



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58583460
1.1. Biện chứng giữa Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một xã hội nhất định. Nó bao gồm quan hệ sản xuất tàn dư;
quan hệ sản xuất thống trị và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội
tương lai. Ví dụ, trong cơ sở hạ tầng của xã hội tư bản có: quan hệ sản
xuất tàn dư (quan hệ sản xuất phong kiến); quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa (thong trị trong xã hộỉ) và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (mầm
mong của xã hội tương lai). Đặc trưng của cơ sở hạ tầng của một xã hội
là do quan hệ sản xuất thống trị quy định, chỉ phối cấc quan hệ sản xuất
khác. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và mầm mống cũng có vai trò quan trọng.
Ở các quốc gia đã phát triển, quan hệ sản xuất thống trị giữ vị trí chi
phối trong cơ sở hạ tầng. Còn ở những quốc gia đang bong giai đoạn
chuyển đổi mô hình xã hội thì quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất
mầm mống lại giữ vai trò quan trọng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp
luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,V.V.. cùng với những thiết chế
tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội,v.v„
được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. Trong xã hội có giai
cấp, kiến trúc thượng tâng cũng mang tính giai cấp, ttong đó, nhà nước
giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Vì nhà nước là công cụ quyền lực của giai
cấp thống trị về kinh tế. V.LLênin cho rằng, vấn đề chính quyền nhất định
là vấn đề quan trọng nhất của mọi cuộc cách mạng.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng liên hệ mật thiết với nhau,
không tách rời nhau, bởi lẽ cơ sở hạ tàng bao giờ cũng là cơ sở hạ tầng
của một kiến trúc thượng tầng nhất định; ngược lại, kiến trúc thượng tầng
bao giờ cũng là kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên một cơ sở hạ tầng nhất định. lOMoAR cPSD| 58583460
Cơ sở hạ tầng, suy cho cùng, quyết định kiến trúc thượng tầng.
Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, cơ sở hạ tầng “sinh” ra kiên trúc thượng tầng. Quan hệ
sản xuất, quan hệ kinh tế suy cho cùng quyết định quan hệ chính trị, pháp
quyền, tư tưởng; mâu thuẫn trong đời sống kinh tế, xét đến cùng, quy định
mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiên trúc thượng tầng
thể hiện ở chỗ, sự xuất hiện của nhà nước, pháp luật đêu gắn liền với sự
xuất hiện của chế độ tư hữu và sự phân chia thành giai cấp đối kháng.
Pháp luật ra đời là công cụ của giai cấp thống trị để bảo vệ cơ sở kinh tế
và trật tự xã hội đó giai cấp đó đặt ra. Sự tiêu vong của nhà nước, pháp
luật cũng gắn liền với sự tiêu vong của chế độ tư hữu và của giai cấp. Sự
biến đổi của những quan điểm chính trị, tư tưởng cũng vậy. Mọi quan
điểm chính trị, tư tưởng đều có nguồn gốc từ nguyên nhân của sự thay đổi chế độ kinh tế.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng quy định tính chất của kiến trúc thượng tầng;
giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế, giai cấp đó chiếm địa vị
thống trị trong kiến trúc thượng tầng. Cho nên, kiến trúc thượng tầng là
công cụ để bảo vệ cơ sở hạ tầng. Mọi biến đổi của kiến trúc thượng tầng
đều do kinh tế quyết định. Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng đều biến
đổi do ảnh hưởng quyết định của cơ sở hạ tầng.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng
cũng phải biến đổi theo. C.Mác cho rằng, cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn
bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng. Ông
còn cho rằng, không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như
những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh
thần con người để giải thích những quan hệ và hỉnh thái đó, mà trái lại,
phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó đều bắt nguồn từ những điều lOMoAR cPSD| 58583460
kiện sinh hoạt vật chất... Nếu không thể nhận định về một người căn cứ
vào ý kiến của chính người đó đối với bản thân, thì chúng ta cũng không
thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời
đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy (với tư cách là một bộ phận của
kiến trúc thượng tầng) băng những mâu thuẫn của đời sông vật chất, bằng
sự xung đột hiện cồ giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ
sản xuất xã hội. Đây chính là quan điểm duy vật triệt để của C.Mác.
