
TP.HỒ CHÍ MINH, 2022
MỤC LỤC
MỤC LC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................... 2
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 3
PHẦN 1: .............................................................................................................................4
PHẦN 2: .............................................................................................................................7
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 12
LỜI CẢM ƠN
Nhóm 3 chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Phạm Thị Ngọc Anh, đã tạo
điều kiện cho nhóm được tham gia chuyến đi bảo tàng lịch sử TP.HCM làm bài thu
hoạch với chủ đề "Phật giáo sự ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần người
Việt Nam".
Trải qua chuyến đi, nhóm 3 đã được hội tìm hiểu sâu hơn về lịch sử văn hóa của dân
tộc ta, đặc biệt về vai trò ý nghĩa của Phật giáo trong đời sống tinh thần của người Việt
Nam. Những kiến thức thông tin mới mẻ chúng em thu nhận được từ chuyến đi này
không chỉ giúp cả nhóm hiểu hơn về bản sắc văn hóa của đất nước mình còn giúp
nhận ra sự quan trọng của việc duy trì phát triển giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Nhóm 3 cũng xin gửi lời cảm ơn đến các bạn trong lớp đã chia sẻ những kiến thức và kinh
nghiệm quý báu của nh, giúp em hoàn thành i thu hoạch một cách tốt nhất. Qua đó,
chúng em hy vọng rằng bài thu hoạch củanh đã đáp ứng được yêu cầu của mang
lại những kiến thức bổ ích cho mọi người trong lớp.
Một lần nữa, nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn các bạn trong lớp đã tạo điều
kiện cho nhóm một trải nghiệm thú vị giúp phát triển kiến thức kỹ năng của nh.
MỞ ĐẦU
Trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, Phật giáo đã góp phần không nhỏ vào việc
hình thành phát triển nền văn hóa tâm linh của đất nước. Với sự xuất hiện của Phật giáo,
đời sống tinh thần của người Việt đã được nâng cao phát triển đáng kể.
Nhằm tìm hiểu sâu hơn về vai trò ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần của
người Việt Nam, chúng tôi đã tham gia chuyến đi thu hoạch thực tế tại Bảo tàng lịch sử
TP.HCM với chủ đề "Phật giáo sự nh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần
người Việt Nam".
Trong chuyến đi này, chúng tôi đã được trải nghiệm tìm hiểu sâu hơn về các di sản văn
hóa liên quan đến Phật giáo, như các liệu, hiện vật tác phẩm nghệ thuật có giá trị về
tâm linh văn hóa. Từ đó, chúng tôi mong muốn thể hiểu hơn về lịch sử, văn hóa
tâm linh của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng tìm hiểu đánh giá về sự ảnh hưởng của
Phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam.
Với mong muốn truyền tải những kiến thức thông tin qbáu từ chuyến đi này đến cho
mọi người, chúng tôi sẽ trình bày chia sẻ những kinh nghiệm nhận thức thu được trong
bài thu hoạch của mình. Hy vọng rằng, bài thu hoạch này sẽ giúp đem lại những kiến thức
bổ ích và giá trị cho tất cả mọi người.
NỘI DUNG
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO
1.
Khái niệm về Phật giáo
Phật giáo nguồn gốc Ấn Độ ra đời khoảng 2500 năm trước được sáng lập bởi Thái tử Tất Đạt Đa
( Shidartha ). Phật giáo giáo lý ca Đức Phật, nhằm hướng dẫn phát triển con người bằng cách
làm cho thân tâm trong sạch ( thông qua con đường đạo đức ), làm cho thân m bình lặng ( thông
qua con đường Thiền Tập ), và khai sáng tâm linh con người ( thông
qua con người trí tuệ ).
Phật giáo một tôn giáo được thiết lập nên bởi Đức Phật phúc lợi của chúng sinh, vì hạnh phúc
và vì sự tiến bộ của thế giới con người.
Phật giáo tôn giáo chủ trương lẽ thật sự thực hành của chính bản thân mỗi người.
Phật giáo vừa triết học vừa thực hành.
Hơn nữa, Phật giáo chỉ dạy rằng một người nếu bỏ được những ô nhiễm như tham, sân, si thì người đó
được cho là một người tốt lành và siêu việt.
2.
Lịch sử phát triển của Phật giáo Việt Nam
Quá trình du nhập phát triển Phật giáo Việt Nam gồm 4 thời kỳ chính:
-
Thời kỳ thứ nhất: từ khi Phật giáo du nhập vào cho đến thế kỷ X
Phật giáo được truyền vào nước ta từ rất sớm từ những năm đầu công nguyên. Ban đầu chủ yếu được
truyền trực tiếp từ Ấn Độ. Đến thể kỷ V, Phật giáo đã được truyền nhiều nơi trên đất nước và đã xuất
hiện những nhà sư có danh tiếng.Vào thế kỷ VI cho đến thế kỷ X vẫn
được xem giai đoạn truyền giáo của đạo phật, nhưng các nhà truyền giáo của Ấn Độ bắt đầu
giảm dần và các nhà truyền giáo của Trung Quốc tăng lên.
-
Thời kỳ thứ hai: Phật giáo thời Đinh Trần ( thế kỷ X đến thế kỷ XV)
Thế kỷ X, dưới 2 triều đại Đinh tuy không tuyên bố Phật giáo Quốc đạo nhưng công nhận
Phật giáo tôn giáo chính của cả nước. Vua Đại Hành Đinh Tiên Hoàng đã cho xây dựng
nhiều chùa tháp Hoa Lư, biến nơi đây không chỉ trung tâm kinh tế - chính trị - hội còn
trung tâm Phật giáo lớn của cả nước.
Tuy nhiên đến triều nhà mới được xem triều đại Phật giáo đầu tiên của Việt Nam. Năm 1010 vua
Thái Tổ đã cho xây dựng 1 số chùa lớn ở Thăng Long và tu sửa lại các chùa bị hư hỏng.
Dưới triều nhà Trần, Phật giáo phát triển tới mc cực thịnh trở thành tôn giáo chính thống của cả
nước.
-
Thời kỳ thứ ba: Phật giáo thời đến nhà Nguyễn (thế XV đến thế Kỷ XX)
Từ triều trở đi, chế độ Phong kiến Việt Nam phát triển lên một bước mới, lất Nho giáo làm
chỗ dựa cho tư tưởng chính trị và đạo đức nên Phật giáo đã suy yếu dần.
Thời kỳ Nam Bắc triều, khi chúa Trịnh đàng ngoài, chúa Nguyễn đàng trong, Phật giáo sựu
khởi sắc trở lại khi cả 2 đều tạo điều kiện cho việc tôn đạo, sửa chữa chùa chiền.
-
Thời kỳ thứ tư: Phật giáo thể kỷ XX hiện nay
Phật giáo Việt Nam đã suy vi dưới triều Sơ, đôi lúc sự khôi phục nhưng không còn thịch
vượng như trước. Phật giáo Việt Nam vẫn tiếp tục suy vi đến những m ba mươi của thế kỷ XX mới
bắt đầu sự khởi sắc trở lại bởi phong trào Chấn hưng Phật giáo. Phật giáo đã dần phục hưng
phát triển trở lại cho đến nay sau phong trào đó.
Phật giáo được giới thiệu vào Việt Nam từ rất sớm, từ khoảng thế kỷ 2-3 sau Công nguyên thông qua
các tuyến đường mậu dịch giữa Ấn Độ Đông Nam Á. Tuy nhiên, đến thế kỷ 10, Phật giáo mới thực
sự trở thành một tôn giáo phổ biến tại Việt Nam, được ủng hộ bởi các vua chúa và dân chúng.
Trong lịch sử Việt Nam, ba thời kỳ chính của sự phát triển của Phật giáo. Thời kỳ đầu tiên bắt đầu
từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 14, thời kỳ này chứng kiến sự phát triển của các trường phái Phật giáo như
Thiền Tịnh độ. Thời kỳ thứ hai diễn ra từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, khi Phật giáo được ủng hộ bởi
các triều đình và trở thành tôn giáo phổ biến trong dân gian. Thời kỳ
thứ ba diễn ra từ thế kỷ 19 đến nay, khi Phật giáo được phổ biến rộng rãi được tôn trọng như mt
phần không thể thiếu của văn hóa và đời sống tinh thần của người Việt.
