-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Bảo vệ chính quyền cách mạng 1945-1946 - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 0O0 Bài tập lớn
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Đề tài số 2:
BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG 1945 - 1946 Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Hoàn Họ và tên sinh viên: Đỗ Thị Thùy Linh Mã sinh viên: 11218022 Lớp: LSĐCSVN_23 Hà Nội – 02/2023 Mục lục
Lời nói đầu......................................................................................................................2
Nội dung.........................................................................................................................3
Phần I.Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền non trẻ 1945 - 1946................3
I. Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám......................................................3
1. Thuận lợi..............................................................................................................3
2. Khó khăn..............................................................................................................3
II. Xây dựng chế độ mới và chính quyền cách mạng 1945 – 1946..............................4
III. Chủ trương kháng chiến chống Thực Dân Pháp ở chính quyền Nam Bộ, đấu tranh
bảo vệ chính quyền non trẻ..........................................................................................7
Phần II. Bài học kinh nghiệm từ công cuộc xây dựng và bảo về chính quyền 1945 –
1946, từ đó vận dụng vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc của sinh viên hiện
nay................................................................................................................................10
I. Bài học kinh nghiệm...............................................................................................10
II. Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước, trách nhiệm của sinh hiện nay...............10
1. Nhiệm vụ xây và bảo vệ đất nước......................................................................10
2. Trách nhiệm của sinh viên..................................................................................12
Kết luận........................................................................................................................13
Lời nói đầu
Hơn 80 năm bị thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta phải sống trong cảnh đói
nghèo, không có quyền tự do. Không biết đã có bao nhiêu cuộc nổi dậy đã nổ ra, bao
nhiêu vị anh hùng đã hi sinh vì muốn đòi lại đất nước từ tay Pháp, nhưng tất cả đều bị
thất bại. Phải cho tới khi người thanh niên Nguyễn Ái Quốc ấy tìm thấy ánh sáng của
chủ nghĩa Mác – Lenin, tìm thấy con đường cứu nước là đi theo Chủ nghĩa Cộng Sản,
thì bấy giờ cuộc đấy tranh chống thực dân Pháp mới có những bước chuyển mình thật
sự. Năm 1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời. Đó chính là bước ngoặt vĩ đại trong
lịch sử cách mạng nước ta, cột mốc đánh giấu việc giai cấp vô sản nước ta đã trưởng
thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kì khủng hoảng về vai trò lãnh đạo
và đường lối trong phong trào cách mạng Việt Nam.
Thật vậy, 15 năm sau, Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, thắng lợi vĩ đại
đầu tiên của đất nước ta từ khi có Đảng. Lần đầu tiên trong lịch sử, một nhà nước công
nông ra đời ở Việt Nam, nhân dân ta từ người nô lệ trở thành người làm chủ đất nước,
làm chủ vận mệnh của mình. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam
bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Dù đã giành lại độc lập dân tộc, nhưng đất nước vẫn phải đối mặt với rất nhiều
khó khăn thử thách. Thù trong, giặc ngoài, nạn đói, nạn dốt hoành hành khiến dân ta
khốn khó vô cùng. Đảng và nhà nước vừa phải xây dựng chính quyền non trẻ, vừa phải
đấu tranh để bảo vệ chính quyền - ột tình thế vô cùng khó khăn.
Vậy nên, qua đề tài tiểu luận “Bảo vệ chính quyền cách mạng 1945 – 1946” em
rất mong mình sẽ có thể tìm hiểu thêm về một bước ngoặt lịch sử, nhưng cũng là thời kì
khó khăn, gian nan của dân tộc. Nội dung
PHẦN I. CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỀ CHÍNH QUYỀN NON TRẺ 1945 – 1946
I. Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám 1. Thuận lợi
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước ta bắt tay vào công cuộc xây dựng chính
quyền. Bấy giờ, trên bản đồ thế giới, các nước tư bản suy yếu sau thế chiến thứ 2.
Trong khi đó, Liên Xô ngày càng lớn mạnh trở thành người anh cả của Chủ nghĩa Xã
hội. Liên Xô còn ủng hộ và giúp đỡ nhiều nước ở Đông Trung Âu để đi theo đường
phát triển theo chủ nghĩa xã hội. Cùng với đó, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa triển mạnh, hệ thống các nước XHCN được hình thành và nhân rộng.
Đây là những nhân tố quan trọng có tác dụng cổ vũ, động viên nhân dân ta trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng.