Nguyên nhân sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và do đó của kiến trúc
thượng tầng xét đến cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy
nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất không trực tiếp dẫn đến sự biến
đổi của kiến trúc thượng tầng, mà nỏ chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của
cơ sở hạ tầng và đến lượt nó, sự biến đổi của cơ sở hạ tầng lại làm cho
kiến trúc thượng tầng biến đổi.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng diễn ra thông qua cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt
giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Trong cuộc đấu tranh ấy, không
phải cứ cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũ
mất đi ngay tức khắc. Trong cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, những
tàn dư của cái cũ còn tồn tại khá lâu dài. Mặt khác, có một số yếu tố của
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp mới duy trì, cải
tạo phục vụ cho công cuộc xây dựng xã hội mới. Ví dụ, khi giai cấp công
nhân xây dựng xã hội mới có thể kế thừa, tiếp thu những nhân tố hợp lý
của kiến trúc thượng tầng cũ phục vụ cho công cuộc xây dựng xã hội mới.
Kiến trúc thượng tầng có tinh độc lập tương đối và tác động trở
lại cơ sở hạ tầng. Biểu hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của kiến trúc thượng tầng thể hiện
ở chỗ nó có đời sống riêng, có quy luật vận động riêng; nó có thể thay đổi lOMoAR cPSD| 58583460
nhanh, chậm, hoặc đi song hành với cơ sở hạ tầng, nhưng nhìn chung nó
thường thay đổi chậm hơn so với cơ sở hạ tầng.
Thứ haỉ, các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều có khả năng gây
ra những biến động không nhỏ đối với cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức,
theo những cơ chế, khuynh hướng (tích cực, tiêu cực) khác nhau.
Ph.Ăngghen cho rằng, một nhân tố lịch sử một khi được những nhân tố
khác, xét đến cùng là nguyên nhân kinh tế, làm nảy sinh ra thì nhân tố lịch
sử đó cũng có thể tác động trở lại đến môi trường của nó, và thậm chí đến
những nguyên nhân đã tạo ra nó.
Thứ ba, các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không phải lúc nào
cũng tác động theo một hướng, nhưng với chức năng bảo vệ, phát triển cơ
sở hạ tầng hiện có, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng; nó chi phối
và trong nhiều trường hợp, quyết định khả năng tác động của các bộ phận
khác của kiến trúc thượng tầng đến toàn bộ đời sống xã hội và đến cơ sở hạ tầng.
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang tiếp tục tìm cách “điều chỉnh”
bằng một loạt chính sách kinh tế, nhằm làm dịu những mâu thuẫn xã hội,
thích nghi với điều kiện mới. Nhưng, những điều chỉnh đó chưa thể vượt
qua được khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản. Nó không thể xóa bỏ được
những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản. Nhưng so với trước, có thể
nhiều mâu thuẫn xã hội đã dịu đi, nhưng xuất hiện mâu thuẫn giữa các
nước tư bản phát triển với nhau, sự cạnh tranh giữa những tổ chức độc
quyền... ngày càng gay gắt.
Hạt nhân của mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng chính là mối liên hệ giữa kinh tế và chính trị. Ngày nay, nhờ có đường
lối chính trị đúng đắn với chủ trương kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa đất nước lOMoAR cPSD| 58583460
thoát khỏi khủng hoảng kinh tê - xã hội, kinh tế tăng trưởng khá nhanh,
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, đời sống nhân dân được cải thiện
rỡ rệt, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố
và tăng cường, chính trị xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ
vững, vị thé nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao, sức mạnh
tổng họp của quốc gia ngày càng tăng thêm, tạo ra thế và lực mới cho đất
nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Nhưng cần chú ý răng, chính
trị đúng đắn phải có bước đi, lộ trình thực hiện thích hợp để hiện thực hóa
các mối quan hệ trong đời sống xã hội. Xét đến cùng, chính trị vẫn do kinh tế quyết định.
1.2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên
Trước Mác, các nhà xã hội học và sử học thường nói về mục đích
và sự tiến bộ xã hội một cách trừu tượng theo quan điểm duy tâm chủ
quan. Từ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời, loài người mới có một lý
luận thực sự khoa học để nhận thức được đúng bản chất của xã hội, phân
tích được những quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển
của xã hội loài người.