Ngày nay, Phật giáo vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, với
hàng nghìn chùa, tự viện và đệ tử Phật tử trên toàn quốc
PHẦN 2: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN
NGƯỜI VIỆT
Tác động đến tín ngưỡng tôn giáo của người Vit
Biến đổi tôn giáo Việt Nam tác động lớn đến phong tục, tập quán truyền thống trên cả
hai chiều hướng: tích cực tiêu cực. Một mặt nó góp phần phục hồi nhiều phong tục, tập
quán truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần thay đổi lối sống, hành vi của một bộ phận
người dân; mặt khác cũng làm hồi sinh nhiều hủ tục, tập quán lạc hậu, làm biến dạng, phai
mờ một số phong tục, tập quán truyền thống. Những tác động này đã đang đặt ra nhiều
vấn đề cần giải quyết cho Đảng, Nhà nước trong quá trình xây dựng phát triển đất nước
trong thời kỳ mới.
Những thập niên gần đây, trong bối cảnh toàn cầu hóa, đời sống tôn giáo thế giới diễn biến đa
dạng phức tạp. Số lượng các tôn giáo trên thế giới không ngừng gia tăng; các tôn giáo
lớn, có lịch sử lâu đời như Công giáo, Hồi giáo, Tin lành, Phật giáo,... đang nỗ lực mở rộng
phạm vi ảnh hưởng ra khỏi các khu vực truyền thống tích cực thích nghi, hội nhập, tham
gia tích cực vào các hoạt động xã hội, tác động lớn tới đời
sống chính trị- hội của nhiều quốc gia. Sự biến đổi theo khuynh hướng nhập thế nói trên đã
đem lại cho đời sống tôn giáo thế giới một sự khởi sắc mới, đóng góp tích cực cho hội,
đồng thời, tạo ra nhiều hệ lụy phức tạp cho đời sống của nhân loại.
Trong bối cảnh đó, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước đã làm cho đời sống tôn giáo
Việt Nam những biến chuyển đáng kể. Sự biến đổi tôn giáo Việt Nam diễn ra trên tất cả
các phương diện từ niềm tin tôn giáo đến thực hành tôn giáo cộng đồng tôn giáo. Nhìn
chung, hầu hết các tôn giáo ở Việt Nam đều nỗ lực để mở rộng phạm vi ảnh hưởng trong
hội. Bên cạnh đó sự xuất hiện của rất nhiều hiện tượng tôn giáo mới ở khắp các vùng miền
trên cả nước.
Những biến đổi trong đời sống tôn giáo Việt Nam những năm gần đây có tác động rất lớn
tới phong tục, tập quán của người dân Việt Nam trên cả hai chiều hướng tích cực tiêu
cực.
Tác động tích cực.
Trong bối cảnh các sinh hoạt tôn giáo được khởi sắc, nhiều phong tục, tập quán chứa đựng
giá trị nhân văn của dân tộc cũng được phục hồi trở lại được thực hành sống động trong
đời sống xã hội. Các phong tục như đi lễ chùa đầu năm, ăn chay, phóng sinh gắn với những
biến đổi của Phật giáo là những ví dụ điển hình.
Đi lễ chùa đầu năm một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người dân Việt Nam từ
ngàn xưa. Sau lễ giao thừa, người dân lên chùa cầu cho gia đình một năm mới bình an, hạnh
phúc, đất nước được thái hòa,... Những năm gần đây, cùng với đà phát triển của đất nước,
nhiều ngôi chùa được trùng tu xây mới khang trang khắp các tỉnh, thành. Người đi lễ
chùa vào các ngày rằm, mùng một hằng tháng, vào dịp lễ tết ngày càng đông hơn. Sau nghi
lễ giao thừa chào đón năm mới, đền, chùa các sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian luôn
nườm nượp khách dâng hương. Không khí nhộn nhịp này diễn ra từ ngày đầu năm mới đến
hết tháng Giêng.
Ăn chay (Chữ chay nguyên âm Trai, dịch từ nguyên nghĩa chữ Phạn - Upavasatha,
nghĩa Thanh tịnh), theo quan niệm của đại đa số tín đồ Phật giáo (Bắc tông) Việt Nam, ăn
chay mang đến cho con người thân tâm thanh tịnh lòng từ bi với chúng sinh. Ngày nay,
số người theo Phật giáo và thực hành ăn chay ngày càng nhiều. Để đáp ứng nhu cầu của Phật
tử, nhiều chùa thường tổ chức nấu cơm chay phục vụ tín đồ đi lễ vào các ngày rằm, mùng
một. Bên cạnh đó, có k nhiều quán ăn, nhà hàng chuyên phục vụ đồ chay cho nhu cầu ăn
chay ngày càng đông của người dân. Tuy nhiên, không phải 100% số người ăn chay Việt
Nam hiện nay đều là tín đồ Phật giáo, nhưng đa phần trong đó đều có ảnh hưởng từ niềm tin
Phật giáo.
Tục phóng sinh (bắt nguồn từ Phật giáo Trung Quốc) cũng mang ý nghĩa sâu xa nhằm chuyển
tải thông điệp từ bi tôn trọng sự sống muôn loài của Đức Phật. Phong tục này đã ảnh
hưởng từ lâu trong dân gian Việt Nam và những năm gần đây cũng được một số nhà tu hành
Phật giáo quan tâm phục hồi trở lại.
thể nói, đi lễ chùa đầu năm, ăn chay, phóng sinh những phong tục đẹp được duy trì
trong sinh hoạt Phật giáo Việt Nam, đã góp phần giáo dục tinh thần hướng thiện cho con
người Việt Nam từ xưa đến nay.
Ngoài ra, một số phong tục, tập quán khác cũng chịu tác động rất lớn từ sự biến đổi của Phật
giáo. Xu hướng các bạn trẻ tìm đến nhà chùa làm lễ hằng thuận (kết hôn) để tăng tính thiêng
cho nghi lễ hôn nhân đang gia tăng nhiều tỉnh, thành trong cả nước.
Cùng với đó, tang ma của một bộ phận người dân Việt Nam hiện nay (người Kinh) cũng
sự hiện diện của nhà làm lễ cầu siêu cho linh hồn người chết. Bên cạnh đó các nghi lễ
như lập đàn cúng 35 ngày, 49 ngày,... ng gia tăng nhiều địa phương trên cả nước. Những
hoạt động trên nếu được tổ chức ở những chừng mực nhất định sẽ có tác dụng thỏa mãn nhu
cầu tâm linh, cân bằng đời sống tinh thần cho một bộ phận người dân; đây cũng một nét
đẹp mà Phật giáo đem lại cho văn hóa truyền thống của dân tộc.
Với đạo Tin lành, sự hiện diện của tôn giáo này cùng với những giáo lý, luật lệ, lễ nghi của
đã m thay đổi hẳn lề lối sinh hoạt, cách sống hành vi ứng xtrong cuộc sống hàng
ngày của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) theo đạo. Từ niềm tin vào thế giới đa thần, một
bộ phận đồng bào DTTS chuyển sang niềm tin vào thế giới độc thần với sự sáng tạo của
Chúa. Sự thay đổi thế giới quan này đã kéo theo nhiều thay đổi về lối sống, nếp sống của
đồng bào. Khi theo đạo, đồng bào DTTS được giải phóng khỏi những ràng buộc của các lễ
nghi phiền toái, tốn kém những kiêng cữ lạc hậu, dần dần hình thành trong cộng đồng
một nếp sống mới. Thực tế tại khu vực miền núi phía Bắc và khu vực Tây Nguyên cho thấy,
làng bản nào đông người DTTS theo đạo Tin lành thì đó lối sống của đồng bào
nhiều mặt tiến bộ hơn như: ăn hợp vệ sinh hơn, khu vực nhà nguồn nước sinh hoạt
được quan tâm hơn; đường vào các làng bản được dọn dẹp sạch sẽ; các hủ tục lạc hậu giảm
bớt, trai làng không uống rượu, không hút thuốc; khi ốm đau đã không còn tin vào việc cúng
ma, trừ đã biết đến sở y tế để khám, chữa bệnh; đã không còn để người chết lâu
trong nhà gây ô nhiễm như trước; cưới xin, tang ma không tổ chức dài ngày tiết kiệm
hơn, tang ma không phải mổ trâu, mổ cúng tế linh đình; việc học hành của con cái cũng
được quan tâm hơn,...
