
















Preview text:
1. Lý do chọn đề tài 
Trên thế giới không phân biệt quốc gia giàu hay nghèo, nếu có sự hoạt động của 
ngành kinh tế du lịch đều khai thác dựa trên hai nguồn tài nguyên là: tài nguyên du lịch 
tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Tài nguyên du lịch tự nhiên được phát triển 
thành sản phẩm du lịch nhờ vào sự kỳ vĩ, độc đáo và duy nhất của chúng, nhưng những 
tài nguyên này thường ít có khả năng phát triển thêm theo thời gian; trái lại dễ bị hao 
mòn hoặc suy thoái do sự biến đổi của thiên nhiên cũng như quá trình khai thác của 
con người. Tài nguyên du lịch nhân văn thường dồi dào hơn về số lượng và cũng rất đa 
dạng, nó tồn tại và phát triển cùng với hoạt động của con người. Tính đa dạng của tài 
nguyên du lịch nhân văn bắt nguồn từ sự khác biệt giữa các cá nhân, các cộng đồng, 
các dân tộc và các quốc gia với nhau; bên cạnh đó là khả năng biến đổi của tài nguyên 
du lịch nhân văn theo thời gian, theo những chuẩn mực mới của từng thời đại, từng xã 
hội, qua tiếp xúc giao thoa. Chính sự khác biệt và khả năng tự lớn lên của tài nguyên 
nhân văn đã giúp nó trở thành nguồn vốn quý giá cho phát triển du lịch. Do đó, cần có 
sự quan tâm đặc biệt đối với nguồn tài nguyên này. 
Ngành Du lịch ở Việt Nam đến nay khá phát triển và có vị trí tốt trên bản đồ du 
lịch thế giới, Việt Nam hấp dẫn khách du lịch quốc tế không chỉ bởi vẻ đẹp của thiên 
nhiên mà còn do yếu tố văn hóa, với nhiều di sản văn hóa được Unesco công nhận. 
Tuy nhiên, sự quan tâm của Chính phủ Việt Nam đối với việc bảo tồn các cổ tích đã 
tiến hành từ trước đó, trong sắc lệnh 65 ngày 23 tháng 11 năm 1945 nêu rõ: “Xét rằng 
việc bảo tồn cổ tích là việc rất cần trong công cuộc kiến thiết nước Việt Nam”, Nghị 
quyết Trung ương 5 khóa VIII nêu: “văn hoá là nền tảng của xã hội, là mục tiêu, động lực 
thúc đẩy phát triển kinh tế”, Nghị quyết cũng xác định 10 nhiệm vụ để xây dựng và 
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó nhiệm vụ 
thứ tư chỉ rõ: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi 
của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức 
coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân 
gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Nghiên cứu và 
giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại”, ngày 18 tháng 12 
năm 2011 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2406/QĐ-TTg: Ban hành “Danh 
mục các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2012 – 2015”, trong đó có văn hóa. 
Điều này khẳng định khai thác và bảo tồn văn hóa trong phát triển kinh tế không chỉ là 
mối quan tâm của ngành du lịch mà là vấn đề Đảng, Nhà nước và nhân dân coi trọng. 
Nhìn chung, vấn đề khai thác các DTLSVH và DLTC trong du lịch, cũng như 
vấn đề bảo tồn DTLSVH, DLTC trong du lịch ở các địa phương hiện còn nhiều bất 
cập: khai thác quá mức, khai thác không hiệu quả; bên cạnh đó, cũng còn không ít 
những quan niệm sai lầm về bảo tồn. Đầu tư cho tài nguyên du lịch nhân văn về cơ 
chế, tài chính chưa được thỏa đáng do đó có nhiều DT sau khi được xếp hạng tiếp tục 
trong tình trạng hoang hóa, không có kế hoạch bảo tồn, phát huy giá trị di sản để tham 
gia vào sự phát triển của địa phương; nhiều di sản phi vật thể chưa được chăm lo gìn 
giữ truyền dạy, phục hồi nên đứng trước nguy cơ bị mai một. Một số nơi DT bị lấn 
chiếm, hoặc cho phép xây dựng nhiều lều quán dịch vụ nhếch nhác làm mất cảnh quan 
chung của điểm du lịch, các vấn đề về ô nhiễm môi trường xung quanh khu vực DT. 
Có những DT được trùng tu, tôn tạo theo hướng làm mới đã đánh mất giá trị thực tế và 
giảm sức hấp dẫn đối với khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Bảo vệ, tôn 
tạo DTLSVH và DLTC phải nhằm mục đích giới thiệu đến với công chúng, tuy nhiên 
hiện nay việc chuẩn bị nội dung giới thiệu về các giá trị văn hóa cho khách du lịch vẫn 
còn nhiều bất cập. Có nhiều bản giới thiệu thay vì diễn giải, phân tích thì lại nặng về 
phần ca ngợi chung chung, khi giới thiệu về danh thắng nổi tiếng chỉ tập trung vào yếu 
tố huyền thoại với những chuyện kể mang sắc màu cổ tích mà quên đi nhiệm vụ cung 
cấp những thông tin mang tính khoa học về quá trình kiến tạo địa chất, niên đại… Những 
bản giới thiệu này thường không đem lại sự hài lòng cho du khách, không giúp 
nâng cao ý thức bảo vệ di sản từ phía du khách và cộng đồng. 