Từ những tư tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã tiếp tục phát triển, làm
phong phú thêm lý luận hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở khẳng định
tư tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã chỉ ra những sai lầm của các nhà xã hội
học trước Mác là không biết xuất phát từ những quan hệ giản đơn là quan
hệ sản xuất mà đi thẳng vào nghiên cứu những hình thức chỉnh trị, pháp
luật, vào việc hình thành những hình thức đó từ những tư tưởng này, tư
tưởng nọ của ỉoàỉ người trong thời đại nào đó và đến đấy thì họ dừng lại,
kết quả là quan hệ xã hội dường như do con người tạo ra một cách có ý thức. lOMoAR cPSD| 58583460
Vì đóng khung quan hệ xã hội vào quan hệ chính trị, tư tưởng, những
người xã hội học chủ quan không thấy dược tính lặp lại của những hiện
tượng xã hội ở những nước khác nhau, từ đó họ quy khoa học chỉ là miêu
tả những hiện tượng đó. V.I.Lênin đã chỉ ra việc tách quan hệ sản xuất ra
với tư cách là quan hệ cơ bản,, quyết định quan hệ chính trị, tư tưởng, cho
phép ứng dụng tiêu chuẩn về sự lặp đi lặp lại của các mối quan hệ để khái
quát các chế độ xã hội khác nhau trong lịch sử và quy vào khái niệm “Hình
thái kinh tế - xã hội”.
Hình thái kinh tể - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, dùng để chỉ một xã hội tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất
định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng của xã hội đó, phù hợp với
một trình độ phát triển nhẩt định của lực lượng sản xuất, và một kiến trúc
thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó.
Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kỉnh tế xã
hội được hiểu là sự phát triển đó tuân theo những quy luật khách quan vốn
có, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quah của con người. Con người sáng
tạo ra lịch sử, nhưng không phải sáng tạo một cách tùy tiện, chủ quan, mà
sáng tạo trong những điều kiện, hoàn cảnh, tiền đề vật chất nhất định, phù
hợp với quy luật khách quan.
Xã hội là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người,
là tổng số những mối liên hệ, quan hệ của các cá nhân. Những cá nhân
này luôn có những lợi ích, ý chí, nguyện vọng, mong muốn chủ quan
không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau; điều mà người này muốn lại
bị người kia cản trở; nhưng xu hướng phát triển của xã hội, cuối cùng xuất
hiện một cách khách quan, không phụ thuộc ý muốn chủ quan của bất kỳ
ai; bởi vậy, cho đến nay, lịch sử đã phát triển theo kiểu một quá trinh tự
nhiên, và về căn bản, cũng bị chi phối bởi những quy luật vận động như tự nhiên. lOMoAR cPSD| 58583460
Theo C.Mác, sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại, phát triển của
xã hội loài người, thực chat của lịch sử loài người là lịch sử của sự phát
triển sản xuất vật chất, của sự phát triển không ngừng của lực lượng sản
xuất, do đó kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất và cả phương thức
sản xuất, đưa xã hội phát triển từ thấp đến cao từ hình thái kinh tế xã hội
này lên hình thái kinh tế - xã hội khác. Từ đó, C.Mác khẳng định: “Tôi coi
sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử
- tự nhiên”1. Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên là quá trình diễn ra một
cách khách quan, tuân theo những quy luật vốn có của nó, không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Những quy luật khách quan chủ yêu thúc đẩy sự phát triển của các
hình thái kỉnh tế - xã hội là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng, quy luật đẩu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp đối
kháng,V.V.. Trong những quy luật này thì quy luật quan hệ sản xuất phù
họp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quan trọng nhất.
V.I.Lênin cho rằng, chỉ có quy những quan hệ xã hội về quan hệ sản xuất,
quy quan hệ sản xuất về trình độ của lực lượng sản xuất thì người ta mới
có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Nếu xem xét ở phạm vi lịch sử toàn thế giới, lịch sử loài người phát
triển tuần tự từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội.
Song, do đặc điểm lịch sử - cụ thể, thì không phải quốc gia nào cũng tuần
tự trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội mà có thể phát triển theo
con đường “bỏ qua” một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
Đó là khả năng “phát triển rút ngắn”.