Cùng với đó, ở trong nước khi Việt Nam trở thành quốc gia độc lập tự do; nhân
dân thoát khỏi thân phận nô lệ bị áp bức, trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới.
Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo cách mạng trong nước. Hình thành
hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở.
Quân đội quốc gia, lực lượng công an, luật pháp của chính quyền cách mạng được khẩn trương xây dựng
Tất cả là để ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân. Phát huy vai trò của
Đảng đối với cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, xây dựng chế độ mới. 2. Khó khăn
Chúng ta xây dựng chế độ mới, nhưng hậu quả mà chế độ cũ để lại vô cùng nề.
Nền kinh tế nước ta vốn đã nghèo nàn, lạc hậu lại bị thực dân Pháp vơ vét, thiên tai tàn
phá nên lại càng nghèo hơn. Hơn 50% ruộng đất bị bỏ hoang. Ngân sách hầu như trống
rỗng, Ngân hàng Đông dương vẫn nằm trong tay tư bản nước ngoài, chính quyền cách
mạng chỉ tiếp quản được kho bạn với 1.230.720 đồng, trong đó có 586.000 đồng tiền
rách. Cùng với đó, hậu quả về mặt xã hội cũng rất nặng nề, trên 90% số dân không biết
chữ. Hầu hết số người được đi học chỉ ở bậc tiểu học và vỡ lòng. hực tế đó làm cho việc
tổ chức, hoạt động của chính quyền mới gặp không ít khó khăn, lúng túng.
Cùng lúc đó Gần 20 vạn quân của chính quyền Tưởng Giới Thạch (Trung Quốc) –
Đồng minh của đế quốc Mỹ, kéo vào miền Bắc. Còn ở miền Nam, từ vĩ tuyến 16 (từ Đã
Nẵng trở vào) cũng với danh nghĩa lực lượng Đồng minh, quân đội Anh vào tước vũ
khí quân Nhật, nhưng trên thực tế đế quốc Anh đã giúp cho thực dân Pháp trở lại chiếm
Việt Nam và cả Đông dương. Ngoài ra còn nhiều tổ chức phản cách mạng khác hoạt
động như Đại Việt quốc dân đảng, Đại Việt quốc gia xã hội đảng... đã bị chính quyền
cách mạng ra sắc lệnh giải tán nhưng vẫn tìm mọi cách hoạt động phá hoại.
Chưa bao giờ trên đất nước ta lại có nhiều kẻ thù xâm lược hung bạo và xảo quyệt
như vậy. Trong tình thế đó, chính quyền Cách Mạng vẫn còn non yếu, Nhân dân lao
động lần đầu tiên lên nắm quyền chưa có kinh nghiệm. Những khó khăn, thử thách to
lớn cả về quân sự, chính trị, kinh tế và xã hội trên đây, đặt chính quyền cách mạng và
vận mệnh đất nước ta trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Tình hình trên đòi hỏi Đảng và
chính quyền cách mạng có đường lối bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng.
II. Xây dựng chế độ mới và chính quyền cách mạng 1945 – 1946
Trong tình hình lúc bấy giờ, Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
những đối sách vô cùng sáng suốt, linh hoạt, mềm dẻo nhưng cũng rất kiên quyết. gày
3-9-1945: Phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm thời do chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì
xác định ngay nhiệm vụ lớn trước mắt: Diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.
a, Chống nạn đói, đẩy lùi giặc đói
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Hơn hai triệu đồng bào chúng ta đã chết đói vì
chính sách độc ác này. Vừa rồi nạn lụt đã phá hoại tám tỉnh sản xuất lúa gạo. Điều đó
càng làm cho tình hình trầm trọng hơn. Những người thoát chết đói nay cũng bị đói.
Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống.
Chính vì vậy Bác đã đề ra 2 giải pháp:
Một là: Giải pháp cấp cứu: nhường cơm sẻ áo
“Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một
bơ) để cứu dân nghèo”
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người dân trong cả nước đã
tích cực góp gạo cứu đói cho đồng bào. (Ảnh tư liệu)
Hai là, Giải quyết vấn đề từ gốc: tăng gia sản xuất
Tăng gia sản suất, củng cố đê điều, hàn khẩu đê vỡ, đắp thêm đê mới. Cùng với đó
là tiến hành gấp rút trồng trọt, thực hiện khẩu hiệu tấc đất tấc vàng.
