







Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601608
(Phần tổng hợp rút gọn ở dưới cùng)
2.Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực.
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong
trào yêu nước. "Chế độ thực dân tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối
với kẻ yếu rồi". Chưa đánh bại được lực lượng và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng thì chưa thể
có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế, con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực.
Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc tay sai, Hồ Chí Minh vạch rõ tính tất
yếu của bạo lực cách mạng. "Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân
tộc, cần dùng bạo lực cách mạng, chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng.
Trong thời kỳ vận động giải phóng dân tộc 1940-1945, Người cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo
xây dựng cơ sở của bạo lực cách mạng bao gồm 2 lực lượng: lực lượng chính trị quần chúng và
lực lượng vũ trang nhân dân. Theo sáng kiến của Người, Mặt trận Việt Minh được thành lập. Đó
là nơi tập hợp, giác ngộ và rèn luyện lực trong chính trị quần chúng, một lực lượng cơ bản và giữ
vai trò quyết định trong tổng khởi nghĩa vũ trang.
Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, nhưng
phải "tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử
dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách Mạng" 1 .
Trong cách mạng tháng Tám, bạo lực thể hiện bằng khởi nghĩa vũ trang với lực lượng chính trị là
chủ yếu. Đó là công cụ đập tan chính quyền của bọn Phátxít Nhật và tay sai giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí quyết định trong
việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu quân sự và chính trị của chúng.
Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt với đấu tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn
thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững
chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang. lOMoAR cPSD| 61601608
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến- của các thế lực đế
quốc xâm lược. Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người. Người
luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm mọi cách ngăn chặn xung
đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình, chủ động đàm
phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc.
Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chí khí không còn khả năng hòa
hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân sự
thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động chiến tranh. Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng
nhân đạo, hòa bình thống nhất biện chứng với nhau. Yêu thương con người, yêu chuộng hòa bình,
tự do, công lý, tranh thủ mọi khả năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể
tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách
mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hòa bình, vì độc lập, tự
do. Đánh giặc không phải là tiêu diệt hết lực lượng, mà chủ yếu là đánh bại ý chí xâm lược của
chúng, kết hợp giành thắng lợi về quân sự với giải pháp ngoại giao để kết thúc chiến tranh.
Theo Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc "lực lượng chính là ở dân". Người chủ
trương: tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân. Xuất phát từ tương quan lực
lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều. Hồ Chí Minh không chủ trương tiến hành kiểu chiến
tranh thông thường, có chiến tuyến rõ rệt, chỉ dựa vào lực lượng quân đội và dốc toàn lực vào
một số trận sống mái với kẻ thù mà chủ trương phát động chiến tranh nhân dân, dựa vào lực
lượng toàn dân, có lực lượng vũ trang làm nòng cốt, đấu tranh toàn diện với kẻ thù đế quốc với
tư tưởng chiến lược tiến công, phương châm chiến lược đánh lâu dài và dựa vào sức mình là
chính. Hồ Chí Minh nói: "Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không
thể nào thắng lợi được" ! .
Toàn dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thái bạo lực cách mạng.
Trong chiến tranh, "quân sự là việc chủ chốt", nhưng đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với đấu
tranh chính trị. "Thắng lợi quân sự đem lại thắng lợi chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm thắng
lợi quân sự to lớn hơn" [1] .
Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược, có tác dụng thêm bạn bớt thù,
phân hóa và cô lập kẻ thù. phát huy yếu tố chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và
bảo vệ Tổ quốc, tranh thủ đồng tình ủng hộ của quốc tế. Hồ Chí Minh chủ trương "vừa đánh vừa
đàm", "đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ". lOMoAR cPSD| 61601608
Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển kinh tế của ta, phá
hoại kinh tế của địch. Người kêu gọi "hậu phương thi đua với tiền phương", coi "ruộng rẫy là
chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ", "tay cày tay súng, tay búa tay súng, ra sức
phát triển sản xuất để phục vụ kháng chiến".
Chiến tranh về mặt văn hóa hay tư tưởng so với những mặt khác cũng không kém quan trọng.
Mục đích của cách mạng và chiến tranh chính nghĩa là vì độc lập, tự do, làm cho khả năng tiến
hành chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho toàn dân tự giác tham gia kháng chiến.
Trước những kẻ thù lớn mạnh. Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài.
Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm phát huy cao độ
nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài. Mặc dù
rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức mạnh bên trong, phát huy
đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao tinh thần độc lập, tự chủ.