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2002, t.23, tr.21. lOMoAR cPSD| 58583460
2. VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TỂ - XÃ HỘI ở VIỆT NAM
1. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong thòi kỳ quá độ
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
Quy luật chung của sự phát triển xã hội là tuần tự từ hình thái kỉnh
tế - xã hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao: Hình thái kinh tế - xã hội
nguyên thủy lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh
tế - xã hội phong kiến, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn thấp nhất là chủ
nghĩa xã hội. Động lực thúc đẩy tiến trình phát triển đó là sự xuất hiện của
phương thức sản xuất mới, mà ở đó năng suất lao động của xã hội mới cao
hơn hẳn năng suất lao động của xã hội cũ. Tuy nhiên, do những điều kiện
lịch sử cụ thể quy định, nên sự phát triển xã hội không nhất thiết “tuần tự”
mà có những “bước nhảy” - “bỏ qua” nấc thang này hay nấc thang khác
để chuyển lên nấc thang cao hơn cũng không trái tiến trình tự nhiên của
sự phát triển lịch sử.
Nếu trong tự nhiên có phát triển tuần tự và nhảy vọt thì trong xã hội
(một bộ phận đặc biệt, hình thức tổ chức cao nhất của giới tự nhiên) cũng
có phát triển tuần tự và rút ngắn. Quy luật kế thừa của lịch sử cho phép
trong sự giao lưu, hợp tác với trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất vật
chất, về khoa học kỹ thuật, về văn hóa, chính trị,v.v.. một số nước đi sau,
trong những điều kiện nhất định, có thể rút ngắn tién trình lịch sử của mình
mà không phải lặp lại tuần tự các quá trình nhân loại đã trải qua. Như vậy,
phát triển theo con đường rút ngắn là xu hướng tất yếu, khách quan, hợp
quy luật, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người thì cũng
là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
C.Mác đã nêu tư tưởng về bước quá độ trực tiếp từ những nước tư
bản phát triển lên chủ nghĩa xã hội. V.I.Lềnin tiếp tục phát triển tư tưởng lOMoAR cPSD| 58583460
của C.Mác, đưa ra tư tưởng quá độ gián tiếp từ những nước kém phát triển lên chủ nghĩa xã hội.
Thực chất bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là bỏ qua
“gián tiếp” theo tinh thần của V.I.Lênin, là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống
trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh
lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”1. Như vậy, học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội giúp chúng ta nhận ra trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, cần phải tiếp thu, kế
thừa những nhân tố tích cực của chủ nghĩa tư bản, kết hợp với phát triển
“rút ngắn” để đưa đất nước phát triển; không thể bỏ qua “giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa” như quan niệm trước đây, không thể phủ định sạch
trơn những tiến bộ của nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản.
2.2. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay
Chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần xuất phát từ cơ
sở lý luận của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và cơ sở
thực tiễn là trinh độ lực lượng sản xuất vừa thấp vừa không đồng đều ở
nước ta. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, trình độ của công cụ lao động ở nước ta hiện nay rất đa
dạng, không đồng đều. Theo thống kê, công cụ lao động thủ công chiếm
phần lớn trong nông nghiệp, còn trong công nghiệp chiếm đến 60% lao
động giản đơn. Nhưng bên cạnh đó, ở nước ta cũng đã có công cụ lao động
ở trình độ cơ khí hóa, hiện đại hóa, tự động hóa. Những công cụ lao động
này thậm chí đan xen nhau trong một cơ sở sản xuất, trong một nhà máy.
Nếu như phương Tây, nhìn một cách đại thể, phát triển tuần tự từ lao động lOMoAR cPSD| 58583460
thủ công lên cơ khí, rồi lên tự động hóa, thì ở Việt Nam hiện nay có lĩnh
vực phát triển tuần tự, lại có lĩnh vực phát triển theo kiểu đi tắt, đón đầu.
Điều này nói lên tính chất đa dạng, nhiều trình độ của công cụ lao động ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, phù hợp với sự đa dạng của công cụ lao động sản xuất như
vậy, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người Việt Nam hiện nay
cũng rất khác nhau. Từ đó, trình độ tổ chức và phân công lao động, trình
độ ứng dựng khoa học kỹ thuật vào sản xuất ở Việt Nam hiện nay ở những
cơ sở sản xuất khác nhau cũng rất khác nhau.
Thứ ba, khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay, nhìn chung ở trình độ
thấp, chậm phát triển, nhưng cũng có những yếu tố hiện đại, đi trước, đón
đầu. Điều đó cho thấy trình độ khoa học kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay cũng rất đa dạng.
