


Preview text:
lOMoAR cPSD| 60851861
Thế nào là di sản văn hóa? Trình bày các di sản văn hóa thế giới tại Việt Nam được
UNESCO công nhận. Cho ví dụ về bảo tồn di sản văn hóa thế giới tại Việt Nam
Điều 1 Luật di sản văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm 2009) xác định rõ: Di sản văn
hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh
thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này
qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần, gắn với cộng đồng hoặc cá nhân,
vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể
hiện bạn săc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác bằng nhiều hình thức như truyền miệng, truyền nghề,
trình diễn … DSVHPVT bao gồm: tiếng nói, chữ viết, ngữ văn dân gian, nghệ
thuật trình diễn dân gian, tập quán xã hội và tín ngưỡng, lễ hội truyền thống, nghề
thủ công truyền thống, tri thức dân gian.
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học
bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Việt Nam có 8 danh thắng được công nhận là di sản thế giới theo công ước Bảo vệ
Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới 1972: Quần thể di tích cố đô Huế, Khu
phố cổ Hội An, Khu di tích đền tháp Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam), Khu trung
tâm Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội), Thành nhà Hồ (Thanh Hóa), Vịnh Hạ
Long (Quảng Ninh), Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình), Quần
thể danh thắng Tràng An - Ninh Bình (Ninh Bình).1 Và tính đến tháng 6 năm 2015,
Việt Nam đã có 10 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh: Nhã nhạc
cung đình Huế; Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên; Dân ca Quan họ;
Ca trù; Hội Gióng tại đền Phù Đổng và đền Sóc, Hà Nội; Hát xoan; Tín ngưỡng
thờ cúng Hùng Vương; Đờn ca tài tử Nam Bộ; Dân ca ví, giặm Nghệ Tính; Thực
hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt.
Trong lĩnh vực di sản văn hóa, bảo vệ được hiểu là hành động có ý thức nhằm lưu
giữ những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Từ lâu, việc bảo vệ di sản đã trờ
thành một hoạt động không thể thiếu của xã hội văn minh. Bảo vệ di sản với tư
1 Thường được gọi tắt là Công ước Di sản Thế giới 1092. Việt Nam tham gia Công ước này năm 1987. Hiện này
8 di sản của Việt Nam được công nhận theo Công ước Di sản thế giới gồm có 5 di sản văn hóa và 2 di sản thiên
nhiên. Theo https://whc.unesco.org/en/statesparties/vn lOMoAR cPSD| 60851861
cách là một bộ môn khoa học, hoạt động với mục đích giữ gìn, bảo lưu các tài sản
văn hóa có giá trị của quá khứ, để làm sống lại trong thời kỳ đương đại và 1
tiếp tục chuyển giao cho các thế hệ mai sau. Hiến chương Burra (1999) chỉ rõ:
“Mục đích của bảo tồn là duy trì giá trị văn hóa của một địa điểm; bảo tồn là một
phần không thể tách rời của việc quản lý tốt các địa điểm có giá trị văn hóa …
(Điều 2)2; Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (2003) của UNESCO lại
yêu cầu: “Trong khuôn khổ các hoạt động bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, mỗi
quốc gia thành viên cần phải nỗ lực để đảm bảo khả năng tham gia tối đa của các
cộng đồng, nhóm người và trong một số trường hợp các cá nhân đã sáng tạo, duy
trì và chuyển giao loại hình di sản này và cần phải tích cực lôi kéo họ tham gia
vào các công tác quản lý” (Điều 15)3
Nhận thức được di sản văn hóa là đối tượng duy nhất và không thể thay thế, nên
các cộng đồng dân tộc ở các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam đều có trách
nhiệm bảo vệ và lưu giữ cho tương lai. Ngược lại, trong công cuộc bảo vệ này, di
sản văn hóa phải được gắm với con người và cộng đồng cư dân địa phương (với
tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa và chủ sở hữu tài sản văn hóa), coi việc đám
ứng nhu cầu sinh hoặt văn hóa lành mạnh của đồng bào công chúng trong xã hội
là mục tiêu hoạt động. Có hai hình thức mà qua đó, vai trò cộng đồng với việc bảo
vệ di sản văn hóa có được thể hiện, đó là cộng đồng bảo vệ di sản văn hóa thông
qua bảo tàng và bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ngay tại cộng đồng Vd
- Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 150 bảo tàng cấp quốc gia, bảo tàng cấp
tỉnh và bảo tàng tư nhân. Bảo tàng là nơi lưu giữ các giá trị di sản văn hóa
– lịch sử của dân tộc, của địa phương. Tham quan trưng bày bảo tàng, sẽ
giúp du khách có một cái nhìn tổng thể về lịch sử, văn hóa, phong tục tập
quá của vùng đất đó. Trong những năm qua, công tác trưng bày của các bảo
tàng đã đạt được những kết quả nhất định, qua đó góp phần nâng cao nhận
thức văn hóa – lịch sử dân tộc, giáo dục truyền thống, lòng tự hào dân tộc
cho các tầng lớp nhân dân, đồng thời cũng góp phần phát triển các hoạt động du lịch
2 Hiến chương Burra (1999), ICOMOS Australia
3 Công ước về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (2003) của UNESCO lOMoAR cPSD| 60851861
- Trưởng hợp di sản Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên: Cồn đồng
các dân tộc người bản địa có di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên vẫn
thường xuyên thực hành di sản của mình trong các lễ hội, nghi lễ, sự kiện
văn hóa nghệ thuật của địa phương cũng như khu vực. Hiện nay, hầu hết
các buôn làng đều có câu lạc bộ, đội cồng chiêng, thường xuyên tham gia
biểu diễn, giao lưu với các địa phương, các tỉnh khác hoặc liên hoan đình
kỳ. Với sự hỗ trợ của cơ quan quản lý văn hóa, các nghệ nhân đã tổ chức
các lớp truyền dạy về nghệ thuật biểu diễn cồng chiêng, kỹ thuật chỉnh
chiêng. Các câu lạc bộ hay đội cồng chiêng vừa thực hành, vừa truyền nghề
trực tiếp cho những người yêu thích cồng chiêng và thế hệ kế cận. Nhờ đó,
số lượng người thực hành cồng chiêng còn khá đông và văn hóa cồng chiêng
vẫn được thể hiện rõ nét trong đời sống của đồng bảo Tây Nguyên, bởi nó
đã được gắn nó với những lễ nghi, sinh hoạt của cộng đồng.