Với sự ưu đãi của điều kiện tự nhiên cùng kho tàng DTLSVH và DLTC tuyệt 
đẹp đã đem đến cho Khánh Hòa một tiềm năng lớn để phát triển du lịch, dịch vụ. Nha 
Trang – Khánh Hòa hiện được xác định là một trong 10 trung tâm du lịch – dịch vụ lớn  của cả nước. 
Tuy nhiên trong những năm qua việc phát triển du lịch ở tỉnh Khánh Hòa còn 
tồn tại một số bất cập. Đó là hoạt động du lịch mới chỉ tập trung khai thác nguồn tài 
nguyên du lịch tự nhiên như: biển, đảo, các rạn san hô, nguồn suối khoáng, bùn 
khoáng. Việc khai thác nguồn tài nguyên thế mạnh này đã đem lại cho tỉnh Khánh Hòa 
những thuận lợi nhất định trong quá trình phát triển du lịch nhưng cũng kéo theo một 
số hệ quả tiêu cực. Do khai thác quá mức nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên; kèm theo 
là các hoạt động như: xây dựng các công trình, cơ sở hạ tầng - kỹ thuật phục vụ du lịch 
đã làm thay đổi cảnh quan thiên nhiên và môi trường tự nhiên có nguy cơ bị ô nhiễm, 
các hệ sinh thái biển tại khu vực các đảo, rạn san hô đứng trước nguy cơ bị suy thoái 
hoặc huỷ diệt do hoạt động du lịch. 
Trong khi đó với lịch sử hơn 350 năm khai phá và phát triển, Khánh Hoà là 
mảnh đất giàu tài nguyên du lịch nhân văn với nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật 
thể có khả năng khai thác phục vụ cho hoạt động du lịch như: các công trình kiến trúc, 
các phong tục tập quán, các tín ngưỡng, các lễ hội truyền thống, làng nghề thủ công, 
văn hóa ẩm thực; nhiều DT và danh thắng đang được khai thác khá hiệu quả như Tháp 
Bà Ponagar, chùa Long Sơn, Hòn Chồng, vịnh Nha Trang, Đầm Nha Phu… Tuy nhiên 
hoạt động du lịch gần đây gây ra một số tác động tiêu cực đến giá trị của DT và danh 
thắng. Nếu tỉnh thực hiện tốt công tác nghiên cứu, bảo tồn kết hợp với khai thác nguồn 
tài nguyên du lịch văn hóa này không chỉ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã 
hội địa phương mà nó còn góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá quí báu, đem 
lại sự phát triển bền vững cho ngành du lịch của tỉnh nói riêng và cho cộng đồng nói 
chung. Hiện nay ở tỉnh Khánh Hòa chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện 
về vấn đề này. Vì vậy tác giả lựa chọn đề tài: “Bảo tồn và phát huy các di tích 
lịch sử - văn hóa - danh thắng tỉnh Khánh Hòa trong hoạt động du lịch” để nghiên 
cứu. Bản thân tác giả luận văn là người đang sinh sống tại tỉnh Khánh Hoà và công tác 
trong ngành du lịch nên có những thuận lợi nhất định cho việc nghiên cứu, thực hiện  đề tài này
3.1. Khái niệm và sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với văn hoá 3.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là khái niệm được dùng rất phổ biến, gắn với các hoạt động xã hội của 
con người. Trong khoa học xã hội và nhân văn, văn hóa là đối tượng nghiên cứu 
của nhiều ngành khác nhau. Mỗi ngành khoa học xã hội, nhân văn lại có cách 
tiếp cận văn hóa khác nhau. Vì thế, văn hóa trở thành khái niệm đa nghĩa.
Cho đến nay, có khoảng hơn 500 định nghĩa về văn hóa nhưng chưa dừng lại, 
mà ngày càng tăng thêm. Điều đó chứng tỏ, văn hóa là một khái niệm rất khó 
xác định. Nhà nghiên cứu người Pháp Jaques Dérrida cho rằng: “Văn hóa chính 
là cái tên mà chúng ta đặt cho điều bí hiểm không cùng với những ai ngày nay 
đang cố tìm cách suy nghĩ về no" Theo Hồ Chí Minh: “Văn hoá là sự tổng hợp 
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản 
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Năm 2001, trong Tuyên ngôn Thế giới về đa dạng văn hoá, Tổ chức Giáo dục, 
Khoa học và Văn hoá của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã khẳng định: “Văn hoá 
là tập hợp các nét đặc trưng về tinh thần và vật chất, trí tuệ và tình cảm... khắc 
hoạ nên bản sắc của một cộng đồng, gia đình, xóm làng, vùng miền, quốc gia, xã
hội. Văn hoá không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà cả những lối sống, 
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, 
tín ngưỡng... Văn hoá có thể hữu thế (đình, đền, chùa, miếu, lăng, mộ, nhà 
sàn...) có thể là vô hình (âm nhạc truyền thống, ngôn ngữ, huyền thoại, nghi 
thức, phong tục tập quán...)”.
Theo Giáo trình “Quản lý xã hội” của trường đại học Kinh tế quốc dân (2000): 
Văn hoá là toàn bộ của cải vật chất, tinh thần do con người (trong quy mô tập 
thể, gia đình, xóm làng, vùng miền, quốc gia) tạo ra trong lịch sử để vươn tới cái
đúng, cái đẹp, cái tốt, cái hợp lý và sự phát triển bền vững, an toàn cho cộng 
đồng, xã hội và nhân loại. Văn hoa tinh thần bao gồm: đạo đức, các chuẩn mực, 
lối sống, tư duy, ngôn ngữ, tình cảm, thẩm mỹ, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo, 
tín ngưỡng, các truyền thống, khoa học, triết học, thể chế xã hội, luật pháp, 
những hệ thống giá trị, các nghi thức, phong tục, tập quán... Văn hoá vật chất 
bao gồm: các di tích lịch sử, các công trình kiến trúc có giá trị, hệ thống kết cấu 
hạ tầng xã hội (giao thông, bưu chính viễn thông, bến cảng, sân bay...), công 
viên, bảo tàng, tượng đài, đền chùa, hệ thống các trang thiết bị, công nghệ cho  sản xuất...
Năm 1982, tại Mêhicô, Hội nghị thế giới về chính sách văn hoá vì sự phát triển 
đã thông qua Tuyên bố Mêhicô ngày 6 tháng 8 cho rằng: Theo nghĩa rộng, ngày 
nay văn hoá có thể coi là toàn bộ các đặc tính đặc biệt về tâm hồn, vật chất, trí 
tuệ và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó không chỉ 
bao gồm nghệ thuật và văn học, mà cả lối sống, các quyền cơ bản của nhân loại, 
các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng
Trong Nghị quyết Trung ương 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII 
(1998), văn hoá Việt Nam được hiểu là tổng thể những giá trị vật chất và tinh 
thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo trong quá trình dựng nước và 
giữ nước” và được đề cập đến ở 8 vấn đề: Tư tưởng, đạo đức, lối sống; di sản 
văn hoá; giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ; văn học, nghệ thuật; thông
tin đại chúng; giao lưu văn hoá với thế giới; thể chế và thiết chế văn hoá, trong 
đó, “tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá được coi là lĩnh vực quan 
trọng nhất hiện nay cần đặc biệt quan tâm”. Văn học, nghệ thuật (lĩnh vực được 
coi là tinh tế nhất, mang tính sáng tạo đậm đặc và là bước phát triển cao của văn 
hoá thẩm mỹ) là một bộ phận của văn hoá chứ văn hoá không chỉ chủ yếu là văn
học, nghệ thuật như một số người thường quan niệm.
Tuy văn hóa là khái niệm đa nghĩa, và có nhiều cách định nghĩa nhưng vẫn có 
những điểm chung được mọi người thừa nhận:
Về phương diện xã hội, văn hóa là sản phẩm đặc hữu chỉ có ở xã hội loài người, 
nó là cái dùng để phân biệt con người và động vật.
- Về phương diện cá nhân, văn hóa là sức mạnh bản chất của con người, thể hiện
trong hoạt động sống và phương thức sống của con người, thể hiện trong bản 
thân con người và tầm vóc phát triển của con người.
. Về phương thức tồn tại, văn hóa là phương thức tồn - tại độc đáo của xã hội 
người, khác về cơ bản với tổ chức đời sống của quần thể động vật.
- Về phương diện biểu đạt, văn hóa biểu hiện thông qua hệ thống biểu tượng mà 
truyền đạt trong xã hội, được con người bắt chước, học tập, làm theo chứ không 
phải di truyền theo con đường sinh học.
Có thể hiểu một cách chung nhất: Văn hoá là tổng thể những giá trị vật chất và 
tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử nhằm vươn tới cái đúng, cái đẹp,
cái tốt, cải hợp lý và sự phát triển bền vững, an toàn cho cá nhân, cộng đồng, xã  hội và nhân loại.
3.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về văn hoá Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, 
trong việc kiến thiết nước nhà có bốn lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá
cần coi trọng ngang nhau. Như vậy, lĩnh vực văn hoả được tách ra một cách 
tương đối để nghiên cứu, xây dựng, tổ chức và quản lý, khu biệt với các lĩnh vực khác.
Có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng thực chất của quản lý nhà nước về văn
hóa chính là sự định hướng, tạo điều kiện, tổ chức điều hành của nhà nước, mục 
đích là làm cho văn hóa phát triển theo hướng vì sự phát triển của con người và  xã hội.
Quản lý nhà nước về văn hóa là sự quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ hoạt 
động văn hóa của quốc gia bằng quyền lực của nhà nước thông qua hiến pháp, 
pháp luật và cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm sự phát triển của nền văn hóa dân tộc.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa là hoạt động quản 
lý được thực hiện thông qua ba cơ quan trong bộ máy nhà nước: cơ quan lập  pháp, hành pháp, tư pháp.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước về văn hóa được hiểu là hoạt động quản lý 
được thực hiện bởi hệ thống bộ máy các cơ quan hành pháp. Thực chất đó là 
quản lý hành chính đối với văn hóa.