Như vậy, trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay khá
đa dạng, không đồng đều, nhiều trình độ. Theo quy luật, muốn sản xuất
phát triển thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất. Lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay đa dạng, không đồng đều,
nhiều trình độ, do đó, theo lôgíc, tất yếu quan hệ sản xuất cũng phải đa
dạng. Tính đa dạng của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ:
Một là, đa dạng thành phần kinh tế, tức là phải xây dựng nền kinh
tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều
đó cho thấy, chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần không
phải là một chủ trương xuất phát từ ý muốn chủ quan, mà nó dựa trên quy
luật khách quan - quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Hiện nay, ở nước ta có các thành phàn: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bàn nhà nước, kinh tế có lOMoAR cPSD| 58583460
vốn đầu tư nước ngoài. Vãn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó:
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không
ngừng được củng cố, phát triển; kinh té tư nhân là một động lực quan
trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù
họp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”.
Điều này giúp chúng ta càng nhìn nhận một cách rõ nét tính chất chủ quan
duy ý chí của thời kỳ trước đổi mới ở Việt Nam với hai thành phần kinh
tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
Hai là, đa dạng trong hình thức sở hữu, nhiều hình thức tô chức quản
lý. Khác với trước kia (hai hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể), ngày
nay chúng ta có ba hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể và tư nhân.
Ba là, đa dạng trong phân phối. Nêu như trước kia, chúng ta phân
phối theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng thì ngày nay phân phối theo nhiều
cách khác nhau như theo lao động (tức theo khả năng, năng lực, trí tuệ),
theo hiệu quả kinh tê, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác,
theo phúc lợi xã hội, an sinh xã hội.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII khăng định: “phát
triển lực lượng sản xuất và xây dụng, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa”; “Trong nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn,... cần
chú trọng hơn đến: bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, hoàn
thiện quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”2.
Phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay là cần phát triển
khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ, cải tiến công cụ lao động, mở
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính
trị quốc gia Sự thật, H.2021, t.I, tr.l 19-120. lOMoAR cPSD| 58583460
rộng đối tượng lao động, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân
lực chất lượng cao thông qua sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Muốn phát triển sản xuất ở Việt
Nam hiện nay, không chỉ cần phát triển lực lượng sản xuất mà cổn phải
xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; tức là phải từng bước
xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, điều đó có nghĩa là, phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết những nhiệm vụ hày sẽ là tiền đề để đưa nước ta từng
bước thực hiện mục tiêu đã được nêu trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII: Phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập
Đảng, nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp, thu nhập
trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành
nước phát triển, thu nhập cao.
2.3. Vận dụng học thuyết hình thái kỉnh tế - xã hội trong củng cổ và
hoàn thiện kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Việc củng cố và từng bước hoàn thiện kiến trúc thượng tầng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay chỉ có thể được giải quyết đúng đắn hên
cơ sở nhận thức và vận dụng tốt mối quan hệ biện chúng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng.
Từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội chù nghĩa là tiền đề điều
kiện để từng bước củng cố, kiện toàn kiến trúc thượng tầng xã hội chủ
nghĩa. Cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa có vững thì kiến trúc thượng tầng
xã hội chủ nghĩa mới thực sự được củng cố. Trong xây dựng cơ sở hạ tầng
ở nước ta hiện nay, vấn đề then chốt là phải từng bước thiết lập, củng cố
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, giữ vai trò đầu tàu, dân dắt các loại
hình quan hệ sản xuất khác theo con đường xã hội chủ nghĩa. lOMoAR cPSD| 58583460
Xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa xét đến cùng là
nhằm phục vụ cho quá trình hình thành và phát triển cơ sở kinh tế xã hội
chủ nghĩa trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc kiện toàn
kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa cần phải được đẩy mạnh bằng việc
xây dựng chế độ chính trị và nhà nước xã hội chủ nghĩa, xây dựng pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Củng cố và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ hết sức quan trọng:
Trước hết, phải tiến hành hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là cơ sở vật chất, cơ sở kinh tế để củng cố
và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, chúng ta
đang đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững cũng chính là tạo tiền
đề, nền tảng để từng bước xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, phải xây dụng hệ thống chính trị vững mạnh, trong đó
Đảng là hạt nhân của hệ thống chính trị, Đảng giữ vai trò lãnh đạo đối với
