Bảo lưu quyền sở hữu và hiệu lực đối kháng với người thứ ba

Bảo lưu quyền sở hữu với tư cách là một biện pháp bảo đảm thực hiệnnghĩa vụ, là một trong những nội dung mới được đưa vào BLDS 2015.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem

lOMoARcPSD| 45619127
Downloaded by Mai Linh Tr?nh Th? (trinhthimailinh5623@gmail.com)
lOMoARcPSD| 45619127
1
BẢO LƯU QUYỀN SỞ HỮU
HIỆU LỰC ĐỐI KHÁNG VỚI NGƯỜI THỨ BA
*PGS.TS Dương Anh Sơn
Tóm tắt: Bảo lưu quyền sở hữu với cách một biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ, là một trong những nội dung mới được đưa vào BLDS 2015. Trong bài viết
này tác giả phân tích một số nội dung liên quan đến vấn đề bảo lưu quyền sở hữu nói
trên như: tính thống nhất của các quy định pháp luật về biện pháp này, bảo lưu quyền
sở hữu nên biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hay chỉ nên là điều khoản trong
hợp đồng do các bên thoả thuận, việc áp dụng biện pháp bảo đảm này có thể gặp phải
những khó khăn trên thực tế. Bài viết cũng phân tích tính khả thi của các quy định
của pháp luật liên quan đến bảo lưu quyền sở hữu. Đặc biệt bài viết đề cập đến vấn đề,
hiệu lực đối kháng với người thứ ba khi biện pháp bảo lưu quyền sở hữu được đăng
nên là quyền truy đòi hay quyền ưu tiên thanh toán. Trên cơ sở phân tích những vấn đề
nói trên bài viết đưa ra một số đề xuất thể hiện quan điểm của tác giả.
Abstract: Retention of ownership as a measure to secure the performance of
obligations is one of the new contents incorporated in the Civil Code of 2015. In this
article, the author analyzes some of the issues related to retention of ownership as
mentioned above: the consistency of laws and regulations on this measure, whether
retention of ownership should be a legislated measure for securing the performance of
obligations or only be a clause in a contract agreed upon by the parties, some difficulties
that the application of this measure may face in practice. The paper also analyzes the
feasibility of the provisions of the law relating to the retention of ownership. In
particular, the article deals with the opposing effect to the third party when the retention
of ownership is registered as a right to claim or payment priority right. Based on the
analysis of the issues mentioned above, the article offers a number of suggestions
expressing the views of the author.
Dẫn nhập: Vừa mới hiệu lực chưa lâu vậy lẽ BLDS 2015 được áp dụng
để giải quyết trách chấp chưa nhiều. Các nhà làm luật cũng như toàn hội đặt nhiều
kỳ vọng vào BLDS 2015 này nhiều người tham vọng đối với lần sửa đổi này là
tiếp cận gần nhất với thể chế kinh tế thị trường, định hướng XHCN và đừng để Bộ luật
lớn như thế này mà cứ 10 năm phải sửa một lần
1
.
Có thể nhận thấy BLDS 2015 khắc phuc được nhiều hạn chế của BLDS năm 2005
về tài sản các quyền tài sản, về hợp đồng, về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ… Nhiều
quy định mới lần đầu tiên được tìm thấy sự thể hiện trong pháp luật Việt Nam. Một
trong số những điểm mới đó bảo lưu quyền sở hữu tài sản với cách là biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Mặc mới đưa vào BLDS tuy nhiên các quy định của
BLDS liên quan đến bảo lưu quyền sở hữu đã gây tranh cãi trong khoa học pháp lý.
1
* Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Xem: Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi): Sửa thế nào để kéo dài “tuổi thọ” của luật
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP/View_Detail.aspx?ItemID=2199
lOMoARcPSD| 45619127
2
1. Bảo lưu quyền sở hữu: Theo quy định tại Điều 331 BLDS 2015, trong hợp đồng
mua bán tài sản, quyền sở hữu tài sản thể được bên bán bảo lưu cho đến khi nghĩa
vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ. Bảo lưu quyền sở hữu phải được lập thành văn
bản riêng hoặc được ghi trong hợp đồng mua bán. Và bảo lưu quyền sở hữu phát sinh
hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng biện pháp bảo đảm này
tại Trung tâm đăng giao dịch bảo đảm. ý kiến cho rằng, quy định như vậy đảm
bảo hài hoà lợi ích của bên bán và bên mua
2
.
Theo pháp luật ca nhiều nước thì bảo lưu quyền sở hữu chỉ thkhi thoả mãn
hai điều kiện cần đủ: thứ nhất, trong hợp đồng mua bán người bán đồng ý cho người
mua trả chậm; thứ hai, bảo lưu quyền sở hữu phải được các bên thoả thuận trong
hợp đồng. Trong khi đó, pháp luật của Việt Nam có vkhông nhất quán trong vấn đề
này. Mặc dù, không trực tiếp nhưng khoản 2 Điều 331 BLDS một cách gián tiếp đã quy
định rằng, bảo lưu quyền sở hữu chỉ có thể khi và chỉ khi có sự thoả thuận của các bên
hoặc là trong hợp đồng, hoặc trong mt văn bản riêng biệt. Trong khi đó theo quy định
tại Khoản 1, Điều 453 BLDS 2015, các bên thể thoả thuận về việc bên mua trả chậm
hoặc trả dần tiền mua trong một thời hạn sau khi nhận tài sản mua. Bên bán được bảo
lưu quyền sở hữu đối với tài sản bán cho đến khi bên mua trả đủ tiền, trừ trường hợp
có thoả thuận khác.
Từ quy định của Điều 331 BLDS 2015, có thể mặc nhiên hiểu rằng, người bán chỉ
thể quyền bảo lưu quyền sở hữu trong khoảng thời gian người mua chưa thực
hiện xong nghĩa vụ thanh toán cho người bán. bảo lưu quyền sở hữu sẽ chấm dứt
tại thời điểm nghĩa vụ thanh toán cho bên bán được thực hiện xong.
3
Điều này cũng
nghĩa trong trường hợp người mua thực hiện nghĩa vụ thanh toán trước hoặc vào thời
điểm nhận hàng thì người bán không có quyền bảo lưu quyền sở hữu. Như vậy chúng
ta có thể thấy, bối cảnh trong đó người bán bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản là đối
tượng của hợp đồng mua bán tài sản theo Điều 331 Điều 453 BLDS 2015 là giống
nhau người mua chưa thực hiện nghĩa vthanh toán cho người bán. Người mua chưa
thực hiện nghĩa vụ thanh toán nghĩa là người mua được phép trả chậm. Tuy nhiên
căn cứ phát sinh bảo lưu quyền sở hữu lại khác nhau: có thoả thuận theo Điều 331 và
mặc nhiên theo Điều 453. hơn thì thể nói rằng, theo quy định tại Điều 453 BLDS
2015, điều kiện cần và đủ để người bán bảo lưu quyền sở hữu là người mua chưa thực
hiện nghĩa vụ thanh toán (trả chậm, trả dần), trong khi đó đây mới chỉ là điều kiện cần
để người bán bảo lưu quyền sở hữu theo điều 331, còn điều kiện đlà phải thoả
thuận của các bên.
Hợp đồng sự thoả thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền nghĩa vụ dẫn sự. Theo quy định tại Điều 453 BLDS 2015, trong hợp đồng
mua bán trả chậm, trả dần bảo lưu quyền sở hữu luôn là bắt buộc không phụ thuộc vào
2
Xem: Nguyễn Minh Tuấn, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Tư
pháp, 2015, tr. 505.
3
Xem khoản 1 Điều 334 BLDS 2015.
lOMoARcPSD| 45619127
3
việc các bên thoả thuận trong hợp đồng hay không, người bán không quyền
bào lưu quyền sở hữu nếu các bên thoả thuận về điều đó trong hợp đồng. đây pháp
luật đã một cách cớ áp đặt ý chí của mình cho người mua. Theo nguyên tắc, pháp
luật chỉ có thể áp đặt ý chí của họ cho các bên trong hợp đồng chỉ trong một số trường
hợp ngoại lệ khi phải bảo về lợi ích của nhà nước, của hội hoặc của người thứ ba.
Trong hợp đồng mua bán trả chậm, trả dần tôi thấy việc người bán không bảo lưu quyền
sở hữu đối với tài sản hoàn toàn không gây thiệt hại cho bất kỳ người nào khác. Một
điều kỳ lạ trong quy định này nữa là, một mặt mặc nhiên trao cho người bán quyền bảo
lưu quyền sở hữu mặt khác lại cho phép các bên thoả thuận việc người bán không
quyền này.
Từ những phân ch lập luận trên tôi cho rằng, quy định tại Điều 453 BLDS
2015 không những mâu thuẫn với Điều 331BLDS 2015 mà còn trái thực tiễn và thiếu
tính khả thi.
4
2. Quyền đòi lại tài sản: Theo quy định tại Điều 332 BLDS 2015, trong trường
hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận thì
bên bán quyền đòi lại tài sản. Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã
thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường hợp bên mua làm
mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Nếu người mua vẫn đang chiếm giữ tài sản tài sản vẫn còn duy trì tình trạng ban
đầu thì việc đòi lại tài sản việc đơn giản. Vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn nhiều khi
hàng hoá nguyên gốc không còn do hành vi sáp nhập, trộn lẫn hay chế biến của người
thậm chí tạo thành sản phẩm mới cùng với nguyên vật liệu của người khác
5
. Trong
những trường hợp này thì quyền đòi lại tài sản được thực hiện như thế nào? Xem ra
pháp luật Việt Nam chưa chuẩn bị các khả năng thể để giải quyết các tình huống nói
trên.