Đối tượng của quản lý nhà nước đối với văn hóa vì vậy rất rộng. Căn cứ vào các 
luật và các văn bản pháp quy đã ban hành, hiện có 12 lĩnh vực hoạt động văn 
hoá cần được quản lý. Đó là, các hoạt động thuộc lĩnh vực báo chí, xuất bản, 
Internet, quảng cáo; điện ảnh; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật; thư viện, bảo tồn, 
bảo tàng; văn hoá thông tin cơ sở; văn hoá các dân tộc thiểu số; quyền tác giả, 
nhuận bút; xuất nhập khẩu văn hoá phẩm; tổ chức bộ máy quản lý văn hoá, giáo 
dục và đào tạo; lĩnh vực thanh tra. Quản lý nhà nước đối với các hoạt động văn  hóa được
thực hiện dựa trên những văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa. Các tổ chức, 
cá nhân tham gia các hoạt động văn hóa, được thể hiện trong cơ chế tổ chức bộ 
máy trên cơ sở hệ thống những nguyên tắc, những hình thức và phương thức 
quản lý nhất định. Cá nhân, tổ chức tham gia các hoạt động văn hóa được thể 
hiện ở bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa và sự phân cấp trong quản lý theo 
quy trình đi từ Trung ương đến cơ sở:
BỘ VĂN HOÁ THỂ THAO VÀ DU LỊCH
SỞ VĂN HOÁ HOÁ THỂ THAO VÀ DU LỊCH TỈNH THÀNH PHỐ
PHÒNG VĂN HOÁ-THÔNG TIN QUÂN HUYỆN BAN VĂN HOÁ XÃ PHƯỜNG
3.1.3. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với văn hoá Sự cần thiết của quản 
lý nhà nước đối với văn hoá xuất phát từ vai trò xã hội to lớn của văn hoá, từ vai
trò quan trọng của quản lý nhà nước về văn hóa và từ thực trạng quản lí nhà 
nước về văn hóa hiện nay còn nhiều hạn chế.
Vai trò xã hội của văn hóa
Văn hoá có vai trò xã hội to lớn đối với việc hình thành tư tưởng, đạo đức, lối 
sống và thái độ chính trị xã hội, nên bất cứ giai cấp nào, chính đảng nào cũng 
muốn thông qua đó truyền bá tư tưởng, quan điểm của mình để tạo ra một xã hội
với những con người phù hợp với lợi ích của giai cấp. Giai cấp phong kiến quan 
niệm “văn dĩ tải đạo”, “văn dĩ quá đạo” hay “văn dĩ minh đạo”, có nghĩa là văn 
học, nghệ thuậ phải phục vụ cho việc truyền bá, chuyển tải tư tưởng của giai cấp
phong kiến vào đời sống xã hội, khẳng định sự thống trị của hệ tư tưởng đó. 
Thời Phục Hưng ở phương Tây, giai cấp tư sản cũng sử dụng văn học, nghệ 
thuật vào việc truyền bá hệ tư tưởng tư sản nhằm chống lại giai cấp phong kiến 
và nhà thờ Thiên Chúa giáo. Sự phát triển rực rở của nền văn học, nghệ thuật 
Phục Hưng đã cổ vũ những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái tiến bộ, phê phán 
tư tưởng hà khắc, thần quyền của nhà thờ, góp phần thúc đẩy cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu.
Để chuẩn bị cho cuộc cách mạng tháng Mười Nga thành công, V.I.Lênin đã viết 
bài báo nổi tiếng Tổ chức Đảng và văn học Đảng (năm 1905), trong đó người 
khẳng định Đảng Cộng sản phải lãnh đạo sự nghiệp xây dựng nền văn học “mới 
mẻ, vĩ đại và cao quý” của giai cấp vô sản: “Trước mắt chúng ta là nhiệm vụ 
khó khăn và mới mẻ, nhưng vĩ đại và cao quý: tổ chức sự nghiệp văn học rộng 
lớn, nhiều hình, nhiều vẻ, gắn bó chặt chẽ, mật thiết với phong trào công nhân 
dân chủ - xã hội”. Do vậy, đảng của giai cấp vô sản phải “theo dõi tất cả những 
công tác đó, mang nguồn nhựa sống của sự nghiệp đầy sức sống của giai cấp vô 
sản vào toàn bộ công tác đó”.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong Đề cương văn hóa năm 1943 đã khẳng định: 
“Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa), ở đó 
người cộng sản phải hoạt động. Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn 
phải làm cách mạng văn hóa nữa. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng 
mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới hiệu quả” và 
“Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”.
Ngày nay, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa diễn ra hết sức gay gắt
giữa các giai cấp, các thế lực chính trị, vấn đề áp đặt văn hóa, đế quốc chủ nghĩa
trong văn hóa dưới chiêu bài “giải thể ý thức hệ”, “phi ý thức hệ” trong văn hóa 
đang tác động mạnh mẽ vào đời sống tinh thần ở nước ta. Cho nên, vấn đề Đảng
cần phải nắm quyền lãnh đạo và Nhà nước tăng cường quản lý văn hóa là một 
vấn đề có tính nguyên tắc chính trị hướng vào việc củng cố, phát triển hệ tư 
tưởng XHCN, xây dựng chế độ mới và con người mới là một đòi hỏi tất yếu  chính trị.