hệ thống chính trị. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ hệ
thống chính trị; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đổi mới sự lãnh đạo của Đảng. Nội
dung cơ bản của việc xây dựng Đảng cầm quyền trong quá trình phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gồm: Nâng cao bản
lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận
dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của Đảng; nâng cao
chất lượng nghiên cứu lý luận và đổi mới công tác giáo dục lý luận chính
trị, công tác tư tường của Đảng, nhất là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các cấp. Đồng thời, chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức, để Đảng lOMoAR cPSD| 58583460
thực sự là đạo đức, là văn minh; kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ
chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Đảng viên làm
kỉnh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà
nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp
hành Trưng ương; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ
trong Đảng; tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; đổi mới tổ chức, bộ
máy và công tác cán bộ theo hướng tinh gọn, thiết thực, hiệu quả, khắc
phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp; xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ,
có cơ cấu họp lý, chất lượng tốt, có đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế cận vững
vàng; có cơ chế chính sách đảm bảo phát hiện, đánh giá, tuyển chọn, đào
tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng người có đức có tài dù là
đảng viên hay người ngoài Đảng; Đảng lãnh đạo thống nhất công tác cán
bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
đặc biệt đối với nhà nước. Đảng lãnh đạo nhà nước bằng đường lối, quan
điểm, các nghị quyết; lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa thành Hiến pháp,
pháp luật, tránh bao biện, làm thay Nhà nước, đồng thời phát huy mạnh
mẽ vai trò chủ động sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội.
Nội dung cơ bản của việc xây dựng Đảng cầm quyền trong quá trình
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện trên
bốn mặt liên hệ mật thiết với nhau, đỏ là chính trị, tư tưởng, tổ chức và
đạo đức, chú trọng cơ sở và địa bàn trọng yểu với phương châm xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt. Mặt khác, đảng viên cần phải rèn luyện tư
cách đạo đức, tác phong gương mẫu thì mới đảm bảo được Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh.
Ngoài ra, trong củng cố và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng, việc
đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là lOMoAR cPSD| 58583460
nhiệm vụ trọng tâm để Nhà nước trở thành công cụ hữu hiệu, định hướng
đối với sự phát triển kinh tế. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, Đảng ta chủ trương: “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ
thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước. Xác
định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường
kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp
thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy
quyền và lợi ích họp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm
trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh,
bền vững”1. “Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, bảo đảm
Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu
quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp
trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập
pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối
cao”2; “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng
tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở tổ chức họp lý các bộ đa ngành, đa
lĩnh vực; phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện quyên hành pháp,
là cơ quan chấp hành của Quốc hội, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng
thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; tăng cường năng lực dự báo,
phân tích và đề xuất chính sách dựa trên luận cứ khoa học và thực tiễn
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh
phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa chính phủ với các bộ, lOMoAR cPSD| 58583460
ngành; giữa chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phượng”1; xây
dựng và hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch tổng thể về xây dựng đội ngũ cán
bộ công chức. “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm
chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển đất nước”3.
1. TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
l. Khái niệm kinh tế và chính trị
1.1.1. Kinh tế
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin, con người muôn làm ra
lịch sử trước hết cần phải sống. Để sống, con người phải tiến hành lao
động sản xuất ra của cải vật chất. Trải qua các giai đoạn, khác nhau của
sản xuất vật chất là quá trình phân công lao động xã hội. Sự phân công lao
động xã hội đã hình thành quan hệ sản xuất với đặc trưng khác nhau.
Thời kỳ lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ của con người
trong sản xuất vật chất mang tính giản đơn, phân công lao động có tính
chất tự nguyện trên tinh thần hợp tác, bình đẳng, cùng thụ hưởng trực tiếp
sản phẩm làm ra. Tuy nhiên, công cụ bằng sắt xuất hiện làm thay đổi căn
bản trình độ của lực lượng sản xuất, qua đó thay đôi năng lực thực tiễn
của con người. Theo đó, phân công lao động xã hội cũng biến đổi sâu sắc.
Quan hệ của con người trong sản xuất của cải vật chất cũng khác nhau.