Nếu quyền đòi lại tài sản bao gồm không những đòi lại tài sản nguyên trạng còn
cả quyền đòi lại giá trị của tài sản thì bảo lưu quyền sở hữu không còn được coi là biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chỉ điều khoản do các bên thoả thuận trong hợp
đồng mua bán tài sản.
Một vấn đề cũng cần phải được xem xét, là giả thiết nếu trong hợp đồng không có
điều khoản bảo lưu quyền sở hữu và pháp luật không điều chỉnh vấn đề này thì người
bán có quyền đòi lại tài sản đã bán khi người mua không thực hiện nghĩa vụ thanh toán
hay không?
Theo quy định tại Điều 425 BLDS 2005, một bên quyền huỷ bỏ hợp đồng và
không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà
các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật quy định, khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng
4
Xem thêm Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, NXB Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam
2016, tr. 335.
5
Xem: Trịnh Thục Hiền, Bảo lưu quyền sở hữu trong Dự thảo Bộ luật Dân sự: một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ. Kỷ yếu Hội thảo “Góp ý xây dựng Bộ luật Dân sự” do trường Đại học Kinh tế - Luật tổ chức ngày 28/4/2015.
lOMoARcPSD| 45619127
4
không hiệu lực từ thời điểm giao kết các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã
nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền, và bên có lỗi trong
việc hợp đồng bhuỷ bỏ phải bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp không thoả
thuận vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ hợp đồng BLDS quy định một số trương hợp
cho phép người mua được huỷ hợp đồng và yêu cầy bồi thường thiệt hại.
6
Trong khi đó
không có quy định nào của BLDS năm 2005 và cả LTM 2005 cho phép người bán huỷ
bỏ hợp đồng khi người mua không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nếu các bên không
thoả thuận khác. Tôi cho rằng, đó một trong những bất cập của BLDS 2005
LTM 2005. lđể khắc phục bất cập nói trên vấn đề bảo lưu quyền sở hữu được đưa
vào Điều 461-mua trả chậm, mua trả dần nhằm bảo vệ người bán tốt hơn.
7
Như vậy theo BLDS 2005, ngay cả khi không có điều khoản bảo lưu quyền sở hữu
thì người bán vẫn quyền đòi lại tài sản bằng cách huỷ hợp đồng nếu người mua
không thực hiện nghĩa vụ thanh toán là điều kiện huỷ hợp đồng.
Vấn đề tiếp theo, chúng ta giả thiết là không có quyền đòi lại tài sản theo quy định
tại Điều 332 BLDS 2015, thì trong trường hợp người mua không thực hiện nghĩa vụ
thanh toán cho người bán theo hợp đồng mua bán tài sản và trong hợp đồng này không
thoả thuận bảo lưu quyền sở hữu thì người bán có quyền đòi lại tài sản hay không.
Có thể nói rằng, người mua không thanh toán cho người bán có nghĩa là người mua đã
vi phạm hợp đồng khi việc sự vi phạm này rơi vào tình huống được quy định tại
Điều 424 BLDS 2015 thì người bán có quyền huỷ hợp đồng.
Thật vậy, theo quy định tại Điều 424 BLDS 2015, trường hợp bên nghĩa vụ
không thực hiện đúng nghĩa vmà bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong một
thời hạn hợp lý nhưng bên có nghĩa vụ không thực hiện thì bên có quyền có thể huỷ bỏ
hợp đồng
7
. Khi hợp đồng bị huỷ, theo quy định tại Điều 427 BLDS 2015 thì: i) hợp
đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ
đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại thỏa thuận về
giải quyết tranh chấp; ii) Các bên phải hoàn trả cho nhau những đã nhận sau khi trừ
chi phí hợp trong thực hiện hợp đồng chi phí bảo quản, phát triển tài sản, việc
hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật
thì được trị giá thành tiền để hoàn trả; và iii) Bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa
vụ của bên kia được bồi thường. Quy định này của pháp luật được áp dụng cho cả
những trường hợp người mua không thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng.
6
Xem: Điểm c, khoản 2 Điều 435 - Trách nhiệm do giao vật không đúng số lượng; ĐIểm b, khoản 1 ĐIều 436 - Trách
nhiệm do giao vật không đồng bộ, khoản 3 Điều 437 - Trách nhiệm giao vật không đúng chủng loại BLDS 2005.
7
Khoản
1 Điều 461 BLDS 2005 quy định, Các bên có thể thoả thuận về việc bên mua trả chậm hoặc trả dần tiền mua trong một
thời hạn sau khi nhận vật mua; bên bán được bảo lưu quyền sở hữu của mình đối với vật bán cho đến khi bên mua trả đủ
tiền, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Mặc dù có quy định như vậy pháp luật không nói đền cách thức áp dụng và hậu
quả pháp lý trong trường hợp người mua không thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Có lẽ chính vì vậy quy định này hầu như rất
ít được sử dụng trong thực tế.
7
Có thể nói rằng, Điều 424 BLDS 2015 khắc phục được khiếm khuyết của Điều 425 BLDS 2005 khi trao cho người bán
quyền huỷ hợp đồng trong trường hợp người mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán.
lOMoARcPSD| 45619127
5
Từ những phân tích trên thể thấy rằng, cho không quy định đòi lại tài
sản theo Điều 332 BLDS 2015 thì người bán vẫn quyền đòi lại tài sản theo Điều 424
và Điều 427 BLDS 2015.
Vậy vấn đề cần phải được xem xét là việc đòi lại tài sản khi bảo lưu quyền sở hữu
theo quy đinh tại Điều 332 và việc hoàn trả lại tài sản trong trường hợp hợp đồng bị
huỷ theo quy định tại Điều 427 BLDS 2015 có gì khác nhau? Về vấn đề này pháp lut
còn để ngỏ. Theo quan điểm của tôi thì pháp luật cần cơ chế cho phép người bán đòi
lại tài sản được bảo lưu quyền sở hữu nhanh chóng, linh hoạt và chắc chắn hơn so với
yêu cầu hoàn trả lại tài sản trong trường hợp hợp đồng bị huỷ.
3. Hiệu lực đối kháng với người thứ ba: quyền truy đòi tài sản hay quyền ưu
tiên. Hiệu lực đối kháng với người thứ ba được coi là quy định mới trong BLDS 2015
về thực chất ý nghĩa tương đồng với “có giá trị pháp đối với người thứ ba”
8
theo quy định tại khoản 3 Điều 323 BLDS 2005., hiệu lực đối kháng với người thứ ba
được hiểu là: i) người nhận bảo đảm được ưu tiên thanh toán trước so với các chủ nợ
khác; theo quy định tại Điều 308 BLDS 2015; ii) người quyền (người bán) quyền
truy đòi tài sản từ người thứ 3 đang chiếm giữ tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều
297 BLDS 2015. Trong phạm vi bài viết tác giả không đề cập đến quyền ưu tiên thanh
toán mà chỉ đi sâu phân tích quyền truy đòi. cần phải nghĩa vụ tôn trọng, ví dụ quyền
của các bên đối với tài sản bảo đảm.
ý kiến cho rằng, “quyền truy đòi” nêu trên của BLDS 2015 ý nghĩa tương
đồng với “trả lại tài sản” của bên nhận cầm cố đối với trường hợp tài sản bị người khác
chiếm giữ của BLDS 2005
10
. Tôi cho rằng, quyền truy đòi quyền yêu cầu người
đang chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài sản theo Khoản 1 Điều
314 BLDS 2015, quyền yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp
giao tài sản đó cho mình để xử khi bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ theo Khoản 5 Điều 323 BLDS 2015, quyền đòi lại tài sản theo
Điều 332 BLDS 2015, không giống nhau. Bên quyền thực hiện quyền truy đòi
khi họ không thể đòi lại tài sản từ các chủ thể nói trên tài sản đã được họ chuyển
giao cho người thứ ba khác.
Đối với các biện pháp cầm cố và thế chấp thì bên cầm cố hoặc bên thế chấp khó có
thể chuyển nhượng tài sản thế chấp cho người thứ ba vì việc chuyển nhượng này đã b
ngăn cản bởi việc đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc tài sản đã bị chiếm giữ. Nếu là cầm
cố động sản thì bên nhận cầm cố đang chiếm giữ tài sản nên vấn đề truy đòi không
được đặt ra mà chthể quyền đòi lại tài sản từ người chiếm giữ trái pháp luật. Nếu
tài sản cầm cố (là động sản) hoặc thế chấp là bất động sản (cả thế chấp động sản) thì
bên cầm cố bên thế chấp không thể chuyển nhượng tài sản đó một cách hợp pháp
cho người thứ ba nếu chuyển nhượng thì chuyển nhượng bất hợp pháp trong
những trường hợp này bên nhận cầm cố hoặc bên nhận thế chấp quyền đòi lại tài
8
Xem: Nguyễn Hải An, Các quy định mới về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa v trong Bộ luật Dân sự năm 2015
và tác động đến lợi íchcủa các doanh nghiệp, Tạp chí khoa học Pháp lý, số 2(105) 2017.