Vai trò của quản lý nhà nước về văn hóa Quản lý nhà nước về văn hoá là sự  quản lý của Nhà
nước đối với toàn bộ hoạt động văn hoá của quốc gia bằng quyền lực của Nhà 
nước thông qua Hiến pháp, pháp luật nhằm đảm bảo sự phát triển của nền văn 
hoá. Quản lý hoạt động văn hoá là hoạt động có tính chất nhà nước, nhằm điều 
hành hoạt động văn hoá được thực hiện bởi cơ quan hành chính. Trong công tác 
quản lý văn hoá, điều quan trọng là phải xây dựng được cơ chế quản lý văn hoá. 
Quản lý nhà nước về văn hoá có những vai trò chính như sau:
- Quản lý nhà nước về văn hóa là quản lý toàn bộ nền văn hóa từ vĩ mô đến quản
lý các hoạt động ở cơ sở. Ở cấp độ vĩ mô, nhiệm vụ quản lý nhà nước nhằm đảm
bảo trên bình diện cao nhất của quản lý văn hóa về tổng thể hệ thống chuẩn mực
pháp lý, đạo lý, xây dựng và hoàn thiện thể chế và thiết chế văn hóa, tạo môi 
trường lành mạnh cho quá trình sáng tạo, bảo quản, lưu giữ, truyền bá, tiếp 
nhận, thưởng thức các giá trị văn hóa, các dịch vụ văn hóa cho cộng đồng.
- Quản lý nhà nước về văn hóa mang tính quyền lực nhà nước. Nhà nước quản 
lý văn hóa thông qua các cơ quan lập pháp. hành pháp, tư pháp, thông qua bộ 
máy hành chính. Thực chất của quản lý nhà nước là trách nhiệm của nhà nước. 
đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Quản lý nhà nước về văn hóa nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc phát huy vai trò của văn hóa đối với sự phát triển con 
người và xã hội. Quản lý nhà nước không những nhằm thực hiện những định 
hướng, mà thực hiện xây dựng, phát huy vai trò
của văn hóa. - Quản lý nhà nước về văn hóa không những thực thì các chính 
sách kinh tế trong văn hóa, mà còn nhằm thực hiện chính sách văn hóa trong 
kinh tế. Chính vì thế, rất cần có sự phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về 
văn hóa và hoạt động của các doanh nghiệp, cũng như giữa sản xuất kinh doanh 
với hành chính sự nghiệp trong lĩnh vực này.
3.2. Quan điểm chỉ đạo và nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về văn hoá
3.2.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển về văn hoá
Từ khi ra đời đến nay Đảng ta luôn coi trọng lãnh đạo văn hóa, nhất là thời kì 
đổi mới đã có nhiều nghị quyết bàn về phát triển văn hóa, trong đó điển hình là 
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền 
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đây là mốc đánh dấu sự 
đổi mới toàn diện trong tư duy về văn hóa của Đảng. Từ đây, Đảng Cộng sản 
Việt Nam đã có cái nhìn thấu suốt và toàn diện về các giá trị văn hóa của dân tộc
với sự tiến bộ của thời đại; giữa lý tưởng tinh thần và yêu cầu xử lý các nhiệm 
vụ kinh tế - xã hội, đã vạch ra mục tiêu, giải pháp cho sự nghiệp phát triển văn 
hóa trong chặng đường trước mắt và lâu dài của nước ta. Ngoài phần đề cập về 
những thành tựu, yếu kém và nguyên nhân chủ yếu của văn hóa Việt Nam, Nghị
quyết đề cập đến những phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn 
hóa, 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản, 10 nhiệm vụ cụ thể; và những giải pháp lớn 
xây dựng và phát triển văn hóa.
Những quan điểm về văn hóa theo tinh thần Hội nghị
Trung ương 5 khóa VIII là: - Văn hóa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội;
- Văn hóa mà chúng ta đang xây dựng và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc  văn hóa dân tộc;
- Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng  các dân tộc Việt Nam.
- Xây dựng và phát triển nền văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh 
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Văn hóa là mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng 
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Để đảm bảo thực hiện các quan điểm nêu trên, Đảng đã xác định 10 nhiệm vụ 
chính phát triển văn hóa. Đó là: xây dựng con người Việt nam trong giai đoạn 
cách mạng mới; xây dựng môi trường văn hóa; phát triển sự nghiệp văn học 
nghệ thuật; bảo tồn và phát huy di sản văn hóa; phát triển sự nghiệp giáo dục 
đào tạo và khoa học - công nghệ; phát - triển và quản lý tốt hệ thống thông tin 
đại chúng; bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; xây 
dựng chính sách văn hóa đối với tôn giáo; mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa; 
củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa.
Những giải pháp để phát triển văn hóa là: mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa 
yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng 
đời sống văn hóa”; xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa; 
tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa; nâng cao hiệu quả 
lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa
3.2.2. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về văn hoá
Hiện nay, quản lý nhà nước về văn hóa ở nước ta tập trung vào các nội dung cơ 
bản sau: 3.2.2.1. Lập kế hoạch xây dựng và phát triển văn hoá
Lập kế hoạch xây dựng và phát triển văn hoá trong từng giai đoạn để thực hiện 
đường lối và định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước đối với văn hoá. Đây 
là nhiệm vụ giữ vị trí quan trọng trong công tác quản lý của Nhà nước. Quá trình
xây dựng các kế hoạch văn hoá phải gắn chặt với kế hoạch chung phát triển toàn
diện của xã hội, trong đó vừa chú ý những yêu cầu riêng của văn hoá, vừa chỉ ra 
được mối quan hệ, tác động lẫn nhau giữa văn hoá với các lĩnh vực khác nằm 
trong kế hoạch chung, phải xuất phát từ thực tiễn, có tính khả thi cao.
3.2.2.2. Xây dựng thể chế, chính sách văn hóa
Để quản lý tốt hoạt động văn hoá, Nhà nước phải chú trọng xây dựng thể chế 
văn hoá. Thể chế văn hoá bao gồm hai loại hệ thống chuẩn mực: chuẩn mực luật
pháp và chuẩn mực phong tục tập quán. Vấn đề đặt ra là cần xác định rõ những 
loại hoạt động văn hoá nào cần áp dụng thể chế luật pháp nào. Trên bình diện 
quốc tế có thể đề cập đến những bộ luật, điều luật có tính quốc tế về văn hoá mà 
nhiều nước thấy có trách nhiệm phải tham dự, ràng buộc nhau vì tiến bộ chung 
của nhân loại. Trên bình diện quốc gia, nước nào cũng có những điều luật về văn
hoá, hoặc ghi trong các bộ luật khác, hoặc trong bộ luật chuyên về văn hoá. Hiến
pháp 1992 của nước ta quy định: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền 
văn hoá Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị
của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí 
Minh; tiếp thu tinh hoa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân 
dân; Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hoá” (Điều 30-Chương III). 
Hiến pháp 2001 có sửa đổi, nền văn hóa của dân tộc ta là nền văn hóa tiên tiến, 
đậm đà bản sắc dân tộc. Nhà nước còn ban hành các luật riêng đối với một số 
hoạt động văn hoá như: Luật Giáo dục, Luật Khoa học công nghệ, Luật Sở hữu 
trí tuệ, Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di sản văn hoá, Luật Điện ảnh, Pháp 
lệnh Bảo hộ quyền tác giả, Pháp lệnh Quảng cáo, Pháp lệnh Thư viện...
3.2.2.3. Hướng dẫn triển khai kế hoạch và các hoạt động văn hoá, tổ chức hoạt 
động giám sát các hoạt động văn hoa
Hướng dẫn triển khai kế hoạch và các hoạt động văn hoá là những nhiệm vụ 
quan trọng của quản lý nhà nước đối với văn hoá. Nhà nước tiến hành tổ chức và
sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các cơ quan sản xuất, cung 
ứng dịch vụ văn hoá và xác định vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước. 
Nhà nước đổi mới cơ chế giám sát hoạt động văn hoá và các dịch vụ văn hoá 
theo hướng hoàn thiện, bổ sung các văn bản pháp quy và kiện toàn đội ngũ cán 
bộ giám sát của ngành từ trung ương đến cơ sở.
3.2.2.4. Xây dựng và sử dụng nguồn lực, kinh phi cho các hoạt động văn hoá; 
quản lý việc hợp tác quốc tế trên lĩnh vực văn hoa
Xây dựng và sử dụng nguồn lực, kinh phí cho các hoạt động văn hoá là nhiệm 
vụ cụ thể nhưng có vị trí vô cùng quan trọng trong nội dung quản lý nhà nước. 
Tăng cường ngân sách cho phát triển văn hoá đang là khuynh hướng chung của 
các nước trên thế giới. Việc đầu tư và sử dụng các nguồn lực phải trên cơ sở các 
mô hình hoạt động văn hoá cụ thể và đầu tư có trọng tâm, trọng điểm trong từng 
hờ kì, giải đoạn, tránh đầu tư bình quân, dàn trải.
Quản lý việc hợp tác quốc tế trên lĩnh vực văn hoá cần thực hiện tốt trong tất cả 
các nguồn lực (nhân lực, tài chính, văn hoá phẩm, thông tin) đặc biệt phải có cơ 
chế hữu hiệu kiểm soát văn hoá phẩm độc hại, kém chất lượng du nhập vào 
nước ta. Bên cạnh đó, cần chú trọng vấn đề chế độ chính sách đưa cán bộ quản 
lý, văn nghệ sĩ, chuyên viên văn hoá... đi tham quan, học hỏi, đào tạo ở nước  ngoài.