Kết quả sản lượng màu đã tăng gấp bốn lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Vậy là giặc
đói đã được đánh lui.
b. Chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ.
Thực dân Pháp xâm lược cai trị dân ta bằng chính sách ngu dân, nó khiến hơn
chín mươi phần trăm đồng bào mù chữ, Nếu đi sâu vào các làng mạc, các thôn xóm xa
thành thị và nhất là vùng núi thì có nơi không một người biết chữ.
Vì vậy, Ngày 8/9/1945, Nha Bình dân học vụ ra đời, nằm trong Bộ Quốc gia giáo
dục. Với phương châm: người biết chữ dạy người chưa biết chữ, phong trào diệt giặc
dôt được phát động rộng rãi thu hút đông đảo nhân dân tham gia
Người người đi học, cả nhà đi học. Con biết chữ dạy cha mẹ, anh biết chữ dạy cho
các em. Học ban ngày, học buổi trưa, buổi tói, khắp thôn xóm ở đâu cũng tập đọc, tập
viết. Ban ngày lao động sản xuất, buổi tối, buổi trưa tranh thủ học tập.
Hình ảnh người dân thắp đèn dầu học chữ (Ảnh: Sưu tầm)
Chỉ trong một năm, từ tháng 8/1945 đến tháng 8/1946, Bình dân học vụ đã dạy
cho hơn 2,5 triệu người biết chữ. Giặc dốt cũng bị đánh tan.
c. Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng
Một chính quyền non trẻ, một chính quyền đang phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề
nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ
thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu
cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống, v.v..”
Và tới ngày 6/1/1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa I đã diễn ra tại 71 tỉnh thành
trong cả nước theo lối phổ thông đầu phiếu. Cuộc bầu cử đã được toàn dân nô nức tham
gia. Cả nước bầu ra 333 đại biểu. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử với số phiếu cao nhất
(98,4%). Tuy nhiên, trong kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã đồng ý công nhận thêm 70 ghế
thuộc các đảng này (20 Việt Cách, 50 Việt Quốc), nâng tổng số đại biểu Quốc hội là
403. Sau đó, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 1946 tại kỳ họp thứ hai.
Từ tất cả những điều trên, đó là động lực để toàn dân kiên trì kháng chiến lâu dài;
kiên định nguyên tắc độc lập về chính trị. Và hơn hết, đó là niềm tin của nhân dân vào
Đảng, vào chế độ mà ta đang hướng tới.
III. Chủ trương kháng chiến chống Thực Dân Pháp ở chính quyền Nam Bộ, đấu
tranh bảo vệ chính quyền non trẻ
Xây dựng chính quyền đã khó, bảo vệ được chính quyền còn khó hơn gấp bội.
Khu mà Chính phủ lâm thời vừa chính thức ra mắt đồng bào thì ở miền Bắc quân
Tưởng tràn xuống, Thực dân Pháp dưới sự hậu thuẫn của quân Anh đã quay trở lại nổ
súng gây hấn tại Sài Gòn – Chợ Lớn. Cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân Nam Bộ bắt đầu.
Trong tình hình cấp bách đó, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải thực hiện những sách
lược vừa nguyên tắc, cứng rắn nhưng cũng phải rất mềm dẻo.
Thời kỳ 9/1945 – 3/1946: Ta thực hiện chủ trương “Hòa Tưởng ở miền Bắc,
đánh Pháp ở miền Nam”
Khi đó, Đảng ta vẫn còn non trẻ, sức mạnh quân sự không thể đánh cả Tưởng và
Pháp. Vì vậy, ta lựa chọn hòa với Tưởng để có thể tập trung lực lượng đánh Pháp ở Nam bộ.
Ta đã chấp nhận mở rộng Quốc hội, nhân nhượng bổ sung thêm cho Tưởng 70 ghế
cho Việt Cách. Việt Quốc. Chúng ta còn đồng ý cung cấp lương thực cho 20 vạn quân
đội Tưởng, cho quân Tưởng sử dụng tiền Quan kim, Quốc tệ song hành cùng đồng bạc
Đông Dương. Trên danh nghĩa, có thể ta đã nhượng bộ cho Tưởng rất nhiều quyền lợi,
nhưng trên thực tế những quyền lợi đó không thực sự quan trọng, và nó vẫn đem lại
nhiều lợi ích hơn so với việc đánh cả hai kẻ thù cùng lúc.