Trước đây, đời sống sinh hoạt, giao lưu của đồng bào các DTTS thường chỉ khép kín trong
nội bộ dòng họ, làng bản, tộc người thì từ khi theo đạo Tin lành, quan hệ giao lưu được mở
rộng ra với đồng đạo bên ngoài phạm vi dòng họ, làng bản với cộng đồng các tộc người
khác. Ngoài ra, sinh hoạt tôn giáo cũng môi trường để các tín đồ học hỏi, tăng cường hiểu
biết những kiến thức mới giúp đồng bào thêm tri thức về chăn nuôi, trồng trọt, kinh
doanh, buôn bán trở nên năng động hơn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. thể nói,
đạo Tin lành đã đem đến cho một bộ phận đồng bào các DTTS lối sống mới có nhiều yếu tố
tích cực.
Tác động tiêu cực
Bên cạnh tác động tích cực, biến đổi tôn giáo Việt Nam cũng tác động tiêu cực không
nhỏ tới phong tục, tập quán của người Việt Nam, để lại những hệ lụy cho văn hóa dân tộc.
Cùng với sự sôi động của đời sống tôn giáo, nhiều hủ tục, tập quán lạc hậu cũng hội
hồi sinh mạnh mẽ.
Với Phật giáo, sự tác động của nền kinh tế thị trường cùng xu thế thế tục hóa đã làm cho
nhiều phong tục, tập quán truyền thống được dung chứa trong sinh hoạt Phật giáo dần trở nên
biến dạng, sai lệch.
Phong tục đi lễ chùa đầu năm, tục phóng sinh ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, những phong tục này đang bị thực hành một cách sai lệch, biến tướng.
Rất nhiều người không còn quan tâm đến ý nghĩa thực sự của việc đi lễ chùa đầu năm, của
việc phóng sinh, ăn chay,.. mà thực hành các phong tục đó theo phong trào mang tính
hình thức. Mùa lễ hội đầu năm, người người, nhà nhà đi lễ
chùa để cầu đủ thứ theo nhu cầu trần tục, chen chúc, bồ. Nghi lễ phóng sinh hiện nay
cũng được thực hiện theo phong trào, cho có lquên mất ý nghĩa thực sự của nó. Vào
mỗi mùa Vu lan, nhiều người đến chùa phóng sinh chim, cá; khi phóng sinh song, chim,
lại bị bắt trở lại và đem bán tiếp. Chính vì vậy, sau một số nghi lễ phóng sinh của nhà chùa,
chim, cá không những không được cứu mạng mà còn chết hàng loạt.
Bên cạnh đó, sự biến động tôn giáo đã hình thành thị trường tôn giáo với các loại hình dịch
vụ tâm linh. Điều đó thể nhận thấy rất rõ trong hoạt động sôi động của Phật giáo. Sự
huyên náo của các loại dịch vụ như vàng mã, cầu an, cầu siêu, trừ ma, trừ tà, bốc bát hương,
xem hướng nhà, hướng bếp,... nở rộ nhiều địa phương, gây tốn kém tiền của của hội.
Sinh hoạt Phật giáo một số nơi đang bị biến tướng với những hoạt động tiêu cực, tác
động rất xấu tới đời sống hội. Hiện tượng dâng sao, giải hạn một số chùa khu vực miền
Bắc hay hiện tượng cúng oan gia trái chủ chùa Ba Vàng gần đây gây ra nhiều hệ lụy xấu
cho Phật giáo và cho xã hội.
Tác động tiêu cực nhất của sự biến đổi tôn giáo đối với phong tục, tập quán truyền thống
của người Việt Nam sự phát triển tác động của đạo Tin lành đối với phong tục tập quán
truyền thống của đồng bào DTTS. Nhiều giá trị tốt đẹp trong phong tục tập quán truyền
thống của đồng bào đã bị ảnh hưởng thậm chí bị loại bỏ hoàn toàn. Chẳng hạn, với người
Mông, thờ cúng tổ tiên, thờ thần bản mệnh cộng đồng, dòng họ,... một trong những tín
ngưỡng truyền thống, chất keo cố kết mọi thành viên trong gia đình, dòng họ cộng
đồng thông qua việc thực hành các nghi lễ cúng tế. Tuy nhiên, với bộ phận người Mông
theo đạo Tin lành, do sự khác biệt trong đức tin nên các nghi lễ nói trên đều bị xóa bỏ
được thay thế hoàn toàn bằng các nghi lễ tôn giáo. Kết quả khảo sát gần đây cho thấy, chỉ
4,4% người Mông theo đạo Tin lành khu vực Tây Bắc còn thực hiện nghi lễ thờ cúng tổ
tiên, tới 95,6% không thực hiện. Người Mông cũng nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc
như: Lễ Tạ ơn (Thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, cha mẹ); Lễ Nào cống, Lễ Nào sồng (Lễ quy
ước cùng nhau thực hiện những quy định chung của cộng đồng); Lễ hội Gầu tào (Gia chủ
cầu con, cộng đồng cầu được mùa, trai gái trao duyên hẹn ước nên đôi),... Các lễ hội của
người Mông còn chứa đựng khá nhiều giá trị văn hóa độc đáo, tuy nhiên, hiện nay chỉ còn
6,1% người Mông theo đạo tham gia vào các lễ hội dân tộc nói trên .
Tôn giáo tín ngưỡng của người Việt trước khi Phật giáo
Trước khi Phật giáo được giới thiệu vào Việt Nam, người Việt đã nhiều tôn giáo tín
ngưỡng khác nhau điển hình như tôn giáo thờ tổ, thờ thần, đạo Ngọc Hoàng, đạo Bửu Sơn
Kỳ Hương, đạo Tam Kỳ, đạo Cao Đài, đạo Mẫu,v.v. Các tôn giáo tín ngưỡng này phần
lớn sự kết hợp giữa các yếu tố tín ngưỡng dân gian tôn giáo truyền thống.
Việt Nam thời cổ đã các hình thức thực hành tôn giáo đối với các đối tượng tự nhiên. Các
hình trang trí trên trống đồng Đông Sơn đã phản ánh các nghi lễ n giáo thời ấy, trong đó
tả rất nhiều về hình ảnh một loài chim, cụ thểchim Lạc, khiến các sử gia tin rằng,
chúng đối tượng được người Việt cổ tin thờ. Ngoài ra, con rồng cũng được xuất hiện nhiều
trong các sản phẩm nghệ thuật, mỹ thuật Việt Nam, phát sinh từ việc thờ kính Lạc Long
Quân, một huyền thoại về người được cho cha đẻ của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, các
đối tượng tự nhiên khác như động vật, núi,
sông, biển... cũng được người Việt tôn làm thần bảo vệ, chúc phúc cho con người. Tôn giáo tại
Việt Nam mối liên hệ với nền văn minh Trung Hoa văn minh Ấn Độ.
Trong thời quân chủ tại Việt Nam, Nho giáo được chính quyền khuyến khích, vai trò nền
tảng luân quy định c mối quan hệ hội. Nho giáo cũng gắn liền với chế độ khoa cử;
nhiều văn miếu được xây dựng trong cả nước. Hiếu thảo, biểu hiện
một phần qua các thực hành tôn kính tổ tiên, được coi nhân đức nền tảng để duy trì sự hài
hòa trong xã hội.
Trong các triều đại như nhà , nhà Trần các chúa Nguyễn, chính quyền cũng sùng mộ
hỗ trợ Phật giáo. Các tôn giáo mặt lâu đời tại Việt Nam Nho giáo, Đạo giáo Phật
giáo (gọi chung tam giáo). Từ thời trung hưng thêm Kitô giáo.
Đầu thế kỷ 20 chứng kiến sự lan truyền các phong trào tôn giáo mới, đặc biệt tại miền
Nam như đạo Cao Đài Phật giáo Hòa Hảo. Ấn Độ giáo sau đó Hồi giáo có nhiều vai trò
trong lịch sử, văn hóa của người Chăm.