3.2.2.5. Kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực văn  hóa
Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về văn hoá giải quyết các khiếu nại, 
tố cáo và xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hoá là nội dung quan 
trọng đảm bảo nâng cao hiệu quả các quy trình quản lý văn hoá. Thanh tra kiểm 
tra việc chấp hành pháp luật về văn hoá tiến hành trên những nội dung: thanh tra
việc chấp hành các bộ luật trong lĩnh vực văn hoá (Luật Giáo dục, Luật Khoa 
học công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di sản 
văn hoá, Luật Điện ảnh, Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả, Pháp lệnh Quảng cáo, 
Pháp lệnh Thư viện...) và thanh tra việc thực hiện mục tiêu, kế hoạch, chương 
trình, nội dung trong lĩnh vực văn hoá. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong 
lĩnh vực văn hoá cần theo các bước: xác minh, kết luận, kiến nghị các biện pháp 
giải quyết các khiếu nại, tố cáo. Việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về văn
hoá tiến hành theo quy trình áp dụng biện pháp ngăn chặn và xử lý sai phạm 
theo quy định của pháp luật. 
Ngoài ra, nội dung quản lý văn hóa còn tiếp cận theo các hoạt động văn hoá bao 
gồm: quản lý các hoạt động sáng tạo - sản xuất các giá trị văn hóa, quản lý quá  trình N
thông, phân phối các sản phẩm và các dịch vụ văn hóa, quận
lý quá trình tiêu thụ, thưởng thức các giá trị văn hóa. 33. Phương pháp, công cụ 
quản lý nhà nước về văn hoá
3.3.1. Phương pháp quản lý nhà nước về năm kinh Phương pháp quan lý văn hoả
là các cách thue mùa xu quan và cán bộ quản lý văn hóa các cấp tác động đến 
đất tượng quản lý theo những nguyên tắc nhất định nhằm du hiện những mục 
tiêu quản lý về văn hoá mà nhà muộn gi cho
Dưới đây là một số phương pháp thường dùng trong quản lý văn hoá.
3.3.1.1. Phương pháp hành chính trung quan là vẫn kh Phương pháp hành chính 
trong quản lý văn hoá là phương pháp quản lý văn hoá thông qua các quyết định,
mình lệnh, chỉ thị phù hợp với pháp luật hiện hành về văn hóa đề dẫn dắt, bắt 
buộc đối tượng thực hiện mục tiêu quản lý.
Đặc điểm cơ bản của phương pháp hành chính trong quản lý văn hoá là tính 
nguyên tắc và tính quyền lực. Phương pháp này có sự tác động trực tiếp bằng 
các quy định dứt khoát mang tính quyền lực bắt buộc của nhà nước lên đối 
tượng. Nó đòi hỏi đối tượng quản lý phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định 
hành chính. Nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định. Tính quyền lực đòi hỏi các 
cơ quan quản lý nhà nước phải sử dụng đúng và đầy đủ quyền lực của mình 
trong các tác động hành chính gần với thẩm quyền của mình. Thục chất của 
phương pháp này là sử dụng quyền lực quản lý nhà nước để tạo ra sự phục tùng 
của cá nhân và các tổ chức.
Ưu thế của phương pháp hành chính là đảm bảo kỳ cương, kỷ luật trong mọi 
hoạt động của nhà nước và công đồng và tổ chức đồng thời thể hiện tinh linh 
hoạt, kịp thời của các quyết định. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp là mang 
tính áp đặt làm cho người bị quản lý có thể rơi vào trạng thái bị động, ức chế. 
Nếu lạm dụng phương pháp này. dẫn tới nạn giây tờ, quan liêu trong quản lý văn
hoá và đề tạo nên sự ức chế, phản cảm ở đối tượng.
Để thực hiện phương pháp này có hiệu quả, trước hết văn bản quản lý văn hoá 
phải chính xác, khoa học... gắn với thẩm quyền của các cấp quản lý. Các văn 
bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo 
đúng thủ tục, trình tự luật định. Các văn bản đó là sự thể chế hóa mọi đường lối, 
chủ trương của Đảng, chiến lược của Nhà nước. Người quản lý phải có đủ quyền
uy để chỉ thị, mệnh lệnh của mình vừa có tính thuyết phục vừa có tính bắt buộc 
đối tượng thực hiện; mệnh lệnh, chỉ thị phải mang tính khách quan, khoa học, rõ
ràng, khả thi. Mặt khác, cơ quan quản lý văn hoá cần định kỳ tổ chức kiểm tra 
hoặc kiểm tra đột xuất việc thực hiện các quyết định, mệnh lệnh, chỉ thị về văn  hoá đó ban hành.
3.3.1.2. Phương pháp giáo dục trong quản lý văn hoá Phương pháp giáo dục 
trong quản lý văn hoá là cách thức tác động của chủ thể quản lý bằng các yếu tố 
tâm lý và tình cảm tới đối tượng nhằm biến những yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu 
văn hoá của tổ chức, của xã hội thành nghĩa vụ tự giác bên trong, thành nhu cầu 
của đối tượng quản lý. Thực chất của phương pháp giáo dục là khơi gợi tinh 
thần tự giác, chủ động của người bị quản lý, tạo ra bầu không khí cởi mở, tin cậy
lẫn nhau trong tổ chức nhằm phát huy tiềm năng của mỗi người trong việc sáng 
tạo, gìn giữ và hưởng thụ các giả trị văn hoá.
Phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng quy luật tâm lý là bản tính nhân 
văn và hướng thiện vốn có trong mỗi con người. Nếu nó được khơi dậy, kích 
thích sẽ trở thành “yêu tố trội”, chi phối nhận thức và hành vi tính tích mang tự 
giác của họ. Do đó, bên cạnh sử dụng các phương pháp hành chính, kinh tế, 
trong những tình huống nhất định, cần phải chú trọng giáo dục, thuyết phục để 
tác động tới tinh thần tình cảm, tâm lý xã hội... của các cá nhân. Đặc trưng của 
phương pháp này là phương pháp giúp con người nhận thức được các chuẩn 
mực phải - trái, đúng - sai, thiện - ác... từ đó nâng cao tính tự giác và tính tích 
cực công dân trong thực hiện nhiệm vụ về văn hoá.
Phương pháp giáo dục thể hiện tính dân chủ trong hoạt động quản lý văn hoá 
dựa trên sự hiểu biết tâm tư nguyện vọng và tôn trọng đối tượng quản lý; phát 
huy quyền làm chủ tập thể của mọi thành viên trong tổ chức; phát huy tiềm năng
của mọi thành viên và xây dựng bầu không khí lành mạnh, cởi mở trong tổ chức 
và xã hội. Tuy nhiên, hiệu quả của phương pháp phụ thuộc rất lớn vào nghệ 
thuật tác động giáo dục của người quản lý (đòi hỏi cao ở người quản lý: mềm 
dẻo linh hoạt nhưng không buông lỏng, tự do vô tổ chức; quyết đoán, nguyên tắc
nhưng không cứng nhắc). Sử dụng phương pháp dễ dẫn tới nạn hội họp tràn lan; 
tư tưởng bẻ phái, cục bộ; e dè, nễ nang trong quản lý văn hoá.
Để thực hiện phương pháp giáo dục hiệu quả, người quản lý văn hoá phải là 
người có uy tín trong tổ chức, trình độ chuyên môn vững, mẫu mực trong cuộc 
sống, khả năng ứng xử linh hoạt, cởi mở lắng nghe ý kiến người khác, biết tập 
hợp quanh mình lực lượng cốt cán có uy tín. Bên cạnh đó, cần xây dựng không 
khí lành mạnh trong tổ chức. Người cán bộ quản lý phải hiểu tâm tư nguyện 
vọng các thành viên, lắng nghe ý kiến của họ, giao việc cho họ, tin tưởng khả 
năng của họ, giúp họ vượt những khó khăn, lựa chọn và bồi dưỡng cán bộ cốt 
cán, ủy quyền cho đội ngũ những người giúp việc. Mặt khác, đối tượng giáo dục
cũng cần có tính tự giác cao và có tinh thần xây dựng tập thể tốt để cùng thực  hiện mục tiêu văn hoá.
3.3.1.3. Phương pháp kinh tế trong quản lý văn hóa Phương pháp kinh tế trong 
quản lý văn hoá là sự tác động của chủ thể tới đối tượng quản lý bằng cơ chế 
kích thích, ràng buộc lợi ích vật chất để họ nỗ lực, cố gắng tham gia các công 
việc chung và thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao trong lĩnh vực văn hoá.
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trên lĩnh vực văn hoá đều tuân thủ các quy 
luật kinh tế khách quan như: quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật cung 
cầu. . . Thông qua lợi ích kinh tế, Nhà nước tạo ra động lực thúc đẩy con người 
tích cực hoạt động nhằm hoàn thành mục tiêu về văn hoá của tổ chức.
Ưu thế của phương pháp kinh tế là giảm bớt việc ban hành các chỉ thị, mệnh 
lệnh, đồng thời giảm bớt thời gian giám sát của cán bộ quản lý văn hoá. Phương 
pháp này phát huy tính độc lập, tự giác, sáng tạo của mỗi người trong các hoạt 
động văn hoá. Hạn chế của phương pháp là có thể dẫn tới khuynh hướng tư lợi, 
chỉ biết tới lợi ích cá nhân, ít quan tâm đến tập thể và chỉ quan tâm tới những 
công việc có tiền thưởng dẫn đến tình trạng thương mại hoá trong lĩnh vực văn 
hoá. Ngân sách chi cho văn hoá hạn chế và tính chất tế nhị. Ngoài ra, nhạy cảm 
của văn hoá cũng là khó khăn cho việc thực thi phương pháp này.
Để áp dụng các phương pháp kinh tế vào quản lý văn hoá có hiệu quả, Nhà nước
cần phải hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế, nâng cao năng lực vận dụng 
các quan hệ thị trường; thực hiện việc phân cấp quản lý theo hướng mở rộng 
quyền hạn cho cấp dưới. Sử dụng phương pháp kinh tế trong quản lý văn hoá 
đòi hỏi cán bộ quản lý phải có năng lực trình độ nhiều mặt kiến thức văn hoá, 
kinh tế, luật pháp...cũng như đạo đức nghề nghiệp. Người quản lý phải năng 
động, linh hoạt, biết huy động sự đầu tư từ nhiều nguồn. Nên kết hợp chặt chẽ 
và tương xứng phương pháp kinh tế với các động viên về tinh thần.