10
Xem: Nguyễn Hải An, tlđd.
lOMoARcPSD| 45619127
6
sản từ người chiếm hữu mà không phải thực hiện quyền truy đòi. Trong trường hợp thế
chấp động sản, bên nhận thế chấp có thcho phép bên thế chấp bán tài sản thế chấp
có quyền theo đuổi (cũng có thể gọi là quyền truy đòi) tài sản đó (hoặc giá trị tài sản).
Như vậy, quyền truy đòi được thực hiện khi không thể đòi lại tài sản từ chủ thể
nghĩa vụ (bên chế chấp động sản có quyền bán động sản đó và người mua tài sản được
bảo lưu quyền sở hữu) vì tài sản đã được chuyển giao hợp pháp cho người thứ ba. Hay
nói cách khác là người bán thực hiện quyền truy đòi tài sản khi có đủ các điều kiện cần
đủ: điều kiện cần là trong hợp đồng có điều khoản bảo lưu quyền sở hữu biện
pháp bảo đảm này đã được đăng ký; điều kiện đủ người mua không còn chiếm giữ
tài sản sản mua bán được bảo lưu quyền sở hữu và tài sản đã được người mua bán cho
người thứ ba.
Việc thực hiện quyền truy đòi tài sản từ khách hàng của người mua sgặp những
khó khăn nào, có thể gây ra những rủi ro và tạo ra những hệ luỵ gì?
Để hiểu hơn quyền truy đòi tài sản của người bán, chúng ta xem xét dụ sau
đây. Ông A bán tài sản cho ông B trong hợp đồng này ông A cho phép ông B trả
chậm (tương tự mua trả chậm, trả dần). Cũng trong hợp đồng này điều khoản bảo
lưu quyền sở hữu đối với tài sản đó của ông A. Biện pháp bảo đảm này được đăng ký.
Sau khi nhận tài sản từ ông A, ông B bán tài sản đó cho ông C. Đến thời hạn ông B
không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho ông A. Theo quy định tại Điều 332 ông A
quyền đòi lại tài sản từ ông B, nhưng tài sản đã được ông B bán cho ông C. không
đòi lại được tài sản từ ông B nên ông A quyền truy đòi tài sản từ ông C.
Như phân tích ở trên, việc ông A đòi tại tài sản từ ông B đã là vấn đề phức tạp thì việc
ông A truy đòi tài sản từ ông C lại càng phức tạp hơn.
Thực tiễn hoạt đồng thương mại cho thấy rằng, người mua mua hàng hoá không
phải để thoả mãn nhu cầu cuộc sống mà thường nhằm mục địch kiếm lời. vậy sau
khi nhận hàng từ người bán họ không giữ lại mà chuyển nhượng cho những người mua
khác. Và đây cũng là điều mà các nhà làm luật có nghĩ đến, có dự liệu trước.
Việc thực hiện quyền truy đòi tài sản sẽ gặp những vấn đề phức tạp sau đây:
Thứ nhất, tài sản đã được chuyển giao một cách hợp pháp qua nhiều người, ví dụ,
A bán cho B A bảo lưu quyền sở hữu, B bán cho C, C bán cho D…Trong trường hợp
này người bán truy đòi tài sản từ ai trong số những người nói trên và như thế nào?
Thứ hai, sau khi mua tài sản được bảo lưu quyền sở hữu người mua bán lại cho
nhiều khách hàng và không loại trừ các khách hàng của người mua đã chuyển nhượng
tài sản cho những người khác. Trong trường hợp này người bán khó có thể xác định
được hết khách ng của người mua, nhng người đã mua tài sản là đối tượng bảo lưu
quyền sở hữu. Vấn đề strở nên phức tạp hơn rất nhiều khi tài sản đó động sản
hàng đồng loại.
Thứ ba, tài sản được bảo lưu đã được khách hàng của người mua trộn lẫn với các
loại i sản khác thành tài sản chung hợp nhất. Trong trường hợp này việc truy đòi chính
tài sản là đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu không thể mà chỉ có thể truy đòi giá
lOMoARcPSD| 45619127
7
trị của phần tài sản đó. Việc này cũng không thể được thực hiện dễ dàng. Ai sngười
xác định tỉ lệ? Ai sẽ bỏ chi phí để thuê giám định? Dưới góc độ kinh tế học thì chi phí
giao dịch có thể khá cao và điều này làm giảm đáng kể hiệu quả của giao dịch.
Ngoài những khó khăn khi thực hiện quyền truy đòi tài sản được đề cập ở trên, việc
pháp luật cho phép người bán quyền truy đòi tài sản khi người mua không thực hiện
nghĩa vụ thanh toán có thể mang lại rủi ro cho người thứ ba – là khách hàng của người
mua. Trong dụ nói trên, nếu hàng hoá vẫn nguyên trạng không thuộc một trong
ba tình huống được thảo luận ở trên thì việc người bán thực hiện quyền truy đòi tài sản
từ khách hàng của người mua là điều dễ dàng. thể nói rằng, đây được coi rủi ro
khách hàng của người mua khó thể lường trước được họ thể phải gánh
chịu. Hậu quả lớn hơn của việc này là tạo ra môi trường kinh doanh nhiều rủi ro, trong
đó người mua luôn cảm thấy bất an, rằng hàng hoá họ mua có thuộc đối tượng bảo lưu
quyền sở hữu theo quy định tại Điều 331 BLDS 2015? Hậu quả cũng slớn hơn khi
người mua và người bán cố tình đưa vào hợp đồng thoả thuận cho phép người mua trả
chậm và người bán bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản mua bán.
Theo nguyên tắc chung, hợp đồng làm phát sinh hiệu lực ràng buộc đối với các bên
tham gia. Còn hợp đồng làm phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba được coi là ngoại
lệ của nguyên tắc chung đó. Điều này được giải bởi việc chủ thể phải chịu trách
nhiệm về hành vi họ thực hiện không chịu trách nhiệm về hành vi của người
khác. Thế nhưng trong trường hợp này, khách hàng của người mua lại phải chịu trách
nhiệm cho những hành vi của người khác. Để khỏi phải chịu rủi ro thì khách hàng của
người mua cần phải xác định, tài sản họ mua có thuộc đối tượng bảo lưu quyền sở hữu
hay không. Về nguyên tắc thì việc này là thể. Pháp luật Việt Nam vẻ như đã dự
liệu trước được rủi ro nói trên.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 387 BLDS 2015, trường hợp một bên có thông tin
ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thông báo cho
bên kia biết. Theo quy định này thì người mua phải nghĩa vụ thông báo cho khách
hàng của mình biết về việc tài sản mua bán thuộc đối tượng bảo lưu quyền sở hữu, và
nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Vấn đlà nếu người mua đã
không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho người bán việc bồi thường cho khách hàng
khó thể xảy ra. Hậu quả khách hàng của người mua thể vừa bị truy đòi tài
sản, vừa bị thiệt hại nhưng không được bồi thường.
Trong trường hợp người mua không thực hiện nghĩa vụ được quy định tại Khoản 1
Điều 387 thì theo quy định tại Điều 59 Nghị định 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017
của Chính Phủ về Đăng biện pháp bảo đảm thì, nhân, pháp nhân, hộ gia đình
(khách hàng của người mua) quyền tìm hiểu hoặc yêu cầu cung cấp thông tin về
biện pháp bảo đảm được lưu gitrong số đăng ký, cơ sở dliệu về biện pháp bảo đảm
Hệ thống dữ liệu quốc gia về biện pháp bảo đảm. Như vậy vmặt thuyết, để tránh
rủi ro người mua hàng thể tìm hiểu hàng hoá họ định mua thuộc đối tượng của
bảo lưu quyền sở hữu và biện pháp bảo lưu này có được đăng ký bảo đảm hay không.
lOMoARcPSD| 45619127
8
Tuy nhiên, để được những thông tin cần thiết liên quan đến hàng hoá, tài sản
thuộc đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu hay không người mua hàng không thể không
mất một khoảng thời gian nhất định trong nhiều trường hợp không tận dụng được
những cơ hội kinh doanh của h.
Ngoài ra theo quy định của pháp luật, nhân, pháp nhân hộ gia đình khi yêu
cầu cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm thì phải nộp phí (nếu không nộp phí thì
bị từ chối cung cấp thông tin), mức phí đăng giao dịch bảo đảm không đáng kể
nhưng thủ tục nộp các loại phí này có thực sự đơn giản hay không.
Liên quan đến vấn đề yêu cầu cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm được lưu
giữ trong số đăng , cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm và Hệ thống dữ liệu quốc gia
về biện pháp bảo đảm một nghịch lý có thể xảy ra, nếu khách hàng của người mua sau
khi tìm hiểu họ biết rằng, tài sản họ định mua đối tượng bảo lưu quyền sở hữu thì
liệu họ mua tài sản đó không. Tin chắc là không người bình thường nào thể
mua hàng hoá đang bị người khác bảo lưu quyền sở hữu. Ngoài việc hàng hoá đó
khả năng bị truy đòi người mua còn bị nguy cơ đối mặt với hậu quả pháp lý theo Điều
444 BLDS 2015.
Một vấn đề hết sức khó hiểu liên quan đến các quy định của pháp luật về bảo lưu
quyền sở hữu. Bởi lẽ theo quy định tại khoản 2 Điều 453 BLDS 2015, bên mua
quyền sử dụng tài sản mua trả chậm, trả dần phải chịu rủi ro trong thời gian sử dụng,
trừ trường hợp thoả thuận khác. Như vậy người mua trong hợp đồng mua bán trả
chậm, trả dần không có quyền định đoạt tài sản, điều này có nghĩa người mua không
có quyền bán tài sản đó cho người khác. Như đã nói ở trên, theo logic thì quy định này
cũng được áp dụng cho tình huống theo Điều 331 BLDS 2015. Vậy quyền truy đòi tài
sản được hình thành trên sở nào nếu người mua không được phép chuyển nhượng
tài sản cho ngưới khác.
9
Pháp luật của những quốc gia sự điều chỉnh bảo lưu quyền sở hữu hết sức thận
trọng với quyền truy đòi tài sản. Và hầu hết không quy định quyền truy đòi chỉ
coi điều khoản bảo lưu quyền sở hữu một điều khoản trong hợp đồng mua bán tài
sản do các bên thoả thuận. dụ, theo quy định tại khoản 3 Điều 449 BLDS của Đức,
10
thỏa thuận bảo lưu quyền sở hữu sẽ hiệu khi việc chuyển giao quyền sở hữu được
thực hiện bởi bên mua nhằm thỏa mãn yêu cầu của bên thứ ba, nhất là khi bên thứ ba
này có quan hệ kinh tế với bên bán.
Trong dụ được đưa ra nói trên liệu người mua B quyền bàn hàng hoá không
thuộc sở hữu của họ hay không khi mà Điều 444 BLDS 2015 (Bảo đảm quyền sở hữu
của bên mua đối với tài sản mua bán) quy định, bên bán có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở
hữu đối với tài sản đã bán cho bên mua không bị người thứ ba tranh chấp. Khoản 2
9
thể thấy quy định tại khoản 2 Điều 453 BLDS năm 2015 hoàn toàn trái thực tiễn. Trong thực tế, người mua
thường bán lại hàng hoá cho người khác mặc dù chưa thanh toán hết tiền mua hàng cho người bán.
10
Xem: German Civil Code BGB, https://www.gesetze-im-internet.de/englisch_bgb/. Truy cập 12h15 ngày
02/01/2018.
lOMoARcPSD| 45619127
9
Điều này quy định, nếu người thứ ba (trong ví dụ nói trên là người bán A) có quyền sở
hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản mua bán thì bên mua (trong ví dụ nói trên là người
mua C) quyền hủy bỏ hợp đồng yêu cầu bên bán (trong ví dụ nói trên là người
mua B) bồi thường thiệt hại. Trường hợp này được hiểu tại thời điểm hợp đồng
mua bán giữa B và C, C không biết tài sản bị người thứ ba (người bán A) tranh chấp.
Còn nếu tại thời điểm ký hợp đồng mua bán, người mua C biết hoặc buộc phải biết tài
sản họ mua là đối tượng bảo lưu quyền sở hữu của A thì C phải trả lại tài sản cho chủ
sở hữu A và không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Theo quan điểm của tôi thì xuất phát tkhoản 2 Điều 297, Điều 444 BLDS 2015
người mua sẽ không mua tài sản nếu biết được tài sản đó đang đối tượng bảo lưu
quyền sở hữu. Kết quả người mua đã mất thời gian nhưng cuối cùng hợp đồng không
được kết. Và nếu người mua không mua tài sản đó thì quy định về quyền truy đòi là
không thực tế. Rõ ràng, quy định quyền truy đòi không thực tế, làm tăng chi phí giao
dịch và trong nhiều trường hợp làm cho người mua mất cơ hội kinh doanh.
4. Kết luận:
Pháp luật của các nước khác nhau có cách tiếp cận không giống nhau về chức năng
vai trò của vấn đề bảo lưu quyền sở hữu đối với hàng hoá đã bán. Pháp luật của Liên
Bang Nga chỉ coi bảo lưu quyền sở hữu chỉ là điều khoản do các bên thoả
. Pháp luật của Đức không coi bảo lưu
quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà chỉ xem xét vấn đề này là
. Pháp luật của Pháp (Điều
2367 BLDS
12
), Điều 9-103 Bộ luật Thương mại thống nhất của Hoa K (Uniform
Commercial Code- UCC)
13
thừa nhận bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ. Ngay cả khi pháp luật của Pháp coi bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, tuy nhiên nhiều người cho rằng, không nên chỉ sử dụng
biện pháp bảo lưu quyền sở hữu mà còn cần phải sử dụng các biện pháp bảo đảm khác.
14
Từ những kết quả phân tích nêu trên, tôi cho rằng:
Thứ nhất, bảo lưu quyền sở hữu không biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Bởi lẽ biện pháp bảo đảm này không mang lại cho bên quyền sự đảm đảo chắc chắn
là nghĩa vụ được thực hiện. Trong khi đó các biện pháp bảo đảm khác cho phép bên
11
Xem: Статья 491. Сохранение права собственности за продавцом, Гражданский
кодекс Российской Федерации (ГК РФ), https://www.zakonrf.info/gk/491/
14
Xem:
German Civil Code BGB, https://www.gesetze-im-internet.de/englisch_bgb/.
12
Xem:https://www.legifrance.gouv.fr/
affichCodeArticle.do;jsessionid=72A1F43A09DF508CDA0C0E39FC9D1DF0.tplgfr25s_1?
cidTexte=LEGITEXT000006070721&idArticle=LEGIARTI000006449028&dateTexte=20180102&categori
eLien=id#LEGIARTI000006449028. Truy cập lúc 12h15 ngày 02.1.2018.
13
Điều 9-103 UCC đưc hiểu là lợi ích bảo đảm trên tài sản mua. Xem:
https://www.law.cornell.edu/ucc/9/9-103. Truy cập lúc 12h15 ngày 02/1/2018.
14
Xem: Joan DRAY, Clause de réserve de propriété et déclaration de créance à la procédure collective
https://www.legavox.fr/blog/maitre-joan-dray/clause-reserve-propriete-declaration-creance-15271.htm
thuận trong hợp đồng (Điều 491 BLDS)
13
điều khoản trong hợp đồng mua bán tài sản là đng sản
11
14
lOMoARcPSD| 45619127
10
quyền được sự chắc chắn đó. Bên cầm cố, thể chấp không thực hiện nghĩa vụ thì
bên quyền xử tài sản thế chấp, cầm cố đó. Trong bảo lưu quyến sở hữu thì sự chắc
chắn đó không tồn tại-người mua không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán cũng
không còn tài sản. Nếu so sánh giữa phạt vi phạm hợp đồng với bảo lưu quyền sử hữu
thì thể thấy điều khoản phạt vi phạm trong hợp đồng tính răn đe cao hơn điều
khoản bảo lưu quyền sở hữu. Bởi lẽ kể từ thời điểm hợp đồng, các bên bđặt vào
tình thế và buộc phải ý thức được hậu quả mà họ phải gánh chịu nếu không thực hiện
đúng nghĩa vụ hợp đồng. Điều khoản phạt vi phạm, ngoài việc cho phép bên bị vi
phạm đòi lại tài sản (nếu hợp đồng bị huỷ) còn bắt buộc bên vi phạm phải trả một khoản
tiền phạt. Tuy nhiên, phạt vi phạm không còn được coi là biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ theo BLDS 2005 và BLDS 2015.
Cũng theo quan điểm của tôi thì chỉ nên coi bảo lưu quyền sở hữu là một loại điều
khoản trong hợp đồng do các bên thoả thuận. Việc thoả thuận bảo lưu quyền sở hữu là
xuất phát từ bối cảnh, trong đó các yêu tố liên quan như loại tài sản mua bán, mua
để sử dụng hay mua để bán lại… Xuất phát từ đặc điểm của đối tượng hợp đồng
các bên thoả thuận cơ chế, cách thức đòi lại tài sản trong trường hợp người mua không
hoàn thành nghĩa vụ thanh toán.
Thứ hai, nên có sự phân biệt việc đòi lại tài sản theo quy định tại Điều 332 BLDS
2015 với việc hoàn trlại tài sản trong trường hợp hợp đồng bị huỷ theo quy định tại
Điều 427 BLDS 2015. Theo tôi thì pháp luật nên cho phép người bán đòi lại tài sn
không cần quyết định của Toà án mà chỉ cần bằng chứng người mua không hoàn thành
nghĩa vụ thanh toán.
Thứ ba, từ những phân tích trên, theo quan điểm của tôi thì việc đăng biện
pháp bảo lưu quyền sở hữu chỉ cho phép người bán quyền ưu tiên thanh toán mà
không bao gồm quyền truy đòi. Quyền ưu tiên là vấn đề cốt lõi của giao dịch bảo đảm.
Đây đặc quyền dành cho chủ nợ bảo đảm. Quyền ưu tiên được hiểu quyền được
ưu tiên thanh toán trước chủ thể khác khi xử tài sản bảo đảm. Quyền ưu tiên ý
nghĩa trong trường hợp tài sản của bên bảo đảm không đủ thanh toán cho các yêu cầu
của các chủ thể.
15
Thứ tư, tôi cho rằng, mỗi khi đã có quy định Điều 331 BLDS 2015 thì quy định tại
Điều 453 BLDS 2015 không cần thiết. Hoặc nếu giữ lại quy định tại Điều 453 BLDS
2015 thì phải phù hợp với quy định tại Điều 331 BLDS 2015.
15
Xem: Lê Thị Thu Thuỷ, Giao dịch bảo đảm dưới góc độ so sánh luật học. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 4/2015.
| 1/12

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45619127
Downloaded by Mai Linh Tr?nh Th? (trinhthimailinh5623@gmail.com) lOMoAR cPSD| 45619127
BẢO LƯU QUYỀN SỞ HỮU VÀ
HIỆU LỰC ĐỐI KHÁNG VỚI NGƯỜI THỨ BA
*PGS.TS Dương Anh Sơn
Tóm tắt: Bảo lưu quyền sở hữu với tư cách là một biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ, là một trong những nội dung mới được đưa vào BLDS 2015. Trong bài viết
này tác giả phân tích một số nội dung liên quan đến vấn đề bảo lưu quyền sở hữu nói
trên như: tính thống nhất của các quy định pháp luật về biện pháp này, bảo lưu quyền
sở hữu có nên là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hay chỉ nên là điều khoản trong
hợp đồng do các bên thoả thuận, việc áp dụng biện pháp bảo đảm này có thể gặp phải
những khó khăn gì trên thực tế. Bài viết cũng phân tích tính khả thi của các quy định
của pháp luật liên quan đến bảo lưu quyền sở hữu. Đặc biệt bài viết đề cập đến vấn đề,
hiệu lực đối kháng với người thứ ba khi biện pháp bảo lưu quyền sở hữu được đăng ký
nên là quyền truy đòi hay quyền ưu tiên thanh toán. Trên cơ sở phân tích những vấn đề
nói trên bài viết đưa ra một số đề xuất thể hiện quan điểm của tác giả.
Abstract: Retention of ownership as a measure to secure the performance of
obligations is one of the new contents incorporated in the Civil Code of 2015. In this
article, the author analyzes some of the issues related to retention of ownership as
mentioned above: the consistency of laws and regulations on this measure, whether
retention of ownership should be a legislated measure for securing the performance of
obligations or only be a clause in a contract agreed upon by the parties, some difficulties
that the application of this measure may face in practice. The paper also analyzes the
feasibility of the provisions of the law relating to the retention of ownership. In
particular, the article deals with the opposing effect to the third party when the retention
of ownership is registered as a right to claim or payment priority right. Based on the
analysis of the issues mentioned above, the article offers a number of suggestions
expressing the views of the author.
Dẫn nhập: Vừa mới có hiệu lực chưa lâu vì vậy có lẽ BLDS 2015 được áp dụng
để giải quyết trách chấp chưa nhiều. Các nhà làm luật cũng như toàn xã hội đặt nhiều
kỳ vọng vào BLDS 2015 này vì nhiều người có tham vọng đối với lần sửa đổi này là
tiếp cận gần nhất với thể chế kinh tế thị trường, định hướng XHCN và đừng để Bộ luật
lớn như thế này mà cứ 10 năm phải sửa một lần1.
Có thể nhận thấy BLDS 2015 khắc phuc được nhiều hạn chế của BLDS năm 2005
về tài sản và các quyền tài sản, về hợp đồng, về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ… Nhiều
quy định mới lần đầu tiên được tìm thấy sự thể hiện trong pháp luật Việt Nam. Một
trong số những điểm mới đó là bảo lưu quyền sở hữu tài sản với tư cách là biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Mặc dù mới đưa vào BLDS tuy nhiên các quy định của
BLDS liên quan đến bảo lưu quyền sở hữu đã gây tranh cãi trong khoa học pháp lý.
1 * Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Xem: Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi): Sửa thế nào để kéo dài “tuổi thọ” của luật
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP/View_Detail.aspx?ItemID=2199 1 lOMoAR cPSD| 45619127
1. Bảo lưu quyền sở hữu: Theo quy định tại Điều 331 BLDS 2015, trong hợp đồng
mua bán tài sản, quyền sở hữu tài sản có thể được bên bán bảo lưu cho đến khi nghĩa
vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ. Bảo lưu quyền sở hữu phải được lập thành văn
bản riêng hoặc được ghi trong hợp đồng mua bán. Và bảo lưu quyền sở hữu phát sinh
hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký biện pháp bảo đảm này
tại Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm. Có ý kiến cho rằng, quy định như vậy là đảm
bảo hài hoà lợi ích của bên bán và bên mua 2.
Theo pháp luật của nhiều nước thì bảo lưu quyền sở hữu chỉ có thể khi thoả mãn
hai điều kiện cần và đủ: thứ nhất, trong hợp đồng mua bán người bán đồng ý cho người
mua trả chậm; và thứ hai, bảo lưu quyền sở hữu phải được các bên thoả thuận trong
hợp đồng. Trong khi đó, pháp luật của Việt Nam có vẻ không nhất quán trong vấn đề
này. Mặc dù, không trực tiếp nhưng khoản 2 Điều 331 BLDS một cách gián tiếp đã quy
định rằng, bảo lưu quyền sở hữu chỉ có thể khi và chỉ khi có sự thoả thuận của các bên
hoặc là trong hợp đồng, hoặc trong một văn bản riêng biệt. Trong khi đó theo quy định
tại Khoản 1, Điều 453 BLDS 2015, các bên có thể thoả thuận về việc bên mua trả chậm
hoặc trả dần tiền mua trong một thời hạn sau khi nhận tài sản mua. Bên bán được bảo
lưu quyền sở hữu đối với tài sản bán cho đến khi bên mua trả đủ tiền, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Từ quy định của Điều 331 BLDS 2015, có thể mặc nhiên hiểu rằng, người bán chỉ
có thể có quyền bảo lưu quyền sở hữu trong khoảng thời gian người mua chưa thực
hiện xong nghĩa vụ thanh toán cho người bán. Và bảo lưu quyền sở hữu sẽ chấm dứt
tại thời điểm nghĩa vụ thanh toán cho bên bán được thực hiện xong.3 Điều này cũng có
nghĩa là trong trường hợp người mua thực hiện nghĩa vụ thanh toán trước hoặc vào thời
điểm nhận hàng thì người bán không có quyền bảo lưu quyền sở hữu. Như vậy chúng
ta có thể thấy, bối cảnh trong đó người bán bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản là đối
tượng của hợp đồng mua bán tài sản theo Điều 331 và Điều 453 BLDS 2015 là giống
nhau – người mua chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho người bán. Người mua chưa
thực hiện nghĩa vụ thanh toán có nghĩa là người mua được phép trả chậm. Tuy nhiên
căn cứ phát sinh bảo lưu quyền sở hữu lại khác nhau: có thoả thuận theo Điều 331 và
mặc nhiên theo Điều 453. Rõ hơn thì có thể nói rằng, theo quy định tại Điều 453 BLDS
2015, điều kiện cần và đủ để người bán bảo lưu quyền sở hữu là người mua chưa thực
hiện nghĩa vụ thanh toán (trả chậm, trả dần), trong khi đó đây mới chỉ là điều kiện cần
để người bán bảo lưu quyền sở hữu theo điều 331, còn điều kiện đủ là phải có thoả thuận của các bên.
Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ dẫn sự. Theo quy định tại Điều 453 BLDS 2015, trong hợp đồng
mua bán trả chậm, trả dần bảo lưu quyền sở hữu luôn là bắt buộc không phụ thuộc vào
2 Xem: Nguyễn Minh Tuấn, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Tư pháp, 2015, tr. 505.
3 Xem khoản 1 Điều 334 BLDS 2015. 2 lOMoAR cPSD| 45619127
việc các bên có thoả thuận trong hợp đồng hay không, và người bán không có quyền
bào lưu quyền sở hữu nếu các bên có thoả thuận về điều đó trong hợp đồng. Ở đây pháp
luật đã một cách vô cớ áp đặt ý chí của mình cho người mua. Theo nguyên tắc, pháp
luật chỉ có thể áp đặt ý chí của họ cho các bên trong hợp đồng chỉ trong một số trường
hợp ngoại lệ khi phải bảo về lợi ích của nhà nước, của xã hội hoặc của người thứ ba.
Trong hợp đồng mua bán trả chậm, trả dần tôi thấy việc người bán không bảo lưu quyền
sở hữu đối với tài sản hoàn toàn không gây thiệt hại cho bất kỳ người nào khác. Một
điều kỳ lạ trong quy định này nữa là, một mặt mặc nhiên trao cho người bán quyền bảo
lưu quyền sở hữu mặt khác lại cho phép các bên thoả thuận việc người bán không có quyền này.
Từ những phân tích và lập luận ở trên tôi cho rằng, quy định tại Điều 453 BLDS
2015 không những mâu thuẫn với Điều 331BLDS 2015 mà còn trái thực tiễn và thiếu tính khả thi.4
2. Quyền đòi lại tài sản: Theo quy định tại Điều 332 BLDS 2015, trong trường
hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận thì
bên bán có quyền đòi lại tài sản. Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã
thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường hợp bên mua làm
mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Nếu người mua vẫn đang chiếm giữ tài sản và tài sản vẫn còn duy trì tình trạng ban
đầu thì việc đòi lại tài sản là việc đơn giản. Vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn nhiều khi
hàng hoá nguyên gốc không còn do hành vi sáp nhập, trộn lẫn hay chế biến của người
thậm chí tạo thành sản phẩm mới cùng với nguyên vật liệu của người khác5. Trong
những trường hợp này thì quyền đòi lại tài sản được thực hiện như thế nào? Xem ra
pháp luật Việt Nam chưa chuẩn bị các khả năng có thể để giải quyết các tình huống nói trên.
Nếu quyền đòi lại tài sản bao gồm không những đòi lại tài sản nguyên trạng mà còn
cả quyền đòi lại giá trị của tài sản thì bảo lưu quyền sở hữu không còn được coi là biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà chỉ là điều khoản do các bên thoả thuận trong hợp đồng mua bán tài sản.
Một vấn đề cũng cần phải được xem xét, là giả thiết nếu trong hợp đồng không có
điều khoản bảo lưu quyền sở hữu và pháp luật không điều chỉnh vấn đề này thì người
bán có quyền đòi lại tài sản đã bán khi người mua không thực hiện nghĩa vụ thanh toán hay không?
Theo quy định tại Điều 425 BLDS 2005, một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và
không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà
các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định, khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng
4 Xem thêm Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, NXB Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam 2016, tr. 335.
5 Xem: Trịnh Thục Hiền, Bảo lưu quyền sở hữu trong Dự thảo Bộ luật Dân sự: một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ. Kỷ yếu Hội thảo “Góp ý xây dựng Bộ luật Dân sự” do trường Đại học Kinh tế - Luật tổ chức ngày 28/4/2015. 3 lOMoAR cPSD| 45619127
không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã
nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền, và bên có lỗi trong
việc hợp đồng bị huỷ bỏ phải bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp không có thoả
thuận vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ hợp đồng BLDS quy định một số trương hợp
cho phép người mua được huỷ hợp đồng và yêu cầy bồi thường thiệt hại.6Trong khi đó
không có quy định nào của BLDS năm 2005 và cả LTM 2005 cho phép người bán huỷ
bỏ hợp đồng khi người mua không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nếu các bên không
có thoả thuận khác. Tôi cho rằng, đó là một trong những bất cập của BLDS 2005 và
LTM 2005. Có lẽ để khắc phục bất cập nói trên vấn đề bảo lưu quyền sở hữu được đưa
vào Điều 461-mua trả chậm, mua trả dần nhằm bảo vệ người bán tốt hơn.7
Như vậy theo BLDS 2005, ngay cả khi không có điều khoản bảo lưu quyền sở hữu
thì người bán vẫn có quyền đòi lại tài sản bằng cách huỷ hợp đồng nếu người mua
không thực hiện nghĩa vụ thanh toán là điều kiện huỷ hợp đồng.
Vấn đề tiếp theo, chúng ta giả thiết là không có quyền đòi lại tài sản theo quy định
tại Điều 332 BLDS 2015, thì trong trường hợp người mua không thực hiện nghĩa vụ
thanh toán cho người bán theo hợp đồng mua bán tài sản và trong hợp đồng này không
có thoả thuận bảo lưu quyền sở hữu thì người bán có quyền đòi lại tài sản hay không.
Có thể nói rằng, người mua không thanh toán cho người bán có nghĩa là người mua đã
vi phạm hợp đồng và khi việc sự vi phạm này rơi vào tình huống được quy định tại
Điều 424 BLDS 2015 thì người bán có quyền huỷ hợp đồng.
Thật vậy, theo quy định tại Điều 424 BLDS 2015, trường hợp bên có nghĩa vụ
không thực hiện đúng nghĩa vụ mà bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong một
thời hạn hợp lý nhưng bên có nghĩa vụ không thực hiện thì bên có quyền có thể huỷ bỏ
hợp đồng7. Khi hợp đồng bị huỷ, theo quy định tại Điều 427 BLDS 2015 thì: i) hợp
đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ
đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về
giải quyết tranh chấp; ii) Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ
chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản, việc
hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật
thì được trị giá thành tiền để hoàn trả; và iii) Bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa
vụ của bên kia được bồi thường. Quy định này của pháp luật được áp dụng cho cả
những trường hợp người mua không thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng.
6 Xem: Điểm c, khoản 2 Điều 435 - Trách nhiệm do giao vật không đúng số lượng; ĐIểm b, khoản 1 ĐIều 436 - Trách
nhiệm do giao vật không đồng bộ, khoản 3 Điều 437 - Trách nhiệm giao vật không đúng chủng loại BLDS 2005. 7 Khoản
1 Điều 461 BLDS 2005 quy định, Các bên có thể thoả thuận về việc bên mua trả chậm hoặc trả dần tiền mua trong một
thời hạn sau khi nhận vật mua; bên bán được bảo lưu quyền sở hữu của mình đối với vật bán cho đến khi bên mua trả đủ
tiền, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Mặc dù có quy định như vậy pháp luật không nói đền cách thức áp dụng và hậu
quả pháp lý trong trường hợp người mua không thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Có lẽ chính vì vậy quy định này hầu như rất
ít được sử dụng trong thực tế.
7 Có thể nói rằng, Điều 424 BLDS 2015 khắc phục được khiếm khuyết của Điều 425 BLDS 2005 khi trao cho người bán
quyền huỷ hợp đồng trong trường hợp người mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán. 4 lOMoAR cPSD| 45619127
Từ những phân tích ở trên có thể thấy rằng, cho dù không có quy định đòi lại tài
sản theo Điều 332 BLDS 2015 thì người bán vẫn có quyền đòi lại tài sản theo Điều 424 và Điều 427 BLDS 2015.
Vậy vấn đề cần phải được xem xét là việc đòi lại tài sản khi bảo lưu quyền sở hữu
theo quy đinh tại Điều 332 và việc hoàn trả lại tài sản trong trường hợp hợp đồng bị
huỷ theo quy định tại Điều 427 BLDS 2015 có gì khác nhau? Về vấn đề này pháp luật
còn để ngỏ. Theo quan điểm của tôi thì pháp luật cần có cơ chế cho phép người bán đòi
lại tài sản được bảo lưu quyền sở hữu nhanh chóng, linh hoạt và chắc chắn hơn so với
yêu cầu hoàn trả lại tài sản trong trường hợp hợp đồng bị huỷ.
3. Hiệu lực đối kháng với người thứ ba: quyền truy đòi tài sản hay quyền ưu
tiên. Hiệu lực đối kháng với người thứ ba được coi là quy định mới trong BLDS 2015
và về thực chất có ý nghĩa tương đồng với “có giá trị pháp lý đối với người thứ ba”8
theo quy định tại khoản 3 Điều 323 BLDS 2005., hiệu lực đối kháng với người thứ ba
được hiểu là: i) người nhận bảo đảm được ưu tiên thanh toán trước so với các chủ nợ
khác; theo quy định tại Điều 308 BLDS 2015; ii) người có quyền (người bán) có quyền
truy đòi tài sản từ người thứ 3 đang chiếm giữ tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều
297 BLDS 2015. Trong phạm vi bài viết tác giả không đề cập đến quyền ưu tiên thanh
toán mà chỉ đi sâu phân tích quyền truy đòi. cần phải nghĩa vụ tôn trọng, ví dụ quyền
của các bên đối với tài sản bảo đảm.
Có ý kiến cho rằng, “quyền truy đòi” nêu trên của BLDS 2015 có ý nghĩa tương
đồng với “trả lại tài sản” của bên nhận cầm cố đối với trường hợp tài sản bị người khác
chiếm giữ của BLDS 200510. Tôi cho rằng, quyền truy đòi và quyền yêu cầu người
đang chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài sản theo Khoản 1 Điều
314 BLDS 2015, quyền yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp
giao tài sản đó cho mình để xử lý khi bên thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ theo Khoản 5 Điều 323 BLDS 2015, quyền đòi lại tài sản theo
Điều 332 BLDS 2015, là không giống nhau. Bên có quyền thực hiện quyền truy đòi
khi họ không thể đòi lại tài sản từ các chủ thể nói trên vì tài sản đã được họ chuyển
giao cho người thứ ba khác.
Đối với các biện pháp cầm cố và thế chấp thì bên cầm cố hoặc bên thế chấp khó có
thể chuyển nhượng tài sản thế chấp cho người thứ ba vì việc chuyển nhượng này đã bị
ngăn cản bởi việc đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc tài sản đã bị chiếm giữ. Nếu là cầm
cố động sản thì bên nhận cầm cố đang chiếm giữ tài sản nên vấn đề truy đòi không
được đặt ra mà chỉ có thể là quyền đòi lại tài sản từ người chiếm giữ trái pháp luật. Nếu
tài sản cầm cố (là động sản) hoặc thế chấp là bất động sản (cả thế chấp động sản) thì
bên cầm cố và bên thế chấp không thể chuyển nhượng tài sản đó một cách hợp pháp
cho người thứ ba và nếu có chuyển nhượng thì là chuyển nhượng bất hợp pháp và trong
những trường hợp này bên nhận cầm cố hoặc bên nhận thế chấp có quyền đòi lại tài
8 Xem: Nguyễn Hải An, “Các quy định mới về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Bộ luật Dân sự năm 2015
và tác động đến lợi íchcủa các doanh nghiệp”, Tạp chí khoa học Pháp lý, số 2(105) 2017. 10 Xem: Nguyễn Hải An, tlđd. 5 lOMoAR cPSD| 45619127
sản từ người chiếm hữu mà không phải thực hiện quyền truy đòi. Trong trường hợp thế
chấp động sản, bên nhận thế chấp có thể cho phép bên thế chấp bán tài sản thế chấp và
có quyền theo đuổi (cũng có thể gọi là quyền truy đòi) tài sản đó (hoặc giá trị tài sản).
Như vậy, quyền truy đòi được thực hiện khi không thể đòi lại tài sản từ chủ thể có
nghĩa vụ (bên chế chấp động sản có quyền bán động sản đó và người mua tài sản được
bảo lưu quyền sở hữu) vì tài sản đã được chuyển giao hợp pháp cho người thứ ba. Hay
nói cách khác là người bán thực hiện quyền truy đòi tài sản khi có đủ các điều kiện cần
và đủ: điều kiện cần là trong hợp đồng có điều khoản bảo lưu quyền sở hữu và biện
pháp bảo đảm này đã được đăng ký; điều kiện đủ là người mua không còn chiếm giữ
tài sản sản mua bán được bảo lưu quyền sở hữu và tài sản đã được người mua bán cho người thứ ba.
Việc thực hiện quyền truy đòi tài sản từ khách hàng của người mua sẽ gặp những
khó khăn nào, có thể gây ra những rủi ro và tạo ra những hệ luỵ gì?
Để hiểu rõ hơn quyền truy đòi tài sản của người bán, chúng ta xem xét ví dụ sau
đây. Ông A bán tài sản cho ông B và trong hợp đồng này ông A cho phép ông B trả
chậm (tương tự mua trả chậm, trả dần). Cũng trong hợp đồng này có điều khoản bảo
lưu quyền sở hữu đối với tài sản đó của ông A. Biện pháp bảo đảm này được đăng ký.
Sau khi nhận tài sản từ ông A, ông B bán tài sản đó cho ông C. Đến thời hạn ông B
không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho ông A. Theo quy định tại Điều 332 ông A có
quyền đòi lại tài sản từ ông B, nhưng vì tài sản đã được ông B bán cho ông C. Vì không
đòi lại được tài sản từ ông B nên ông A có quyền truy đòi tài sản từ ông C.
Như phân tích ở trên, việc ông A đòi tại tài sản từ ông B đã là vấn đề phức tạp thì việc
ông A truy đòi tài sản từ ông C lại càng phức tạp hơn.
Thực tiễn hoạt đồng thương mại cho thấy rằng, người mua mua hàng hoá không
phải để thoả mãn nhu cầu cuộc sống mà thường là nhằm mục địch kiếm lời. Vì vậy sau
khi nhận hàng từ người bán họ không giữ lại mà chuyển nhượng cho những người mua
khác. Và đây cũng là điều mà các nhà làm luật có nghĩ đến, có dự liệu trước.
Việc thực hiện quyền truy đòi tài sản sẽ gặp những vấn đề phức tạp sau đây:
Thứ nhất, tài sản đã được chuyển giao một cách hợp pháp qua nhiều người, ví dụ,
A bán cho B và A bảo lưu quyền sở hữu, B bán cho C, C bán cho D…Trong trường hợp
này người bán truy đòi tài sản từ ai trong số những người nói trên và như thế nào?
Thứ hai, sau khi mua tài sản được bảo lưu quyền sở hữu người mua bán lại cho
nhiều khách hàng và không loại trừ các khách hàng của người mua đã chuyển nhượng
tài sản cho những người khác. Trong trường hợp này người bán khó có thể xác định
được hết khách hàng của người mua, những người đã mua tài sản là đối tượng bảo lưu
quyền sở hữu. Vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn rất nhiều khi tài sản đó là động sản và hàng đồng loại.
Thứ ba, tài sản được bảo lưu đã được khách hàng của người mua trộn lẫn với các
loại tài sản khác thành tài sản chung hợp nhất. Trong trường hợp này việc truy đòi chính
tài sản là đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu là không thể mà chỉ có thể truy đòi giá 6 lOMoAR cPSD| 45619127
trị của phần tài sản đó. Việc này cũng không thể được thực hiện dễ dàng. Ai sẽ là người
xác định tỉ lệ? Ai sẽ bỏ chi phí để thuê giám định? Dưới góc độ kinh tế học thì chi phí
giao dịch có thể khá cao và điều này làm giảm đáng kể hiệu quả của giao dịch.
Ngoài những khó khăn khi thực hiện quyền truy đòi tài sản được đề cập ở trên, việc
pháp luật cho phép người bán quyền truy đòi tài sản khi người mua không thực hiện
nghĩa vụ thanh toán có thể mang lại rủi ro cho người thứ ba – là khách hàng của người
mua. Trong ví dụ nói trên, nếu hàng hoá vẫn nguyên trạng và không thuộc một trong
ba tình huống được thảo luận ở trên thì việc người bán thực hiện quyền truy đòi tài sản
từ khách hàng của người mua là điều dễ dàng. Có thể nói rằng, đây được coi là rủi ro
mà khách hàng của người mua khó có thể lường trước được và họ có thể phải gánh
chịu. Hậu quả lớn hơn của việc này là tạo ra môi trường kinh doanh nhiều rủi ro, trong
đó người mua luôn cảm thấy bất an, rằng hàng hoá họ mua có thuộc đối tượng bảo lưu
quyền sở hữu theo quy định tại Điều 331 BLDS 2015? Hậu quả cũng sẽ lớn hơn khi
người mua và người bán cố tình đưa vào hợp đồng thoả thuận cho phép người mua trả
chậm và người bán bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản mua bán.
Theo nguyên tắc chung, hợp đồng làm phát sinh hiệu lực ràng buộc đối với các bên
tham gia. Còn hợp đồng làm phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba được coi là ngoại
lệ của nguyên tắc chung đó. Điều này được lý giải bởi việc chủ thể phải chịu trách
nhiệm về hành vi mà họ thực hiện mà không chịu trách nhiệm về hành vi của người
khác. Thế nhưng trong trường hợp này, khách hàng của người mua lại phải chịu trách
nhiệm cho những hành vi của người khác. Để khỏi phải chịu rủi ro thì khách hàng của
người mua cần phải xác định, tài sản họ mua có thuộc đối tượng bảo lưu quyền sở hữu
hay không. Về nguyên tắc thì việc này là có thể. Pháp luật Việt Nam có vẻ như đã dự
liệu trước được rủi ro nói trên.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 387 BLDS 2015, trường hợp một bên có thông tin
ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thông báo cho
bên kia biết. Theo quy định này thì người mua phải có nghĩa vụ thông báo cho khách
hàng của mình biết về việc tài sản mua bán thuộc đối tượng bảo lưu quyền sở hữu, và
nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Vấn đề là nếu người mua đã
không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho người bán việc bồi thường cho khách hàng
là khó có thể xảy ra. Hậu quả là khách hàng của người mua có thể vừa bị truy đòi tài
sản, vừa bị thiệt hại nhưng không được bồi thường.
Trong trường hợp người mua không thực hiện nghĩa vụ được quy định tại Khoản 1
Điều 387 thì theo quy định tại Điều 59 Nghị định 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017
của Chính Phủ về Đăng ký biện pháp bảo đảm thì, cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình
(khách hàng của người mua) có quyền tìm hiểu hoặc yêu cầu cung cấp thông tin về
biện pháp bảo đảm được lưu giữ trong số đăng ký, cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm
và Hệ thống dữ liệu quốc gia về biện pháp bảo đảm. Như vậy về mặt lý thuyết, để tránh
rủi ro người mua hàng có thể tìm hiểu hàng hoá họ định mua có thuộc đối tượng của
bảo lưu quyền sở hữu và biện pháp bảo lưu này có được đăng ký bảo đảm hay không. 7 lOMoAR cPSD| 45619127
Tuy nhiên, để có được những thông tin cần thiết liên quan đến hàng hoá, tài sản có
thuộc đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu hay không người mua hàng không thể không
mất một khoảng thời gian nhất định và trong nhiều trường hợp không tận dụng được
những cơ hội kinh doanh của họ.
Ngoài ra theo quy định của pháp luật, cá nhân, pháp nhân và hộ gia đình khi yêu
cầu cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm thì phải nộp phí (nếu không nộp phí thì
bị từ chối cung cấp thông tin), mức phí đăng ký giao dịch bảo đảm là không đáng kể
nhưng thủ tục nộp các loại phí này có thực sự đơn giản hay không.
Liên quan đến vấn đề yêu cầu cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm được lưu
giữ trong số đăng ký, cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm và Hệ thống dữ liệu quốc gia
về biện pháp bảo đảm một nghịch lý có thể xảy ra, nếu khách hàng của người mua sau
khi tìm hiểu họ biết rằng, tài sản họ định mua là đối tượng bảo lưu quyền sở hữu thì
liệu họ có mua tài sản đó không. Tin chắc là không có người bình thường nào có thể
mua hàng hoá đang bị người khác bảo lưu quyền sở hữu. Ngoài việc hàng hoá đó có
khả năng bị truy đòi người mua còn bị nguy cơ đối mặt với hậu quả pháp lý theo Điều 444 BLDS 2015.
Một vấn đề hết sức khó hiểu liên quan đến các quy định của pháp luật về bảo lưu
quyền sở hữu. Bởi lẽ theo quy định tại khoản 2 Điều 453 BLDS 2015, bên mua có
quyền sử dụng tài sản mua trả chậm, trả dần và phải chịu rủi ro trong thời gian sử dụng,
trừ trường hợp có thoả thuận khác. Như vậy người mua trong hợp đồng mua bán trả
chậm, trả dần không có quyền định đoạt tài sản, điều này có nghĩa là người mua không
có quyền bán tài sản đó cho người khác. Như đã nói ở trên, theo logic thì quy định này
cũng được áp dụng cho tình huống theo Điều 331 BLDS 2015. Vậy quyền truy đòi tài
sản được hình thành trên cơ sở nào nếu người mua không được phép chuyển nhượng
tài sản cho ngưới khác.9
Pháp luật của những quốc gia có sự điều chỉnh bảo lưu quyền sở hữu hết sức thận
trọng với quyền truy đòi tài sản. Và hầu hết là không quy định quyền truy đòi mà chỉ
coi điều khoản bảo lưu quyền sở hữu là một điều khoản trong hợp đồng mua bán tài
sản do các bên thoả thuận. Ví dụ, theo quy định tại khoản 3 Điều 449 BLDS của Đức,10
thỏa thuận bảo lưu quyền sở hữu sẽ vô hiệu khi việc chuyển giao quyền sở hữu được
thực hiện bởi bên mua nhằm thỏa mãn yêu cầu của bên thứ ba, nhất là khi bên thứ ba
này có quan hệ kinh tế với bên bán.
Trong ví dụ được đưa ra nói trên liệu người mua B có quyền bàn hàng hoá không
thuộc sở hữu của họ hay không khi mà Điều 444 BLDS 2015 (Bảo đảm quyền sở hữu
của bên mua đối với tài sản mua bán) quy định, bên bán có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở
hữu đối với tài sản đã bán cho bên mua không bị người thứ ba tranh chấp. Khoản 2
9 Có thể thấy quy định tại khoản 2 Điều 453 BLDS năm 2015 là hoàn toàn trái thực tiễn. Trong thực tế, người mua có
thường bán lại hàng hoá cho người khác mặc dù chưa thanh toán hết tiền mua hàng cho người bán.
10 Xem: German Civil Code BGB, https://www.gesetze-im-internet.de/englisch_bgb/. Truy cập 12h15 ngày 02/01/2018. 8 lOMoAR cPSD| 45619127
Điều này quy định, nếu người thứ ba (trong ví dụ nói trên là người bán A) có quyền sở
hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản mua bán thì bên mua (trong ví dụ nói trên là người
mua C) có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bên bán (trong ví dụ nói trên là người
mua B) bồi thường thiệt hại. Trường hợp này được hiểu là tại thời điểm ký hợp đồng
mua bán giữa B và C, C không biết tài sản bị người thứ ba (người bán A) tranh chấp.
Còn nếu tại thời điểm ký hợp đồng mua bán, người mua C biết hoặc buộc phải biết tài
sản họ mua là đối tượng bảo lưu quyền sở hữu của A thì C phải trả lại tài sản cho chủ
sở hữu A và không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Theo quan điểm của tôi thì xuất phát từ khoản 2 Điều 297, Điều 444 BLDS 2015
người mua sẽ không mua tài sản nếu biết được tài sản đó đang là đối tượng bảo lưu
quyền sở hữu. Kết quả là người mua đã mất thời gian nhưng cuối cùng hợp đồng không
được ký kết. Và nếu người mua không mua tài sản đó thì quy định về quyền truy đòi là
không thực tế. Rõ ràng, quy định quyền truy đòi là không thực tế, làm tăng chi phí giao
dịch và trong nhiều trường hợp làm cho người mua mất cơ hội kinh doanh. 4. Kết luận:
Pháp luật của các nước khác nhau có cách tiếp cận không giống nhau về chức năng
và vai trò của vấn đề bảo lưu quyền sở hữu đối với hàng hoá đã bán. Pháp luật của Liên
Bang Nga chỉ coi bảo lưu quyền sở hữu chỉ là điều khoản do các bên thoả
thuận trong hợp đồng (Điều 491 BLDS)13
. Pháp luật của Đức không coi bảo lưu
quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ mà chỉ xem xét vấn đề này là
điều khoản trong hợp đồng mua bán tài sản là động sản1114 .
Pháp luật của Pháp (Điều
2367 BLDS12 ), Điều 9-103 Bộ luật Thương mại thống nhất của Hoa Kỳ (Uniform
Commercial Code- UCC) 13 thừa nhận bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ. Ngay cả khi pháp luật của Pháp coi bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, tuy nhiên nhiều người cho rằng, không nên chỉ sử dụng
biện pháp bảo lưu quyền sở hữu mà còn cần phải sử dụng các biện pháp bảo đảm khác.14
Từ những kết quả phân tích nêu trên, tôi cho rằng:
Thứ nhất, bảo lưu quyền sở hữu không là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Bởi lẽ biện pháp bảo đảm này không mang lại cho bên có quyền sự đảm đảo chắc chắn
là nghĩa vụ được thực hiện. Trong khi đó các biện pháp bảo đảm khác cho phép bên có
11 Xem: Статья 491. Сохранение права собственности за продавцом, Гражданский
кодекс
Российской Федерации (ГК РФ), https://www.zakonrf.info/gk/491/ 14 Xem:
German Civil Code BGB, https://www.gesetze-im-internet.de/englisch_bgb/.
12 Xem:https://www.legifrance.gouv.fr/
affichCodeArticle.do;jsessionid=72A1F43A09DF508CDA0C0E39FC9D1DF0.tplgfr25s_1?
cidTexte=LEGITEXT000006070721&idArticle=LEGIARTI000006449028&dateTexte=20180102&categori
eLien=id#LEGIARTI000006449028. Truy cập lúc 12h15 ngày 02.1.2018.
13 Điều 9-103 UCC được hiểu là lợi ích bảo đảm trên tài sản mua. Xem:
https://www.law.cornell.edu/ucc/9/9-103. Truy cập lúc 12h15 ngày 02/1/2018.
14 Xem: Joan DRAY, Clause de réserve de propriété et déclaration de créance à la procédure collective
https://www.legavox.fr/blog/maitre-joan-dray/clause-reserve-propriete-declaration-creance-15271.htm 9 lOMoAR cPSD| 45619127
quyền có được sự chắc chắn đó. Bên cầm cố, thể chấp không thực hiện nghĩa vụ thì
bên có quyền xử lý tài sản thế chấp, cầm cố đó. Trong bảo lưu quyến sở hữu thì sự chắc
chắn đó không tồn tại-người mua không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán và cũng
không còn tài sản. Nếu so sánh giữa phạt vi phạm hợp đồng với bảo lưu quyền sử hữu
thì có thể thấy điều khoản phạt vi phạm trong hợp đồng có tính răn đe cao hơn điều
khoản bảo lưu quyền sở hữu. Bởi lẽ kể từ thời điểm ký hợp đồng, các bên bị đặt vào
tình thế và buộc phải ý thức được hậu quả mà họ phải gánh chịu nếu không thực hiện
đúng nghĩa vụ hợp đồng. Điều khoản phạt vi phạm, ngoài việc cho phép bên bị vi
phạm đòi lại tài sản (nếu hợp đồng bị huỷ) còn bắt buộc bên vi phạm phải trả một khoản
tiền phạt. Tuy nhiên, phạt vi phạm không còn được coi là biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ theo BLDS 2005 và BLDS 2015.
Cũng theo quan điểm của tôi thì chỉ nên coi bảo lưu quyền sở hữu là một loại điều
khoản trong hợp đồng do các bên thoả thuận. Việc thoả thuận bảo lưu quyền sở hữu là
xuất phát từ bối cảnh, trong đó có các yêu tố liên quan như loại tài sản mua bán, mua
để sử dụng hay mua để bán lại… Xuất phát từ đặc điểm của đối tượng hợp đồng mà
các bên thoả thuận cơ chế, cách thức đòi lại tài sản trong trường hợp người mua không
hoàn thành nghĩa vụ thanh toán.
Thứ hai, nên có sự phân biệt việc đòi lại tài sản theo quy định tại Điều 332 BLDS
2015 với việc hoàn trả lại tài sản trong trường hợp hợp đồng bị huỷ theo quy định tại
Điều 427 BLDS 2015. Theo tôi thì pháp luật nên cho phép người bán đòi lại tài sản
không cần quyết định của Toà án mà chỉ cần bằng chứng người mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán.
Thứ ba, từ những phân tích ở trên, theo quan điểm của tôi thì việc đăng ký biện
pháp bảo lưu quyền sở hữu chỉ cho phép người bán có quyền ưu tiên thanh toán mà
không bao gồm quyền truy đòi. Quyền ưu tiên là vấn đề cốt lõi của giao dịch bảo đảm.
Đây là đặc quyền dành cho chủ nợ có bảo đảm. Quyền ưu tiên được hiểu là quyền được
ưu tiên thanh toán trước chủ thể khác khi xử lý tài sản bảo đảm. Quyền ưu tiên có ý
nghĩa trong trường hợp tài sản của bên bảo đảm không đủ thanh toán cho các yêu cầu của các chủ thể.15
Thứ tư, tôi cho rằng, mỗi khi đã có quy định Điều 331 BLDS 2015 thì quy định tại
Điều 453 BLDS 2015 là không cần thiết. Hoặc nếu giữ lại quy định tại Điều 453 BLDS
2015 thì phải phù hợp với quy định tại Điều 331 BLDS 2015.
15 Xem: Lê Thị Thu Thuỷ, Giao dịch bảo đảm dưới góc độ so sánh luật học. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 4/2015. 10