Độc lập, tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một quan điểm nhất
quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp
đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả cả về vật chất và tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại đó kháng chiến thắng lợi.
6. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực
a. Tính tất yếu của bạo lực cách mạng: lOMoAR cPSD| 61601608 •
Vì chủ nghĩa đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thôn tính các dân tộc thuộc
địa vì vậy con đường giành độc lập của các dân tộc thuộc địa chỉ có thể bằng con đường bạo lực
cách mạng của quần chúng . •
Bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là bạo lực của quần chúng mà
hình thái của bạo lực cách mạng gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh võ trang và tùy vào tình
hình cụ thể mà sử dụng các hình thức đấu tranh cho phù hợp.
b. Ở Hồ Chí Minh tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo hòa bình
Hồ Chí Minh chủ trương phải tranh thủ tất cả các khả năng đề giành thắng lợi cho cách
mạng mà đỡ hao tốn xương máu của nhân dân, phải tận dụng tối đa các biện pháp hòa bình để giải quyết xung đột.
Chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không còn khả năng hòa hoãn,
khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân sự thì
mới phải kiên quyết phát động chiến tranh. c. Hình thái của bạo lực cách mạng:
Hồ Chí Minh cho rằng lực lượng của cách mạng “là ở dân” vì vậy phải thực hiện khởi
nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân để huy động sức mạnh của toàn dân tham gia
đánh giặc . Nét đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thái của bạo lực cách mạng là toàn
dân khởi nghĩa, toàn dân nổi dậy . Hồ Chí Minh chủ trương:
• Chiến tranh nhân dân thì lực lượng vũ trang phải làm nòng cốt.
• Kháng chiến toàn dân là kháng chiến bao gồm cả quân sự, chính trị, kinh tếvà văn hóa .
• Phương châm để đánh giặc là đánh lâu dài, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính .
“Không dùng lực lượng của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó thì không thể nào
thắng lợi được” (Hồ Chí Minh toàn tập, t 4, tr 298)
_ Đấu tranh ngoại giao cũng là mặt trận có tác dụng thêm bạn bớt thù, phân hóa cô lập kẻ
thù, phát huy chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh chủ trương
“vừa đánh vừa đàm”, đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ . lOMoAR cPSD| 61601608
_ Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Người kêu gọi “hậu
phương thi đua với tiền phương”, “ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là
chiến sỹ”để phối hợp .
_ Đấu tranh về văn hóa cũng là mặt trận không kém phần quan trọng để phối hợp với đấu tranh quân sự .
Một phương châm chiến lược được Hồ Chí Minh nêu lên là phải tự lực cánh sinh,
dựa vào sức mình là chính nhằm phát huy sức mạnh nội lưc, tránh tư tưởng bị động, ỷ lại,
trông chờ vào bên ngoài.
**Tổng hợp ý chính của đoạn 2 và đoạn 6:**
1. **Tính tất yếu của bạo lực cách mạng trong giải phóng dân tộc**
- Đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, nên giành độc lập chỉ có
thể bằng bạo lực cách mạng của quần chúng.
- Hồ Chí Minh vạch rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng, cần dùng bạo lựccách mạng
chống lại bạo lực phản cách mạng để giành và bảo vệ chính quyền.
- Bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là bạo lực của quần chúng mà
hình thái của bạo lực cách mạng gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh võ trang và tùy vào tình
hình cụ thể mà sử dụng các hình thức đấu tranh cho phù hợp.
2. **Tư tưởng nhân đạo và hòa bình trong bạo lực cách mạng**
- Hồ Chí Minh chủ trương tận dụng tối đa biện pháp hòa bình để giải quyết xung đột,
nhằm giảm thiểu tổn thất cho nhân dân.
- Chiến tranh chỉ là giải pháp cuối cùng khi không còn khả năng hòa hoãn và kẻ thù ngoan
cố bám giữ lập trường thực dân.
- Tư tưởng bạo lực cách mạng và nhân đạo hòa bình thống nhất với nhau: tranh thủ mọi
khả năng hòa bình, nhưng khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì kiên quyết dùng bạo
lực cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hòa bình.
3. **Hình thái và phương châm của bạo lực cách mạng** lOMoAR cPSD| 61601608
- Lực lượng của cách mạng là ở dân, phải thực hiện khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.
- Chiến tranh nhân dân cần lực lượng vũ trang làm nòng cốt và kháng chiếntoàn diện bao
gồm quân sự, chính trị, kinh tế và văn hóa.