Cùng với sự xuất hiện của công cụ lao động bằng sắt, của cải dư thừa xuất
hiện, làm xuất hiện che độ tư hữu. Chế độ tư hữu làm xuất hiện sự chênh
lệch về mức độ thụ hưởng những sản phẩm lao động. Lúc này, quyền thụ
hưởng sản phẩm làm ra của người lao động không còn trực tiếp nữa.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thử XIII,
Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t.I, tr.176-177; 178. lOMoAR cPSD| 58583460
Quyền thụ hưởng dựa trên vai trò trong lao động, phân công lao động xã
hội, vào vị trí của họ trong cộng đồng bộ tộc. Quan hệ sản xuất, phân phối,
thụ hưởng các sản phẩm lao động đã thay đổi tính chất và mức độ của nó.
Đa số những người lao động không được thụ hưởng công bằng những sản
phẩm làm ra. Sản phẩm đó bị những người (chiếm số ít) là hội đồng tộc
trưởng chiếm đoạt làm của riêng, làm xuất hiện chế độ tư hữu.
Khi chế độ tư hữu xuất hiện, quan hệ lao động và thụ hưởng sản
phẩm lao động được phân biệt sâu sắc. Hội đồng tộc trưởng điều tiết các
hoạt động sản xuất (dưới dạng chỉ huy); phân công lao động cho các thành
viên công xã mang tính chất bắt buộc, cưỡng chế; của cải được phân chia
theo những nguyên tắc, tiêu chí do Hội đồng tộc trưởng đê ra. Khi đó, hoạt
động sản xuất kinh tế để tìm kiếm sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con
người không còn mang tính chất tự nguyện, tự giác, bình đẳng nữa, mà nó
đã thay đổi về căn bản. Trong cộng đồng bộ tộc xuất hiện bộ phận lãnh
đạo, chỉ huy, chi phối sản xuất, phân phối và những người bị chi phối, bị
cưỡng ép về ỉao động mà không được thụ hưởng sản phẩm lao động công
bằng. Khi đó, quan hệ sản xuất được phân chia ở ba quan hệ cơ bản là
quan hệ sở hữu; quan hệ tổ chức và quản lý; quan hệ phân phối sản phẩm.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích sự
thay đổi các hình thức ở ba mặt của quan hệ sản xuất trên.
Như vậy, sự biến đổi của các hình thái lao động và phân công lao
động xã hội đã làm thay đổi căn bản đời sống kinh tế - xã hội của lịch sử
loài người. Do vậy, đặc trưng của kinh tế là toàn bộ các quan hệ sản xuất
hợp thành kết cấu vật chất của đời sổng xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong tác phẩm Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, Mác đã
khẳng định: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người
có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ lOMoAR cPSD| 58583460
- tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình
độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn
bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội”1.
Trong thư Ph.Ăngghcn gửi Boót-ghi-ủt ngày 25 tháng Giêng 1894
viết: “Chứng tôi hiểu các quan hệ kinh tế - mà chúng tôi coi là cơ sở quyết
định của lịch sử xã hội, - là phương thức mà con người của một xã hội
nhất định dùng để sản xuất ra những tư liệu để sinh sống và trao đổi sản
phẩm với nhau”4 5. Tất cả những điều trên cho thấy, C.Mác và Ph.Ăngghen
trong những thời điểm và điều kiện hoàn cảnh khác nhau đã có những
quan niệm khác nhau về kinh tế. Có lúc các ông cho rằng: kinh tế là
phương thức dùng để sản xuất và trao đổi sản phẩm với nhau. Có chỗ các
ông lại quan niệm: kinh tế là tổng hòa các quan hệ sản xuất dựa trên trình
độ nhất định của lực lượng sản xuất, tạo thành cơ sở kinh tế của một xã
hội nhất định. Hay nói cách khác, cơ sở kinh tế của một xã hội cụ thể là
toàn bộ những quan hệ sản xuất cũng như sự tác động lẫn nhau giữa các quan hệ trong xã hội.
Từ những quan niệm trên có thể khái quát: kinh tế là những cách
thức và phương thức của con người trong một xã hội nhất định dùng để
sản xuất và trao đổỉ với nhau. Như vậy, nói đến kinh tê là nói đến quan
hệ giữa các chủ thể trong tổng hợp của các quan hệ sản xuất hợp thành
kết cấu kinh tế - xã hội, hợp thành cơ sở hạ tầng trong một xã hội nhất định.
1.1.2. Chính trị
Khái niệm chỉnh trị
4 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.1993, t.13, tr.1415.
5 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.1999, t.39, tr.270. lOMoAR cPSD| 58583460
Khi chế độ tư hữu xuất hiện, làm xuất hiện các giai cấp. Đó là những
tập đoàn người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã
hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với những tư
liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy
là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc
nhiều mà họ được hưởng. Do sự khác nhau về địa vị trong hệ thống sản
xuất xã hội nên tập đoàn có địa vị, có iru thế, có phương tiện và điều kiện,
có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác. Đây là cơ sở của những
cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết mâu thuẫn đối kháng về lợi ích
cơ bản. Giai cấp có sức mạnh về kinh tế tổ chức ra bộ máy trấn áp sự phản
kháng, cuộc đấu tranh của các giai cấp lao động, để duy trì sự thống trị,
đó là nhà nước. Như vậy, nguồn gốc sâu xa của sự ra đời nhà nước là do
sự phát triển của lực lượng sản xuất, còn nguồn gốc trực tiếp làm xuất hiện
nhà nước là chế độ tư hữu dẫn đến những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hòa được. Nối cách khác, nhà nước (chính trị) ra đời có nguyên nhân
kinh tế. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng không thể hiểu chính trị từ chính
bản thân nó. Do vậy, muốn hiểu biết chính trị một cách khoa học phải vượt
ra khỏi giới hạn của nó và đi vào một lĩnh vực mà ở đó hoạt động của con
người có liên quan trực tiếp đến nhau. Lĩnh vực đó không phải là cái gì
khác mà chính là sản xuất xã hội.
Khi nhà nước ra đời, việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước
trở thành trung tâm của quan hệ chính trị. Nhà nước là công cụ của giai
cấp thống trị về kinh tế để thực hiện lợi ích giai cấp đồng thời giải quyết
mâu thuẫn giữa các giai cấp khác trong xã hội. Như vậy, thực chất của
quan hệ chính trị là quan hệ giai cấp, mặc dù không phải mọi quan hệ giai
cấp đều là chính trị, và chính trị chỉ có quan hệ giai cấp.
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: “chúng ta có hai loại quyền lực:
một mặt, đó là quyền lực của sở hữu, tức là của những người sở hữu, mặt lOMoAR cPSD| 58583460
khác đó là quyền lực chính trị, chính quyền nhà nước”1. Theo V.I.Lênin:
“Chính trị là sự tham gia vào những công việc của nhà nước, việc xác định
những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước”6 7 hoặc
“Chính trị là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp; chính trị là thái độ của giai
cấp vô sản đang đấu tranh tự giải phóng mình chống giai cấp tư sản toàn thế giới”8.
Có thể khái quát những điểm chủ yếu của các nhà kinh điển về chính
trị như sau: (1) chính trị là quan hệ giai cấp, là đấu tranh giai cấp, là quan
hệ lợi ích trước hết là lợi ích giai cấp; (2) yếu tố quan trọng nhất của chính
trị là việc tổ chức chính quyền nhà nước, thực hiện nhiệm vụ của nhà
nước; (3) chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là việc xây dựng nhà
nước về kinh te; (4) chính trị là lĩnh vực phức tạp nhất, nhạy cảm nhất,
liên quan đến lợi ích nhiều người.
Từ tất cả các quan niệm trên, có thể hiểu, chính trị là moi quan hệ
giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, giữa các quốc gia có liên quan tới
vấn để giành, giữ và sử dụng chỉnh quyền nhà nước. Hoặc cũng có thể
hiểu, chính trị là hoạt động chinh trị thực tiễn của các giai cấp, đảng phái,
nhà nước để hiện thực hóa lợi ích cơ bản của mình trong mối tương quan
với các chủ thể chính trị khác. Do đó, yếu tố quan trọng nhất của chính trị
là quyền lực chính trị, chính quyền nhà nước, sự tham gia vào công việc
nhà nước, việc quy định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động
của nhà nước. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là cơ quan có vai trò đặc
biệt trong kiến trúc thượng tầng chính trị, tiêu biểu cho chế độ chính trị
hiện tồn. Nhờ có nhà nước mà giai cấp thống trị về mặt kinh tế cũng đồng
6 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.1995, t.4, tr.421.
7 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Chinh trị quốc gia Sự thật, H.2005, t.33, tr.404. 8V.I.Lênin:
Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sụ thật, H.2005, t.41, tr.482.