Các tôn giáo tín ngưỡng truyền thống của người Việt thường tôn vinh các vị thần và tổ tiên,
thực hiện các nghi lễ tín ngưỡng để cầu mong sự bảo hộ cát tường. Tuy nhiên, chúng
không một hệ thống giáo huấn ràng,cũng như không một bộ luật pháp hay những giá
trị đạo đức cụ thể được quy định
Với sự giới thiệu phổ biến của Phật giáo, người Việt đã tiếp thu chấp nhận những giá
trị đạo đức tín ngưỡng mới Phật giáo mang lại, song vẫn giữ được các nghi lễ tín
ngưỡng truyền thống của mình.Từ đó,người Việt đã phát triển một hệ thống tín ngưỡng đa
nguyên nhân, kết hợp giữa các yếu tố tín ngưỡng dân gian tôn giáo truyền thống với các
giá trị đạo đức phương pháp tu hành của Phật giáo.
Sự đón nhận phát triển Phật giáo Việt Nam
Theo lịch sử, Phật giáo đã được giới thiệu vào Việt Nam qua các tuyên truyền của các vị
khác nhau như: Khổng Tử Luyện, Ngô Liên, Thích Ca Mâu Ni, A La Hán, Vạn Hạnh,
Tam Tạng,.
.......................
Phật giáo được coi một tôn giáo nền tảng vững chắc
nhân đức cao, phù hợp với nền văn hóa tôn giáo của người Việt. Do đó, Phật giáo đã được
đón nhận bởi những giá trị nhân bản phù hợp với đạo lý, văn hóa truyền thống tốt đẹp của
người Việt.
Theo truyền thống “hộ quốc, an dân”, hầu hết đồng bào thuộc các tôn giáo đều đồng hành
cùng dân tộc trong quá trình xây dựng phát triển đất nước. Phật giáo mặt tại Việt Nam
hơn 2000 năm, với phương châm “Đạo pháp bất ly thế gian pháp” đã phát huy giá trị văn
hóa Phật giáo trong hội Việt Nam từ nhiều thế kỷ. Đạo đức văn hóa Phật giáo đã làm
sâu sắc phong phú thêm các giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam như quan niệm từ
bi, hỉ xả, ngã vị tha, lục hòa cộng trụ quan niệm về luật nhân quả. Phật giáo nhấn mạnh
rằng tất cả những đau khổ của con người bất bình đẳng hội tham, sân, si gây ra
những kiến, tranh chấp hành động sai
lầm; Đề cao luật nhân quả, nghiệp báo, khuyên tín đồ thực hành “Ngũ giới luật”, “Bát Chánh
đạo”, nâng cao trách nhiệm với nhân, cộng đồng toàn xã hội, thúc đẩy con người nắn
chỉnh hành vi của mình.
tưởng Phật giáo đời sống tinh thần của người dân Việt Nam mối quan hệ mật thiết,
gắn bó. sở của sự giao thoa này bắt nguồn từ đặc điểm của người dân nước ta chủ yếu
nông dân trồng lúa nước với tín ngưỡng đa thần. Người Việt Nam hòa đồng, yêu nước,
yêu hòa bình, nghĩa, thân thiện nhân hậu. Văn hóa Phật giáo với những giá trị tích cực
như từ bi, hỷ xả, cứu khổ, cứu nạn, bình đẳng, bác ái dễ đi vào lòng người, phù hợp với
phong tục, tập quán hòa nhập với các nền văn hóa nước nhà. VớI bề dày lịch sử kháng
chiến chống giặc ngoại xâm, Việt Nam đã chịu nhiều thương đau với gần một ngàn năm Bắc
thuộc, khi Phật giáo du nhập vào, với những
giá trị của nh, Phật giáo n một liều thuốc an thần giúp xoa dịu nỗi đau của n
tộc ta. những lẽ trên, tưởng Phật giáo đời sống tinh thần của người Việt Nam có mối
quan hệ mật thiết, Phật giáo trở thành một phần không thể thiếu của tín ngưỡng văn hoá
của người Việt Nam.
Phật giáo tôn giáo người Việt
Phật giáo được coi một trong những tôn giáo lớn quan trọng nhất tại Việt Nam, đã
ảnh hưởng đến tôn giáo tín ngưỡng của người Việt trong suốt hàng ngàn năm lịch sử.
Trong tôn giáo người Việt, Phật giáo được xem một trong những tôn giáo nền tảng
vững chắc nhân đức cao, phù hợp với nền văn hóa tôn giáo của người Việt. Với triết
giáo dục tâm linh cao đẹp ý nghĩa sâu sắc, Phật giáo đã đóng góp rất nhiều vào việc hình
thành phát triển tôn giáo tín ngưỡng của người Việt.
Với bề dày lịch sử lên đến hơn 2000 năm, Phật giáo đã khẳng định vị thế của mình trong các
lĩnh vực đời sống hội, trở thành một hệ tưởng - tôn giáo tồn tại lâu đời và ảnh hưởng
sâu sắc trong đời sống người dân Việt Nam. Trong nhiều thế kỷ, văn hóa Phật giáo một bộ
phận không thể tách rời khỏi văn hóa dân tộc. Phật giáo mang đậm nh triết học hơn bất kỳ
tôn giáo nào khác, cái đích cứu con người thoát khỏi nỗi đau muôn đời với cứu cánh
giải thoát. Phật giáo chứa đựng cả một hệ tưởng về thế giới quan, nhân sinh quan cùng
sâu sắc. Những tưởng bản của đạo đức Phật giáo đã đang những tác động, nh
hưởng sâu rộng đến. nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở nước ta.
Phật giáo đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của người Việt,
ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động văn hóa, hội, kinh tế chính trị của đất nước.
Những giá trị tâm linh của Phật giáo như lòng biết ơn, lòng từ bi, lòng nhân ái, lòng kiên
nhẫn, lòng khiêm tốn đã trở thành những giá trị cốt lõi của văn hóa đạo đức của người
Việt.
Ngoài ra, các công trình kiến trúc, tượng Phật các biểu tượng của Phật giáo cũng là những
nét đặc trưng của văn hóa tôn giáo của người Việt. Các đền, chùa, miếu và những công trình
kiến trúc khác được xây dựng để thể hiện lòng tôn kính tôn trọng đối với Phật giáo.
KẾT LUẬN
Tóm tắt những điểm quan trọng về tác động của Phật giáo đến đời sống tinh thần người Việt :
Phật giáo ảnh hưởng to lớn đối với đời sống hội Việt Nam. Qua các hình thức khác
nhau như các lễ nghi, phong tục đều sự hiện diện của Phật giáo chủ yếu, thể nhìn
nhận ràng qua từng lời ăn tiếng nói của con người Việt Nam, con người trở nên hướng
thiện, không nói lời gian dối, bịa đặt, luôn hướng về những điều thiện lành không làm
những điều ác. Những điều đó đã in sâu vào tiềm thức của con người Việt Nam, ngay trong
thời của các vị vua hoặc ngay cả trước thời đại này, khi các nền tôn giáo đều chưa phát triển
rộng rãi mang đến cho con người một niềm tin một
cuộc sống bình anh, Phật giáo đã hình thành phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam trong suốt
một thời gian dài, Phật giáo đã trở nên một tín ngưỡng tôn giáo trong lòng của người Việt
hàng ngàn năm.
Phật giáo ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của con người Việt Nam:
Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc vào chính đời sống tín ngưỡng của con người Việt Nam,
Phật giáo đã tác động mạnh mẽ vào lối sống, tưởng, phong tục, văn hóa của con người
Việt Nam. Họ đã nhận lại một giá trị tinh thần an lạc, bình an, luôn hướng về những điều
thiện lành trong lối sống của họ. Tất cả những điều đó đã khiến cho đời sống của con người
Việt Nam về tinh thần cả thể xác đều cảm thấy bình an, luôn cảm thấy an lành trong mọi
việc làm của họ, khiến họ biết nghĩ và làm những điều đúng tránh những điều ác, trong tiềm
thức họ luôn hướng về Phật hướng v những điều thiện lành con người trở nên yêu
thương nhau nhiều hơn. Chính những điều

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HOA SEN NHÓM 3
PHẬT GIÁO VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN
ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
Môn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC Lớp: 2200 BÀI THU HOẠCH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GV. ThS Phạm Thị Ngọc Anh TP.HỒ CHÍ MINH, 2022 MỤC LỤC MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................... 2
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 3
PHẦN 1: .............................................................................................................................4
PHẦN 2: .............................................................................................................................7
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 12 LỜI CẢM ƠN
Nhóm 3 chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô Phạm Thị Ngọc Anh, đã tạo
điều kiện cho nhóm được tham gia chuyến đi bảo tàng lịch sử TP.HCM và làm bài thu
hoạch với chủ đề "Phật giáo và sự ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần người Việt Nam".
Trải qua chuyến đi, nhóm 3 đã được cơ hội tìm hiểu sâu hơn về lịch sử và văn hóa của dân
tộc ta, đặc biệt là về vai trò và ý nghĩa của Phật giáo trong đời sống tinh thần của người Việt
Nam. Những kiến thức và thông tin mới mẻ chúng em thu nhận được từ chuyến đi này
không chỉ giúp cả nhóm hiểu rõ hơn về bản sắc văn hóa của đất nước mình mà còn giúp
nhận ra sự quan trọng của việc duy trì và phát triển giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Nhóm 3 cũng xin gửi lời cảm ơn đến các bạn trong lớp đã chia sẻ những kiến thức và kinh
nghiệm quý báu của mình, giúp em hoàn thành bài thu hoạch một cách tốt nhất. Qua đó,
chúng em hy vọng rằng bài thu hoạch của mình đã đáp ứng được yêu cầu của cô và mang
lại những kiến thức bổ ích cho mọi người trong lớp.
Một lần nữa, nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn cô và các bạn trong lớp đã tạo điều
kiện cho nhóm có một trải nghiệm thú vị và giúp phát triển kiến thức và kỹ năng của mình. MỞ ĐẦU
Trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, Phật giáo đã góp phần không nhỏ vào việc
hình thành và phát triển nền văn hóa tâm linh của đất nước. Với sự xuất hiện của Phật giáo,
đời sống tinh thần của người Việt đã được nâng cao và phát triển đáng kể.
Nhằm tìm hiểu sâu hơn về vai trò và ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần của
người Việt Nam, chúng tôi đã tham gia chuyến đi thu hoạch thực tế tại Bảo tàng lịch sử
TP.HCM với chủ đề "Phật giáo và sự ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần người Việt Nam".
Trong chuyến đi này, chúng tôi đã được trải nghiệm và tìm hiểu sâu hơn về các di sản văn
hóa liên quan đến Phật giáo, như các tư liệu, hiện vật và tác phẩm nghệ thuật có giá trị về
tâm linh và văn hóa. Từ đó, chúng tôi mong muốn có thể hiểu rõ hơn về lịch sử, văn hóa và
tâm linh của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng tìm hiểu và đánh giá về sự ảnh hưởng của
Phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam.
Với mong muốn truyền tải những kiến thức và thông tin quý báu từ chuyến đi này đến cho
mọi người, chúng tôi sẽ trình bày và chia sẻ những kinh nghiệm và nhận thức thu được trong
bài thu hoạch của mình. Hy vọng rằng, bài thu hoạch này sẽ giúp đem lại những kiến thức
bổ ích và giá trị cho tất cả mọi người. NỘI DUNG
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO 1.
Khái niệm về Phật giáo
Phật giáo có nguồn gốc ở Ấn Độ ra đời khoảng 2500 năm trước được sáng lập bởi Thái tử Tất Đạt Đa
( Shidartha ). Phật giáo là giáo lý của Đức Phật, nhằm hướng dẫn và phát triển con người bằng cách
làm cho thân tâm trong sạch ( thông qua con đường đạo đức ), làm cho thân tâm bình lặng ( thông
qua con đường Thiền Tập ), và khai sáng tâm linh con người ( thông
qua con người trí tuệ ).
◻Phật giáo là một tôn giáo được thiết lập nên bởi Đức Phật vì phúc lợi của chúng sinh, vì hạnh phúc
và vì sự tiến bộ của thế giới con người.
◻Phật giáo là tôn giáo chủ trương lẽ thật và sự thực hành của chính bản thân mỗi người.
◻Phật giáo vừa là triết học vừa là thực hành.
Hơn nữa, Phật giáo chỉ dạy rằng một người nếu bỏ được những ô nhiễm như tham, sân, si thì người đó
được cho là một người tốt lành và siêu việt. 2.
Lịch sử và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam
Quá trình du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam gồm 4 thời kỳ chính: -
Thời kỳ thứ nhất: từ khi Phật giáo du nhập vào cho đến thế kỷ X
Phật giáo được truyền vào nước ta từ rất sớm từ những năm đầu công nguyên. Ban đầu chủ yếu được
truyền trực tiếp từ Ấn Độ. Đến thể kỷ V, Phật giáo đã được truyền nhiều nơi trên đất nước và đã xuất
hiện những nhà sư có danh tiếng.Vào thế kỷ VI cho đến thế kỷ X vẫn
được xem là giai đoạn truyền giáo của đạo phật, nhưng các nhà sư truyền giáo của Ấn Độ bắt đầu
giảm dần và các nhà truyền giáo của Trung Quốc tăng lên. -
Thời kỳ thứ hai: Phật giáo thời Đinh – Lê – Lý – Trần ( thế kỷ X đến thế kỷ XV)
Thế kỷ X, dưới 2 triều đại Đinh – Lê tuy không tuyên bố Phật giáo là Quốc đạo nhưng công nhận
Phật giáo là tôn giáo chính của cả nước. Vua Lê Đại Hành và Đinh Tiên Hoàng đã cho xây dựng
nhiều chùa tháp ở Hoa Lư, biến nơi đây không chỉ là trung tâm kinh tế - chính trị - xã hội mà còn là
trung tâm Phật giáo lớn của cả nước.
Tuy nhiên đến triều nhà Lý mới được xem là triều đại Phật giáo đầu tiên của Việt Nam. Năm 1010 vua
Lý Thái Tổ đã cho xây dựng 1 số chùa lớn ở Thăng Long và tu sửa lại các chùa bị hư hỏng.
Dưới triều nhà Trần, Phật giáo phát triển tới mức cực thịnh và trở thành tôn giáo chính thống của cả nước. -
Thời kỳ thứ ba: Phật giáo thời Lê Sơ đến nhà Nguyễn (thế ký XV đến thế Kỷ XX)
Từ triều Lê Sơ trở đi, chế độ Phong kiến ở Việt Nam phát triển lên một bước mới, lất Nho giáo làm
chỗ dựa cho tư tưởng chính trị và đạo đức nên Phật giáo đã suy yếu dần.
Thời kỳ Nam – Bắc triều, khi chúa Trịnh ở đàng ngoài, chúa Nguyễn ở đàng trong, Phật giáo có sựu
khởi sắc trở lại khi cả 2 đều tạo điều kiện cho việc tôn đạo, sửa chữa chùa chiền. -
Thời kỳ thứ tư: Phật giáo thể kỷ XX và hiện nay
Phật giáo Việt Nam đã suy vi dưới triều Lê Sơ, đôi lúc có sự khôi phục nhưng không còn thịch
vượng như trước. Phật giáo Việt Nam vẫn tiếp tục suy vi đến những năm ba mươi của thế kỷ XX mới
bắt đầu có sự khởi sắc trở lại bởi phong trào Chấn hưng Phật giáo. Phật giáo đã dần phục hưng và
phát triển trở lại cho đến nay sau phong trào đó.
Phật giáo được giới thiệu vào Việt Nam từ rất sớm, từ khoảng thế kỷ 2-3 sau Công nguyên thông qua
các tuyến đường mậu dịch giữa Ấn Độ và Đông Nam Á. Tuy nhiên, đến thế kỷ 10, Phật giáo mới thực
sự trở thành một tôn giáo phổ biến tại Việt Nam, được ủng hộ bởi các vua chúa và dân chúng.
Trong lịch sử Việt Nam, có ba thời kỳ chính của sự phát triển của Phật giáo. Thời kỳ đầu tiên bắt đầu
từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 14, thời kỳ này chứng kiến sự phát triển của các trường phái Phật giáo như
Thiền và Tịnh độ. Thời kỳ thứ hai diễn ra từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, khi Phật giáo được ủng hộ bởi
các triều đình và trở thành tôn giáo phổ biến trong dân gian. Thời kỳ
thứ ba diễn ra từ thế kỷ 19 đến nay, khi Phật giáo được phổ biến rộng rãi và được tôn trọng như một
phần không thể thiếu của văn hóa và đời sống tinh thần của người Việt.