- Phương châm chiến lược là đánh lâu dài, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính.
- Đấu tranh ngoại giao nhằm thêm bạn bớt thù, phát huy chính nghĩa, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
- Đấu tranh kinh tế là tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, hậu phương thi đua với tiền phương.
- Đấu tranh văn hóa là mặt trận quan trọng phối hợp với đấu tranh quân sự.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đề cao tinh thần độc lập,tự chủ, và
tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế. Lý do:
1. Tự vệ và đối phó với thực dân:
- Một trong những lý do chính là tự vệ. Trong tình hình bị áp bức và thống trị bởi thực dân
hoặc quân đội ngoại bang, sử dụng bạo lực cách mạng là cách để bảo vệ quốc gia và nhân
dân khỏi sự xâm lược và áp lực bên ngoài.
2. Không có lựa chọn khác:
- Trong nhiều trường hợp, cách mạng bạo lực có thể trở thành lựa chọn duy nhất khi không
có đàm phán hoặc giải quyết hòa bình nào khả thi. Hồ Chí Minh và các lãnh đạo khác có
thể đã thử qua các biện pháp hòa bình trước khi quyết định sử dụng bạo lực cách mạng.
3. Động viên nhân dân:
- Sử dụng bạo lực cách mạng có thể động viên và thúc đẩy tinh thần đoàn kết và tự nguyện
tham gia của nhân dân. Việc thấy rằng mục tiêu giải phóng dân tộc chỉ có thể đạt được
thông qua cuộc chiến tranh có thể thúc đẩy sự tham gia của nhân dân.
4. Đánh thức tinh thần yêu nước: lOMoAR cPSD| 61601608
- Cuộc cách mạng bạo lực có thể đánh thức tinh thần yêu nước và khát vọng tự do của
nhân dân, thúc đẩy họ tham gia vào cuộc chiến cho độc lập và giải phóng.
5. Tạo áp lực chính trị: -
Bạo lực cách mạng có thể tạo áp lực chính trị lên chính quyền thựcdân hoặc chính
quyền đối thủ, đẩy họ phải ngồi vào bàn đàm phán hoặc đạt được các thỏa thuận thỏa đáng hơn cho dân tộc. -
Ngày 8/5/1954, sau thất bại ở Điện Biên Phủ, Pháp đã phải ngồi vàobàn Hội nghị
Giơnevơ. Ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về đình chiến sự ở Việt Nam đã được ký
kết. Lần đầu tiên trong lịch sử, các nước lớn tham dự hội nghị đã cam kết tôn trọng các
quyền dân tộc cơ bản là độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
Giá trị blcm của Bác trong giai đoạn HIỆN NAY: -
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng mang tính cách mạng,hoàn toàn không
đối lập với lòng nhân ái, tinh thần yêu chuộng hoà bình, nhưng cũng không mất cảnh giác
trước những âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt của kẻ thù. -
Ngày nay, tư tưởng về bạo lực cách mạng của Người vẫn giữ nguyêngiá trị. Thực
tiễn không ngừng vận động phát triển, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, vận dụng
sáng tạo tư tưởng của Người về bạo lực cách mạng cho phù hợp nhằm bảo vệ vững chắc
thành quả cách mạng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. -
Mặt khác, thực tiễn còn đòi hỏi chúng ta phải luôn chủ động, nhạybén về chính trị,
cảnh giác cao độ trước những âm mưu thủ đoạn mới của kẻ thù, tăng cường xây dựng
sức mạnh của bạo lực cách mạng để có thể chiến thắng kẻ thù trong bất kỳ tình huống
nào. Đồng thời, phải tích cực đấu tranh phê phán những nhận thức sai trái, lệch lạc, phủ
nhận hoặc mơ hồ về quan điểm bạo lực cách mạng trong tình hình mới. Kết luận:
•Phương pháp bạo lực cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là việc
sử dụng vũ trang mà còn áp dụng một cách thông minh, chiến lược và luôn đặt lợi
ích của nhân dân lên hàng đầu. lOMoAR cPSD| 61601608
•Tư tưởng Hồ Chí Minh thường kết hợp sử dụng bạo lực cách mạng với sự thông
minh chiến lược, đảm bảo rằng nó phục vụ mục tiêu chính trị và xã hội của việc giải phóng dân tộc.
•Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng là một bộ phận trong di sản tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng quân sự nói riêng.
•Là thanh niên thế hệ mới, phải có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định với
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối trung thành với sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước