BẤT CÂN XỨNG TRÊN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM | Trường Đại học Kinh Tế - Luật
Khái niệm thông tin bất cân xứng. Thông tin bất cân xứng trên thị trường bảo hiểm. Những người muốn mua bảo hiểm nắm được hiện trạng sức khỏe chung của họ rõ hơn bất cứ một công ty bảo hiểm nào. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Lý thuyết tài chính tiền tệ
Trường: Trường Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45650915
1. Khái niệm thông tin bất cân xứng:
Pindyck & Rubinfeld (2009) định nghĩa thông tin bất cân xứng là tình trạng mà
người mua và người bán sở hữu các thông tin khác nhau về giao dịch và hàng hóa. Có
thể là người bán biết nhiều hơn người mua hoặc người mua biết nhiều hơn người bán.
Thông tin bất cân xứng là hiện tượng khá phổ biến trên thị trường.
Ví dụ: người bán ô tô cũ bao giờ cũng biết rõ chất lượng chiếc xe đó hơn người mua;
người làm thuê bao giờ cũng biết rõ khả năng làm việc của mình hơn là ông chủ; người đi
vay tiền bao giờ cũng biết rõ khả năng trả nợ của mình hơn là ngân hàng; người mua bảo
hiểm y tế bao giờ cũng biết rõ tình trạng bệnh tật của mình hơn là người bán bảo hiểm.
2. Thông tin bất cân xứng trên thị trường bảo hiểm:
Trong thị trường Bảo hiểm, vấn đề thông tin giữa người bán Bảo hiểm và người mua
là rất quan trọng. Người mua Bảo hiểm và người bán Bảo hiểm không biết rõ thông tin
về nhau. Hiện tượng mà người mua bảo hiểm y tế biết rõ về tình trạng sức khỏe của mình
hơn là người bán bảo hiểm y tế, điều này cho thấy tồn tại thông tin bất đối xứng trong thị trường này. Ví dụ:
• Sự kiện: Công ty bảo hiểm XYZ đã ra quyết định tăng phí bảo hiểm sức khỏe cho
khách hàng của mình để đảm bảo ổn định kinh tế tài chính đáp ứng với các yếu tố về kinh tế và y tế.
• Thông tin bất cân xứng: Thay vì công bố quyết định tăng phí một cách công khai
và đồng thời cho phép mọi khách hàng và nhà đầu tư biết trước, công ty XYZ đã
giữ thông tin này bí mật và chỉ thông báo cho một số nhân viên quan trọng hoặc
nhóm nhỏ người có ưu đãi.
• Hậu quả: Những người được biết trước thông tin này có thể bán cổ phiếu công ty
XYZ trước khi thông tin này được công bố, tránh mất tiền. Trong khi đó, những
nhà đầu tư và khách hàng khác không biết điều này, và họ có thể chịu tổn thất tài
chính do tăng phí bất ngờ. lOMoAR cPSD| 45650915 3. Hậu quả:
Những người muốn mua bảo hiểm nắm được hiện trạng sức khỏe chung của họ rõ
hơn bất cứ một công ty bảo hiểm nào, cho dù các công ty đó có kiên quyết yêu cầu giám định sức khỏe.
Kết quả sẽ có hiện tượng lựa chọn ngược. Do những người hay ốm đau thường
muốn bảo hiểm nhiều hơn nên tỉ lệ người hay ốm đau trong số những người mua bảo hiểm
sẽ tăng lên. Dẫn đến kết quả lựa chọn ngược trong bảo hiểm y tế là chỉ những người hay
đau ốm mới mua bảo hiểm y tế còn những người khỏe mạnh lại ít tham gia, do đó gây
ra bội chi cho công ty Bảo hiểm. Việc này buộc phí bảo hiểm phải tăng, do đó sẽ có nhiều
người khỏe mạnh sẽ nhận ra việc họ ít có khả năng bị bệnh nặng và lựa chọn không mua
bảo hiểm. Điều này lại tiếp tục làm tăng tỉ lệ người hay ốm đau, làm phí bảo hiểm lại phải
tăng cao và cứ như vậy, trong trường hợp cực đoan, cho đến khi gần như tất cả những
người muốn mua bảo hiểm y tế đều là những người hay ốm đau.