Ngày nay, Phật giáo vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, với
hàng nghìn chùa, tự viện và đệ tử Phật tử trên toàn quốc
PHẦN 2: NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT
Tác động đến tín ngưỡng và tôn giáo của người Việt
Biến đổi tôn giáo ở Việt Nam có tác động lớn đến phong tục, tập quán truyền thống trên cả
hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Một mặt nó góp phần phục hồi nhiều phong tục, tập
quán truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần thay đổi lối sống, hành vi của một bộ phận
người dân; mặt khác cũng làm hồi sinh nhiều hủ tục, tập quán lạc hậu, làm biến dạng, phai
mờ một số phong tục, tập quán truyền thống. Những tác động này đã và đang đặt ra nhiều
vấn đề cần giải quyết cho Đảng, Nhà nước trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Những thập niên gần đây, trong bối cảnh toàn cầu hóa, đời sống tôn giáo thế giới diễn biến đa
dạng và phức tạp. Số lượng các tôn giáo trên thế giới không ngừng gia tăng; các tôn giáo
lớn, có lịch sử lâu đời như Công giáo, Hồi giáo, Tin lành, Phật giáo,... đang nỗ lực mở rộng
phạm vi ảnh hưởng ra khỏi các khu vực truyền thống và tích cực thích nghi, hội nhập, tham
gia tích cực vào các hoạt động xã hội, tác động lớn tới đời
sống chính trị- xã hội của nhiều quốc gia. Sự biến đổi theo khuynh hướng nhập thế nói trên đã
đem lại cho đời sống tôn giáo thế giới một sự khởi sắc mới, đóng góp tích cực cho xã hội,
đồng thời, tạo ra nhiều hệ lụy phức tạp cho đời sống của nhân loại.
Trong bối cảnh đó, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước đã làm cho đời sống tôn giáo ở
Việt Nam có những biến chuyển đáng kể. Sự biến đổi tôn giáo ở Việt Nam diễn ra trên tất cả
các phương diện từ niềm tin tôn giáo đến thực hành tôn giáo và cộng đồng tôn giáo. Nhìn
chung, hầu hết các tôn giáo ở Việt Nam đều nỗ lực để mở rộng phạm vi ảnh hưởng trong xã
hội. Bên cạnh đó là sự xuất hiện của rất nhiều hiện tượng tôn giáo mới ở khắp các vùng miền trên cả nước.
Những biến đổi trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam những năm gần đây có tác động rất lớn
tới phong tục, tập quán của người dân Việt Nam trên cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Tác động tích cực.
Trong bối cảnh các sinh hoạt tôn giáo được khởi sắc, nhiều phong tục, tập quán chứa đựng
giá trị nhân văn của dân tộc cũng được phục hồi trở lại và được thực hành sống động trong
đời sống xã hội. Các phong tục như đi lễ chùa đầu năm, ăn chay, phóng sinh gắn với những
biến đổi của Phật giáo là những ví dụ điển hình.
Đi lễ chùa đầu năm là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người dân Việt Nam từ
ngàn xưa. Sau lễ giao thừa, người dân lên chùa cầu cho gia đình một năm mới bình an, hạnh
phúc, đất nước được thái hòa,... Những năm gần đây, cùng với đà phát triển của đất nước,
nhiều ngôi chùa được trùng tu và xây mới khang trang ở khắp các tỉnh, thành. Người đi lễ
chùa vào các ngày rằm, mùng một hằng tháng, vào dịp lễ tết ngày càng đông hơn. Sau nghi
lễ giao thừa chào đón năm mới, đền, chùa và các cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian luôn
nườm nượp khách dâng hương. Không khí nhộn nhịp này diễn ra từ ngày đầu năm mới đến hết tháng Giêng.
Ăn chay (Chữ chay nguyên âm là Trai, dịch từ nguyên nghĩa chữ Phạn - Upavasatha, có
nghĩa là Thanh tịnh), theo quan niệm của đại đa số tín đồ Phật giáo (Bắc tông) Việt Nam, ăn
chay mang đến cho con người thân tâm thanh tịnh và lòng từ bi với chúng sinh. Ngày nay,
số người theo Phật giáo và thực hành ăn chay ngày càng nhiều. Để đáp ứng nhu cầu của Phật
tử, nhiều chùa thường tổ chức nấu cơm chay phục vụ tín đồ đi lễ vào các ngày rằm, mùng
một. Bên cạnh đó, có khá nhiều quán ăn, nhà hàng chuyên phục vụ đồ chay cho nhu cầu ăn
chay ngày càng đông của người dân. Tuy nhiên, không phải 100% số người ăn chay ở Việt
Nam hiện nay đều là tín đồ Phật giáo, nhưng đa phần trong đó đều có ảnh hưởng từ niềm tin Phật giáo.
Tục phóng sinh (bắt nguồn từ Phật giáo Trung Quốc) cũng mang ý nghĩa sâu xa nhằm chuyển
tải thông điệp từ bi và tôn trọng sự sống muôn loài của Đức Phật. Phong tục này đã có ảnh
hưởng từ lâu trong dân gian Việt Nam và những năm gần đây cũng được một số nhà tu hành
Phật giáo quan tâm phục hồi trở lại.
Có thể nói, đi lễ chùa đầu năm, ăn chay, phóng sinh là những phong tục đẹp được duy trì
trong sinh hoạt Phật giáo ở Việt Nam, đã góp phần giáo dục tinh thần hướng thiện cho con
người Việt Nam từ xưa đến nay.
Ngoài ra, một số phong tục, tập quán khác cũng chịu tác động rất lớn từ sự biến đổi của Phật
giáo. Xu hướng các bạn trẻ tìm đến nhà chùa làm lễ hằng thuận (kết hôn) để tăng tính thiêng
cho nghi lễ hôn nhân đang gia tăng ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước.
Cùng với đó, tang ma của một bộ phận người dân Việt Nam hiện nay (người Kinh) cũng có
sự hiện diện của nhà sư làm lễ cầu siêu cho linh hồn người chết. Bên cạnh đó là các nghi lễ
như lập đàn cúng 35 ngày, 49 ngày,... cũng gia tăng ở nhiều địa phương trên cả nước. Những
hoạt động trên nếu được tổ chức ở những chừng mực nhất định sẽ có tác dụng thỏa mãn nhu
cầu tâm linh, cân bằng đời sống tinh thần cho một bộ phận người dân; đây cũng là một nét
đẹp mà Phật giáo đem lại cho văn hóa truyền thống của dân tộc.
Với đạo Tin lành, sự hiện diện của tôn giáo này cùng với những giáo lý, luật lệ, lễ nghi của
nó đã làm thay đổi hẳn lề lối sinh hoạt, cách sống và hành vi ứng xử trong cuộc sống hàng
ngày của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) theo đạo. Từ niềm tin vào thế giới đa thần, một
bộ phận đồng bào DTTS chuyển sang niềm tin vào thế giới độc thần với sự sáng tạo của
Chúa. Sự thay đổi thế giới quan này đã kéo theo nhiều thay đổi về lối sống, nếp sống của
đồng bào. Khi theo đạo, đồng bào DTTS được giải phóng khỏi những ràng buộc của các lễ
nghi phiền toái, tốn kém và những kiêng cữ lạc hậu, dần dần hình thành trong cộng đồng
một nếp sống mới. Thực tế tại khu vực miền núi phía Bắc và khu vực Tây Nguyên cho thấy,
ở làng bản nào có đông người DTTS theo đạo Tin lành thì ở đó lối sống của đồng bào có
nhiều mặt tiến bộ hơn như: ăn ở hợp vệ sinh hơn, khu vực nhà ở và nguồn nước sinh hoạt
được quan tâm hơn; đường vào các làng bản được dọn dẹp sạch sẽ; các hủ tục lạc hậu giảm
bớt, trai làng không uống rượu, không hút thuốc; khi ốm đau đã không còn tin vào việc cúng
ma, trừ tà mà đã biết đến cơ sở y tế để khám, chữa bệnh; đã không còn để người chết ở lâu
trong nhà gây ô nhiễm như trước; cưới xin, tang ma không tổ chức dài ngày mà tiết kiệm
hơn, tang ma không phải mổ trâu, mổ bò cúng tế linh đình; việc học hành của con cái cũng được quan tâm hơn,...
Trước đây, đời sống sinh hoạt, giao lưu của đồng bào các DTTS thường chỉ khép kín trong
nội bộ dòng họ, làng bản, tộc người thì từ khi theo đạo Tin lành, quan hệ giao lưu được mở
rộng ra với đồng đạo bên ngoài phạm vi dòng họ, làng bản và với cộng đồng các tộc người
khác. Ngoài ra, sinh hoạt tôn giáo cũng là môi trường để các tín đồ học hỏi, tăng cường hiểu
biết những kiến thức mới giúp đồng bào có thêm tri thức về chăn nuôi, trồng trọt, kinh
doanh, buôn bán và trở nên năng động hơn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nói,
đạo Tin lành đã đem đến cho một bộ phận đồng bào các DTTS lối sống mới có nhiều yếu tố tích cực. Tác động tiêu cực
Bên cạnh tác động tích cực, biến đổi tôn giáo ở Việt Nam cũng có tác động tiêu cực không
nhỏ tới phong tục, tập quán của người Việt Nam, để lại những hệ lụy cho văn hóa dân tộc.
Cùng với sự sôi động của đời sống tôn giáo, nhiều hủ tục, tập quán lạc hậu cũng có cơ hội hồi sinh mạnh mẽ.
Với Phật giáo, sự tác động của nền kinh tế thị trường cùng xu thế thế tục hóa đã làm cho
nhiều phong tục, tập quán truyền thống được dung chứa trong sinh hoạt Phật giáo dần trở nên biến dạng, sai lệch.
Phong tục đi lễ chùa đầu năm, tục phóng sinh có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, những phong tục này đang bị thực hành một cách sai lệch, biến tướng.
Rất nhiều người không còn quan tâm đến ý nghĩa thực sự của việc đi lễ chùa đầu năm, của
việc phóng sinh, ăn chay,.. mà thực hành các phong tục đó theo phong trào và mang tính
hình thức. Mùa lễ hội đầu năm, người người, nhà nhà đi lễ
chùa để cầu đủ thứ theo nhu cầu trần tục, chen chúc, xô bồ. Nghi lễ phóng sinh hiện nay
cũng được thực hiện theo phong trào, cho có lệ mà quên mất ý nghĩa thực sự của nó. Vào
mỗi mùa Vu lan, nhiều người đến chùa phóng sinh chim, cá; khi phóng sinh song, chim, cá
lại bị bắt trở lại và đem bán tiếp. Chính vì vậy, sau một số nghi lễ phóng sinh của nhà chùa,
chim, cá không những không được cứu mạng mà còn chết hàng loạt.
Bên cạnh đó, sự biến động tôn giáo đã hình thành thị trường tôn giáo với các loại hình dịch
vụ tâm linh. Điều đó có thể nhận thấy rất rõ trong hoạt động sôi động của Phật giáo. Sự
huyên náo của các loại dịch vụ như vàng mã, cầu an, cầu siêu, trừ ma, trừ tà, bốc bát hương,
xem hướng nhà, hướng bếp,... nở rộ ở nhiều địa phương, gây tốn kém tiền của của xã hội.
Sinh hoạt Phật giáo ở một số nơi đang bị biến tướng với những hoạt động tiêu cực, có tác
động rất xấu tới đời sống xã hội. Hiện tượng dâng sao, giải hạn ở một số chùa khu vực miền
Bắc hay hiện tượng cúng oan gia trái chủ ở chùa Ba Vàng gần đây gây ra nhiều hệ lụy xấu
cho Phật giáo và cho xã hội.
Tác động tiêu cực nhất của sự biến đổi tôn giáo đối với phong tục, tập quán truyền thống
của người Việt Nam là sự phát triển và tác động của đạo Tin lành đối với phong tục tập quán
truyền thống của đồng bào DTTS. Nhiều giá trị tốt đẹp trong phong tục tập quán truyền
thống của đồng bào đã bị ảnh hưởng thậm chí bị loại bỏ hoàn toàn. Chẳng hạn, với người
Mông, thờ cúng tổ tiên, thờ thần bản mệnh cộng đồng, dòng họ,... là một trong những tín
ngưỡng truyền thống, là chất keo cố kết mọi thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng
đồng thông qua việc thực hành các nghi lễ cúng tế. Tuy nhiên, với bộ phận người Mông
theo đạo Tin lành, do sự khác biệt trong đức tin nên các nghi lễ nói trên đều bị xóa bỏ và
được thay thế hoàn toàn bằng các nghi lễ tôn giáo. Kết quả khảo sát gần đây cho thấy, chỉ có
4,4% người Mông theo đạo Tin lành ở khu vực Tây Bắc còn thực hiện nghi lễ thờ cúng tổ
tiên, có tới 95,6% không thực hiện. Người Mông cũng có nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc
như: Lễ Tạ ơn (Thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, cha mẹ); Lễ Nào cống, Lễ Nào sồng (Lễ quy
ước cùng nhau thực hiện những quy định chung của cộng đồng); Lễ hội Gầu tào (Gia chủ
cầu con, cộng đồng cầu được mùa, trai gái trao duyên hẹn ước nên đôi),... Các lễ hội của
người Mông còn chứa đựng khá nhiều giá trị văn hóa độc đáo, tuy nhiên, hiện nay chỉ còn
6,1% người Mông theo đạo tham gia vào các lễ hội dân tộc nói trên .
Tôn giáo và tín ngưỡng của người Việt trước khi có Phật giáo
Trước khi Phật giáo được giới thiệu vào Việt Nam, người Việt đã có nhiều tôn giáo và tín
ngưỡng khác nhau điển hình như là tôn giáo thờ tổ, thờ thần, đạo Ngọc Hoàng, đạo Bửu Sơn
Kỳ Hương, đạo Tam Kỳ, đạo Cao Đài, đạo Mẫu,v.v. Các tôn giáo và tín ngưỡng này phần
lớn có sự kết hợp giữa các yếu tố tín ngưỡng dân gian và tôn giáo truyền thống.
Việt Nam thời cổ đã có các hình thức thực hành tôn giáo đối với các đối tượng tự nhiên. Các
hình trang trí trên trống đồng Đông Sơn đã phản ánh các nghi lễ tôn giáo thời ấy, trong đó
mô tả rất nhiều về hình ảnh một loài chim, mà cụ thể là chim Lạc, khiến các sử gia tin rằng,
chúng là đối tượng được người Việt cổ tin thờ. Ngoài ra, con rồng cũng được xuất hiện nhiều
trong các sản phẩm nghệ thuật, mỹ thuật Việt Nam, phát sinh từ việc thờ kính Lạc Long
Quân, một huyền thoại về người được cho là cha đẻ của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, các
đối tượng tự nhiên khác như động vật, núi,
sông, biển... cũng được người Việt tôn làm thần bảo vệ, chúc phúc cho con người. Tôn giáo tại
Việt Nam có mối liên hệ với nền văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ.
Trong thời quân chủ tại Việt Nam, Nho giáo được chính quyền khuyến khích, có vai trò là nền
tảng luân lý quy định các mối quan hệ xã hội. Nho giáo cũng gắn liền với chế độ khoa cử;
nhiều văn miếu được xây dựng trong cả nước. Hiếu thảo, biểu hiện
một phần qua các thực hành tôn kính tổ tiên, được coi là nhân đức nền tảng để duy trì sự hài hòa trong xã hội.
Trong các triều đại như nhà Lý, nhà Trần và các chúa Nguyễn, chính quyền cũng sùng mộ và
hỗ trợ Phật giáo. Các tôn giáo có mặt lâu đời tại Việt Nam là Nho giáo, Đạo giáo và Phật
giáo (gọi chung là tam giáo). Từ thời Lê trung hưng có thêm Kitô giáo.
Đầu thế kỷ 20 chứng kiến sự lan truyền các phong trào tôn giáo mới, đặc biệt là tại miền
Nam như đạo Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo. Ấn Độ giáo và sau đó Hồi giáo có nhiều vai trò
trong lịch sử, văn hóa của người Chăm.
Các tôn giáo và tín ngưỡng truyền thống của người Việt thường tôn vinh các vị thần và tổ tiên,
thực hiện các nghi lễ và tín ngưỡng để cầu mong sự bảo hộ và cát tường. Tuy nhiên, chúng
không có một hệ thống giáo huấn rõ ràng,cũng như không có một bộ luật pháp hay những giá
trị đạo đức cụ thể được quy định
Với sự giới thiệu và phổ biến của Phật giáo, người Việt đã tiếp thu và chấp nhận những giá
trị đạo đức và tín ngưỡng mới mà Phật giáo mang lại, song vẫn giữ được các nghi lễ và tín
ngưỡng truyền thống của mình.Từ đó,người Việt đã phát triển một hệ thống tín ngưỡng đa
nguyên nhân, kết hợp giữa các yếu tố tín ngưỡng dân gian và tôn giáo truyền thống với các
giá trị đạo đức và phương pháp tu hành của Phật giáo.
Sự đón nhận và phát triển Phật giáo ở Việt Nam
Theo lịch sử, Phật giáo đã được giới thiệu vào Việt Nam qua các tuyên truyền của các vị sư
khác nhau như: Khổng Tử Luyện, Ngô Sĩ Liên, Thích Ca Mâu Ni, A La Hán, Vạn Hạnh,
Tam Tạng,. ....................... Phật giáo được coi là một tôn giáo có nền tảng vững chắc và
nhân đức cao, phù hợp với nền văn hóa và tôn giáo của người Việt. Do đó, Phật giáo đã được
đón nhận bởi những giá trị nhân bản phù hợp với đạo lý, văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Việt.
Theo truyền thống “hộ quốc, an dân”, hầu hết đồng bào thuộc các tôn giáo đều đồng hành
cùng dân tộc trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Phật giáo có mặt tại Việt Nam
hơn 2000 năm, với phương châm “Đạo pháp bất ly thế gian pháp” đã phát huy giá trị văn
hóa Phật giáo trong xã hội Việt Nam từ nhiều thế kỷ. Đạo đức và văn hóa Phật giáo đã làm
sâu sắc và phong phú thêm các giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam như quan niệm từ
bi, hỉ xả, vô ngã vị tha, lục hòa cộng trụ và quan niệm về luật nhân quả. Phật giáo nhấn mạnh
rằng tất cả những đau khổ của con người và bất bình đẳng xã hội là tham, sân, si gây ra
những tà kiến, tranh chấp và hành động sai
lầm; Đề cao luật nhân quả, nghiệp báo, khuyên tín đồ thực hành “Ngũ giới luật”, “Bát Chánh
đạo”, nâng cao trách nhiệm với cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội, thúc đẩy con người nắn chỉnh hành vi của mình.
Tư tưởng Phật giáo và đời sống tinh thần của người dân Việt Nam có mối quan hệ mật thiết,
gắn bó. Cơ sở của sự giao thoa này bắt nguồn từ đặc điểm của người dân nước ta chủ yếu là
nông dân trồng lúa nước với tín ngưỡng là đa thần. Người Việt Nam hòa đồng, yêu nước,
yêu hòa bình, vì nghĩa, thân thiện và nhân hậu. Văn hóa Phật giáo với những giá trị tích cực
như từ bi, hỷ xả, cứu khổ, cứu nạn, bình đẳng, bác ái dễ đi vào lòng người, phù hợp với
phong tục, tập quán và hòa nhập với các nền văn hóa nước nhà. VớI bề dày lịch sử kháng
chiến chống giặc ngoại xâm, Việt Nam đã chịu nhiều thương đau với gần một ngàn năm Bắc
thuộc, khi Phật giáo du nhập vào, với những
giá trị của mình, Phật giáo như một liều thuốc an thần giúp xoa dịu nỗi đau của dân
tộc ta. Vì những lẽ trên, tư tưởng Phật giáo và đời sống tinh thần của người Việt Nam có mối
quan hệ mật thiết, Phật giáo trở thành một phần không thể thiếu của tín ngưỡng và văn hoá của người Việt Nam.
Phật giáo và tôn giáo người Việt
Phật giáo được coi là một trong những tôn giáo lớn và quan trọng nhất tại Việt Nam, và đã
ảnh hưởng đến tôn giáo và tín ngưỡng của người Việt trong suốt hàng ngàn năm lịch sử.
Trong tôn giáo người Việt, Phật giáo được xem là một trong những tôn giáo có nền tảng
vững chắc và nhân đức cao, phù hợp với nền văn hóa và tôn giáo của người Việt. Với triết lý
giáo dục tâm linh cao đẹp và ý nghĩa sâu sắc, Phật giáo đã đóng góp rất nhiều vào việc hình
thành và phát triển tôn giáo và tín ngưỡng của người Việt.
Với bề dày lịch sử lên đến hơn 2000 năm, Phật giáo đã khẳng định vị thế của mình trong các
lĩnh vực đời sống xã hội, trở thành một hệ tư tưởng - tôn giáo tồn tại lâu đời và có ảnh hưởng
sâu sắc trong đời sống người dân Việt Nam. Trong nhiều thế kỷ, văn hóa Phật giáo là một bộ
phận không thể tách rời khỏi văn hóa dân tộc. Phật giáo mang đậm tính triết học hơn bất kỳ
tôn giáo nào khác, cái đích là cứu con người thoát khỏi nỗi đau muôn đời với cứu cánh là
giải thoát. Phật giáo chứa đựng cả một hệ tư tưởng về thế giới quan, nhân sinh quan vô cùng
sâu sắc. Những tư tưởng cơ bản của đạo đức Phật giáo đã và đang có những tác động, ảnh
hưởng sâu rộng đến. nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở nước ta.
Phật giáo đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của người Việt, và
có ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động văn hóa, xã hội, kinh tế và chính trị của đất nước.
Những giá trị tâm linh của Phật giáo như lòng biết ơn, lòng từ bi, lòng nhân ái, lòng kiên
nhẫn, và lòng khiêm tốn đã trở thành những giá trị cốt lõi của văn hóa và đạo đức của người Việt.
Ngoài ra, các công trình kiến trúc, tượng Phật và các biểu tượng của Phật giáo cũng là những
nét đặc trưng của văn hóa tôn giáo của người Việt. Các đền, chùa, miếu và những công trình
kiến trúc khác được xây dựng để thể hiện lòng tôn kính và tôn trọng đối với Phật giáo. KẾT LUẬN
Tóm tắt những điểm quan trọng về tác động của Phật giáo đến đời sống tinh thần người Việt :
Phật giáo có ảnh hưởng to lớn đối với đời sống và xã hội Việt Nam. Qua các hình thức khác
nhau như các lễ nghi, phong tục đều có sự hiện diện của Phật giáo là chủ yếu, có thể nhìn
nhận rõ ràng qua từng lời ăn tiếng nói của con người Việt Nam, con người trở nên hướng
thiện, không nói lời gian dối, bịa đặt, luôn hướng về những điều thiện lành và không làm
những điều ác. Những điều đó đã in sâu vào tiềm thức của con người Việt Nam, ngay trong
thời của các vị vua hoặc ngay cả trước thời đại này, khi các nền tôn giáo đều chưa phát triển
rộng rãi mang đến cho con người một niềm tin và một
cuộc sống bình anh, Phật giáo đã hình thành và phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam trong suốt
một thời gian dài, Phật giáo đã trở nên một tín ngưỡng tôn giáo trong lòng của người Việt hàng ngàn năm.
Phật giáo ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của con người Việt Nam:
Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc vào chính đời sống tín ngưỡng của con người Việt Nam,
Phật giáo đã tác động mạnh mẽ vào lối sống, tư tưởng, phong tục, văn hóa của con người
Việt Nam. Họ đã nhận lại một giá trị tinh thần an lạc, bình an, luôn hướng về những điều
thiện lành trong lối sống của họ. Tất cả những điều đó đã khiến cho đời sống của con người
Việt Nam về tinh thần và cả thể xác đều cảm thấy bình an, luôn cảm thấy an lành trong mọi
việc làm của họ, khiến họ biết nghĩ và làm những điều đúng tránh những điều ác, trong tiềm
thức họ luôn hướng về Phật hướng về những điều thiện lành và con người trở nên yêu
thương nhau nhiều hơn. Chính những điều