



Preview text:
Giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp nghèo khổ nhất là đúng hay sai? Vì sao?
Để trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng thì giai cấp đó phải có hệ tư tưởng và khả năng tạo ra
phương thức sản xuất mới. Ví dụ, sự phát triển hình thái kinh tế xã hội: nếu như trong chế độ chiếm
hữu nô lệ thì nộ lệ là giai cấp nghèo khổ nhất, trong chế độ phong kiến thì nông dân là giai cấp nghèo
khổ nhất, chế độ tư bản chủ nghĩa thì công nhân là giai cấp nghèo khổ nhất. Tuy nhiên, nông dân
không giữ vai trò lãnh đạo cách mạng do họ không có hệ tư tưởng và khả năng tạo ra phương thức
sản xuất mới. Ngược lại, giai cấp tư sản dưới chủ nghĩa tư bản, họ không phải là giai cấp nghèo khổ
nhất nhưng họ có thể tạo ra một phương thức sản xuất mới và hệ tư tưởng tư sản.
Bên cạh đó, ngoài việc thay đổi phương thức sản xuất thì giai cấp lãnh đạo cách mạng phải hội đủ các
điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử cho mình:
Điều kiện kinh tế và điều kiện chính trị- xã hội (phân tích thêm trong giáo trình trang 60- 61) Hoặc:
Theo tôi ý kiến này sai. Vì:
Không phải giai cấp nào nghèo khổ nhất cũng là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Trong quá trình về giai
cấp công nhân và các giai phận trước đó, trong chủ nghĩa Mác- Leenin có nêu rõ: “Không phải giai
cấp nào nghèo khổ cũng là giai cấp lãnh đạo cách mạng”. Cụ thể, vào cuối thời kỳ phong kiến, giai
cấp tư sản lên giữ vai trò đó và họ không phải giai cấp nghèo khổ nhất.
Giai cấp trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng thì phải là giai cấp có khả năng thay đổi 1 phương
thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất hiện tại. Trong tiến trình lịch sử đi từ thấp đến cao,
có giai cấp đã thay đổi phương thức sản xuất mới. Vd: trong xã hội chiếm hữu nô lệ thì nô lệ có thể
tạo ra một phương thức sản xuất mới để cho ra đời một phương thức sản xuất mới trong xã hội phong
kiến. Giai cấp tư sản có thể tạo ra phương thức sản xuất mới hơn là phương thức sản xuất công
nghiệp thay thế cho phương thức sản xuất thủ công.
Để trở thành một giai cấp có sứ mệnh lịch sử đó thì họ phải hội tụ tất cả các điều kiện khách quan
quy định cho sứ mệnh lịch của mình. Trong trường hợp này, giai cấp công nhân có đủ 2 điều kiện
khách quan: kinh tế, chính trị.
Trong giai đoạn thế kỉ 19, giai cấp công nhân trong xã hội tư bản có đủ điều kiện khách quan qui định
sứ mệnh lịch sử của họ gồm có: kinh tế-xã hội, chính trị.
Điều kiện kinh tế xã hội:
Không có tư liệu sản xuất nên phải bán sức lao động.
Họ là người trực tiếp hoặc gián tiếp vận hành máy móc công cụ có tính chất xã hội hóa ngày càng cao. Điều kiện chính trị:
Họ là lực lượng được sinh ra trong xã hội tư bản và được rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp
giúp họ có ý thức, tổ chức, kỷ luật cao. Khi làm cách mạng thì họ sẽ có tinh thần cách mạng triệt để nhất
Phân tích các chức năng cơ bản của gia đình? Theo nhóm bạn, chức năng nào quan trọng nhất? Vì sao?
Có tổng cộng 4 chức năng cơ bản của gia đình: Chức năng tái sản xuất ra con người, chức năng nuôi
dưỡng, giáo dục; chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng; chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý,
duy trì tình cảm gia đình.
Chức năng tái sản xuất ra con người luôn luôn là chức năng quan trọng nhất của gia đình. Đó là chức
năng cố hữu, đặc thù, không một thiết chế xã hội nào thay thế được. Nó thực hiện duy trì nòi giống,
chuyển giao văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác. do đó, nó là một trong hai nhân tố quyết định sự
tồn tại và phát triển của lịch sử nhân loại. Mặt khác, chúng ta cũng cần phải đánh giá đúng chức năng
xã hội của gia đình bởi mỗi gia đình đóng vai trò là một tế bào trong xã hội. gia đình hạnh phúc xã
hội mới phồn vinh, giàu đẹp.
Chức năng này góp phần cung cấp sức lao động – nguồn nhân cho xã hội. Chức năng này sẽ góp
phần thay thế những lớp người lao động cũ đã đến tuổi nghỉ hưu, đã hết khả năng lao động linh hoạt,
năng động, sáng tạo. Việc thực hiện chức năng này vừa đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của xã
hội vừa đáp ứng được nhu cầu về tâm sinh lí, tình cảm của chính bản thân con người. Ở mỗi quốc gia
khác nhau thì việc thực hiện chức năng này là khác nhau. Ví dụ:Ở Việt Nam, thực hiện kế hoạch hóa
gia đình, mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con vừa đảm bảo được sức khỏe cho mẹ lại đảm bảo được
chất lượng về cuộc sống cho gia đình và có điều kiệnchăm sóc, dạy bảo các con.Ở Trung Quốc hiện
nay tỉ lệ nam giới đang có sự chênh lệch lớn so với nữ giới, vì thế nên nhà nước đang thực hiện chính
sách khuyến khích sinh con một bề là con gái. Đến năm 2010, tại Trung Quốc, SRB đạt 118 bé
trai/100 bé gái, giảm so với 121 (năm 2008), 119 (năm 2005), 121 (năm 2004). Tỷ số giới tính sẽ vẫn
tiếp tục chênh lệch ở mức báo động 119 bé trai trên 100 bé gái vào những năm 2030
So sánh giữa dân chủ tư sản và dân chủ XHCN Về chính trị
Dân chủ tư sản: Đa đảng lãnh đạo, đa nguyên về đường lối chính trị. Mang bản chất và hệ tư
tưởng giai cấp tư sản. Phục vụ cho thiểu số
Dân chủ XHCN: 1 đảng, nhất nguyên về đường lối chính trị. Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là
chủ nghĩa Mác lênin. Phục vụ cho đại đa số người dân trong xã hội (Mang bản chất công nhân) Về kinh tế
Dân chủ tư sản: Tư hữu về tư liệu sản xuất. Giai cấp tư sản làm chủ trong quá trình quản lý, sản xuất, phân phối sản phẩm.
Dân chủ XHCN: Công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội, quyền làm chủ trong quá
trình sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối. Xem lợi ích kinh tế của người lao động là động lực
cơ bản nhất và thúc đẩy sự phát triển
Về tư tưởng bản chất
Dân chủ tư sản: Hệ tư tưởng giai cấp tư sản. Kế thừa những giá trị, nền văn hóa trước đó (phục vụ
giai cấp tư sản chứ không phải toàn dân). Không có sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và xã hội
Dân chủ XHCN: Lấy hệ tư tưởng Mác Lênin làm hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là hệ tư
tưởng chủ đạo với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới. Kế thừa những giá trị của các
nền văn hóa trước đó. Kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và xã hội.
Kết luận: Nền dân chủ XHCN hơn hẳn về chất so với nền dân chủ tư sản. Quyền quản lý xã hội
đều có sự góp mặt của nhân dân. Hoạt động mang tính bản chất của con người: lao động sản xuất, thực
hiện lợi ích và thỏa mãn nhu cầu.
4. So sánh điểm giống và khác nhau giữa tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan.
Tín ngưỡng là hệ thống niềm tin của con người, sự ngưỡng mộ trước những đấng linh thiêng, siêu
nhiên mà con người cầu xin sự bình yên.
Tôn giáo: là phải có hệ thống giáo lý giáo luật, phải có tổ chức giáo hội, phải có lễ nghi thờ cúng. Mê
tín: là niềm tin của con người, tin một cách mê muội, viễn vong, không dựa trên cơ sở nào cả, mà
được bao phủ bởi yếu tố siêu nhiên thần thánh, hư ảo.
Dị đoan: là sự suy đoán, hành động một cách cực đoan, sai chuẩn mực xã hội. Ví dụ: lập đàn cúng
tế, bói toán, bùa chú, cầu cơ, nuôi ngải, bắt vong, lên đồng...
Điểm giống nhau: Cả 3 đều tin vào lực lượng siêu nhiên không có thật, điểm giống nhau giữa tín
ngưỡng và tôn giáo là đều được pháp luật công nhận, còn mê tín dị đoan thì không được pháp luật
công nhận. Xét trên mặt tác đổng thì tín ngưỡng và tôn gióa mang đến những giá trị tốt đẹp. Điểm
khác nhau: điểm thứ 1, tôn giáo thì có hệ thống giáo lý, còn tín ngưỡng thì có bài văn tế. Điểm thứ 2,
nghi thức thờ cúng của tôn giáo đồng nhất, còn tín ngưỡng thì không đồng nhất. Còn mê tín dị đoan
thì không có hệ thống nào cả. Mục đích của mê tín dị đoan là trục lợi.