*SỐ LIỆU MINH CHỨNG: - Đồng Tháp:
Điều này được thể hiện từ năm 1993 đến năm 2005 quỹ BHYT đã liên tục kết dư
nhưng từ cuối năm 2005 trở về sau quỹ BHYT tự nguyện đã bội chi rất lớn, cụ thể năm
2006 quỹ BHYT tự nguyện này đã bội chi hơn 1.000 tỷ đồng, năm 2007 bội chi khoảng
2.100 tỷ đồng, cao gấp đôi năm 2006.
Theo Hình 1, số lượng người có thẻ BHYT tự nguyện bình quân trên quý của tỉnh Đồng
Tháp qua các năm từ 2005 - 2008 bình quân ổn định từ 60.165 thẻ/quý tăng lên 76.864 lOMoAR cPSD| 45650915
thẻ/quý, tuy nhiên đến năm 2009 thì số lượng thẻ tăng đột biến với 126.086 thẻ/quý là do
Nghị định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27/7/2009 và Thông tư số 09/TTLT – BYT – BTC ngày
14/8/2009 giảm mức đóng BHYT có từ hai thân nhân trở lên tham gia. Riêng số lượng thẻ
năm 2010 giảm là do mức đóng Bảo hiểm tăng theo mức tăng của lương tối thiểu từ
730.000 đồng lên 830.000 đồng theo qui định của nhà nước. Vì vậy số tiền thu từ nạp thẻ
giảm so với năm 2009 nhưng chi phí khám chữa bệnh cho người có thẻ tăng lên. Số tiền
thu lại thì tăng lên ít và có hạn trong khi đó số tiền chi cho khám chữa bệnh lại tăng đột
biến, nguyên nhân là do những người đăng ký BHYT chủ yếu là những người có sức khoẻ không tốt.
Tình hình thu và chi cho Quỹ Khám chữa bệnh (KCB) của BHYT tự nguyện của Đồng Tháp
luôn có sự chênh lệch tương đối cao. Hình 2 ta có thể thấy, từ năm 2005 - 2010 tỷ lệ chi
trên thu từ thẻ BHYT tự nguyện là bình quân 2,75 lần, nghĩa là quỹ KCB này luôn bị bội chi,
điều này thể hiện người bệnh nạp 1 đồng thì quỹ KCB phải chi ra gần 3 đồng. Do đó, quỹ
Bảo hiểm y tế được phân bổ như sau: 90% số thu BHYT (gọi là quỹ khám chữa lOMoAR cPSD| 45650915
bệnh) để lại Bảo hiểm xã hội tỉnh quản lý; 10% số thu BHYT chuyển về Bảo hiểm xã hội
Việt Nam quản lý để lập quỹ dự phòng khám chữa bệnh BHYT và chi phí quản lý BHYT
(Quỹ dự phòng khám chữa bệnh BHYT là phần còn lại sau khi đã trích trừ chi phí quản lý BHYT).
Hiện tượng rủi ro đạo đức trong việc sử dụng bảo hiểm y tế là người có thẻ bảo
hiểm y tế thường có xu hướng khám bệnh nhiều hơn người không có thẻ bảo hiểm y tế,
họ có xu hướng lạm dụng dịch vụ y tế và thuốc điều trị nhiều hơn mức cần thiết vì họ biết
rằng các chi phí đó là do đơn vị bảo hiểm y tế gánh chịu, điều này gây ra tổn thất cho công
ty Bảo hiểm và ngay cả cho xã hội.
*SỐ LIỆU MINH CHỨNG: - Gia Lai:
Trong 120 người được phỏng vấn tại Trung tâm y tế huyện IaGrai, có 26 người có
số lần đi khám bệnh trên 15 lần trong năm 2018 - chiếm tỷ lệ là 21,6% của mẫu điều
tra. Nhóm bệnh nhân có số đi khám chữa bệnh từ 10 - 15 lần/năm là 38 người, chiếm
31,7%. Nhóm bệnh nhân đi khám chữa bệnh từ 5 - 9 lần/năm là 21 người, chiếm
17,5%. Nhóm bệnh nhân ít đi khám chữa bệnh dưới 5 lần/năm là 35 người, chiếm 29,2%. lOMoAR cPSD| 45650915
Theo kết quả thống kê cho thấy, trong 120 người được phỏng vấn thì có 84 bệnh nhân là
có thẻ BHYT tự nguyện, chiếm 70% mẫu điều tra. Nhóm bệnh nhân không có thẻ BHYT
tự nguyện là 36, chiếm 30% mẫu điều tra.
Số liệu thống kê ở Bảng 2 chỉ ra rằng, tỷ lệ có thẻ BHYT tự nguyện của nhóm bệnh nhân
có số lần đi khám trên 15 lần/năm là cao nhất - 26/26 người có thẻ BHYT tự nguyện, chiếm
100% số người trong nhóm này. Nhóm bệnh nhân đi khám từ 10 - 15 lần/năm 34/38 người
là có thẻ BHYT tự nguyện, chiếm tỷ lệ 89% của nhóm. Nhóm bệnh nhân đi khám từ 5 - 9
lần/năm - 16/21 người có thẻ BHYT tự nguyện, chiếm 76%. Đối với nhóm khám chữa
bệnh ít dưới 5 lần/năm - có 8/35 người có thẻ tự nguyện, chiếm 22%.
Như vậy, những người có thẻ BHYT tự nguyện sẽ có số lần khám, chữa bệnh/năm nhiều
hơn những người không có thẻ BHYT tự nguyện. 4. Biện pháp: lOMoAR cPSD| 45650915
Kiến nghị rút ra là cần phân luồng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện, từ đó xác
định mức phí mua bảo hiểm y tế tự nguyện theo tình trạng sức khỏe để khắc phục tình trạng lựa chọn ngược.
Khuyến khích tham gia BHYT theo hộ gia đình với cơ chế giảm dần mức đóng từ thành
viên thứ hai trở đi. Quy định này sẽ khắc phục tình trạng cấp chỉ có người ốm mới tham
gia BHYT, đảm bảo sự chia sẻ ngay trong hộ gia đình.
Để khắc phục tình trạng rủi ro đạo đức cần tăng mức đồng chi trả trong thanh toán phí
khám chữa bệnh của người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện, tránh tình trạng lạm dụng
khám chữa bệnh quá mức cần thiết sau khi đã có bảo hiểm y tế tự nguyện. Việc kê toa của
bác sĩ cần được thực hiện chuẩn xác hơn tránh tình trạng lạm dụng thuốc và dịch vụ y tế quá mức cần thiết
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo hiểm thường yêu cầu khách hàng của mình trình chứng
nhận sức khỏe, tính chất nghề nghiệp trước khi quyết định về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ,
hay kiểm định xe ô tô trước khi quyết định về hợp đồng bảo hiểm ô tô. Ngân hàng có thể
yêu cầu người đi vay cung cấp thông tin về thu nhập, tài sản, tuổi tác, nghề nghiệp hay tình hình kinh doanh.
- Cơ quan bảo hiểm nên có sự phân cấp về mức phí đóng BHYT tự nguyện giữa các
đốitượng khác nhau, ví dụ như về độ tuổi, tình trạng sức khỏe… Ví dụ : công ty bảo hiểm
có thể đưa ra hai lựa chọn : 1 gói dịch vụ bảo hiểm có giá 1000$ tương ứng nếu xảy ra
rủi ro người được bảo hiểm sẽ được chi trả khoảng 10,000$ . Gói khác có giá 2000$ mỗi
khi xảy ra tình trạng đã cam kết trong hợp đồng mua bán thì sẽ được trả 20,000$.Vì thế
sẽ những người có rủi ro cao sẽ yên tâm , còn những người không có rủi ro nhiều , họ
cũng sẽ có gói 1000$ kia phù hợp vớii bản thân .
- Cơ quan bảo hiểm nên có những hình thức chiết khấu cho những đối tượng tham
giaBHYT tự nguyện liên tục và những đối tượng mua BHYT có số lần khám bệnh ít trong năm.
- Công ty bảo hiểm yêu cầu khám sức khỏe lOMoAR cPSD| 45650915
- Chỉ định phòng khám đối với hợp đồng lớn
- Không chi trả bảo hiểm toàn phần (đồng chi trả)
- Giảm phí bảo hiểm đối với khách hàng có đăng ký các chương trình phòng chống bệnhtật hoặc không hút thuốc
Lựa chọn đối nghịch :
nguyên tắc là giải quyết vấn
đề tận nguồn, làm giảm đi sự
- Tìm cách cho những người có sức khỏe tốt cũng phải tham gia vào thị trường bảo hiểm
và chính phủ chính là chủ thể sẽ can thiệp vào bằng cách đưa ra những gói bảo hiểm bắt
buộc khiến nhiều người tham gia , có thể cung cấp theo từng nhóm như công ty , trường
học. Mỗi doanh nghiệp trường học được lập ra như vậy sẽ phải mua bảo hiểm cho nhân
viên của họ, như thế mỗi nhóm sẽ bao gồm nhiều thành phần: có những người có rủi ro
cao, có người bình thường, có người có sức khỏe tốt. Việc này sẽ hạn chế được hiện tượng
lựa chọn đối nghịch . Khi mà tất cả mọi người đều được tham gia , sẽ khiến thị trường bảo
hiểm có thể vững mạnh và có nhiều vốn để bù trừ . 1.
Công ty bảo hiểm có thể đưa ra nhiều gói ngăn ngừa rủi ro như đưa ra các gói
chămsóc sức khỏe, chi phí khám sức khỏe định kỳ cho người mua , hoặc có gói đền bù
cháy nổ tổn thất cho nhà hàng, bằng cách cung cấp cho nhà hàng đó những dụng cụ thiết
yếu để phòng cháy , có thể kiểm tra gắt gao hơn về tình hình tự phòng chống cháy nổ của nhà hàng đó lOMoAR cPSD| 45650915 2.
Công ty bảo hiểm không nhất thiêt phải chi trả hoàn toàn chi phí phát sinh: họ chi
trả80% dịch vụ y tế còn 20% còn lại sẽ do người thụ hưởng chi trả . Điều này sẽ giúp người
mua bảo hiểm y tế thận trọng hơn trong việc bảo vệ sức khỏe của mình vì bản thân họ cũng
là người phải chi trả cho rủi ro của mình . 3.
Thường xuyên tổ chức các chương trình truyền thông, tuyên truyền về bảo hiểm y
tế đểđảm bảo khả năng cân đối quỹ bảo hiểm y tế theo hướng:
Giảm phí bảo hiểm đối với khách hàng có đăng ký các chương trình phòng chống bệnh tật
hoặc hoạt động sôi nổi trong các hoạt động cộng đồng . 4.
Xây dựng cơ chế chi trả không gắn vì việc xuất trình thẻ bảo hiểm y tế cho các cơ
quankhám chữa bệnh để hạn chế tình trạng phân biệt đối. 5.
Bên công ty bảo hiểm có thể về đưa ra các cam kết trừng phạt về rủi ro đạo đức
tronghợp đồng bảo hiểm nếu là người thụ hưởng gây ra. Điều này làm cho bên có ưu thế
hơn về thông tin sẽ cân nhắc nguy cơ bị trừng phạt để rồi thấy lợi ích của việc mình thay
đổi hành vi không bằng cái giá phải bỏ ra, từ đó không nảy sinh rủi ro đạo đức.