Nhưng tình hình không kéo dài được lâu, khi mà cuộc nội chiến của Trung Quốc
đầu 1946 diễn ra sôi nổi, Hiệp ước Hoa – Pháp được kí kết, Tưởng đồng ý cho Pháp
đem quân ra Bắc Việt Nam để đổi lại quyền lợi về kinh tế cho chúng. Hiệp ước đó
khiến Việt Nam rơi vào thế đã rồi, buộc phải đưa ra quyết định của mình.
Khi đó, chính sách ngoại giao đã được thay đổi: 3/1946 – 12/1946 “Hòa Pháp,
đuổi Tưởng”. Ta tạm thời nhân nhượng về lợi ích kinh tế, nhưng đòi Pháp phải thừa
nhận quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam. Từ đó, lợi dụng thời gian hòa hoãn với
Pháp để diệt bọn phản động bên trong, tay sai Tàu đuổi nhanh quân Tưởng về nước, bớt
đi một kẻ thù nguy hiểm.
Thời kỳ đó, ta đã ký kết Hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Nội dung cơ bản là Pháp công
nhận Việt Nam là nước tự do, có quân đội, nghị viện, tài chính riêng, nằm trong Liên
bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp.Việt Nam đồng ý cho Pháp đưa 15000
quân vào Bắc vĩ tuyến 16 VN, đóng ở 1 số nơi quy định, mỗi năm rút ⅕ số lượng, sau
5 năm rút hết quân khỏi VN. Hai bên đình chiến ở miền Nam, đàm phán ký kết hiệp
định chính thức vào năm 1947
Bác cũng đã nói rằng: “Chúng ta cần hòa bình để xây dựng nước nhà, cho nên
chúng ta đã ép lòng mà nhân nhượng để giữ hòa bình”
Chúng ta ép lòng nhưng đó là lựa chọn tốt nhất khi đó, đuổi được Tưởng thì ra chỉ
cần tập trung vào đánh Pháp cùng với đó là kéo dài thời gian, chuẩn bị cho cuộc kháng
chiến lâu dài của dân tộc.
Chỉ vài ngày sau đó, 9/3/1946, Thường vụ Trung ương Đảng ra “Chỉ thị Hòa để
tiến” phân tích, đánh giá chủ trương hòa hoãn và khả năng phát triển của tình hình. Chỉ
thị nêu ra việc tiếp tục nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không ngừng công việc
sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào, không để việc đàm phán với Pháp làm
nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta. Cùng với đó phải đẩy mạnh công tác xây
dựng Đảng, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ chính trị và quân sự, gây dựng cơ sở Đảng,
củng cố phong trào quần chúng.
Với mục đích mở mặt trận ngoại giao ngay trên đất Pháp và chỉ đạo phái đoàn ta
tại cuộc đàm phán chính thức với Pháp ở Hội nghị Phôngtenơblô, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sang thăm Pháp theo lời mời của chính phủ Pháp từ 31/5/1946 và kéo dài
trong 4 tháng. Lập trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác của Chính phủ Việt Nam được
nhân dân Pháp và thế giới đánh giá cao. Tuy nhiên do dã tâm cướp bằng được nước ta
nên giới cầm quyền Pháp đã phá hoại mọi nỗ lực hòa bình của chúng ta và Hội nghị
Phôngtenơblô thất bại. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đã ký với Mutê
đại điện của Pháp bản Tạm ước ngày 14- 9-1946 với nhiều nhân nhượng nhằm kéo dài
thời gian hòa hoãn và bảo đảm an toàn cho phái đoàn ta trên đường trở về
Sau khi về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài: Công việc khẩn cấp bây giờ
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và chỉ ra những công việc cần kíp phải làm để
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài: xây dựng, củng cố căn cứ địa, di chuyển máy
móc và cơ quan TƯ, cất trữ vật chất lên các ATK, sơ tán dân...
Phần II. Bài học kinh nghiệm từ công cuộc xây dựng và bảo về chính quyền 1945 –
1946, từ đó vận dụng vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc của sinh viên hiện nay.
I. Bài học kinh nghiệm
Thực tiễn đã chứng minh, những thắng lợi của cách mạng Việt Nam luôn gắn liền
với vai trò lãnh đạo của Đảng. Hơn 70 năm đã trôi qua kể từ ngày Cách mạng tháng
Tám thành công cho đến nay, giai đoạn 1945 - 1946 là giai đoạn đặc biệt nhất, có nhiều
ý nghĩa nhất trong lịch sử dân tộc, và đây cũng là chặng đường đáng ghi nhớ của ngoại giao Việt Nam.
Một chính quyền còn non trẻ, nhưng phải đối mặt với thù trong giặc ngoài, giặc
đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Bao nhiêu kẻ thù lâm le xâm lược. Đứng trước tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc” đó, Đảng và chính phủ đã có những chủ trương, biện pháp sách
lược ngoại giao khôn khéo, đúng đắn, biết nắm vững mục tiêu, kiên trì nguyên tắc, linh
hoạt trước muôn vàn sự thay đổi, tạo ra thời cơ và tranh thủ thời cơ để giành thắng lợi.
Sách lược ngoại giao đó đã để lại những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu cho tới ngày hôm nay.
Thứ nhất, bài học đề cao thế hợp pháp và sức mạnh của chính quyền cách mạng
Thứ hai, bài học biết phân hóa kẻ thù
Thứ ba, bài học biết nhân nhượng đúng lúc, nhân nhượng có giới hạn, nhân
nhượng có nguyên tắc
II. Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước và trách nhiệm của sinh hiện nay
1. Nhiệm vụ xây và bảo vệ đất nước
Trong bối cảnh thế giới đang có những chuyển biến nhanh chóng và phức tạp.
Hòa bình, hợp tác vẫn là xu thế nhưng đứng trước rất nhiều thách thức khi các mâu
thuẫn, xung đội giữa các quốc gia, các thế lực vẫn đang diễn ra gay gắt. Cuộc cách
mạng 4.0 diễn ra với rất nhiều sự khác biệt, sự mới lạ diễn ra hàng ngày, chúng ta cũng
phải chạy theo nó. Nhưng, với nền kinh tế phát triển chưa bền vững, vẫn tồn tại những
góc tối về chính trị, xã hội, biến đổi khí hậu đang ngày càng nghiêm trọng là những
thách thức lớn ảnh hưởng đến nước ta ngay lúc này và cả thời gian sắp tới. Đòi hỏi cần
có những nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước, bảo vệ con đường chúng ta đang đi.
Thứ nhất, những chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ngày
càng hoàn thiện tạo tiền đề quan trọng cho môi trường chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, tiềm lực và sức mạnh của đất nước đã không ngừng tăng lên, trở thành
lực lượng vật chất vững chắc cho môi trường chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiềm lực và sức mạnh quốc gia là nhân tố cốt lõi nhất, quyết định trực tiếp nhất đến
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu không có nội lực thì không thể phát triển
đất nước bền vững, không thể bảo vệ Tổ quốc một cách chủ động, vững chắc
Thứ ba, sức mạnh của hệ thống chính trị ngày càng được tăng cường, hoạt động
của bộ máy ngày càng hiệu quả.
Thứ tư, sức mạnh tổng hợp của đất nước và sức mạnh quốc tế. Sức mạnh của Việt
Nam hiện nay là sức mạnh tổng hợp, cả sức mạnh bên trong và sức mạnh bên ngoài.
Sức mạnh bên trong là thế và lực của đất nước đã ở tầm vóc mới, là hiệu lực hiệu quả
quản lý của Nhà nước và sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; là sức
mạnh của nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Năm là, chủ động phát hiện, ngăn chặn từ sớm, từ xa nguy cơ làm chệch hướng sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn
định chính trị, xã hội của đất nước.
Sáu là, nâng cao khả năng nắm, đánh giá, dự báo tình hình quốc tế, khu vực và
trong nước để có những chủ trương, giải pháp ứng phó hiệu quả.
Chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng đất nước hùng mạnh và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc bởi chúng ta có một chế độ chính trị vững mạnh có một nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; đặc biệt, có một nhà nước vững mạnh thực sự của dân, do dân, vì
dân dưới sự lãnh đạo đầy bản lĩnh và sáng tạo của Đảng.
2. Trách nhiệm của sinh viên
Chúng ta đang được sống trong thời kỳ hòa bình, một cuộc sống đủ đầy và hạnh
phúc. Nhưng để có được hòa bình như ngày hôm nay thì đó chính là xương máu của
ông cha ta đã ngã xuống, không biết bao nhiêu chiến sĩ đã hi sinh ngoài kia, mãi mãi
nằm xuống khi mới chỉ tuổi đôi mươi. Chúng ta bây giờ cũng vậy, cũng là những người
trẻ, chúng ta may mắn vì được sinh ra trong thời bình, nhưng phải có trách nhiệm bảo
vệ, gìn giữ những gì cha ông ta để lại.
Một thời kỳ hội nhập, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, sự bùng nổ của
internet, nếu như ta lười biếng, thì chắc chắn sẽ là người bị bỏ lại. Người trẻ chính là
tươi lai của đất nước, Với trách nhiệm của người sinh viên, là tầng lớp trí thức, có sự
hiểu biết, năng động và sáng tạo, lại đang được tiếp thu những kiến thức khoa học của
nhân loại, là nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước.
Để làm được điều lớn lao, ta cần bắt đầu từ những điều nhỏ nhất. Mỗi sáng thức
dậy tập thể dục một chút, rèn luyện thân thể, có sức khỏe tốt thì mọi việc sẽ luôn dễ
dàng hơn. Luôn nỗ lực học tập, trau dồi kiến thức mới, học hỏi từ các nước bạn, nhưng
chỉ học những cái tiến bộ, chứ không phải cái gì cũng học theo – hòa nhập chứ không hòa tan.
Dù đi đâu, hay làm bất cứ điều gì hãy cứ luôn tự hào mình là người con đất Việt,
tự hào vì một đất nước hòa bình, tự hào vì chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng luôn Cảnh
giác trước âm mưu chia rẽ, xuyên tạc của các thế lực thù địch; phê phán, đấu tranh với
những thái độ, việc làm gây tổn hại đến an ninh quốc gia, xâm phạm chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Nếu vẫn chưa làm được điều lớn lao, ta có thể yêu tổ quốc bằng những điều nhỏ
nhất. Học để hiểu biết về đất nước và con người, các dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam;
hiểu biết về lịch sử, truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc; hiểu biết về Đảng cộng
sản, về nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân và về chế độ xã hội chủ
nghĩa mà ta đang xây dựng. Hay chỉ điều đơn giản như mỗi sáng thức dậy và nói “Tôi yêu Việt Nam” Kết luận
Cách mạng Tháng Tám thành công, bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, dù cho công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền giai đoạn 1945 – 1946 có
muôn vàn khó khăn. Dù cho ngân sách kiệt quệ, nạn đói, nạn dốt diễn ra nhưng nhờ có
những chỉ thị của Đảng và Nhà nước đặc biệt dưới sự lãnh đạo của Bác, nước ta đã
bước qua được một thời kỳ tăm tối, khó khăn. Xây dựng được chính Đảng cho nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc bấy giờ.
Những chủ trương, biện pháp, sách lược đúng đắn của Đảng, tinh thần quyết đoán,
sáng tạo của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh chống giặc
ngoài, thù trong những năm đầu chính quyền cách mạng non trẻ đã đem lại thắng lợi có
ý nghĩa hết sức quan trọng: Ngăn chặn bước tiến của đội quân xâm lược Pháp ở Nam Bộ,
Vạch trần và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các kẻ thù; Củng
cố, giữ vững và bảo vệ bộ máy chính quyền cách mạng từ Trung ương đến cơ sở và
những thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám; Tạo thêm thời gian hòa bình, hòa
hoãn, tranh thủ xây dựng thực lực, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Đảng đã thể hiện được bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, làm tròn nhiệm vụ của
người lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nhà nước Việt
Nam trong những năm 1945-1946 dưới sự lãnh đạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định được sức mạnh và tính ưu việt của 1 thể chế chính trị mới trong lịch sử
phát triển của đất nước và con người Việt Nam. Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam (Dành
cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nhà xuất bản chính trị Quốc gia sự thật
2. Phim tài liệu (2020), Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh - Biên niên sử truyền hình, tập 7,8
3. Tình hình nước ta sau cách mạng tháng 8 năm 1945 gặp khó khăn, thử thách nào? https://bit.ly/3IfiDLo
4. Cách mạng Tháng Tám năm 1945: Thời cơ và những quyết sách lịch sử. https://bit.ly/3k84NTf
5. Việc xây dựng và củng cố chính quyền sau Cách mạng tháng Tám dưới sự lãnh đạo của Đảng https://bit.ly/3lOKAlS
6. Ý chí độc lập, tự do: sức mạnh bảo vệ thành quả cách mạng (1945 -1946) https://bit.ly/3IaSWf7
7. Phát huy những bài học kinh nghiệm từ sách lược ngoại giao của Đảng thời kỳ 1945-
1946 trong giai đoạn hiện nay https://bit.ly/3Eh3Hvm